Đề tài Ngành dệt may- Những thuận lợi và khó khăn sau khi Việt Nam gia nhập WTO
Cụ thể là : Sau khi gia nhập WTO, mức thuế nhập khẩu hàng dệt may
đã giảm 2/3 còn 5-20%, các doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh trong nội địa
với các hàng ngoại nhập vừa rẻ, vừa có chất lượng cao.Ngoài ra từ
1/1/2009, Việt Nam buộc phải mở cửa thị trường bán lẻ cho các doanh
nghiệp nước ngoài thì sức ép cạnh tranh ngày càng lớn.Vì ở Việt Nam, khâu
phân phối con rất lạc hậu với 70% bằng hình thức truyền thống nhỏ lẻ, các
cửa hàng hiện đại chỉ có 30%,Trong khi ở các nước phát triển thì tỉ lệ này
ngược lại.Vì thế khi các công ty bán lẻ nước ngoài vào Việt Nam sẽ làm cho
tỉ lệ trên thay đổivà các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp khó khăn về cạnh
tranh.Mặt khác trước khi gia nhập WTO,theo QĐ 55, đầu tư sản xuất dệt
may sẽ được vay một phần vốn với lãi suất thấp.Tuy nhiên khi đàm phán với
Mĩ thì Việt Nam buộc phải bỏ QĐ 55.
12 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4087 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Ngành dệt may- Những thuận lợi và khó khăn sau khi Việt Nam gia nhập WTO, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA KẾ TOÁN - KIỂM TOÁN
BÀI TIỂU LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ
Đề bài: NGÀNH DỆT MAY- NHỮNG THUẬN LỢI
VÀ KHÓ KHĂN SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
Người thực hiện: _ Trần Trịnh Như Quỳnh- Lớp kế toán 21
_ Lê Thị Minh Nguyệt- Lớp kế toán 21
Giáo viên bộ môn:
MỤC LỤC
I.Mở đầu.
II. Những cam kết của Việt Nam với WTO về ngành dệt may.
III. Lí thuyết nghiên cứu.
IV. Một vài nét cơ bản về tình hình phát triển ngành dệt may của
Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO.
V. Những cơ hội và thách thức của ngành dệt may sau khi Việt
Nam gia nhập WTO.
1. Cơ hội
2. Thách thức
VI .Tổng kết vài định hướng phát triển cho ngành dệt may Việt
Nam.
VII. Tài liệu tham khảo.
Người viết:-Trần Trịnh Như Quỳnh
- Lê Thị Minh Nguyệt
I.Mở đầu :
Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của
WTO.Sự kiện này giúp cho nền kinh tế Việt Nam có cơ hội ngày càng phát
triển cao hơn.Đầu tiên khi gia nhập WTO, theo nguyên tắc tối huệ quốc,
Việt Nam sẽ được tiếp cận mức độ tự do hóa thương mại mà không cần phải
đàm phán hiệp định thương mại song phương với mỗi nước.Hàng hóa của
nước ta sẽ vì thế mà có cơ hội lớn hơn và bình đẳng hơn trong việc thâm
nhập và mở rộng thị trường quốc tế.Hơn nữa khi gia nhập WTO,nước ta sẽ
có được một môi trường pháp lí hoàn chỉnh hơn và minh bạch hơn, có sức
hấp dẫn hơn đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài.ngoài ra còn giúp cho ta
nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho nền kinh tế.
Bên cạnh vô số các lợi ích có được khi gia nhập WTO thì các doanh
nghiệp Việt Nam phải đối phó với không ít các thách thức.Đầu tiên đó là sức
ép của cạnh tranh.Gia nhập WTO đồng nghĩa với việc Việt Nam phải xóa
dần đi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với các hàng nhập khẩu
nước ngoài, đồng thời xóa bỏ sự bảo hộ đối với các doanh nghiệp, điều đó
đẩy các doanh nghiệp Việt Nam vào một môi trường cạnh tranh hết sức khốc
liệt.Một hệ quả tất yếu khác khi hội nhập kinh tế quốc tế là chuyển dịch cơ
cấu và phân bổ lại nguồn lực.Dưới sức ép của cạnh tranh, một ngành hoạt
động không hiệu quả tất yếu phải biến mất và nhường chỗ cho một ngành
khác có hiệu quả hơn.Quá trình này tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, trong đó có các
rủi ro về mặt xã hội. Bên cạnh đó, Việt Nam còn gặp phải thách thức về việc
hoàn thiện thể chế và cải cách nền hành chính quốc gia.Việt Nam phải liên
tục hoàn thiện các qui định về cạnh tranh nhằm đảm bảo một môi trường
cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hội nhập.Sau đó, phải liên tục hoàn
thiện môi trường kinh doanh để thúc đẩy tính năng động và khả năng thích
ứng nhanh.Ngoài ra chúng ta cần phải có các chính sách đào tạo đúng đắn để
có được đội ngũ nhân lực đủ sức quản lí và phát triển nền kinh tế.
