Đề tài Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ

MỤC LỤC TRANG LỜI NÓI ĐẦU CHƯƠNG I. LÍ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG THUỶ SẢN XUẤT KHẨU VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 1 1.1 LÍ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH 1 1.1.1 NĂNG LỰC CẠNH TRANH LÀ GÌ 1 1.1.2 CÁC YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH NĂNG LỰC CẠNH TRANH 2 1.1.2.1 CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH QUỐC GIA 2 1.1.2.2 CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH NGÀNH HÀNG 3 1.1.2.3 CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN PHẨM 4 1.2 BỐI CẢNH VÀ XU THẾ CẠNH TRANH CỦA HÀNG THUỶ SẢN XUẤT KHẨU TRÊN THẾ GIỚI 6 1.2.1 TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG THUỶ SẢN TRÊN THẾ GIỚI 6 1.2.2 CÁC THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU THUỶ SẢN LỚN 9 1.2.2.1 THỊ TRƯỜNG MỸ 10 1.2.2.2 THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN 11 1.2.3 CÁC NƯỚC XUẤT KHẨU THUỶ SẢN LỚN TRÊN THẾ GIỚI VÀ XU THẾ CẠNH TRANH VỀ XUẤT KHẨU THUỶ SẢN GIỮA CÁC NƯỚC NÀY 13 1.2.3.1 THÁI LAN 14 1.2.3.2 TRUNG QUỐC 15 1.3. SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH MẶT HÀNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN VIỆT NAM. 18 1.3.1 VỊ TRÍ NGÀNH THUỶ SẢN XUẤT KHẨU TRONG XUẤT KHẨU NÓI CHUNG 18 1.3.1.1 TỔ CHỨC XUẤT KHẨU THUỶ SẢN 20 1.3.1.2 CÁC THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CHÍNH CỦA VIỆT NAM 24 1.3.2 SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH MẶT HÀNG THUỶ SẢN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM 27 CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN SANG THỊ TRƯỜNG MỸ VÀ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG THUỶ SẢN XUẤT KHẨU VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 29 2.1BỨC TRANH CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG THUỶ SẢN MỸ 29 2.1.1 THỊ HIẾU TIÊU DÙNG VÀ TẬP QUÁN KINH DOANH CỦA NGƯỜI MỸ 29 2.1.1.1 THỊ HIẾU TIÊU DÙNG CỦA NGƯỜI MỸ 29 2.1.1.2 TẬP QUÁN KINH DOANH CỦA NGƯỜI MỸ 31 2.1.2 CÁC SẢN PHẨM THUỶ SẢN TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC ĐƯỢC NGƯỜI TIÊU DÙNG MỸ ƯA CHUỘNG 33 2.1.3 CÁC QUỐC GIA CHỦ YẾU VỀ XUẤT KHẨU THUỶ SẢN SANG MỸ 39 2.1.3.1 CANADA 40 2.1.3.2 THÁI LAN 42 2.1.3.3 TRUNG QUỐC 43 2.1.4 CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI VÀ HỆ THỐNG LUẬT PHÁP MỸ LIÊN HỆ TRỰC TIẾP ĐẾN NGÀNH THUỶ SẢN 45 2.2 THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY 48 2.2.1 KẾT QUẢ XUẤT KHẨU HÀNG THUỶ SẢN VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ TRONG THỜI GIAN QUA 48 2.2.2 Các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu thuỷ sản mạnh sang Mỹ 50 2.2.3 Các sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu chính 52 2.2.3.1 Mặt hàng tôm: 53 2.2.3.2 Mặt hàng cá đông lạnh 55 2.2.3.3 Thuỷ sản khác 57 2.2.4 Vấn đề thương hiệu, uy tín và an toàn thực phẩm của hàng thuỷ sản xuất khẩu sang Mỹ 58 2.3 Đánh giá năng lực cạnh tranh của thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam sang thị trường Mỹ 61 2.3.1 Năng lực cạnh tranh cấp quốc gia 62 2.3.2 Năng lực cạnh tranh cấp ngành 66 2.3.3 Năng lực cạnh tranh cấp sản phẩm 69 Chương III. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của thủy sản xuất khẩu Việt Nam sang thị trường Mỹ 72 3.1 Giải pháp về nguồn hàng 72 3.1.1 Nâng cao năng lực khai thác và nuôi trồng thuỷ sản 72 3.1.2 Nâng cao năng lực chế biến 77 3.1.3 Thực hiện tốt vệ sinh an toàn thực phẩm 79 3.2 Giải pháp về thị trường 82 3.2.1 Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại hỗ trợ xuất khẩu. 82 3.2.2 Phát huy vai trò của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) trong việc hỗ trợ xuất khẩu. 82 3.3.3 Thay đổi thuế và thành lập quỹ tín dụn_ hỗ trợ xuất khẩu 83 3.3.4 Chú trọ9‘Ămở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản trên thị trường Mỹ. 83 3.3 Giải pháp về phân phối sản phẩm 84 3.3.1 Hiểu rõ các chính sách thương mại và nắm chắc hệ thống pháp luật trong ngành thuỷ sản Mỹ 84 3.3.2 Giải quyết tốt vấn đề thương hiệu sản phẩm 85 3.3.3 Lựa chọn kênh phân phối hiệu quả nhất 87 3.3.4 Thực hiện tốt mối quan hệ ngoại giao 87 KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc110 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2790 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước trong vùng. Công nghệ sản xuất thủy sản của Việt Nam nhìn chung còn rất lạc hậu so với các nước cạnh tranh. Vì vậy chúng ta phải có những nỗ lực vượt bậc để thực hiện thành công chính sách đổi mới và chủ động hội nhập quốc tế. Theo các so sánh quốc tế, hiện nay Việt Nam có thứ hạng cạnh tranh cao hơn Inđônêxia, nhưng là nước yếu kém nhất về trình độ khoa học công nghệ so với các nước Đông Bắc Á và ASEAN-6 trong đó có Thái Lan. Mặt khác nếu so sánh với Trung Quốc thì cũng không thể so sánh được vì hiện nay Trung Quốc là nước phát triển còn Việt Nam mới là nước đang phát triển. Năng lực quản lí của Nhà nước và doanh nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu chung. Để tạo ra sản phẩm và xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài, cần có sự phối hợp chặt chẽ và nhất quán trong cả quá trình từ khâu xây dựng kế hoạch, chuẩn bị nguồn nguyên liệu, làm hàng xuất khẩu, và xuất khẩu hàng đi, liên quan tới quá trình đó là một loạt các hoạt động của các nhà làm chính sách, lập kế hoạch, người lao động làm ra sản phẩm, hoạt động của các cơ quan Hải quan, Thuế, Ngân hàng v.v.., rồi vấn đề hỗ trợ ngư dân bằng vốn và chính sách, khuyến khích sản xuất hàng thuỷ sản gì để phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của thế giới, Nhà nước phải làm gì để quản lí và hướng dẫn các doanh nghiệp chế biến sản xuất làm ra các sản phẩm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, không ảnh hưởng tới môi trường, có đủ các điều kiện để xuất khẩu được v v… Một trong những vấn đề cần nhanh chóng giải quyết đó là hệ thống văn bản hướng dẫn, quy định của Trung ương còn chưa gắn với thực tế. Như Nghị định 80 TTCP (ngày 24/6/2002) về khuyến khích gắn vùng nguyên liệu với nhà máy chế biến chưa thực sự phát huy tác dụng của nó. Các chính quyền địa phương còn bị động trong việc triển khai các kế hoạch của cấp trên. Về các chính sách thương mại mà Mỹ áp dụng với nước ta và các nước dẫn đầu về xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ là Canada, Thái Lan, Trung Quốc thì có thể nói ngay, Canada là nước được ưu đãi nhất trong số các nước như đã nói ở trên vì hai nước Mỹ và Canada đều nằm trong “Hiệp Ước tự do mậu dịch Bắc Mỹ”. Điều này tác động mang tính quyết định đến cạnh tranh và thị phần đặc biệt là cạnh tranh về giá do thuế nhập khẩu với Canada thấp hơn các nước khác. Canada và Thái Lan đã gia nhập WTO năm 1995, Trung Quốc gia nhập năm 2001, vì thế cả 3 nước này đều được hưởng chính sách nhập khẩu mà Mỹ áp dụng đối với các nước ở nhóm 1- các nước thành viên WTO. Các nước này được hưởng Quy chế thương mại bình thường (NTR), theo đó hàng hoá từ tất cả các nước được hưởng