MỤC LỤC
1. Lí do chọn đề tài:
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), cũng đồng nghĩa là Việt Nam bắt đầu bước vào sân chơi chung của thị trường thương mại thế giới theo luật chơi chung dành cho tất cả các thành viên của tổ chức này và từng bước thực hiện việc hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp. Ngành nông lâm nghiệp có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam ở mọi giai đoạn phát triển. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay với khoảng 70% dân số sản xuất nông lâm nghiệp. Một trong những thế mạnh không thể không kể tới là ngành lúa gạo – mặt hàng xuất khẩu đứng thứ hai thế giới. Gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội và những thuận lợi do khách quan mang đến nhưng cũng sẽ gặp không ít khó khăn và thách thức trong việc phát triển đất nước nói chung và phát triển ngành lúa gạo nói riêng.
Chính vì vậy, em chọn đề tài “phân tích thực trạng ngành sản xuất lúa gạo Việt Nam sau khi gia nhập WTO” từ đó đề xuất những giải pháp phát triển ngành sản xuất lúa gạo trong môi trường hội nhập.
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGÀNH LÚA GẠO VIỆT NAM
I. Cơ sở lý luận
1. Vai trò của lúa gạo
2. Các khái niệm cơ bản
2.1. Các khái niệm phát triển bền vững
2.2. Khái niệm sản xuất lúa gạo bền vững
II. Cơ sở thực tiễn
1. Cơ sở pháp lý về phát triển bền vững ngành lúa gạo
2. Kinh nghiệm của các nước về phát triển bền vững ngành lúa gạo
2.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
2.2. Kinh nghiệm của Thái Lan
PHẦN II: THỰC TRẠNG CỦA NGÀNH SẢN XUẤT LÚA GẠO VIỆT NAM
I. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Việt Nam trong việc sản xuất lúa gạo
1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên
2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
3. Thuận lợi khóa khăn từ điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
3.1. Thuận lợi
3.2 Khó khăn
II. Thực trạng phát triển bền vững ngành lúa gạo Việt Nam
1. Thực trạng về đất đai
2. Thực trạng về lao động
3. Thực trạng về quy mô sản xuất, sản lượng, chất lượng của lúa gạo Việt Nam trong nội địa và xuất khẩu
3.1 Tình hình sản xuất lúa gạo trong nước
3.2 Tình hình xuất khẩu lúa gạo Việt Nam
4. Thực trạng về sản xuất lúa gạo gắn với phát triển bền vững ở Việt Nam
5. Thách thức đối với sản xuất lúa gạo bền vững của Việt Nam
5.1. Thách thức về vấn đề bảo vệ đất trồng lúa
5.2. Đảm bảo an ninh lương thực trong thời gian tới
5.3. Vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu
6. Nguyên nhân tồn tại
6.1 Nguyên nhân khách quan
6.2 Nguyên nhân chủ quan
PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGÀNH LÚA GẠO VIỆT NAM
I. Các quan điểm về phát triển bền vững ngành lúa gạo Việt Nam
1. Quan điểm 1: Tập trung sản xuất lúa gạo ở những vùng có điều kiện thuận lợi
2. Quan điểm 2: Trồng lúa thâm canh là giải pháp phát triển bền vững sản xuất lúa gạo
II. Một số giải pháp phát triển bền vững ngành lúa gạo Việt Nam
1. Giải pháp về kinh tế
1.1. Hoàn thiện chính sách về Nông nghiệp, nông thôn để đẩy nhanh quá trình sản xuất hàng hóa ngành lúa gạo
1.2. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến
1.3. Tăng cường nghiên cứu và ứng dụng KHCN vào sản xuất lúa gạo
1.4. Phát triển kinh tế trang trại, HTX để tổ chức sản xuất lúa gạo tập trung
1.5. Giải pháp phát triển thị trường lúa gạo
2. Giải pháp về mặt xã hội
2.1. Đào tạo nâng cao tay nghề của người sản xuất lúa gạo
2.2. Chính sách trợ giá để đảm bảo cuộc sống người sản xuất lúa gạo
2.3. Mở rộng việc làm phi nông nghiệp để tranh thủ thời gian nhàn rỗi của người nông dân
3. Giải pháp về môi trường
3.1. Xây dựng các định mức về tiêu chuẩn kỹ thuật đối với các loại phân bón, thuốc BVTV để không có tác động xấu tới môi trường
3.2. Tuyên truyền và nâng cao ý thức của người dân về bảo vệ môi trường sinh thái từ việc sản xuất lúa gạo
III. Một số kiến nghị để phát triển bền vững ngành lúa gạo Việt Nam
41 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 10751 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ngành sản xuất lúa gạo Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chung và trong ngành lúa gạo nói riêng còn nhiều điều bất cập. Về qui mô diện tích đất nông nghiệp đã được đề cập ở trên, sau đây là bảng thể hiện quy mô sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam trong những năm vừa qua.
Bảng 1: Hiện trạng sử dụng đất (Tính đến 1/1/2009)
Nghìn ha
Tổng diện tích
Trong đó: Đất đã giao và cho thuê
CẢ NƯỚC
33105,1
24134,9
Đất nông nghiệp
25127,3
21637,1
Đất sản xuất nông nghiệp
9598,8
9487,2
Đất trồng cây hàng năm
6282,5
6193,5
Đất trồng lúa
4089,1
4066,0
Đất cỏ dùng vào chăn nuôi
58,8
35,3
Đất trồng cây hàng năm khác
2134,6
2092,2
Đất trồng cây lâu năm
3316,3
3293,7
Đất lâm nghiệp
14757,8
11392,6
Rừng sản xuất
6578,2
5206,0
Rừng phòng hộ
6124,9
4348,4
Rừng đặc dụng
2054,7
1838,2
Đất nuôi trồng thuỷ sản
738,4
726,2
Đất làm muối
14,1
13,4
Đất nông nghiệp khác
18,2
17,7
Đất phi nông nghiệp
3469,2
1640,4
Đất ở
633,9
627,6
Đất ở đô thị
118,8
115,7
Đất ở nông thôn
515,1
511,9
Đất chuyên dùng
1629,5
791,3
Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp
22,9
22,1
Đất quốc phòng, an ninh
303,5
252,9
Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp
222,5
201,8
Đất có mục đích công cộng
1080,6
314,5
Đất tôn giáo, tín ngưỡng
13,4
13,2
Đất nghĩa trang, nghĩa địa
97,8
83,3
Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng
1090,5
121,9
Đất phi nông nghiệp khác
4,1
3,1
Đất chưa sử dụng
4508,6
857,4
Đất bằng chưa sử dụng
305,8
13,6
Đất đồi núi chưa sử dụng
3831,3
828,9
Núi đá không có rừng cây
371,5
14,9
(*) Theo Quyết định số 2097b/QĐ-BTNMT ngày 29 tháng 10 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Trong đó cơ cấu đất nông nghiệp được sử dụng ở các vùng miền và các ngành được thể hiện trong bảng biểu sau:
Bảng 2: Cơ cấu đất sử dụng theo vùng (Tính đến 1/1/2009)
%
Tổng diện tích
Trong đó
Đất sản xuất nông nghiệp
Đất lâm nghiệp
Đất chuyên dùng
Đất ở
CẢ NƯỚC
100,0
29,0
44,6
4,9
1,9
Đồng bằng sông Hồng
100,0
37,7
21,9
13,8
6,3
Trung du và miền núi phía Bắc
100,0
15,0
54,8
2,9
1,1
Trung du và miền núi phía Bắc
100,0
15,0
54,8
2,9
1,1
Trung du và miền núi phía Bắc
100,0
15,0
54,8
2,9
1,1
Đông Nam Bộ
100,0
59,0
21,6
8,6
2,7
Đồng bằng sông Cửu Long
100,0
63,0
8,2
6,0
2,8
(*) Theo Quyết định số 2097b/QĐ-BTNMT ngày 29 tháng 10 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Thực trạng đất nông nghiệp hiện nay đang dần bị chuyển đổi sang sử dụng cho lĩnh vực phi nông nghiệp. Hàng năm cùng với việc thực hiện CNH-HĐH diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Nhiều vùng trọng điểm trồng lúa như Thái Bình, một số huyện ở Thành phố Hồ Chí Minh việc đất trồng lúa ngày càng bị thu hẹp do việc mở các khu công nghiệp, sân golf,… đang là thực trạng diễn ra thường xuyên. Tuy nhiên theo Quyết định số 391/QĐ-TTg về rà soát, kiểm tra thực trạng việc quản lý quy hoạch, kế hoạch và sử dụng đất 5 năm 2006-2010 trên địa bàn cả nước, trong đó tập trung vào đất nông nghiệp nói chung và đất trồng lúa nước nói riêng và theo quyết định này nêu rõ không xét duyệt quy hoạch chuyển đất chuyên trồng lúa nước sang sử dụng vào mục đích sản xuất, dịch vụ phi nông nghiệp ở những địa phương có điều kiện sử dụng các loại đất khác. Trường hợp cần thiết phải chuyển đất nông nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa nước sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp hoặc đối với các dự án có ảnh hưởng đến khu vực đất sản xuất nông nghiệp liền kề thì phải có các giải pháp sử dụng đất tiết kiệm và bảo đảm tính khả thi, an toàn cho sản xuất nông nghiệp trong khi thực hiện dự án.