Tuy nhiên có thể nói khó khăn lớn nhất hiện nay của Việt Nam sau 2
năm gia nhập WTO là mặc dù đã trải qua hơn 20 năm mở cửa và đổi mới
nhưng Việt Nam vẫn là một nước đang phát triển ở trình độ thấp.Tình trạng
độc quyền vẫn còn tồn tại trong một số lĩnh vực,khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp còn rất thấp, hệ thống pháp luật hiện hành chưa đáp ứng được
các yêu cầu hội nhập……Chính điều nay làm cho các doanh nghiệp Việt
Nam vẫn chưa hoàn toàn hưởng được các lợi ích khi gia nhập WTO.
Ở trên, chúng ta đã vừa khái quát hóa những thuận lợi cũng như khó
khăn nói chung của kinh tế Việt Nam sau khi gia nhập WTO. Tuy nhiên,
mục đích của chúng tôi khi làm bài viết này là phân tích một cách chi tiết
hơn những thuận lợi và khó khăn đó đối với ngành dệt may của Việt Nam
sau khi gia nhập WTO.
II.Những cam kết của Việt Nam với WTO về ngành dệt may:
Dệt may là một trong những ngành cực kì quan trọng, không chỉ đối
với Việt Nam mà rất nhiều nước khác trên thế giới(thậm chí cả một nước
phát triển mạnh như Mĩ),bởi vì đây là một ngành sử dụng rất nhiều nhân
công, nếu ngành này bị biến mất hoặc suy yếu thì sẽ dẫn làm tăng một cách
nhanh chóng số người bị thất nghiệp.Chính vì tầm quan trọng của nó mà
trong quá trình đàm phán để Việt Nam gia nhập WTO , những điều kiện liên
quan đến hàng dệt may được bàn đến rất kĩ.
Sau đây là cam kết của Việt Nam vời WTO liên quan đến ngành dệt
may:
Các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch dệt may đối
với Việt Nam.
Các thành viên WTO không được áp dụng tự vệ đặc biệt đối với hàng
dệt may Việt Nam.(trừ trường hợp Việt Nam vi phạm qui định WTO về trợ
cấp bị cấm đối với hàng dệt may).
Việt Nam phải dỡ bỏ hàng rào bảo hộ đối với ngành dệt may, đòng
thời giảm thuế cho các mặt hàng dệt may của các nước thành viên khác
trong WTO.
III.Lí thuyết nghiên cứu:
Trong phần những cam kết của Việt Nam với WTO có nhắc đến việc
các nước sẽ xóa bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam.Vì thế ở phần
này chúng ta sẽ tìm hiểu một chút về hạn ngạch.Thế nào là hạn ngạch(
quota)?Nó tác dụng như thế nào đến việc xuất nhập khẩu hàng hóa của các
nướcvà tại sao phải sử dụng hạn ngạch?
Như đã biết, mậu dịch tự do làm tăng cực đại sản xuất thế giới và thu
lợi cho tất cả các dân tộc. Trên lý thuyết, ta có thể nói mậu dịch là hình thức
trao đổi một cách hiệu quả nhất và hợp lý nhất. Nhưng xét về góc độ khác,
các nước luôn vì lợi ích trước mắt của quốc gia mình, bỏ qua lợi ích của toàn
thế giới. Vì thế, sử dụng rất nhiều phương pháp để hạn chế mậu dịch tự do.