NTR đều chịu cùng một mức thuế khi vào thị trường Mỹ và mức này khá thấp chỉ từ 0-3%; và tất cả những điều khác trong Luật thực hiện những thoả thuận của Vòng đàm phán thương mại đa biên Uruguay. Việt Nam đã kí hiệp định thương mại Việt Mỹ nhưng vẫn chưa là thành viên của WTO. Chính sách nhập khẩu của Hoa Kỳ đối với Việt Nam là ngay khi hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực thì Việt Nam sẽ được hưởng NTR tương đương với các nước đã là thành viên của WTO về mặt thương mại, chỉ có điểm khác là chế độ NTR có thể phải xem xét lại hàng năm theo kết quả miễn áp dụng Điều khoản Jackson-Vanik Điều khoản yêu cầu tổng thống Mỹ phải xác nhận quốc gia hưởng NTR thừa nhận quyền tự do di trú của công dân 2.3.2 Năng lực cạnh tranh cấp ngành Hiện nay kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đóng góp hơn 10% trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, trong đó kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ chiếm hơn 30 %. Trong khi đó, tỷ trọng hàng thuỷ sản xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu của các quốc gia Thái Lan và Trung Quốc là 6,4% và 1,4% năm 2000 Tạp chí TT Khoa học công nghệ và thuỷ sản số 3/2002 (Tạp chí KH và CN thuỷ sản số 3-2002). Tỷ lệ đó thấp hơn của Việt Nam rất nhiều đặc biệt là tỷ lệ của Trung Quốc. Tuy nhiên năm 2002 hàng thuỷ sản Thái Lan xuất khẩu sang Mỹ có giá trị lớn hơn gấp 2,2 lần so với Việt Nam, còn Trung Quốc lớn gấp 1,4 lần. Như thế có thể thấy được năng lực xuất khẩu thuỷ sản của Trung Quốc và Thái Lan vào Mỹ lớn như thế nào so với Việt Nam. Tính đến tháng 9 năm 2003, Canada là nước đứng đầu về tổng kim ngạch xuất nhập khẩu với Mỹ, Trung Quốc vượt qua Nhật Bản đứng thứ 3 và Thái Lan giữ vững vị trí thứ 6 Phụ lục 2 . Như vậy, các quốc gia đứng đầu về xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ này đều là các bạn hàng lớn nói chung của Mỹ, do đó họ có kinh nghiệm hơn, uy tín hơn và Việt Nam còn phải rất cố gắng mới có thể giữ vững vị trí, đuổi kịp và vươn lên vượt qua các nước này về riêng mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu là mặt hàng chủ lực và có thế mạnh của ta. Ngành thuỷ sản Việt Nam trải qua gần 50 năm xây dựng và trưởng thành, đến năm 2002, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 2 tỷ USD, dự tính năm 2003, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sẽ đạt chỉ tiêu đề ra là 2,3 tỷ USD. Tổng số lao động nghề cá khoảng 4 triệu người, tổng số tàu thuyền máy là 81.800 chiếc với tổng công suất 4 tỷ CV, trong đó có hơn 6 nghìn thuyền máy có công suất 90 CV trở lên. Tổng số doanh nghiệp chế biến đông lạnh là 275, số doanh nghiệp có code xuất khẩu vào EU là 68, số doanh nghiệp áp dụng HACCP đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào Mỹ là 128 Thống kê nghề cá Việt Nam từ năm 1959-2002, Bộ Thuỷ sản . Trong khi đó Trung Quốc có hơn 10 triệu lao động nghề cá, mấy trăm nghìn tàu đánh cá. Năm 1997 Trung Quốc có tất cả 5866 doanh nghiệp thuỷ sản chế biến đông lạnh, năng lực chế biến 9,072 triệu tấn/năm. Các tàu cá viễn dương của Trung Quốc đã có trang bị các thiết bị lạnh đông để bảo quản tươi sản phẩm nâng cao độ tươi và chất lượng thuỷ sản khai thác. Hiện nay nghề cá Trung Quốc phát triển thành hệ thống ngành nghề tương đối hoàn chỉnh đồng bộ hỗ trợ lẫn nhau giữa nuôi trồng, khai thác, chế biến và lưu thông, công nghiệp phục vụ nghề cá, nghiên cứu khoa học, phổ biến kỹ thuật v.v… Nghề cá Trung Quốc thực hiện chính sách cải cách mở cửa từ năm 1979 (trong khi Việt Nam chấm dứt độc quyền nghề cá sau hẳn 10 năm, năm 1989) và từ đó đến nay nghề cá tăng trưởng với tốc độ cao và bền vững, sản lượng thuỷ sản của Trung Quốc luôn đứng đầu và chiếm 30% tổng sản lượng thuỷ sản của Thế giới. Mặt hàng thuỷ sản của Thái Lan, nước đứng đầu về xuất khẩu thuỷ sản trên thế giới, có sản phẩm đa dạng, đã qua chế biến, khả năng cung cấp lớn, được đưa vào Mỹ qua nhiều kênh phân phối. Thuỷ sản Canada có hệ thống phân phối trực tiếp, thời gian bảo quản ngắn, chi phí vận tải thấp vì ở gần Mỹ. Như vậy, so với các nước xuất khẩu thuỷ sản đứng đầu vào Mỹ, ngành thủy sản Việt Nam có mức độ trang bị chế biến, bảo quản hải sản của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Chi phí sản xuất cao vì năng suất lao động thấp, giá điện, nước, dịch vụ điện thoại, Fax, telex, Internet của Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực. Chưa có thương hiệu hàng hoá nổi tiếng, xuất khẩu qua gia công xuất khẩu, qua kênh trung gian là nhiều nên hiệu quả còn thấp. Các doanh nghiệp xuât khẩu thuỷ sản đa số có quy mô vừa và nhỏ, tính hợp tác lỏng lểo cho nên khả năng đáp ứng xuất khẩu khối lượng hàng thuỷ sản lớn và đồng chất gặp nhiều khó khăn. Nguồn nhân lực sản xuất khai thác nuôi trồng thuỷ sản phân bố chưa đều quá dư thừa ở các vùng ven biển, ít được đào tạo, khai thác nuôi trồng mang tính tự phát, gây ảnh hưởng đến kinh tế xã hội và môi trường sinh thái. Các doanh nghiệp Việt Nam chưa hiểu nhiều về thị trường Mỹ, trong khi khả năng tiếp thị yếu hơn so với Trung Quốc làm giảm khả năng tiếp cận với thị trường. Công nghệ sản xuất thuỷ sản nhìn chung còn rất lạc hậu so với các nước cạnh tranh. Những đòi hỏi ngày càng cao về yêu cầu vệ sinh và chất lượng sản phẩm thuỷ sản của Mỹ cũng có thể coi là một rào cản thương mại với Việt Nam. Thị trường Mỹ ở quá xa Việt Nam so với Canada, chi phí vận chuyển, bảo hiểm chuyên chở hàng xuất khẩu lớn. Thời gian vận chuyển dài làm cho thuỷ sản tươi sống bị giảm về chất lượng giảm tính cạnh tranh của sản phẩm. Việt Nam trong vài năm nay mới phát triển xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ, có nghĩa ta là đối tác còn rất mới trong khi Canada, Trung Quốc, Thái Lan là bạn hàng lâu năm của Mỹ, có thị trường ổn định về người mua, mối bán, thói quen sở thích về sản phẩm, vì thế đây cũng là một thách thức khi Việt Nam muốn thay đổi sở thích và thói quen người tiêu dùng thuỷ sản Mỹ chuyển sang mua hàng thuỷ sản của Việt Nam. Tóm lại: Ngành thuỷ sản Việt Nam đã có những bước tiến dài trong việc xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ, nhưng để đuổi kịp được các nước dẫn đầu về xuất khẩu thuỷ sản ở thị trường này thì còn là cả một vấn đề lớn vì các nước đó đều có ngành thuỷ sản rất phát triển và lịch sử phát triển dài hơn Việt Nam rất nhiều. Họ có kinh nghiệm xuất khẩu thuỷ sản hơn ta, cạnh tranh với ta về chất lượng, giá cả và cả phương thức thanh toán. Hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất sang Mỹ còn chủ yếu ở dạng sơ chế nên giá trị xuất khẩu thấp, chúng ta chưa có sự đầu tư hợp tác với đối tác Mỹ về công nghệ chế biến thuỷ sản ở Việt Nam. Các yếu tố cơ bản thúc đẩy sự phát triển thuỷ sản ổn định và lâu dài như quy hoạch, giống, nuôi trồng, đánh bắt còn mang nhiều yếu tố tự phát, chưa trở thành công nghệ hoàn chỉnh mang tính công nghệ ở tâm vĩ mô. Nắm bắt thông tin vào thị trường Mỹ còn ít. 2.3.3 Năng lực cạnh tranh cấp sản phẩm Một số sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam có năng lực cạnh tranh cao