Thực trạng về lao động:
Hiện nay, lao động sử dụng trong ngành nông nghiệp chủ yếu là người nông dân, với lực lượng đông đảo lao động trong nông nghiệp Việt Nam nói chung và trong sản xuất lúa gạo nói riêng còn rất nhiều thuận lợi cũng như khó khăn. Với quy mô lao động hiện nay được thể hiện trong bảng sau giúp phần nào hiểu được lực lượng lao động trong nông nghiệp.
Bảng 3: Số lao động nông nghiệp hàng năm (nghìn người)
Năm
2005
2006
2007
2008
2009
Số lao động
24424
24349.9
24369.4
24447.7
24788.5
(Theo báo cáo hàng năm của Tổng cục thống kê )
Trong đó cơ cấu lao động trong ngành nông nghiệp so với toàn bộ lao động trong nền kinh tế vẫn chiếm tỷ trọng cao. Số liệu được thống kê trong bảng sau:
Bảng 4: Cơ cấu lao động từ 15 tuổi trở lên phân ngành kinh tế qua các năm (%)
Ngành/ Năm
2005
2006
2007
2008
2009
Nông, lâm, ngư nghiệp
57.1
55.4
53.9
52.6
51.9
Công nghiệp-Xây dựng
18.2
19.3
19.9
20.8
21.4
Dịch vụ
24.7
25.3
26.2
26.6
26.7
Tổng số
100
100
100
100
100
( Theo số liệu tổng hợp từ Tổng cục thống kê)
Số liệu thống kê trên cho thấy rằng tỷ lệ lao động trong nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ đông, đây vừa là cơ hội nhưng đồng thời cũng là thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam bởi các lý do sau: Nông nghiệp hiện nay của Việt Nam là một ngành có thu nhập thấp, rủi ro lại cao nên tỷ lệ lao động trong nông nghiệp đông chứng tỏ đời sống người dân nói chung và người lao động trong nông nghiệp nói riêng vẫn còn rất nhiều khó khăn. Lao động trong nông nghiệp thường là lao động có trình độ học vấn thấp vì bản chất của công việc trong nông nghiệp không đòi hỏi trình độ cao như các ngành khác nên qua đó thể hiện trình độ dân trí của lao động Việt Nam vẫn còn thấp. Trong số hơn 21 triệu lao động nông nghiệp trong độ tuổi lao động của nước ta hiện nay có 20,765 triệu người (chiếm 97,65%) chưa qua đào tạo và không có chứng chỉ chuyên môn; người có bằng sơ cấp, công nhân kỹ thuật chiếm 1,26%; có bằng trung cấp chiếm 0,87%. Tại các đơn vị thuộc Bộ NN&PTNT, trong tổng số lao động trong ngành, số cán bộ có trình độ sau ĐH là 37 giáo sư, 98 phó giáo sư, 19 tiến sĩ khoa học, 652 tiến sĩ, 874 thạc sĩ, chiếm 8,54% số cán bộ có trình độ từ đại học trở lên và chiếm 0,71% tổng số lao động trong ngành. Lao động trong nông nghiệp ngày càng giảm không những về số lượng mà lực lượng trẻ tham gia trong ngành sản xuất lúa gạo ngày càng già hóa. Lý do ở đây đó là lực lượng lao động trẻ ở nông thôn đã tham gia vào các ngành nghề khác như tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến, hay di cư lên thành phố để tìm kiếm cơ hội có thu nhập cao hơn.
Một thực trạng về lao động trong nông nghiệp nữa là lao động trong ngành sản xuất lúa gạo phải tiếp xúc với các loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật rất có hại cho sức khỏe con người nhưng vấn đề an toàn vệ sinh lao động trong nông nghiệp vẫn là vấn đề đáng lo ngại. Không có lớp hướng dẫn sử dụng và cách bảo vệ sức khỏe người lao động một cách chi tiết và có hiệu quả. Vì vậy vấn đề đặt ra là nâng cao nhận thức của người lao động để họ bảo vệ sức khỏe của mình và góp phần không gây ra ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến toàn xã hội.
3. Thực trạng về quy mô sản xuất, sản lượng, chất lượng của lúa gạo Việt Nam trong nội địa và xuất khẩu.
3.1 Tình hình sản xuất lúa gạo trong nước:
Việt Nam là nước sản xuất lúa đứng hàng thứ 5 trên thế giới với sản lượng hàng năm khoảng 35 triệu tấn. Sản xuất lúa trong những năm vừa qua đã có sự thay đổi về diện tích do xu hướng giảm diện tích lúa diễn ra ở hầu hết các vùng trồng lúa trên cả nước, chủ yếu do giảm diện tích trồng vụ mùa và một số vùng trồng lúa không có hiệu quả. Dưới đây là bảng thống kê diện tích và sản lượng qua các năm của Việt Nam.