Một trong số đó là thuế quan và hạn ngạch. Ta có hạn ngạch nhập khẩu và
xuất khẩu. Nhưng ở đây khi nói về han ngạch thì ta hay nói đến hạn ngạch
nhập khẩu
Hạn ngạch nhập khẩu về cơ bản là giới hạn số lượng hàng nhập khẩu
ở một mức cụ thể nào đó ít hơn số lượng hàng nhập khẩu khi tự do thương
mại nhằm mục đích tạo ra sự khan hiếm hàng hóa ở thị trường trong nước
khi tự do thương mại. Nhằm mục đích tăng giá trong nước tạo điều kiện cơ
bản giúp sản xuất trong nước đạt mục tiêu của chính sách. Để thực hiện
được mục đích trên chính phủ dùng 2 cách để phân hạn ngach: Cách thứ
nhất là chính phủ đấu giá hạn ngạch. Như vậy, lợi ích sẽ được chia cho cả
chính phủ lẫn nhà nhập khẩu (thuế quan thì nhà nước thu hoàn toàn tiền
thuế); cách thứ hai là chính phủ cấp phép thẳng cho nhà nhập khẩu. Lợi ích
thuộc hoàn toàn về người nhập khẩu. Xét về chủ thể nhà nước hay doanh
nghiệp nhập khẩu trong nền kinh tế thì sẽ có lợi. Tuy nhiên, xét về mặt tổng
thể cả một nền kinh tế của một quốc gia nhỏ thì nó sẽ gây thiệt hại về lợi ích
kinh tế. Khi sử dụng hạn ngạch, giá cả hàng hóa sẽ tăng, mà thu nhập người
tiêu dùng không tăng. Vì vậy, người tiêu dùng sẽ mua được ít hàng hóa hơn
dẫn đến thiệt hại về lợi tức kinh tế. Khoảng lợi tức này không thể bù đắp
được. Mặt khác, hạn ngạch còn làm mất chức năng duy trì sự ổn định của
chính phủ. Điều này thể hiện ở chỗ, khi chính phủ đấu giá han ngạch hay cấp
trắng hạn ngạch cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này lại thực hiện
việc mua bán hạn ngạch với các doanh nghiệp khác dẫn đến tình trạng không
nhập khẩu hoặc nhập khẩu không đúng với số lượng mà hạn ngạch quy định.
Ngoài ra, các doanh nghiệp nhập khẩu cố tình lợi dụng hạn ngạch nhập khẩu
với số lượng hàng nhập khẩu không đổi mà kềm giữ sản xuất trong nước
nhằm làm tăng giá hàng hóa mặt hàng đó để thu lợi nhuận độc quyền.
Đối với nước lớn: Khi sử dụng hạn ngạch nhập khẩu có thể giúp gia
tăng lợi ích kinh tế cho nước lớn ma gây thiệt hại cho các nước xuất khẩu.
Những nước lớn đã giàu nay càng giàu hơn, những nước nhỏ ngày cang
nghéo hơn. Điều này có thể dẫn đến những tranh chấp xung đột trong hoạt
động ngoại thương thế giới. Để tránh điều này, các nước lớn có thể thảo luận
với các nước xuât khẩu là sẽ cấp hạn ngạch nhập khẩu cho các nước xuất
khẩu để đổi lấy việc các nước xuất khẩu đồng ý cắt giảm sản xuất, giảm xuất
khẩu. Một thỏa thuận mậu dịch như vậy là thỏa thuận hạn chế xuất khẩu
tự nguyện. (từ năm 1992 đến tháng 1/1/2005). Vào những năm 80, liên minh
EU 15 nước Tây Âu đã sử dụng hạn ngạch này để bảo hộ ngành dệt may
trong nước. Ngành dệt may là một ngành hết sức quan trọng vì nó quy tụ
một đội ngũ lao động cực kì lớn. Ngành này tạo ra vô số viêc làm, làm giảm
thất nghiệp trong nước. Vì vậy, bất cứ quốc gia nào giành sự quan tâm rất
lớn cho ngành dệt may. Cho nên họ đã sử dụng thỏa thuận hạn chế nhập
khẩu tự nguyện.