như tôm, cá tra và cá basa. Những sản phẩm này có giá cạnh tranh, chất lượng cao và quy mô thị trường tương đối lớn. Về mặt hàng tôm, chúng ta đứng sau Thái Lan và tương đương với Ấn Độ về kim ngạch xuất khẩu tôm sang Mỹ, tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu tôm thực tế chúng ta còn cách Thái Lan một khoảng cách khá xa khó có thể đuổi kịp. Có một thực tế là nhu cầu tôm ở thị trường Mỹ nói riêng và 3 thị trường lớn nói chung là Mỹ, Nhật, EU rất lớn tạo thời cơ cho các nước trên thế giới đổ xô vào nuôi tôm, từ Êcuađo, Mêhicô, đến Thái Lan (bỏ lệnh cấm nuôi tôm trên ruộng lúa), Trung Quốc (tăng gấp đôi diên tích nuôi tôm so với năm 2002). Hơn nữa hàng tồn kho của các nhà nhập khẩu Mỹ còn rất lớn. Vì vậy, nguồn cung cấp tôm trên thế giới hiện nay đang vượt nhu cầu tiêu thụ khoảng 30%, và tỷ lệ này càng lớn do các nước nuôi tôm ngày càng nhiều. Giá tôm trên thế giới và ở Mỹ cũng giảm nhiều. Trong khi đó so với giá tôm của các nước cạnh tranh (Thái Lan cũng đang giảm giá tôm nguyên liêu), tôm nguyên liệu Việt Nam dù đã hạ 25- 30% nhưng vẫn ở mức cao nhất. Điều này làm tôm Việt Nam giảm bớt năng lực cạnh tranh. Bảng 2.5: Sản lượng, giá trị và giá tôm xuất khẩu vào Mỹ 2000- 6/2003. Nước Sản lượng (MT) Giá trị 1000 USD Giá (USD/kg) Nước 2000 2001 2002 1-6 2003 2000 2001 2002 1-6 2003 2000 2001 2002 1-6 2003 Thái Lan 80.9 84.5 58.3 32.9 945 799 508 259 11.6 9.4 8.7 7.8 Việt Nam 12.5 26.0 33.0 22.7 181 296 359 238 14.5 11.3 10.8 10.4 Êcuađo 18.5 25.6 28.4 22.6 186 214 190 143 10.0 8.3 6.6 6.3 T. Quốc 17.4 25.7 36.4 20.9 127 171 201 111 7.3 6.6 5.5 5.3 Ấn Độ 25.7 28.8 40.8 20.9 222 243 343 192 8.6 8.4 8.4 9.1 Braxin 5.8 9.79 17.6 15.6 53 63 87 70 9.0 6.4 4.9 4.5 Inđônêxia 15.5 14.6 15.6 12.6 179 143 137 103 11.5 9.8 8.7 8.1 Guy an 8.6 14.4 9.6 7.8 40 53 36 27 4.6 3.6 3.8 3.4 Venezuela 14.8 9.5 10.3 6.7 141 78 65 41 9.5 8.2 6.3 6.1 Mexico 28.9 29.7 24.1 5.1 401 379 262 71 13.8 12.7 10.8 13.8 Nguồn: Georgetowm Economic Services Trong số các nước xuất khẩu tôm vào Mỹ thì giá tôm của Việt Nam chỉ thấp hơn Mexico, nhưng là nước có giá xuất khẩu tôm lớn nhất so với các nước đứng đầu là Thái Lan, Ấn Độ. 6 tháng đầu năm 2003 tôm Việt Nam đuổi gần kịp tôm Thái Lan về kim ngạch xuất khẩu. Mặt hàng tôm có thế mạnh của Việt Nam là tôm sú. Tuy nhiên, chúng ta vấp phải sự cạnh tranh mạnh của Tôm chân trắng Trung Quốc, các mặt hàng tôm đa dạng vốn vẫn là thế mạnh của Thái Lan trên thị trường Mỹ. Về các mặt hàng khác không phải tôm như cá, mực, cua ...; tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng này của Việt Nam sang Mỹ thấp, chiếm 40,9% năm 2002, trong khi riêng tôm chiếm 59,1% trong tổng giá trị thuỷ sản xuất khẩu sang Mỹ. Bảng 2.6: Sản lượng, giá trị và giá các mặt hàng thuỷ sản không phải tôm xuất khẩu vào Mỹ 2000- 6/2003. Nước Sản lượng (MT) Giá trị 1000 USD Giá (USD/kg) Nước 2000 2001 2002 1-6 2003 2000 2001 2002 1-6 2003 2000 2001 2002 1-6 2003 T. Quốc 421.8 401 415.5 190.5 6973 7707 7343 3692 16.5 19.2 17.6 19.3 Ấn Độ 169.6 302.1 355.6 186.8 4573 7577 8119 4297 26.9 25.0 22.8 22.9 Canada 333.8 220.4 326.6 147.8 1730 1506 1875 1282 5.1 6.8 5.7 8.6 Thái Lan 169.6 94.3 93.4 72.5 3414 790 1066 1086 20.1 8.3 11.4 14.9 Việt Nam 0.9 33.5 44.4 57.1 8 116 249 285 8.8 3.4 5.6 4.9 Đài Loan 68.0 74.3 106.1 37.1 626 1171 1557 420 9.2 15.7 14.6 11.2 Malaysia 9.0 5.4 19.9 20.8 69 32 166 155 7.6 5.8 8.3 7.42 Inđônêxia 100.6 33.5 27.2 18.1 629 458 383 214 6.2 13.6 14.0 11.7 Mexico 136.9 205.9 140.6 17.2 1044 861 626 96 7.6 4.1 4.4 5.5 Êcuađo 0 0.9 1.8 9.9 0 11 18 74 12.1 9.9 7.4 Nguồn: Goergetowm Economic Services Các mặt hàng không phải tôm đã có bước phát triển vượt bậc trong 6 tháng đầu năm 2003 với tổng sản lượng đạt 57tấn, kim ngạch xuất khẩu 285 triệu USD chỉ trong 6 tháng. Tuy nhiên giá xuất khẩu lại giảm mạnh. Giá các mặt hàng này so với các nước xuất khẩu mạnh khác là thấp nhất, cho thấy các mặt hàng xuất khẩu đa số ở dạng nguyên liệu hoặc sơ chế, giá trị thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Như vậy, thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ có thế mạnh về tôm nhưng các mặt hàng khác nhìn chung không có giá trị thấp và chưa có vị trí lớn trong số các mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu của Mỹ trừ cá tra và cá basa. Tuy nhiên tôm Việt Nam cũng như các nước xuất khẩu mạnh khác đang bị đe doạ bởi vụ kiện bán phá giá tôm của các nhà sản xuất tôm Mỹ, và cá tra, cá basa của ta trên thực tế bị đánh thuế rất cao sau vụ kiện bán phá giá hai loại thuỷ sản này. Cơ cấu xuất khẩu còn chưa cân đối tập trung quá nhiều vào tôm. Mặt hàng xuất khẩu còn chưa đa dạng, mặc dù tiềm năng trong nước chưa khai thác hết. Như đã phân tích ở trên, trình độ sản xuất chế biến áp dụng khoa học công nghệ trong ngành thuỷ sản Việt Nam còn yếu kém so với các đối thủ cạnh tranh vì thế Việt Nam cần nâng cao hơn nữa về mặt này để có giá trị gia tăng cao đặc biệt về các mặt hàng cá đông lạnh. CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA THỦY SẢN XUẤT KHẨU VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ Đảng và Nhà nước đã xác định xuất khẩu thuỷ sản là mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân. Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng thuỷ sản không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước, của bộ Thuỷ sản, mà còn là trách nhiệm của tất cả mọi người hoạt động trong lĩnh vực này. Để duy trì và phát triển ngày càng nhiều sản phẩm thuỷ sản có giá trị kinh tế cao cho các thị trường trong nước và quốc tế, chống lại sự giảm sút của nguồn lợi biển, tăng khả năng phục hội tự nhiên của các nguồn lợi biển, nhưng vẫn duy trì được tốc độ phát triển cao, cần thực hiện các giải pháp sau: 3.1 GIẢI PHÁP VỀ NGUỒN HÀNG 3.1.1 Nâng cao năng lực khai thác và nuôi trồng thuỷ sản Các định hướng chiến lược nâng cao năng lực khai thác thuỷ sản là: -Tiến hành quy hoạch và quản lý phát triển nghề khai thác hải sản theo ngư trường và địa phương một cách hợp lý trên cơ sở sự bền vững của nguồn lợi và hiệu quả kinh tế. - Tiến hành sắp xếp lại nghề cá ven bờ một cách hợp lý, phát triển nghề nuôi trồng thuỷ sản biển và các nghề khác trong cộng đồng ngư dân để chuyển một phần lao động đánh cá sang hoạt động ở các lĩnh vực khác. - Phân định rõ ràng các ngư trường, khu vực và mùa vụ khai thác. Quy hoạch quy mô khai thác cho từng địa phương. Quản lý chặt chẽ ngư trường, nơi sinh sống, môi trường và các giống loài thuỷ hải sản. - Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho nghề khai thác hải sản, tăng cường sự hỗ trợ của nhà nước cho nghề cá thương mại. Công tác khuyến ngư cho khai thác phải tập trung vào việc truyền bá các kỹ thuật cơ bản về xử lý, bảo quản thuỷ sản cho các đối tượng là chủ tàu và nhân dân trực tiếp khai thác trên biển. - Tăng cường hệ thống dự báo, cảnh báo, cứu nạn, cứu hộ. Để làm được các nội dung trên cần điều tra khảo sát xây dựng các hồ sơ về các bãi cá và các vùng cư trú, sinh trưởng, nguồn lợi và mùa vụ khai thác thích hợp ở từng vùng