Bảng 5: Diện tích gieo trồng lúa cả nước ( nghìn ha)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
7666.3
7492.7
7504.3
7452.2
7445.3
7329.2
7324.8
7207.4
7400.2
7440.1
( Tổng cục thống kê 2009)
Trong đó Đồng bằng sông Hồng là 1,15 triệu ha; Đồng bằng sông Cửu Long là 3,86 triệu ha trên tổng diện tích canh tác lúa là 4,1 triệu ha (2008)
Bảng 6: Sản lượng thóc cả nước ( nghìn tấn)
Năm
Tổng số
Đông Xuân
Hè Thu
Mùa
2000
32529.5
15571.2
8625.0
8333.3
2001
32108.4
15474.4
8328.4
8305.6
2002
34447.2
16719.6
9188.7
8538.9
2003
34568.8
16822.7
9400.8
8345.3
2004
36148.9
17078.0
10430.9
8640.0
2005
35823.9
17331.6
10436.2
8065.1
2006
35849.5
17588.2
9639.9
8567.4
2007
35942.7
17024.1
10140.8
8777.8
2008
38729.8
18326.9
11395.7
9007.2
2009
38895.5
18696.3
11184.1
9015.1
(Tổng cục Thống kê 2009)
Bên cạnh đó năng suất lúa cả nước đã và đang được cải thiện một cách đáng kể được thể hiện qua bảng tổng hợp sau:
Bảng 7: Năng suất lúa cả nước ( tấn/ha)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
4.24
4.29
4.59
4.64
4.86
4.89
4.89
4.99
5.23
5.23
(tổng cục thống kê 2009)
Sản lượng lúa gia tăng dù diện tích trồng lúa có giảm nhưng năm 2009 sản lượng cả nước đạt 38,89 triệu tấn vẫn đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và đảm bảo tăng sản lượng xuất khẩu.
Giải thích cho diện tích trồng lúa giảm qua các năm đó là do chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang trồng các loại cây khác có lợi nhuận cao hơn hoặc chuyển đổi đất sang nuôi trồng thủy sản và cho các mục đích phi nông nghiệp khác. Về diện tích canh tác lúa năm 2009 sơ bộ là 7440.1 nghìn ha giảm 226,2 nghìn ha tương ứng với 0.4-0.5 triệu tấn lúa/ năm. Về diện tích gieo trồng lúa theo tính toán từ năm 2003 tới nay trung bình giảm 1,1%/năm và năng suất lúa tuy có tăng nhưng những năm gần đây chững lại ở 5,23 tấn/ha. Sản lượng lúa tăng hàng năm nhưng những năm gần đây dần chững lại cho thấy sự phát triển không bền vững về sản xuất lúa gạo.
Một thực trạng nữa về tình hình sản xuất lúa gạo Việt Nam là chất lượng sản phẩm gạo không đạt yêu cầu so với tiềm năng của nó. Số liệu mới đây của Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho thấy gạo 5% tấm của Thái Lan được chào bán 500 USD/tấn, Pakistan chào bán 415 USD/tấn trong khi Việt Nam chỉ có thể chào bán 400 USD/tấn. Tương tự, gạo 25% tấm của Việt Nam cũng thấp hơn khoảng 70 USD/tấn so với Thái Lan.
Tình trạng trên đã kéo dài từ nhiều năm nay, qua đó cho thấy mặc dù chúng ta luôn duy trì vị trí thứ 2 về số lượng gạo xuất khẩu trên thế giới nhưng mức lợi nhuận thực mang về lại chưa tương xứng. Theo các doanh nghiệp xuất khẩu, gạo Việt Nam vẫn được bán ra thế giới, nhưng không phải ai cũng biết về chất lượng, về tên gọi của gạo Việt Nam.
Tiến sĩ Lê Văn Bảnh - Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL cho biết: "Việt Nam xuất khẩu không có thương hiệu, gạo Việt Nam 5% tấm cũng không có thương hiệu nên không được giá tốt bằng Thái Lan. Thêm vào đó, Việt Nam không có thị trường ổn định, chúng ta muốn bán gạo có giá phải có mối mang, bạn hàng".
Ngoài ra, việc hình thành những vùng chuyên canh lúa xuất khẩu vẫn còn khó khăn do tỉ lệ đất của mỗi nông hộ khá thấp. Như tại ĐBSCL, bình quân một hộ trồng lúa chỉ có 1,3 hecta. Trong đó có đến 30,6% hộ có diện tích từ 0,2 - 0,5 hecta và 7,7% hộ có diện tích dưới 0,2 hecta.
Nếu như Thái Lan có gạo Kaođắcmali thì ở Việt Nam cũng có các giống chất lượng cao như Tám Xoan, Nàng Thơm Chợ Đào, Nàng Nhen… Vấn đề còn lại chính là qui hoạch vùng nguyên liệu, chọn bộ giống phù hợp, xây dựng thương hiệu và gia tăng năng suất thông qua các tiến bộ kĩ thuật.
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, trong 9 tháng đầu năm 2009, tỉ lệ gạo cao cấp chiếm hơn 38% khối lượng xuất khẩu. Điều này cho thấy nhu cầu nhập khẩu gạo chất lượng cao của các nước là rất lớn. Đây được xem là cơ hội để cải thiện giá trị hạt gạo Việt Nam sau gần 20 năm xuất khẩu mặt hàng này.
3.2 Tình hình xuất khẩu lúa gạo Việt Nam:
Theo “Báo cáo thường niên ngành hàng lúa gạo Việt Nam”, mặt hàng lúa gạo của Việt Nam ngày càng được mở rộng và phát triển ở khắp các châu lục trên thế giới. Đặc biệt, lúa gạo xuất khẩu của Việt Nam được giữ vững ở những thị trường truyền thống (châu Á, châu Âu và châu Mỹ) và mở rộng, phát triển thị trường mới (châu Phi và Trung Đông). Sự vươn lên trong thị trường lúa gạo thế giới của Việt Nam đã khẳng định vị trí, vai trò của mặt hàng gạo Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới. Đồng thời, không ngừng gia tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo thuận lợi trong tích lũy ngoại tệ cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bảng 8: Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam, giai đoạn 2000 - 2009
Các năm
Khối lượng xuất khẩu (1.000 tấn)
Kim ngạch xuất khẩu (Triệu USD)
2000
3.477
667
2001
3.729
625
2002
3.241
726
2003
3.813
720
2004
4.060
950
2005
5.250
1.047
2006
4.600
1.238
2007
4.558
1.490
2008
4.830
2.910
2009
6.052
2.463
Nguồn: AGROINFO
Sức cạnh tranh của mặt hàng lúa gạo Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới thể hiện ở nhiều mặt, chủ yếu là:
Về khối lượng gạo xuất khẩu: Khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đứng thứ hai thế giới về mặt cung sản phẩm.
Khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2001 – 2009 có xu hướng tăng lên. Nếu như năm 2001, khối lượng xuất khẩu gạo chỉ đạt trên 3,7 triệu tấn, thì đến năm 2008 đã xuất khẩu trên 4,8 triệu tấn; năm 2009 khối lượng xuất khẩu gạo đạt trên 6 triệu tấn. Theo đó, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng gạo tăng từ 625 triệu USD năm 2001 lên hơn 1 tỉ USD (năm 2005); 2,46 tỉ USD (2009). Riêng 5 tháng đầu năm 2010, lượng gạo xuất khẩu đạt 2,1 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 983 triệu USD.