Như vậy, sự tồn tại của hạn ngạch đã làm mất đi tính chất của việc tự
do mậu dịch. Khi WTO (tiền thân của GATT) được thành lập (1994) đã đề
ra luật xóa bỏ hạn ngạch đối với tất cả các sản phẩm. Nhưng đặc biệt đối với
ngành dệt may thì WTO cho một thời gian quá độ là 10 năm (từ 01/01/2005
đến năm 2005), các nước đầu tiên sẽ từ từ giảm bớt việc sử dụng hạn ngach
và sau đó gỡ bỏ hoàn toàn hạn ngạch.
IV.Một vài nét cơ bản về tình hình phát triển ngành dệt may của Việt
Nam trước và sau khi gia nhập WTO:
Để thấy rõ sự tác động của hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam
, chúng ta sẽ nghiên cứu một số dữ liệu dưới đây:
Năm Tổng kim ngạch
xuất khẩu (tỷ USD)
2003 3,6
2004 4,3
2005 4,85
2006 5,95
2007 7,8
2008 9,59
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Tỷ USD
2003 2004 2005 2006 2007 2008 Năm
Kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam 2003-2008
Cả nước
Theo biểu đồ trên,từ năm 2003 đến năm 2008, kim ngạch xuất khẩu
hàng dệt may ở Việt Nam nhìn chung là tăng (trong 6 năm tăng 5,99 tỷ
USD).
Năm 2004 tăng 19, 4% so với năm 2003
Năm 2005 tăng 12,8% so với năm 2004
Năm 2006 tăng 15,3% so với năm 2005
Năm 2007 tăng 31% so với năm 2006
Năm 2008 tăng 23% so với năm 2007
Để phân tích một cách chặt chẽ, từ những số liệu nhận xét ở trên, ta có
đồ thị tỉ lệ xuất khẩu của ngành dệt may
Tỉ lệ xuất khẩu ngành dệt may từ 2003-2008
0
5
10
15
20
25
30
35
2003-2004 2004-2005 2005-2006 2006-2007 2007-2008
Năm
%
Line 1
Qua đồ thị này, ta nhận thấy tỉ lệ xuất khẩu ngàng dệt may biến động
hàng năm (2003-2008). Mặc dù có một số năm tỉ lệ tăng trưởng giảm nhưng
theo mô hình trung thì vận động theo hướng đi lên. Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến việc giảm tỉ lệ này. Vào năm 2005, tỉ lệ xuất khẩu thấp (12,8%), các
doanh nghiệp gặp khó khăn về nhiều mặt như huy động vốn gặp nhìu trắc
trở, xăng dầu trong nước cao hơn so với mặt bằng chung của thế giới. Vì
vậy, phải thu hẹp sản xuất, sa thải bớt lao động. Hơn nữa, vào năm 2005,
han ngạch phải được bãi bỏ hết, nhưng Hoa Kỳ vẫn áp dụng hạn ngạch với
nước ta mặc dù đã bãi bỏ hạn ngạch với một số nước khác. Mặc khác, việc
xuất khẩu vào EU và một số nước khác tuy tăng nhưng tăng không đáng kể.
Đến năm 2007, tỉ lệ xuất khẩu hàng dệt may lại tăng rất lớn (33%). Thời
điểm này, Việt Nam đã chinh thức làm thành viên của WTO, hạn ngạch
nhập khẩu đã đc xóa bỏ. Các doanh nghiệp ra sức nâng cao trình độ kỹ thuật
cạnh tranh với các nước khác vì bây giờ các doanh nghiệp đã bước chân ra
biển lớn phải tự mình phấn đấu ko còn bảo trợ của nhà nước nữa. Dẫn đến
năng suất lao đông tăng, chất lượng sản phẩm cao xuất khẩu tăng vượt
bậc. Đến cuối năm 2007, dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính của
Mỹ, sau đó lan rộng ra toàn cầu, làm ảnh hưởng ko nhỏ đến nền kinh tế Việt
Nam. Chi tiêu toàn thế giới bị cắt giảm do giá cả hàng hóa tăng nên các
nước hạn chế nhập khẩu. Vì vậy, không riêng gì ngành dệt may, xuất khẩu
giảm.