biển, từng thuỷ vực để làm căn cứ ra quyết định. - Tăng cường năng lực hành chính và kế hoạch, đồng thời giúp đỡ các địa phương quy hoạch và soạn thảo các kế hoạch phát triển khai thác hợp lí và tăng cường quản lí nguồn lợi. - Đi đôi với cơ cấu lại lực lượng khai thác ven bờ một cách hợp lí, chuyển dần sang phát triển canh tác trên vùng biển ven bờ: vừa khai thác, vừa nuôi, nuôi để khai thác. - Chú trọng làm tốt các khâu bảo quản ngay trên biển và tại bờ, giảm mạnh các thất thoát sau thu hoạch để cải thiện cơ cấu nguyên liệu hải sản chất lượng tốt, góp phần gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Đầu tư xây dựng hệ thống kho bãi hiện đại. Muốn vậy cần sớm thực tính toán lại cường độ và cơ cấu nghề nghiệp hợp lí cho từng địa phương, từng ngư trường, trước mắt hạn chế việc mở rộng quy mô nghề cá gần bờ. Hỗ trợ xây dựng các khu bảo tồn biển, các bãi rạn nhân tạo, lắp đặt các thiết bị dụ cá, các bãi chà rạo, các vùng cư trú có tính chất chiến lược cho các giống loài thuỷ sản. Đồng thời tiến hành sản xuất sinh sản nhân tạo thả giống một số giống loài ra một số vùng biển. Khuyến khích hỗ trợ các cộng đồng ngư dân nuôi biển bằng mọi hình thức, giao cho các cộng đồng nhất định quyền khai thác và nghĩa vụ quản lí, bảo vệ từng vùng ven bờ nhất định, đồng thời quản lí vùng biển từ bờ ra đến 6 hải lý. Sẽ phát triển xa bờ một cách thận trọng, hợp lí trên cơ sở lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo. Do đó sẽ: - Tăng cường nghiên cứu nguồn lợi để có thể đi đến quy định cụ thể, hợp lí việc phân bổ và khai thác các nguồn lợi xa bờ thuộc quyền phán xét quốc gia cho các địa phương và các ngư trường khơi trên cơ sở quy định hạn mức cường lực khai thác, chủng loại tàu thuyền, nghề nghiệp khai thác cho mỗi địa phương. - Thường xuyên tiến hành khảo sát đánh giá kinh tế tài chính toàn diện của nghề cá xa bờ. Tiến hành thường xuyên việc khảo sát kỹ thuật để chọn lựa các loại tàu thích hợp, công nghệ khai thác thích hợp cho nghề khơi. Không đóng tàu ồ ạt khi chưa xác định rõ cơ cấu đội tàu và kỹ thuật công nghệ hợp lí để tránh lãng phí cải hoán về sau. - Tăng cường hỗ trợ của nhà nước cho các khu vực nghề cá thương mại tham gia vào phát triển nghề cá xa bờ với sự ưu đãi trong vay vốn với các điều kiện thương mại và tạo môi trường thuận lợi về đầu tư (ưu đãi thuế, thủ tục đơn giản). - Phát triển các cơ sở hạ tầng, các hệ thống buôn bán và tiếp thị hợp lí, tập trung. - Chỉ xây dựng cho một số cảng tụ điểm lớn có tính chất tập trung phục vụ các đội tầu khai thác xa bờ. Các địa phương khác có thể đăng kí sử dụng cảng tại các tụ điểm lớn này. - Công tác khuyến ngư cho khai thác phải tập trung vào việc truyền bá các kỹ thuật cơ bản về xử lý, bảo quản thuỷ sản cho các đối tượng là chủ tàu và nhân dân trực tiếp khai thác trên biển. -Tìm giải pháp tổ chức để tăng cường năng lực khai thác hải sản ở các ngư trường trọng điểm. - Thí điểm và mở rộng từng bước vững chắc hợp tác đánh cá với các nước, trước hết là các nước láng giềng trong khu vực. - Phát triển khai thác hải sản gắn với các biện pháp bảo vệ nguồn lợi hải sản. - Sớm tính toán cường độ và cơ cấu nghề nghiệp hợp lý cho từng địa phương, từng ngư trường, trước mắt hạn chế việc mở rộng quy mô nghề cá gần bờ. Về nuôi trồng thuỷ sản, cần lấy phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản, trong đó đặc biệt là nuôi biển, nước lợ, phục vụ xuất khẩu làm định hướng chiến lược cơ bản nhất cho từ nay đến năm 2010 theo các chiến lược sau: - Phát triển ngành nuôi trồng hải sản (nuôi biển) và nước lợ với ưu tiên chiến lược cho nuôi phục vụ xuất khẩu, nhất là nuôi tôm, cá biển và nhuyễn thể. - Mở rộng thị trường trong nước và quốc tế cho nuôi nước ngọt, ưu tiên chọn lựa các đối tượng nuôi năng suất cao, dễ vận chuyển xa và có khả năng đa dạng chế biến. Phát triển mạnh công nghệ chế biến, bảo quản, vận chuyển, và thương mại hàng thuỷ sản nước ngọt. - Phát triển công nghệ sinh học là ưu tiên hàng đầu để rút ngắn các khoảng cách về trình độ công nghệ, đặc biệt trong công nghệ sản xuất giống, thức ăn và phòng trừ dịch bệnh. - Phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên nguyên tắc an toàn sinh thái. Muốn thực hiện tốt các mục tiêu chiến lược trên, cần phải: - Đẩy nhanh quá trình quy hoạch, xây dựng bản đồ thích nghi các hệ thống sinh thái cho nuôi trồng, phân lập, thiết kế các khu sản xuất giống, nuôi tôm và các loài cá biển tập trung. - Giải quyết tốt vấn đề khát vốn cho chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo hướng năng suất cao và bền vững. - Quy hoạch diện tích mặt nước sử dụng và tích cực chuyển từ quảng canh sang bán thâm canh và thâm canh, chuyển dịch cơ cấu nuôi trồng kết hợp với cây lương thực truyền thống. - Đẩy nhanh tốc độ cải tiến, nâng cao công nghệ nuôi tôm xuất khẩu, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các cơ sở hậu cần và dịch vụ cho nghề nuôi tôm, cá biển. - Nghiên cứu, nhập nhanh công nghệ sản xuất giống, thức ăn và công nghệ nuôi biển (tôm hùm, một số loại cá có giá trị kinh tế cao, nhuyễn thể và một số loài rong tảo). Khuyến khích phát triển giống thuỷ sản: ưu tiên cho các hộ gia đình có nhu cầu vay để phát triển giống thuỷ sản. Đồng thời tập trung giải quyết khâu đột phá là cung ứng đủ giống thuỷ sản có chất lượng và giá bán hợp lý. - Chuyển giao nhanh những kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản tiên tiến cho ngư dân. Tiến hành áp dụng quản lý vùng nuôi tốt, đảm bảo vệ sinh môi trường vùng nuôi, vệ sinh chất lượng từ vùng nuôi, xây dựng và phổ biến mô hình quản lý cộng đồng ở các vùng nuôi thuỷ sản, không sử dụng hoá chất, kháng sinh bị cấm. Làm tốt công tác kiểm dịch giống thuỷ sản, nuôi thả đúng thời vụ, hạn chế rủi ro dịch bệnh. Đa dạng hoá các loài tôm ngoài tôm sú (tại phía Bắc); đưa tôm thẻ chân trắng vào làm một trong các đối tượng nuôi chính, tăng lợi thế cạnh tranh bằng tôm sú có kích cỡ lớn. Phát triển nuôi sinh thái ở các vùng phù hợp, mở rộng nuôi cá basa, cá tra, rô phi đơn tính, các đối tượng nước ngọt xuất khẩu khác. Mặt khác, đầu tư hoàn thiện các trung tâm nghiên cứu giống hải sản ở một số vùng trọng điểm và tính trên cơ sở số lượng và chất lượng giống theo yêu cầu của từng đối tượng để nhập khẩu một số lượng giống cần thiết cho yêu cầu phát triển nuôi thuỷ sản. - Đẩy mạnh công tác quy hoạch của các tỉnh có điều kiện tự nhiên và sinh thái thích hợp để phát triển nuôi cá biển và cá nước ngọt, xây dựng và triển khai các dự án phát triển các vùng nuôi cá tập trung ở quy mô công nghiệp. - Tăng cường hợp tác nghiên cứu với các nước có công nghệ cao trong khu vực và thế giới đặc biệt là những công nghệ di truyền, chọn giống các đối tượng có giá trị kinh tế cao, công nghệ sinh học, công nghệ xử lý môi trường, công nghệ về chuẩn đoán phòng trừ dịch bệnh. - Quản lý tốt việc nhập khẩu, sản xuất và lưu thông thức ăn và các chế phẩm dùng trong nuôi trồng thuỷ sản. Trong khi vẫn đảm bảo sự thông thoáng theo môi trường chính sách đổi mới để phát huy cao nguồn lực trong dân cho phát