Tuy nhiên, nếu so với Thái Lan, năng lực xuất khẩu gạo – xét về lượng của nước ta chỉ khoảng 4,5 – 6 triệu tấn/năm, bằng 50%, tức 10 triệu tấn gạo mà Thái Lan đã xuất khẩu trên thị trường khu vực và thế giới những năm qua.
Theo tính toán của các nhà khoa học, do quá trình đô thị hóa, nhất là thực hiện chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, diện tích đất “bờ xôi, ruộng mật” dùng để trồng lúa bị giảm nghiêm trọng. Ứơc mỗi năm, diện tích trồng lúa mất đi vài trăm ngàn ha. Thêm vào đó, nông dân đã và đang thực hiện chuyển đổi cây trồng (phần lớn là tự phát) từ trồng lúa có năng suất thấp, bấp bênh sang trồng các loại cây khác có giá trị kinh tế cao hơn. Điều đó dẫn đến tình trạng suy giảm rất đáng kể khối lượng gạo sản xuất ra, kéo theo là khối lượng gạo xuất khẩu bị suy giảm trong khi việc thâm canh lúa ở những vùng đồng bằng – vùng chủ lực trong sản xuất lúa gạo dường như đã đến hạn, khó có thể làm gia tăng năng suất lúa cao hơn. Dự báo, nếu như không giữ vững diện tích trồng lúa, đến năm 2020, khối lượng gạo của Việt Nam sản xuất ra chỉ đủ tiêu dùng trong nước, khó có thể có gạo xuất khẩu. Điều này đẫ xảy ra với một số quốc gia từng dẫn đầu trong xuất khẩu gạo, như Phi-lip-pin, In-đô-nê-xi-a,…
Về năng lực thâm nhập, mở rộng và phát triển thị trường lúa gạo trên thế giới: Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam có mặt ở 128 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 10 quốc gia (Phi-lip-pin, Cu-ba, Ma-lai-xi-a, Xê-nê-gan, I-rắc, Bờ biển Ngà, Đông Ti-mo, Xin-ga-po, Ga-na và In-đô-nê-xi-a) nhập với khối lượng lớn và khá ổn định.
Bảng 9: Thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam, năm 2008
Nguồn: AGROINFO, tính theo Tổng cục Hải quan
Phi-lip-pin là nước nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam. Năm 2008, nước này nhập khẩu tới 1,800 nghìn tấn, với kim ngạch 1,400.0 triệu USD.
Bảng 10: Thị phần xuất khẩu mặt hàng lúa gạo Việt Nam ở 10 quốc gia, năm 2008
STT
Tên nước
Thị phần
1
Phi-lip-pin
40
2
Cu-ba
15
3
Ma-lai-xi-a
9
4
Xê-nê-gan
3
5
I-rắc
3
6
Bờ biển Ngà
3
7
Đông Ti-mo
2
8
Xin-ga-po
1
9
In-đô-nê-xi-a
1
10
Ga-na
1
Nguồn: AGROINFO
Trong những năm gần đây, mặt hàng gạo xuất khẩu của Việt Nam còn được mở rộng và không ngừng phát triển sang thị trường châu Phi và Trung Đông. Đây là thị trường phù hợp với khả năng sản xuất gạo xuất khẩu của Việt Nam, tuy nhiên việc xuất khẩu lại phải đi đường vòng - phải thông qua nước thứ ba mới đến được thị trường châu Phi và Trung Đông.
Về chất lượng, phẩm cấp: Phẩm cấp của mặt hàng gạo xuất khẩu không chỉ thể hiện ở mẫu mã, hình thức mà còn thể hiện chủ yếu ở hương vị, thủy phần, tỷ lệ trọn vẹn của hạt gạo trong quá trình xay xát…Ngoài năng lực trồng cấy các loại giống lúa chất lượng cao, năng suất cao, phẩm cấp tốt phục vụ xuất khẩu, 3 vùng đồng bằng đều có những giống lúa là đặc sản nổi tiếng thế giới. Ngoài ra còn một số giống lúa đặc sản, lúa chất lượng cao khác nhập khẩu từ Thái Lan cũng được triển khai với diện tích trồng theo vùng chuyên canh, nhất là tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. Việt Nam có thể sản xuất một số loại gạo đặc sản, với chất lượng cao mà các quốc gia khác không thể có. Tuy nhiên, xét một cách toàn diện, các loại gạo đặc sản có hương vị thơm ngon Việt Nam không thể sản xuất một cách đại trà, do giá thành sản xuất quá cao, người nông dân có lợi nhuận thấp, dẫn đến nguồn cung sản phẩm với khối lượng không lớn, không ổn định đã hạn chế sức cạnh tranh của lúa gạo đặc sản xuất khẩu. Trên thực tế, xuất khẩu lúa gạo ở Việt Nam vẫn còn nặng về tư tưởng xuất khẩu sản phẩm mà mình có, chưa thực sự quan tâm đến sản phẩm gạo mà thị trường cần. Hơn nữa, trình độ kỹ thuật được sử dụng trong sản xuất, chế biến lúa gạo còn ở mức thấp… dẫn đến tình trạng cùng chủng loại với sản phẩm của các quốc gia khác, nhất là Thái Lan nhưng phẩm cấp gạo Việt Nam vẫn ở cấp thấp hơn do việc ứng dụng quy trình kỹ thuật trồng, chăm sóc lúa chưa đúng; công nghệ xay xát non yếu và lạc hậu, tỷ lệ hạt gãy cao; tỷ lệ thủy phần (lượng nước) của hạt gạo thường vượt quá mức do năng lực phơi sấy hạn chế… dẫn đến ẩm mốc, khó bảo quản.
Về giá thành sản xuất sản phẩm và giá bán trên thị trường. Những năm gần đây, giá thành sản xuất gạo của Việt Nam lên xuống thất thường. Khi được mùa, nông dân trúng vụ, giá hạ và ngược lại, khi lúa bị sâu bệnh, thiên tai…, nông dân mất mùa, giá tăng. Năm 2009, giá lúa có xu hướng tăng, tuy nhiên do chi phí đầu vào cao, thiên tai dồn dập… dẫn đến giá thành sản xuất lúa cao, hạch toán kinh tế của người nông dân đối với sản xuất lúa gạo hàng hóa vẫn có mức lợi nhuận thấp. Giá thành sản xuất mặt hàng gạo có xu hướng tăng lên, nhưng trên thị trường lúa gạo thế giới, giá bán gạo Việt Nam năm 2009 là 400 USD/tấn; quý I năm 2010 là 410 USD/tấn, chỉ bằng 80% giá gạo bình quân thế giới (220 USD/tấn) và thường thấp hơn giá bán gạo của Thái Lan khoảng 150 USD – 160 USD/tấn(2). Với giá bán đó không chỉ thể hiện sự yếu thế của mặt hàng lúa gạo Việt Nam trên thị trường thế giới, trực tiếp là các doanh nghiệp xuất khẩu gạo mà còn mang lại sự thua thiệt cho nông dân Việt Nam sản xuất lúa.