Thị phần hàng dệt may xuất khẩu sang các nước
57%
18%
9%
16%
Mỹ EU Nhật Bản Các nước khác
Dựa vào biểu đồ tròn thể hiện thị phần xuất khẩu hàng dệt may sang
các nước của nước ta, thì ta nhận ra ngay, Mỹ, EU và Nhật Bản là ba nước
chiếm hơn 4/5 thị phần hàng dệt may xuất khẩu, trong đó số lượng hàng dệt
may xuất khẩu sang Mỹ là nhiều nhất (57%) chiếm hơn một nửa so với các
nước khác. Ngay cả khi vào năm 2005, thị phần xuất khẩu hàng dệt may
xuất khẩu sang Mỹ cũng chiếm gần một nửa (44%). Các nước khác chỉ
chiếm gần 1/5 thị phần. Điều này cho thấy thị trường Mỹ đóng vai trò vô
cùng quan trọng và thị trường các nước khác là cơ hội cho ngành dêt may
nước ta .Từ quá trình phân tích thị trường xuất khẩu hàng dệt may, ta sẽ có
những định hướng, chiến lược phát triển một cách hiệu quả của ngành dệt
may. Mang lại lợi tức kinh tế nhiều hơn cho nước nhà.
Qua phần đánh giá tình hình xuất khẩu dệt may của Việt Nam có thể
thấy rõ từ sau khi gia nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may
ngày càng tăng.Tuy nhiên, nó vẫn còn thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu đáng lẽ
phải đạt được sau khi trở thành thành viên của WTO. Lí do của sự tăng
trưởng không mấy mạnh mẽ đó sẽ được làm rõ qua phần tiếp theo “những cơ
hội và thách thức của ngành dệt may sau khi gia nhập WTO”.
V.Những cơ hội và thách thức của ngành dệt may sau khi Việt Nam gia
nhập WTO:
1.Cơ hội:
-Cơ hội lớn nhất của dệt may Việt Nam là được bỏ quota.Như vậy
dệt may Việt Nam sẽ có cơ hội cạnh tranh công bằng với các nước khác.
-Tiếp theo, vào WTO, Việt Nam nhận được nhiều vốn đầu tư nước
ngoài.Thế nên ngành may Việt Nam sẽ có có cơ hội đầu tư đổi mới trang
thiết bị và hiện đại hóa đến 90%, có khả năng sản xuất các laọi sản phẩm
phức tạp, chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh với các hàng ngoại nhập
khẩu.
-Một số thị trường đang đối xử phân biệt về thuế, sẽ đưa thuế nhập
khẩu xuống bình thường.Việt Nam sẽ có cơ hội đưa hàng ra khắp thị trường
các nước trên thế giới.
2.Thách thức:
-Bên cạnh việc các nước xóa bỏ hạn ngạch đối với Việt Nam thì nước
ta phải cam kết mở cửa thị trường, giảm thuế và dỡ bỏ hàng rào bảo hộ cho
ngành dệt may.Và điều đó đã khiến các doanh nghiệp dệt may trong nước
gặp không ít khó khăn
Cụ thể là : Sau khi gia nhập WTO, mức thuế nhập khẩu hàng dệt may
đã giảm 2/3 còn 5-20%, các doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh trong nội địa
với các hàng ngoại nhập vừa rẻ, vừa có chất lượng cao.Ngoài ra từ
1/1/2009, Việt Nam buộc phải mở cửa thị trường bán lẻ cho các doanh
nghiệp nước ngoài thì sức ép cạnh tranh ngày càng lớn.Vì ở Việt Nam, khâu
phân phối con rất lạc hậu với 70% bằng hình thức truyền thống nhỏ lẻ, các
cửa hàng hiện đại chỉ có 30%,Trong khi ở các nước phát triển thì tỉ lệ này
ngược lại.Vì thế khi các công ty bán lẻ nước ngoài vào Việt Nam sẽ làm cho
tỉ lệ trên thay đổivà các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp khó khăn về cạnh
tranh.Mặt khác trước khi gia nhập WTO,theo QĐ 55, đầu tư sản xuất dệt
may sẽ được vay một phần vốn với lãi suất thấp.Tuy nhiên khi đàm phán với
Mĩ thì Việt Nam buộc phải bỏ QĐ 55.Và khi không được vay ưu đãi nữa sẽ
gây khó khăn cho ngành dệt may, đặc biệt là ngành dệt nhuộm.Làm nhuộm
cần đầu tư rất lớn cho khâu xử lí nước thải.Một nhà máy xử lí nước thải tốn
cả triệu USD nhưng không trực tiếp sinh lợi mà chỉ để đáp ứng các tiêu
chuẩn môi trương-xã hội nên không có doanh nghiệp nào có đủ vốn để có
thể xây dựng một nhà máy xử lí nước thải.