triển. - Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các cơ sở hậu cần và dịch vụ cho nghề nuôi tôm, cá biển. - Khuyến khích thành lập các hiệp hội thông tin công nghệ, thông tin thị trường , thông tin ngư trường và quỹ bảo hiểm tương hỗ trọng hiệp hội. 3.1.2 Nâng cao năng lực chế biến Các mục tiêu chiến lược nâng cao năng lực chế biến ngành thuỷ sản là: - Tăng cường năng lực nghiên cứu công nghệ, tiếp thu và chuyển giao công nghệ chế biến tiên tiến. - Huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước để nâng cao các cơ sở chế biến hiện có cả về cơ sở hạ tầng và đổi mới trang thiết bị, công nghệ nhằm đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm của quốc tế và nâng cao chất lượng. - Nhanh chóng có những chính sách ưu tiên và hỗ trợ đầu tư nhằm cải tổ lại mạng lưới chế biến, vận chuyển, buôn bán, bán lẻ hàng thuỷ sản trong thị trường nội địa. - Duy trì và giữ vững thị trường truyền thống đồng thời mở rộng quan hệ quốc tế để tạo thị trường mới, đặc biệt đối với các thị trường lớn như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, EU. Đặc biệt lưu ý mở rộng thị trường phía tây Trung Quốc, thị trường cá nổi nhỏ và cá nước ngọt châu Phi. - Phát triển một số trung tâm chế biến công nghệ cao để tái chế biến các hàng sơ chế trong mạng lưới các xí nghiệp chế biến quy mô nhỏ nằm rải rác ở các vùng nguyên liệu. - Tạo lập các trung tâm chuyên sản xuất giống quy mô lớn vừa để quản lý chất lượng vừa để hạ giá thành sản xuất giống, chống lại sự ô nhiễm môi trường. - Tạo lập các khu nuôi thâm canh và công nghiệp cao đủ sức tạo những quả đấm lớn về sản phẩm xuất khẩu một số mặt hàng nào đó (tôm, cá) kể cả nuôi biển, nuôi lợ và nuôi ngọt. - Tạo lập một số các cảng cá lớn đủ sức phục vụ cho nghề cá xa bờ, nghề cá thương mại quy mô lớn, kết hợp phát triển ở đây các trung tâm lớn về thương mại thuỷ sản (chỉ nên xây dựng ở Hải Phòng, Đà Nẵng, Khánh Hoà, Vũng Tàu, Mỹ Tho, Tắc Cậu). - Xây dựng một vài nhà máy lớn sản xuất thức ăn tôm cá. - Xây dựng mới một số nhà máy hoặc liên kết với các công ty đóng tàu để đóng tầu và trang bị tàu cá cho nghề khơi có quy mô lớn (không đóng tàu cá khơi tràn lan như hiện nay). - Mởnrộng cá‰fnhà máy sản xuất ngư cụ. - Xây dựng một số nhà máy sản xuất thiết bị phục vụ nuôi trông thuỷ sản. - Phát triển xí nghiệp sản xuất cơ điện lạnh ở TP. Hồ Chí Minh thành một đầuÀmối chí,p cơ điện lạnh với các vệ tinh của nó ở các miền để phục vụ ngành cá. - Phát triển ở mỗi vùng một trung tâm lớn nhà máy sản xuất hàng thuỷ sản chất lượng cao phục vụ xuất khẩu ( có thể đặt lại các cảng cá khơi lớn) không đầu tư nâng cấp tràn lan. - Khuyến khích đầu tư xây dựng một số xí nghiệp chế biến hàng thuỷ sản tiêu dùng nội địa sản xuất đa dạng. Muốn thực hiện được các mục tiêu chiến lược trên cần thực hiện các giải pháp sau: - Quy hoạch lại hệ thống các cơ sở chế biến thuỷ sản để tiếp tục đầu tư nâng cấp và xây dựng mới. - Cổ phần hoá các doanh nghiệp chế biến nhằm xã hội hoá đầu tư cho ngành. - Phát triển mối quan hệ quốc tế rộng rãi để thu hút sự trợ giúp tài chính và trao đổi kinh nghiệm cũng như sự hỗ trợ cho công tác nghiên cứu, đào tạo cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi và cao. - Thực hiện các biện pháp mạnh, đồng bộ từ các Bộ, Ngành đến UBND các tỉnh, các sở triệt để chống đưa tạp chất vào nguyên liệu thuỷ sản. Làm tốt công tác kiểm tra chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm, đặc biệt là kiểm soát dư lượng kháng sinh từ khâu nguyên liệu đến sản phẩm chế biến. - Huy động và sử dụng có hiệu quả quỹ phát triển thị trường xuất khẩu. - Khuyến khích việc thu hút nguồn nguyên liệu các nước phát triển và các nước trong khu vực nhằm tăng cường nhập nguyên liệu để chế biến tái xuất. Phấn đầu đạt tỷ trọng nguyên liệu nhập 5-8% vào 2005. Tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục cho doanh nghiệp trong quá trình nhập khẩu nguyên liệu để tái xuất. - Khuyến khích phát triển các hình thức liên doanh liên kết, phối hợp sản xuất giữa sản xuất nguyên liệu với chế biến xuất khẩu, tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu đưa vào sản xuất hàng xuất khẩu, giảm thất thoát sau thu hoạch. - Tăng cường công tác khuyến ngư tập trung vào các chủ nậu vựa, cung cấp khai thác và hỗ trợ cho đầu tư các biện pháp bảo quản cho ngư dân. - Xây dựng hệ thống chợ cá tại các cảng cá của các tỉnh trọng điểm, các trung tâm công nghiệp chế biến và tiêu thụ, hệ thống các chợ đường biển cũng như các chợ cá quy mô nhỏ ở các địa phương. - Đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất và năng lực nghiên cứu, triển khai của trung tâm công nghệ sinh học và công nghệ chế biến thuộc viện nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản II thuộc Bộ thuỷ sản đầu tư khả năng nghiên cứu phát triển sản phẩm và tư vấn cho các doanh nghiệp. 3.1.3 Thực hiện tốt vệ sinh an toàn thực phẩm Đổi mới công tác giám định chất lượng - Thống nhất chủ trương giảm dần việc bắt buộc kiểm tra Nhà nước về chất lượng thuỷ sản. Sẽ bỏ hẳn kiểm tra Nhà nước về chất lượng khi tiêu chuẩn ngành 130 và các tiêu chuẩn khác về vệ sinh dược phẩm được phần lớn các doanh nghiệp thực hiện. - Giáo vụ khoa học công nghệ chủ trì cùng với NAFIQACEN (trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thuỷ sản) tổ chức thực hiện áp dụng chế độ kiểm tra giảm đối với các lô hàng thuỷ sản xuất khẩu của các doanh nghiệp đã được chấp nhận đạt các tiêu chuẩn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm từ 1/7/2000 theo tinh thần Quy chế kiểm tra và chứng nhận Nhà nước về chất lượng hàng hoá thuỷ sản ban hành tại Quyết đinh số 08/2000/QĐ_BTS ngày 7/1/2000 của bộ trưởng Bộ Thuỷ sản, đồng thời gấp rút sửa chữa, bổ sung quy chế này phù hợp với quy định của Luật doanh nghiệp. - Vụ khoa học công nghệ chủ trì cùng các Vụ, Cục, NAFIQACEN sửa đổi nội dụng quy chế kiểm tra và chứng nhận cơ sở sản xuất, kinh doanh thuỷ sản đạt tiêu chuẩn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ban hành kèm quyết định số 01/2000/QĐ-BTS ngày 3/1/2000 của bộ trưởng Bộ Thuỷ sản, có kết hợp đánh giá áp dụng hệ thống HACCP (Hazand Analysis Critical Control Point) để tránh các hoạt động kiểm tra trùng lắp và giảm chi phí kiểm tra đối với doanh nghiệp. Cải tiến năng lực sản xuất chế biến bằng cách áp dụng hệ thống HACCP nhằm nâng cao tỷ trọng của sản phẩm tinh chế - Xác định rõ nguồn gốc nguyên liệu đầu vào: nếu cần thiết thì doanh nghiệp nên đề xuất hỗ trợ từ phía Nhà nước, cụ thể là NAFIQACEN. - Đào tạo và giáo dục ý thức về HACCP trong nội bộ doanh nghiệp: ban lãnh đạo và các cán bộ phụ trách trực tiếp sản xuất sau khi làm quen và tham gia các khoá học, hội thảo về HACCP sẽ hướng dẫn cho công nhân từng yêu cầu, từng công đoạn phải thực hiện. - Đẩy mạnh nâng cấp cơ sở sản xuất và đổi mới công nghệ ở những khâu cần thiết, tránh lãng phí việc cải tạo nhà xưởng thiết bị là rất tốn kém và mất nhiều thời gian, do đó cần cân nhắc việc nâng cấp chỉ ở những công đoạn quyết định đến chất lượng, vấn đề không phải bỏ vốn lớn cho máy móc