4. Thực trạng về sản xuất lúa gạo gắn với phát triển bền vững ở Việt Nam.
Nội dung của phát triển bền vững ngành lúa gạo bao gồm ba nội dung lớn: Đạt hiệu quả kinh tế, giải quyết vấn đề xã hội và Môi trường đảm bảo phát triển bề vững. Thực trạng của ngành lúa gạo Việt Nam thể hiện qua ba nội dung trên là:
Về hiệu quả kinh tế: So sánh lợi nhuận thu được trên tấn gạo tính bình quân trong thời kỳ 1999- 2008, cho thấy hiệu quả sản xuất lúa gạo của Việt Nam đạt được còn thấp so với nhiều nước bên ngoài điển hình là Thái Lan. Tổng chi phí và lợi nhuận sản xuất 1 tấn gạo từ các khâu sản xuất lúa, thu gom lúa, chế biến gạo đến tiêu thụ gạo của ngành lúa gạo Việt Nam bình quân khoảng 921 USD/tấn và 145 USD/tấn trong khi của Thái Lan là 915 USD/tấn và 222 USD/tấn. Chi phí sản xuất gạo của Việt Nam và Thái Lan chênh nhau không nhiều nhưng lợi nhuận thu được của ngành lúa gạo Việt Nam chỉ bằng 65,1% so với của Thái Lan do gạo Thái Lan có chất lượng và giá bán cao hơn. Tính bình quân, cứ sản xuất 1 tấn gạo ngành lúa gạo Thái Lan thu được lợi nhuận cao hơn so với ngành lúa gạo Việt Nam 78 USD.
Về giải quyết vấn đề xã hội
Sản lượng lúa gạo ngày càng tăng nhưng các hộ trồng lúa vẫn thuộc nhóm hộ có thu nhập thấp ở nông thôn, thu nhập bình quân đầu người thường ở mức giáp ranh hộ nghèo. Khoảng cách chênh lệch về thu nhập đầu người của các hộ nông dân trồng lúa so với mức thu nhập bình quân đầu người của cả nước có xu hướng ngày càng doãng ra, từ ở mức bằng 66,2% trong giai đoạn 1998- 2003 giảm xuống chỉ còn bằng 55,7% mức thu nhập bình quân đầu người của cả nước 784 nghìn đồng/người tháng trong giai đoạn 2004- 2008. Tình trạng này dẫn đến, những năm gần đây ở một số nơi nông dân bỏ sản xuất lúa để đi làm việc khác ngày càng nhiều, làm sản xuất lúa thiếu ổn định.
Về phát triển bền vững môi trường
Mức phân bón hoá học và thuốc BVTV cho sản xuất 1 tấn lúa của Việt Nam trong thời kỳ 1981 - 1990 bình quân khoảng 56 kg phân bón/tấn lúa và 0,3 kg thuốc BVTV/tấn lúa. Từ năm 2000 đến nay, mức phân bón hoá học và thuốc BVTV cho sản xuất 1 tấn lúa tiếp tục tăng lên, bình quân ở mức 73 kg phân bón/tấn lúa và 0,45 kg thuốc/tấn lúa. Tại khu vực ĐBSCL, nông dân thường sử dụng nhiều phân bón hoá học và thuốc BVTV để trồng lúa ngắn ngày 3 vụ năm, mức bón phân hoá học cho lúa hiện cao nhất trong cả nước, bình quân 380- 400 kg/ha DTGT lúa. Mức sử dụng phân bón hoá học và thuốc BVTV cho gieo trồng lúa tăng lên, song chưa đi kèm tương ứng với các hoạt động phổ biến kỹ thuật sản xuất, sử dụng an toàn, hiệu quả phân hoá học, thuốc BVTV và các loại hoá chất nông nghiệp khác cho nông dân. Dẫn đến, tình trạng ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái đồng ruộng, dịch hại xảy ra khá phổ biến ở nhiều nơi, đặc biệt ở khu vực ĐBSCL thời kỳ vừa qua.
Chỉ tiêu đánh giá phát triển bền vững sản xuất lúa gạo
Để đánh giá mức độ phát triển bền vững của sản xuất lúa gạo về kết hợp hài hoà các mặt hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường, có thể phân tích các chỉ tiêu so sánh chênh lệch, so sánh tương quan tốc độ tăng/giảm giữa các hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường với nhau. Nguyên tắc đánh giá, hiệu quả về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường của sản xuất lúa gạo phải cùng tăng lên tỷ lệ thuận với nhau đồng thời so sánh tương quan tốc độ tăng/giảm giữa các mặt hiệu quả không quá chênh lệch nhau gấp nhiều lần trong một giai đoạn nhất định (5- 10 năm). Sau đây là một số chỉ tiêu minh hoạ cần phân tích trong đánh giá mức độ phát triển bền vững kết hợp hài hoà các mặt của sản xuất lúa gạo.
Chỉ tiêu phát triển bền vững về kinh tế- xã hội. (Ckx)
Tính bằng chỉ số so sánh chênh lệch tốc độ tăng lợi nhuận/tấn gạo của ngành lúa gạo (Vln) với tốc độ tăng mức tiêu dùng gạo LTTP bình quân đầu người (Vlt), thông qua đó đánh giá mức độ phát triển kết hợp hài hoà hiệu quả về mặt kinh tế và hiệu quả về mặt xã hội.
Ckx = Vln / Vlt
Chỉ số càng lớn cho thấy hiệu quả sản xuất tính bằng lợi nhuận/tấn gạo của ngành lúa gạo tăng càng nhanh nhưng ngược lại hiệu quả xã hội về bảo đảm ANLT tính bằng mức tiêu dùng gạo làm LTTP bình quân đầu người tăng càng chậm, mức độ phát triển bền vững lúa gạo trên cơ sở kết hợp hài hoà mặt kinh tế và mặt xã hội càng kém. Tuy nhiên, trong đánh giá cần lưu ý kết hợp phân tích các mặt khác và xét đến thứ tự ưu tiên về hiệu quả trong từng giai đoạn nhất định đối với phát triển sản xuất lúa gạo
Chỉ tiêu phát triển bền vững về kinh tế- môi trường. (Ckm) Tính bằng chỉ số so sánh chênh lệch tốc độ tăng lợi nhuận/tấn gạo của ngành lúa gạo (Vln) với tốc độ tăng DTGT lúa thân thiện môi trường (Vdm). Thông qua đó, đánh giá mức độ phát triển kết hợp hài hoà hiệu quả về mặt kinh tế và hiệu quả về mặt môi trường của sản xuất lúa gạo. Về tổng quát, chỉ số này càng gần 1 càng tốt, tuy nhiên trong thực tế nếu tình trạng ô nhiễm môi trường từ sản xuất ngày càng tăng lên chỉ số cần nhỏ hơn 1.
Ckm = Vln / Vdm
Chỉ tiêu kết hợp tăng lợi nhuận và GTGT sản xuất lúa gạo.(Clg)
Tính bằng chỉ số so sánh chênh lệch tốc độ tăng lợi nhuận/tấn gạo (Vln) và tốc độ tăng GTGT/tấn gạo (Vgt) của ngành sản xuất lúa gạo. Chỉ tiêu đánh giá tính bền vững về mặt hiệu quả kinh tế trên cơ sở tăng lợi nhuận/tấn gạo cần phải đi đôi với tăng GTGT/tấn gạo, nâng cao sức cạnh tranh về chất lượng gạo. Chỉ tiêu này, cần được đánh giá đối với tất cả các khâu của sản xuất lúa gạo, vì hiệu quả ở một khâu không bền vững sẽ dẫn đến hiệu quả sản xuất của cả ngành thiếu tính bền vững.