-Mặc dù được dỡ bỏ quota nhưng các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
vẫn có khả năng bị đánh rớt ra khỏi các thị trường nước ngoài.Lí do hàng
Việt Nam chỉ chiếm có 3.2% thị phần ở Mỹ so với 25% của Trung Quốc,
12% của Canada và Mexico...thực sự là một con số quá nhỏ.Ngoài ra, vào
WTO, thuế thông thừong của hàng Việt Nam là 15% trong khi các nhóm
nước như Canada hay Mexico chỉ chịu thuế có 0%.Bên cạnh đó, các nước
phát triển như Trung Quốc hay Pakistan, mặc dù chịu thuế cao hơn Việt
Nam, nhưng lại có lợi thế về nguyên phụ liệu trong khi Việt Nam thì phải
nhập tới 70% nguyên phụ liệu cần thiết cho dệt may
-Khó khăn thứ hai đó là các doanh nghiệp trong nước bị thiếu hụt
nhân công có tay nghề cao.Lí do là khi hội nhập kinh tế thì vốn đầu tư nước
ngoài ngày càng nhiều, việc các nhân công có tay nghề cao chuyển dần sang
các công ty có vốn đầu tư nước ngoài với mức lương cao hơn không phải là
việc hiếm.Bên cạnh đó các cuộc đình công trong ngành dệt may liên quan
đến vấn đề tiền công liên tục xảy ra tại các khu công nghiệp và các thành
phố lớn, gây đảo lộn kế hoạch sản xuất giao hàng của nhiều doanh nghiệp,
tạo ra hình ảnh xấu đối với các nhà đầu tư kinh doanh thế giới.
-Khó khăn lớn nhất hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam là
chính sách giám sát chống bán phá giá của Mỹ vẫn đang áp dụng đối với
hàng dệt may của Việt Nam,trong khi Mỹ là thị trường chiếm đến 55% tổng
kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam, đã làm cho nhiều khách hàng
lớn rút toàn bộ đơn đặt hàng ở Việt Nam để chuyển qua các nước khác.Sức
ép này còn khiến cho nhiều công ty trong và ngoài nước không dám đầu tư
vào ngành dệt may vì sợ rủi ro.
VI .Tổng kết vài định hướng phát triển cho ngành dệt may Việt Nam:
Ta có thể thấy rằng sau khi Việt Nam gia nhập WTO thì ngành dệt
may Việt Nam đã có được 3 cái lợi không thể nào chối bỏ được.Tuy nhiên
bên cạnh những lợi ích nhỏ bé đó là hàng loạt những khó khăn mà ngành
phải đương đầu và trước mắt, ngành dệt may nước ta có nguy cơ phải rời bỏ
sân chơi do không thể cạnh tranh lại các nước khác.
Vì thế để khắc phục được nguy cơ đó thì ngành đã đề ra những định
hướng phát triển sau:
-Cần phải xây dựng các trung tâm sản xuất kinh doanh nguyên phụ
liệu.Đồng thời kêu gọi đầu tư máy móc sản xuất nguyên phụ liệu nhằm mục
đích ổn định thị trường, giảm bớt việc nhập khẩu từ các nước khác, dẫn tới
chi phí sản xuất tăng.
-Cần đổi mới cơ cấu, mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm
giá thành sản xuất để có thể cạnh tranh với các hàng ngoại nhập rẻ chất
lượng cao.
-Mở rộng thị ttrường xuất khẩu, tránh tập trung quá lớn vào một số thị
trường chính.
-Đào tạo đội ngũ nhân công có tay nghề cao.Thực hiện tốt chính sách
tiền lương để tránh “chảy máu chất xám” hoặc các cuộc đình công của công
nhân. Tạo sự gắn bó giữa công nhân với doanh nghiệp.
VII.Tài liệu tham khảo:
- http//
-
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doko_1_3517.pdf