mà là vận dụng công nghệ một cách có lợi nhất và thích hợp với tình hình từng công ty. - Xây dựng mô hình HACCP của riêng từng doanh nghiệp trên cơ sở tư vấn từ các cơ quan chức năng và chuyên gia nước ngoài. - Chú trọng sản xuất những mặt hàng có chất lượng cao, có trong tay chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng Haccp- đây là điều kiện bắt buộc để giao dịch với khách hàng chính yếu trên thị trường mỹ. Nếu có được giấy thông hành haccp, dn sẽ có được lòng tin của người tiêu dùng tránh được nhiều rắc rối khi xuất hàng, giảm chi phí, nâng cao khả năng thâm nhập thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút khách hàng mới. - Các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả việc thực thi chương trình quản lí chất lượng theo GMP, HACCP, ISO. Việc áp dụng hệ thống đảm bảo các chương trình chất lượng quyết định đến sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Trước mắt các nhà máy phải thực thi HACCP cụ thể là: + Nhà máy phải thành lập đội ngũ quản lý chất lượng HACCP. + Xây dựng kế hoạch HACCP cho từng sản phẩm. + Soạn thảo hồ sơ quản lý chất lượng theo HACCP. + Lập kế hoạch đào tạo theo nhiều mức khác nhau từ cán bộ quản lý đến người sản xuất. + Phối hợp thường xuyên với các trung tâm tư vấn (TT công nghệ và sinh học thuỷ sản của Viện nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản II NAFIQACEN) để kịp thời tháo gỡ các khiếm khuyết. - Tăng cường đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, công nghệ sản xuất phù hợp với yêu cầu của chương trình quản lý chất lượng. - Hỗ trợ vốn tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản đầu tư nâng cấp điều kiện sản xuất đáp ứng yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm có thể xuất sang Mỹ. - Tài trợ tín dụng xuất khẩu để hỗ trợ các doanh nghiệp hiện đại hoá và mở rộng cơ sở vật chất, trang thiết bị cũng như tăng cường nghiên cứu công nghệ bao gồm khoa học công nghệ cứng và công nghệ mềm, khoa học kinh tế quản lý. + Khuyến khích các doanh nghiệp nhập khẩu công nghệ cao từ các nước phát triển, bí quyết công nghệ, thuê chuyên gia nước ngoài giỏi. + Xây dựng, ban hành và triển khai áp dụng bắt buộc các tiêu chuẩn Nhà nước và tiêu chuẩn ngành về điều kiện sản xuất an toàn vệ sinh tối thiểu đối với các cơ sở chế biến thuỷ sản, cảng cá, chợ cá. Việc thiết lập các tiêu chuẩn này được xem là nâng cấp dần từng bước các hoạt động an toàn chất lượng. 3.2 GIẢI PHÁP VỀ THỊ TRƯỜNG 3.2.1 Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại hỗ trợ xuất khẩu. - Cung cấp các thông tin mới nhất về thị trường, kỹ thuật công nghệ và tình hình cạnh tranh nhờ đó các doanh nghiệp xuất khẩu có cơ sở để đưa ra những quyết định kinh doanh thích hợp. - Về chi phí cho hoạt động xúc tiến Việt Nam cần học tập mô hình hiệu quả của các tổ chức như JETRO của Nhật, KOTRA của Hàn Quốc hay THAITRADE của Thái Lan hoặc như ở Đài Loan các nhà xuất khẩu nộp 4,25% doanh thu để Chính phủ chi cho hoạt động xúc tiến. Phát huy vai trò của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) trong việc hỗ trợ xuất khẩu. Để nâng cao tinh thần hợp tác giữa các doanh nghiệp trong hiệp hội, phát triển nguồn nguyên liệu thuỷ sản, khẳng định vị trí thuỷ sản Việt Nam trong khu vực ASEAN, phát triển nhanh khả năng cạnh tranh và hội nhập, tôn vinh các nhà doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam, hiệp hội đã đề ra 7 chương trình hoạt động: Khách hàng cho hội viên Thuỷ sản Việt Nam an toàn và cạnh tranh Phát triển nguyên liệu thuỷ sản Nhà lãnh đạo doanh nghiệp tương lai Người đồng hành tin cậy Thuỷ sản Việt Nam – Thuỷ sản ASEAN Tự hào VASEP Thay đổi thuế và thành lập quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu - Đề nghị Nhà nước cho giảm thuế suất mặt hàng đông lạnh từ 3% xuống 1%. - Nhà nước nên giảm thuế thu nhập doanh nghiệp từ 32% xuống 15% để xí nghiệp có điều kiện nâng cấp trang thiết bị do hiện nay tình hình cạnh tranh gay gắt các doanh nghiệp cần đầu tư không ngừng vào công nghệ kỹ thuật mới mong đứng vững trên thị trường. - Thay đổi mức khấu trừ VAT đối với thu mua hàng thuỷ sản theo hướng nếu mua có bảng kê thì khấu trừ 2% và nếu có hoá đơn thì khấu trừ 3%, áp dụng cho cả doanh nghiệp trong nước lẫn doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. - Tiến tới áp dụng thuế suất 0% khi nhập khẩu nguyên liệu thuỷ sản dùng chế biến hàng xuất khẩu. - Giảm dần thuế kinh doanh cho các doanh nghiệp trong thời gian xuất khẩu hàng thuỷ sản. - Thành lập quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu; biện pháp chủ yếu là bù lãi suất vay vốn, căn cứ theo một danh mục các mặt hàng, ngành nghề xuất khẩu được hỗ trợ lãi suất. Chú trọng mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản trên thị trường Mỹ. - Các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cần có giải pháp cụ thể thực hiện Quyết định 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của thủ tướng Chính phủ thông qua thực hiện sản xuất theo hợp đồng, đảm bảo tiêu thụ sản phẩm cho ngư dân. - Đầu tư cho bao bì, nhãn mác và đăng ký bản quyền thương hiệu sản phẩm. Tiếp tục đầu tư hoàn thiện công nghệ chế biến đạt tiêu chuẩn quốc tế để nâng số lượng doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản và danh sách đựơc phép xuất khẩu và Mỹ. - Tăng cường khả năng hợp tác giữa các doanh nghiệp xuất khẩu để giải quyết tốt khâu tiêu thụ; tăng cường mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với việt kiều mỹ; tăng cường sử dụng internet trong công tác tiếp thị. 3.3 GIẢI PHÁP VỀ PHÂN PHỐI SẢN PHẨM 3.3.1 Hiểu rõ các chính sách thương mại và nắm chắc hệ thống pháp luật trong ngành thuỷ sản Mỹ Vì Mỹ là quốc gia rất hay kiện tụng, hệ thống luật pháp phức tạp và người Mỹ khi kinh doanh rất gắn với luật pháp nên khi xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ, các doanh nghiệp cần có luật sư tư vấn hoặc ít nhất là có các chuyên giỏi có thể giải quyết các tranh chấp phát sinh liên quan đến luật pháp. Bản thân doanh nghiệp cũng cần ít nhiều am hiểu luật lệ Mỹ để đảm bảo khi mời luật sư thời gian làm việc ngắn nhưng hiệu quả. Nắm rõ các chính sách thương mại Mỹ đang áp dụng với Việt Nam nhất là trong tình hình hiện nay khi Hiệp định thương mại Việt Mỹ đã có hiệu lực để kịp thời thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng tỷ lệ hàng chế biến cao cấp có giá trị cao (hiện nay chủ yếu Việt Nam xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ dưới dạng thô). Như vậy Việt Nam sẽ tăng nhanh được kim ngạch xuất khẩu và giành được quyền chủ động trong kinh doanh, khẳng định được vị thế của mình trên thị trường quan trọng này. Bảng 3.1: Thuế nhập khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ Mã thuế Mặt hàng Nằm trong diện hưởng NTR Không nằm trong diện hưởng NTR 0301 Cá tươi sống 0% 0% 0302 Các bộ phận còn lại sau khi cắt Philê tươi hoặc đông lạnh 0% 2.2-4.4 cent/kg 0304 Philee cá, thịt cá đã lóc xương tươi hoặc đông lạnh 0% Một số 0%, một số 5,5 cent/kg 0305 Cá khô, ướp muối, xông khói 4-7% 25-30% 