Clg = Vln / Vgt
Chỉ tiêu kết hợp hài hoà giải quyết các vấn đề xã hội. (Ita)
Tính bằng chỉ số so sánh chênh lệch tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người hộ nông dân trồng lúa (Vtn) với tốc độ tăng mức tiêu dùng gạo làm LTTP bình quân đầu người (Vlt). Trong thực tế, khi giá gạo tăng lên thu nhập từ sản xuất lúa của nông dân tăng rõ rệt nhưng mức tiêu dùng gạo làm LTTP bình quân đầu người tăng chậm lại. Chỉ tiêu này, nhằm đánh giá tính bền vững về mặt xã hội của phát triển sản xuất lúa gạo thông qua xem xét mức độ kết hợp hài hoà trong giải quyết vấn đề giữa một bên là tăng thu nhập, giảm nghèo cho nông dân trồng lúa và một bên là bảo đảm ANLT, giảm tỷ lệ người thiếu lương thực.
Ita = Vtn / Vlt
5. Thách thức đối với sản xuất lúa gạo bền vững của Việt Nam.
5.1. Thách thức về vấn đề bảo vệ đất trồng lúa:
Biến đổi khí hậu đang là vấn đề đe dọa tới không chỉ đời sống người dân mà còn ảnh hưởng đến tính hình sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng. Thực tế hiện nay cho thấy rằng diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp về diện tích. Việt Nam có hai khu vực sản xuất lúa lớn nhất là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên theo các nhà khoa học, hàng năm các tỉnh ĐBSCL bị thiệt hại trên dưới 1.000 tỷ đồng do hạn hán và nước mặn xâm nhập vào nội đồng. Điều đáng lo ngại là tỷ lệ nước mặn xâm nhập năm sau lại sâu hơn năm trước. Thực tế ở tình Tiền Giang năm 2009 nước mặn nhập sâu vào nội đồng lên tới gần 50 km, đồng nghĩa với gần 2000ha lúa ở các huyện ven biển không thể xuống giống vì không lấy được nước vào ruộng. Nhiều nơi ở vùng ngọt hóa như Gò Công trước đây sản xuất 3 vụ một năm giờ chỉ còn 2 vụ, khu vực cù lao Lợi Quan chỉ sản xuất được 1 vụ/năm. Thực trạng này không chỉ xảy ra với tỉnh Tiền Giang mà những năm trở lại đây các tỉnh như Bến Tre, Trà Vinh, Cà Mau, Bạc Liêu,.. cũng bị nước mặn xâm nhập nghiêm trọng.
Cùng với sự biến đổi khó lường của điều kiện tự nhiên thì quá trình CNH-HĐH cũng đang làm diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp. Vấn đề đặt ra là phải quy hoạch như thế nào để đảm bảo đúng tiến độ phát triển của đất nước và không ảnh hưởng đến tình hình sản xuất lúa gạo.
5.2. Đảm bảo an ninh lương thực trong thời gian tới.
Trong hai thập niên vừa qua, quá trình đô thị hóa và phát triển công nghiệp diễn ra mạnh mẽ đã khiến đất nông nghiệp bị thu hẹp đáng kể. Theo thống kê, diện tích đất canh tác lúa của cả nước đến cuối năm 2007 chỉ còn 4,1 triệu ha, giảm 362.000 ha so với năm 2005.
Dự báo, từ nay đến năm 2025, nước ta có thể phải lấy 10-15% diện tích đất nông nghiệp và các loại đất khác để phát triển công nghiệp. Theo đó, diện tích lúa đến năm 2010 còn khoảng 4 triệu ha, năm 2015 khoảng 3,8 triệu ha, đến năm 2020 chỉ còn khoảng 3,6 triệu ha và giữ ổn định sau năm 2020 là 3,5 triệu ha, trong đó diện tích chuyên trồng lúa nước là 3,1 triệu ha.
Bài học từ Philippines cho thấy, để đổi lấy các khu công nghiệp, nước này đã mất rất nhiều cánh đồng lúa phì nhiêu và mỗi năm phải nhập 1,5 triệu tấn lương thực. Dân số nước ta đông, trong đó hơn 70% sống ở khu vực nông thôn, đất canh tác không nhiều, nếu tính theo đầu người thì ở mức thấp nhất thế giới.
Theo dự báo, cơ cấu dinh dưỡng của người Việt Nam trong thời gian tới sẽ thay đổi theo hướng giảm dần nhu cầu về chất bột, song với tốc độ tăng trưởng dân số bình quân 1,2%/năm, cộng với nhu cầu lương thực cho chế biến, chăn nuôi sẽ tăng mạnh nên tổng nhu cầu tiêu thụ lương thực trong nước sẽ tăng thêm trong vài thập niên tới.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khoảng 130 triệu người vào năm 2035 phải cần tới 36 triệu tấn thóc. Và để đạt được sản lượng này, Việt Nam cần phải duy trì tối thiểu 3 triệu héc ta đất chuyên trồng lúa hai vụ để có 6 triệu héc ta đất gieo trồng. Mặt khác, sự chênh lệch về năng suất lương thực giữa các vùng, miền vẫn còn khoảng cách. Thêm vào đó là vấn đề thiên tai, dịch bệnh, tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu có thể làm nước biển xâm nhập, lấn chiếm diện tích đất canh tác.
Dự tính, Việt Nam sẽ là một trong năm nước chịu thiệt hại nặng nhất do biến đổi khí hậu toàn cầu. Với kịch bản nước biển dâng 1 mét, đồng bằng sông Hồng sẽ mất 5.000 ki lô mét vuông đất, ĐBSCL bị ngập 15.000-20.000 ki lô mét vuông. Tổng sản lượng lương thực nước ta theo đó có thể giảm khoảng 5 triệu tấn. Tình trạng thừa, thiếu cục bộ do mất mùa, thiên tai, lũ lụt, sâu bệnh... thường xuyên xảy ra, bởi vậy, việc đảm bảo an ninh lương thực là vấn đề cấp thiết, luôn được sự quan tâm đặc biệt.
5.3. Vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu:
Theo thông báo của Liên hợp quốc thì Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu toàn cầu. Theo nghiên cứu mới nhất chuẩn bị công bố, đến cuối thế kỷ (2100), nhiệt độ của Việt Nam sẽ tăng lên khoảng 2 đến 4,5oC và mực nước biển sẽ dâng lên khoảng 10 đến 68 cm. Và nếu sự biến đổi khí hậu cứ diễn ra như với tốc độ hiện nay thì trong vòng khoảng 100 năm nữa, nhiều diện tích đất liền trên trái đất, trong đó có vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long và sông Hồng, có thể sẽ ngập chìm trong nước biển. Việt Nam, một nước đang phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, nằm trong nhóm nước dễ bị tổn thương bởi các vấn đề môi trường do BĐKH gây ra như lũ lụt, hạn hán, bão… Bên cạnh đó, với bờ biển dài, vấn đề mực nước biển dâng cao có thể làm mất 12,2% diện tích đất của Việt Nam và đe dọa tới chỗ sinh sống của 17 triệu người. Những biến động thời tiết bất thường gây thiệt hại lớn cho đời sống dân nhân dân và đất nước mà chúng ta thường gọi là thiên tai cần được nghiên cứu, xem xét theo hướng có sự báo động toàn cầu về gia tăng nhiệt độ bề mặt trái đất và mực nước biển ngày càng dâng cao.
6. Nguyên nhân tồn tại:
6.1 Nguyên nhân khách quan:
Do sự biến đổi khí hậu toàn cầu khó có thể lường trước được. Sự nóng lên của trái đất và hiện tượng nước biển ngày càng dâng cao đang là vấn đề được toàn thế giới quan tâm. Tần suất thiên tai ngày càng dày, mức độ nghiêm trọng và quy mô ngày càng lớn, ở nước ta những năm qua liên tục xuất hiện những cơn bão lớn, mưa to gây lũ lụt, lở đất, hạn hán, cháy rừng,.. chính vì thế việc phát triển bền vững nông nghiệp hay phát triển bền vững ngành lúa gạo gặp rất nhiều khó khăn.
6.2 Nguyên nhân chủ quan:
Về phía chính phủ:
Việc phát triển bền vững các ngành trong nền kinh tế quốc dân hay ngành lúa gạo nói riêng là quy luật tất yếu, chính vì thế chỉnh phủ là cơ quan có trách nhiệm định hướng, đưa ra những quyết định cần thiết để đảm bảo việc phát triển này đi đúng con đường của nó. Vai trò của chính phủ là ban hành những chính sách quy định về hoạt động sản xuất, chính sách để quy hoạch hay chính sách khuyến khích phát triển sản xuất bền vững,… Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy lý luận phát triển chưa hoàn chỉnh, công tác xây dựng chính sách chưa chuyên nghiệp, thiếu các nghiên cứu phân tích căn cứ cụ thể, thiếu hệ thống giám sát theo dõi, thống kê số liệu đáng tin cậy và kịp thời nên có một số chính sách thiếu đồng bộ, thiếu tính đột phá, một số chủ trương chính sách không hợp lý thiếu tính khả thi nhưng không được điều chỉnh bổ sung kịp thời, khó đưa vào cuộc sống, gây ra nhiều bức xúc trong xã hội và tạo điều kiện trục lợi làm giàu bất chính.
Việc tổ chức thực hiện còn nhiều yếu kém. Nhìn chung chủ trương chính sách ban hành nhiều nhưng thực hiện chưa hết mức do thiếu nguồn lực tài chính, nhân lực tương ứng, thiếu kiểm tra, đôn đốc. Trách nhiệm của các cấp ủy và chính quyền các cấp không được làm rõ và xử lý nghiêm túc khi không thực hiện tốt, còn tình trạng làm được đến đâu hay đến đó, chạy theo thành tích. Kinh nghiệm tốt ít được tổng kết nhân rộng, nhiều phong trào thi đua mang tính hình thức ít phát huy tác dụng trong thực tiễn. Sự phối hợp của các ngành, các cấp, sự tham gia của các tổ chức đoàn thể còn yếu kém.
Một nguyên nhân nữa từ phía nhà nước đó là cách tổ chức bộ máy quản lý trong ngành nông nghiệp nông thôn còn yếu. Biểu hiện là bộ máy quản lý nông nghiệp ở Trung ương và cấp tỉnh thì lớn nhưng ở cấp huyện và cấp xá thì mỏng không đủ sức giải quyết các vấn đề đang đặt ra.
Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn còn thấp cũng là lý do phát triển ngành lúa gạo gặp nhiều khó khăn. Trung bình hàng năm nông nghiệp đóng góp 20% GDP trong khi đó đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp chỉ chiếm 7,5% GDP thật không tương xứng với sự đóng góp của Nông nghiệp.
Một nguyên nhân nữa từ phía nhà nước đó là công tác dự báo về diễn biến thời tiết hay thị trường trong và ngoài nước. Một biểu hiện rõ ràng là hàng năm bị thiệt hại do thiên tai rất lớn nhưng không bao giờ có kế hoạch dự báo để phòng tránh rủi ro này. Năm 2008 do công tác dự báo tình hình sản xuất lúa gạo trong nước gặp khó khăn nên thu hẹp tỷ lệ xuất khẩu gạo trong khi đang mùa thu hoạch nên đã làm mất một lượng tiền lớn khi không xuất khẩu gạo. Vì thế công tác dự báo vô cùng quan trọng không chỉ trong sản xuất mà trong tiêu thụ sản phẩm lúa gạo.
Về phía doanh nghiệp:
Doanh nghiệp là các đơn vị có nhiệm vụ cung cấp các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất và thu mua sản phẩm đầu ra để phân phối ở thị trường trong nước hay xuất khẩu. Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp đối với sự phát triển không bền vững ngành lúa gạo Việt Nam được thể hiện qua một số điểm sau: Về việc cung cấp yếu tố đầu và như: giống, phân bón, thuốc BVTV các doanh nghiệp hiện nay làm chưa tốt. Về giống không có tổ chức cơ quan nào tập trung nghiên cứu giống có khả năng chống chịu được điều kiện khắc nghiệt ở Việt Nam và cho năng suất cao. Trong các yếu tố đầu vào còn có công nghệ, với công nghệ sản xuất trồng lúa hiện nay rất lạc hậu so với các nước trên thế giới. Vì vậy, để tăng năng suất lao động cần đầu tư nghiên cứu, chuyển giao và triển khai công nghệ tốt.
Một vấn đề yếu kém của Doanh nghiệp nữa là công tác điều tra phân tích thị trường, các doanh nghiệp thu mua lương thực luôn ép giá người sản xuất nhưng khi xuất khẩu lại bán với giá thấp không tương xứng với chất lượng sản phẩm.
Về phía người sản xuất:
Người sản xuất là những người nông dân, họ có vai trò trực tiếp sản xuất ra sản phẩm lúa gạo. Nguyên nhân từ người sản xuất được thể hiện ở nhiều đặc điểm như trình độ của người sản xuất, chủ yếu người sản xuất dựa vào kinh nghiệm sẵn có hay học hỏi được chứ không qua một hình thức đào tạo bài bản nào nên nhận thức của họ tương đối thấp. Mục đích khi sản xuất lúa gạo của họ là sản xuất ra nhiều nông sản chứ không quan tâm nhiều đến tác động tới môi trường và các hình thức canh tác để có hiệu quả cao hơn.
PHẦN III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
NGÀNH LÚA GẠO VIỆT NAM
Các quan điểm về phát triển bền vững ngành lúa gạo Việt Nam.
Quan điểm 1: Tập trung sản xuất lúa gạo ở những vùng có điều kiện thuận lợi.