0305.13 Tôm các loại đông lạnh 0% 0% 0305(14-24) Thịt cua đông lạnh 7,5% 15% 0307 Các loại nghêu sò 0% 0% 0307.60 ốc 5% 20% 1601-1604 Các loại thực phẩm chế biến từ cá 0,9-6 cent/kg 6,6-22 cent/kg 1605-10.05 Cua chế biến chín 10% 20% 1605-10.20 Thịt cua 0% 22,5% 1605-30.05 Tôm hùm chế biến 10% 20% Nguồn: Hải quan Mỹ 1999 Chuẩn bị tốt các điều kiện khai thác, nuôi trồng, sản xuất, chế biến để vượt qua các hàng rào kỹ thuật TBT và hàng rào vệ sinh SPS của Mỹ. Điều này giúp doanh nghiệp dễ dàng thâm nhập thị trường Mỹ và cũng nâng cao được uy tín của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng. 3.3.2 Giải quyết tốt vấn đề thương hiệu sản phẩm Doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng thương hiệu sau các bài học lớn về việc cần thiết phải bảo vệ thương hiệu là “cuộc chiến Catfish” hay nhãn hiệu “cà phê Trung Nguyên”. Ngay khi có ý định hay bắt đầu thương mại hoá sản phẩm của mình trên thị trường Mỹ, hãy nộp đơn đăng kí bảo hộ thương hiệu ngay tại Văn phòng Sáng chế và Thương hiệu Mỹ (USPTO) để tránh trường hợp bị đối tác Mỹ hớt tay trên. Hiện nay nhiều sản phẩm thuỷ sản Việt Nam xuất sang Mỹ qua trung gian, sản phẩm của doanh nghiệp mang các thương hiệu khác nhau do đối tác đặt, vì thế mà nhiều doanh nghiệp vẫn chưa nhận thấy tầm quan trọng của việc đăng ký thương hiệu. Hãy nghĩ đến một chiến lược dài hạn để xây dựng một nhãn hiệu cho riêng mình trên đất Mỹ, có như vậy mới có thể nâng cao vị thế hàng Việt Nam và đem lại hiệu quả kinh doanh tốt nhất. Khi bị mất quyền sử dụng thương hiệu doanh nghiệp cần phải đấu tranh để giành lại quyền của mình. Hiệp định thương mại Việt – Mỹ và các Công ước Quốc tế có liên quan sẽ là cơ sở pháp lý để doanh nghiệp Việt Nam bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Các doanh nghiệp Việt Nam hãy đăng kí nhãn hiệu của mình tại Việt Nam trước vì khi đăng ký nhãn hiệu ở nước ngoài, thì điều kiện là phải có đăng ký trong nước. Các doanh nghiệp cần tích cực tham gia vào Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam VASEP để nâng cao sức mạnh và ưu thế của mình, khi xảy ra tranh chấp cũng dễ dàng huy động sự tham gia của các ban ngành có liên quan. Hiệp hội cũng là nơi các doanh nghiệp cùng trao đổi thông tin, học hỏi kinh nghiệm của nhau. Nhiệm vụ của Hiệp hội là nắm bắt, thu thập, xử lý, phân tích, dự báo tình hình, thông tin pháp luật của thị trường trong và ngoài nước, kịp thời cung cấp cho các hội viên và cơ quan nhà nước. Hiệp hội cũng khuyến khích phát triển hoạt động thông tin tiếp thị ở các doanh nghiệp. Đây là hướng giải quyết tốt nhất khắc phục tình trạng thiếu thông tin của các doanh nghiệp Việt Nam đối với thị trường Mỹ. 3.3.3 Lựa chọn kênh phân phối hiệu quả nhất Thị trường Mỹ là thị trường có hệ thống phân phối khá bài bản, nhưng các doanh nghiệp xuất khẩu của ta mới chỉ chú ý đến tiếp cận các nhà nhập khẩu, chưa với tới các nhà bán lẻ và siêu thị. Việt Nam đã có hơn 100 doanh nghiệp xuất hàng thuỷ sản sang Mỹ nhưng những nhãn hiệu nổi tiếng mới chỉ tiếp cận được với các nhà nhập khẩu. Hàng bán lẻ chưa tới tay người tiêu dùng. Các doanh nghiệp cần đẩy mạnh tiếp cận thị trường, xúc tiến thương hiệu, tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu, sở thích người tiêu dùng và kiểu dáng sản phẩm. 3.3.4 Thực hiện tốt mối quan hệ ngoại giao Việt Nam- Hoa Kỳ Thực hiện tốt mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước, giữa các doanh nghiệp của hai nước và giữa các cá nhân sẽ là chìa khoá cho sự thành công chiến lược về lâu dài để thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ. Quan hệ ngoại giao Việt Mỹ đã có những bước tiến đáng kể trong thập kỷ qua, mở đầu bằng việc Bình thường hoá quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ ngày 12/7/1995. Từ đó các quan hệ về kinh tế, chính trị, thương mại, văn hoá, khoa học , kỹ thuật v.v. từng bước được mở rộng. Từ đó đến nay có rất nhiều các cuộc viếng thăm giữa các nguyên thủ, các quan chức của 2 quốc gia, mở ra một thời kỳ mới giữa hai nước. Ngày 17/11/2000 Cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã sang thăm Việt Nam. Năm 1998, Mỹ miễn áp dụng luật Jackson Vanik cho Việt Nam. Việc ký kết Hiệp định thương mại Việt Mỹ 14/7/2000 đã hoàn tất quá trình bình thường hoá quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, tạo cơ sở cho việc tăng cường quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước. Hiệp định mở ra thị trường cho các nhà xuất khẩu Việt Nam và tăng thêm cơ hội đầu tư của Mỹ và các nước khác vào Việt Nam. Thuế nhập khẩu hàng hoá Việt Nam vào thị trường Mỹ giảm từ khoảng 40% xuống 3%. Hàng loạt các hoạt động giữa chính phủ của hai nước nhằm đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động kinh tế thương mại giữa hai nước cùng phát triển trong đó có cả ngành thuỷ sản. Thông tin chi tiết hơn về quan hệ ngoại giao Việt Nam- Hoa Kỳ có thể tham khảo qua trang Web dưới đây: Mới đây, ngày 3/12/2003, đoàn đại biểu của Việt Nam do Phó Thủ tướng Vũ Khoan dẫn đầu đã có cuộc hội đàm tiếp xúc với nhiều nhà lãnh đạo Chính phủ và nghị sĩ Mỹ, trong đó có Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell, Đại diện Thương mại Robert Zoellick, Bộ trưởng Nông nghiệp Veneman và Quyền Bộ trưởng Thương mại Botman. Các vị lãnh đạo chính phủ và các nghị sĩ Mỹ khẳng định sẵn sàng mở rộng các lĩnh vực hợp tác về kinh tế, công nghiệp, nông nghiệp, giáo dục và phát triển nguồn nhân lực, đồng thời ủng hộ Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Tất cả những hoạt động này đều đẩy mạnh quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước đồng thời góp phần nới lỏng hơn các chính sách xuất nhập khẩu và đầu tư giữa hai nước Việt Nam- Hoa Kỳ. Nhờ đó kim ngạch thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ ngày càng được nâng lên. Thực hiện tốt mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước là cơ sở, nền tảng để phát triển xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Mỹ, nhưng đây là giải pháp vĩ mô, giữa hai quốc gia với nhau. Như thế vẫn chưa đủ. Chúng ta còn cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau. Đối với thị trường Mỹ, việc xuất khẩu của các doanh nghiệp nhỏ, đơn lẻ thường gặp khó khăn do các doanh nghiệp nội địa thường liên kết thành các hiệp hội nên khả năng cạnh tranh rất cao. Chúng ta có thể thâm nhập thị trường Mỹ bằng cách hợp tác, liên kết với các doanh nghiệp nhập khẩu thuỷ sản Mỹ, ký kết hợp đồng làm ăn lâu dài. Như vậy phía đối tác có thể giúp đỡ chúng ta trong các hoạt động thủ tục nhập khẩu, và kịp thời thông tin những thay đổi trong chính sách pháp luật của nước Mỹ. Nói như thế cũng không có nghĩa là chúng ta luôn phụ thuộc vào các nhà nhập khẩu. Khi đã đủ mạnh, đủ hiểu thị trường và đủ lòng tin của khách hàng đối với sản phẩm, doanh nghiệp cần tiếp tục các bước tiến khác để khẳng định vị thế của mình, vai trò độc lập của mình trên cơ sở, tinh thần hợp tác với các nhà nhập khẩu trong nước. Ngoài ra mối quan hệ giữa các cá nhân của hai nước cũng không kém phần quan trọng thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản. Từ chỗ quen biết đến việc đi du lịch tham quan đất nước của nhau, tạo lập các mối quan hệ khác về làm ăn kinh tế, tạo luồng dư luận tốt cho sản phẩm thuỷ sản của mình. Hoặc quan hệ giữa thương nhân Việt Nam với đội ngũ Việt kiều Mỹ đông đảo đang sống trên đất Mỹ cũng là một thị trường không nhỏ. Đó cũng chính là một cách quảng cáo sản phẩm, một sức mạnh từ bên trong làm tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản. KẾT LUẬN Kinh tế Việt Nam sau gần 20 năm đổi mới thực sự đã có những bước phát triển vượt bậc, từ một nước còn nghèo và lương thực không đủ ăn, chúng ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới. Các ngành sản xuất như dệt may, thủ công mỹ nghệ, giày dép, nông sản, thuỷ sản v.v… rất phát triển, góp phần tích cực vào quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, đẩy nhanh công cuộc CNH- HĐH đất nước. Ngành thuỷ sản, mà trọng tâm là thuỷ sản xuất khẩu, rất được Nhà nước chú trọng và đầu tư khuyến khích. Nó góp phần không nhỏ giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tận dụng được nguồn lợi thuỷ hải sản phong phú sẵn có trong thiên nhiên, phát huy tinh thần cần cù chịu khó, tính sáng tạo của ngư dân trong nuôi trồng thuỷ sản, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong chế biến bảo quản các mặt hàng thuỷ sản, hơn nữa lại là ngành đem lại giá trị kinh tế cao hơn cả so với các mặt hàng nông sản khác. Phát triển xuất khẩu thuỷ sản là tất yếu khách quan phù hợp với trình độ nền kinh tế hiện nay của Việt Nam trong bối cảnh chung của thị trường thế giới. Tham gia vào quá trình lưu thông quốc tế, hàng thuỷ sản Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh rất gay gắt với hàng thuỷ sản của rất nhiều nhà xuất khẩu các nước khác trên thị trường Mỹ. Nâng cao năng lực cạnh tranh trở thành vấn đề cấp thiết, nóng bỏng không chỉ đối với cấp quốc gia, ngành hàng mà còn thực sự là vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản. Khoá luận được hoàn thành với sự hướng dẫn rất nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn Thạc sỹ Trần Việt Hùng và sự giúp đỡ của các thầy cô giáo Khoa Kinh tế Ngoại thương, các cơ quan thuộc Bộ Thuỷ sản, Công ty TNHH Minh Phú cộng với sự nỗ lực cố gắng rất lớn của người viết. Rất mong nó sẽ giúp ích được một phần nào đó cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam khi muốn tìm hiểu về thị trường Mỹ và đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường này. Cuối cùng, một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, người thân, bạn bè, những người đã giúp đỡ em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng khoá luận không tránh khỏi sai sót, rất mong nhận được những ý kiến quý báu của thầy cô và bạn đọc. Hà Nội ngày 5 tháng 12 năm 2003 Sinh viên thực hiện Phan Thị Vân- Lớp Nhật 2- K38F TÀI LIỆU THAM KHẢO - Tạp chí Thông tin khoa học và công nghệ thuỷ sản từ số 1/2000 đến số 9/2003 Báo cáo tổng kết năm 2002 của Bộ Thuỷ sản Trung tâm thông tin KHKT và Kinh tế thuỷ sản – Bộ Thuỷ sản National Marine Fisheries Service Goergetown Economic Services Cẩm nang về xâm nhập thị trường Mỹ- Nhà xuất bản thống kê 2003- TS Hồ Sĩ Hưng- Nguyễn Việt Hưng. Chính sách xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ và những biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ sau khi Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ có hiệu lực- 2002- PGS,TS. Nguyễn Thị Mơ (chủ biên). Tạp chí xuất nhập khẩu thuỷ sản Tạp chí Thuỷ sản từ số 1/2000- 9/1003 Bài viết “Năng lực cạnh tranh của nước ta trong tương quan quốc tế” - PGS, TSKH. Nguyễn Quang Thái - tạp chí Kinh tế và Dự báo. Dự thảo luật thuỷ sản lần thứ 12- Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các trang Web: + www.fistenet.gov.vn + www.mofa.gov.vn + www.mpi.gov.vn + www.census.gov/foreign-trade/balance/index.html + www.infofish.org + v.v… Các nguồn khác PHỤ LỤC Bảng P.1 Ngành thuỷ sản Việt Nam qua các con số từ tháng 4-1959 đến tháng 4/2003 Tổng sản lượng thủy sản 2.410.900 tấn - Khai thác thuỷ sản 1.434.800 tấn - NTTS & khai thác nội địa 976.100 tấn Kim ngạch XKTS 2.023 triệu USD Tổng số lao động nghề cá Khoảng 4 triệu người Khai thác thuỷ sản Sản lượng khai thác thuỷ sản 1.434.800 tấn Tổng số tàu, thuyền máy 81.800 chiếc - Tổng công suất 4.038.365 CV - Trong đó, tàu 90 CV trở lên 6.075 chiếc Nuôi trồng thuỷ sản Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản 955.000 ha - Diện tích nuôi nước ngọt 425.000 ha - Diện tích nuôi mặn, lợ 530.000 ha Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản 976.100 tấn Trong đó + Tôm nước lợ 193.973 tấn + Ngao & Sò huyết 130.000 tấn + Cua biển 13.000 tấn + Cá nước lợ 6.500 tấn Sản lượng sản xuất giống + Tôm (Sú, rảo, he chân trắng) P15 19.088 triệu con giống + Tôm càng xanh 115 triệu con giống + Rô phi đơn tính 35 triệu con giống + Cá da trơn 300 triệu con giống Trại sản xuất giống 5.168 trại + Tôm nước lợ 4.774 trại + Các đối tượng khác 384 trại Chế biến thuỷ sản Tổng số doanh nghiệp chế biến đông lạnh 275 - Số doanh nghiệp có code xuất khẩu vào EU 68 - Số doanh nghiệp áp dụng HACCP, đủ tiêu chuẩn XK vào Mỹ 128 Nguồn: Trung tâm thông tin KHKT và kinh tế Thuỷ sản- Bộ Thuỷ sản. Bảng P.2 Top Ten Countries with which the U.S. Trades For the month of September 2003 The values given are for Imports and Exports added together. These Countries represent 68.83% of U.S. Imports, and 66.33% of U.S. Exports in goods. Year To Date Total in Total in Billions Billions Country Name of U.S. $ of U.S. $ CANADA 34.37 292.20 MEXICO 20.27 172.95 CHINA 16.89 127.52 JAPAN 13.49 125.47 FEDERAL REPUBLIC OF GERMANY 7.16 70.61 UNITED KINGDOM 6.29 56.77 KOREA, REPUBLIC OF 4.92 43.95 TAIWAN 4.22 35.80 FRANCE 3.76 33.89 MALAYSIA 3.26 26.43 Top Ten Countries with which the U.S. Trades For the month of December 2002 The values given are for Imports and Exports added together. These Countries represent 69.98% of U.S. Imports, and 65.24% of U.S. Exports in goods. Year To Date Total in Total in Billions Billions Country Name of U.S. $ of U.S. $ CANADA 28.73 371.39 MEXICO 17.54 232.26 JAPAN 15.35 172.93 CHINA 13.74 147.22 FEDERAL REPUBLIC OF GERMANY 8.55 89.11 UNITED KINGDOM 5.91 74.12 KOREA, REPUBLIC OF 5.23 58.17 TAIWAN 4.20 50.59 FRANCE 3.91 47.43 ITALY 3.22 34.38 Bảng P.3 Đóng góp của thuỷ sản xuất khẩu trong xuất khẩu các nước năm 2000 Nước Giỏ trị XKTS năm 2000, triệu USD % đúng gúp của XKTS trong giỏ trị XK chung của đất nước Grinlen 261 94 Xõysen 113 78,2 Pharụờ 354 75,3 Aixơlen 1.228 64,4 Manđivơ 41 53,8 Panama 256 34,7 Xờnờgan 260 27,0 Namibia 290 20,0 Pờru 1.128 16,1 Mianma 185 13,2 Marốc 950 12,8 Việt Nam 1.480 10,3 Chilờ 1.784 9,8 Thỏi Lan 4.367 6,4 Nauy 3.532 5,9 éan Mạch 2.755 5,4 Cuba 78 4,9 Inđụnờxia 1.584 2,6 Trung Quốc 3.605 1,4 Nguồn: Trung tâm Thông tin KHKT và Kinh tế Thuỷ sản- Bộ Thuỷ sản

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLàm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ.doc
Luận văn liên quan