Quan điểm này nêu lên là chủ yếu tập trung sản xuất lúa ở những vùng có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội thích hợp cho việc trồng lúa ví dụ như ĐBSCL. Ở đây có diện tích đất, chất lượng đất phù hợp với sản xuất hàng hóa mặt hàng lúa gạo. Tuy nhiên để sản xuất ở vùng này thì cần tập trung ruộng đất lại và thành lập những trang trại để sản xuất lúa gạo trở thành sản xuất hàng hóa có chất lượng cao. Quan điểm này tương đối phù hợp cho điều kiện Việt Nam hiện nay, ở một số vùng không có lợi thế về điều kiện tự nhiên, khí hậu để sản xuất trồng lúa thì chuyển đổi sang những cây trồng khác có giá trị cao hơn phù hợp hơn, còn lương thực sẽ được cung cấp từ vùng chuyên canh sản xuất lúa gạo. Khi tập trung hóa sản xuất ở vùng có lợi thế thì việc sản phẩm để xuất khẩu sẽ chủ yếu lấy từ vùng đó. Việc quản lý, tiến hành kiểm tra, giám sát sẽ thuận lợi hơn. Đầu tư đồng bộ sẽ dễ dàng hơn không bị phân tán như hiện nay nữa và đó cũng là thuận lợi để phát triển bền vững ngành lúa gạo.
Quan điểm 2: Trồng lúa thâm canh là giải pháp phát triển bền vững sản xuất lúa gạo.
Thâm canh là phương pháp sản xuất tiên tiến nhằm tăng sản lượng nông sản bằng cách nâng cao độ phì nhiêu kinh tế của ruộng đất, thông qua việc đầu tư thêm vốn và kỹ thuật mới vào sản xuất. Bản chất của thâm canh lúa là quá trình đầu tư phụ thêm tư liệu sản xuất và sức lao động trên đơn vị diện tích, hoàn thiện không ngừng các biện pháp kỹ thuật, tổ chức và những yếu tố khác của sản xuất với mục đích nâng cao độ phì nhiêu kinh tế của đất, nhằm thu được nhiều sản phẩm trên một đơn vị diện tích, với chi phí thấp trên đơn vị sản phẩm. Quan điểm này thực sự có ưu điểm phù hợp với điều kiện diện tích đất nông nghiệp của Việt Nam đang ngày càng bị thu hẹp. Thâm canh lúa sẽ giúp tăng năng suất cây trồng và tiết kiệm chi phí. Chính vì vậy quan điểm này ngày càng được nhân rộng trong ngành nông nghiệp Việt Nam.
Một số giải pháp phát triển bền vững ngành lúa gạo Việt Nam.
Giải pháp về kinh tế:
Hoàn thiện chính sách về Nông nghiệp, nông thôn để đẩy nhanh quá trình sản xuất hàng hóa ngành lúa gạo.
Thực trạng chính sách nông nghiệp nông thôn vẫn còn nhiều bất cập chính vì thế việc hoàn thiện chính sách để tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp nông thôn và đẩy nhanh sản xuất hàng hóa lúa gạo theo hướng phát triển bền vững. Đầu tiên là chính sách đất đai, nên sửa đổi lại chính sách hạn điền theo hướng mở rộng hơn. Để khuyến khích những người có khả năng, có kinh nghiệm làm nông nghiệp tích tụ và tập trung ruộng đất, từ đó tạo ra các trang trại sản xuất hàng hóa có quy mô lớn, có điều kiện tiếp cận với kỹ thuật và công nghệ hiện đại, trên cơ sở đó sản xuất ra sản phẩm lúa gạo với số lượng lớn và chất lượng cao nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và hướng tới xuất khẩu ra nhiều thị trường với sự cạnh tranh cao. Chính sách thứ hai cần phải điều chỉnh là chính sách quy hoạch đất đai trong phạm vi cả nước. Cần tổ chức sử dụng hợp lý hơn hiệu quả hơn nguồn tài nguyên đất nhất là đất nông nghiệp. Ngoài ra cần hoàn thiện và điều chỉnh chính sách về Khoa học – Công nghệ theo hướng khuyến khích tạo ra ngày càng nhiều các sản phẩm khoa học- công nghệ có chất lượng cao để phục vụ nông nghiệp, nông thôn.
Cần hoàn thiện chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Với trên 70% dân số là nông dân chủ yếu sinh sống dựa vào sản xuất nông nghiệp nên chính sách hỗ trợ cho nông nghiệp là vô cùng cần thiết. Trong đó các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp như chính sách trợ giá đầu vào quá trình sản xuất, chính sách trợ giá đầu ra, chính sách khuyến nông,… cần được đề cao vì thực trạng hiện nay chi phí sản xuất lúa gạo còn rất cao vì thế đạt được mục tiêu người sản xuất lúa phải lãi trên 30% so với giá thành sản xuất là rất khó khăn.
Một thực trạng nữa của người sản xuất hiện nay là do thiếu vốn, chính vì vậy chính sách tín dụng cần được hoàn thiện để người dân tiếp cận với vốn dễ dàng hơn về thủ tục hành chính và hướng dẫn cách sử dụng vốn có hiệu quả là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng với Nhà nước Việt Nam.
Tóm lại, chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn là một hệ thống các biện pháp để nhằm phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn, chính vì thế việc hoàn thiện chính sách cần được chú trọng và hoàn thiện trong thời kỳ nước ta hội nhập kinh tế quốc tế.
Đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến.
Sản lượng lúa hàng năm của cả nước hiện đã lên đến gần 40 triệu tấn, nhu cầu chế biến gạo rất lớn, cần nhanh chóng nâng cấp hệ thống xay xát gạo hiện có, kết hợp hài hoà nhiều loại quy mô chế biến phù hợp với vùng lúa nguyên liệu. Hỗ trợ phát triển mạng lưới cơ sở chế biến gạo qui mô nhỏ và vừa ở nông thôn, nâng cấp các cơ sở xay xát, bổ sung máy phân loại, đánh bóng gạo, máy tách hạt để nâng cao phẩm cấp gạo chế biến. Chú trọng cung cấp và trang bị cho nông thôn những máy xay xát nhỏ có công nghệ hiện đại tách tạp chất, giảm tỷ lệ gạo gãy, tăng tỷ lệ thu hồi từ 63 - 65% lên 66- 67%. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả chế biến gạo, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nâng cấp, hiện đại hoá máy móc thiết bị, công nghệ và nâng cao chất lượng quản lý sản xuất, hạ giá thành sản phẩm.
Khuyến khích đầu tư các nhà máy chế biến gạo, chế biến sâu các sản phẩm từ gạo sử dụng công nghệ tiên tiến gắn với xây dựng các vùng lúa nguyên liệu sản xuất gạo chất lượng cao tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Vùng nguyên liệu là điều kiện tiền đề cho phát triển các nhà máy chế biến gạo, Nhà nước cần tổ chức qui hoạch các vùng sản xuất lúa nguyên liệu gắn với hạ tầng và nhà máy chế biến. Có chính sách hỗ trợ phát triển các vùng sản xuất lúa nguyên liệu cho chế biến, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư các nhà máy chế biến gạo, đặc biệt ở các vùng chuyên canh lúa, vùng lúa xuất khẩu nằm trong quy hoạch 1,3 triệu ha.
Xây dựng cơ chế hợp tác liên kết 4 nhà (nhà nông- nhà khoa học- nhà doanh nghiệp- nhà nước) để phát triển sản xuất và chế biến gạo trên nguyên tắc nông dân có đất đai và lao động, doanh nghiệp cung cấp vốn và bao tiêu lúa nguyên liệu, nhà khoa học tham gia với doanh nghiệp để tư vấn, chuyển giao công nghệ cho nông dân sản xuất lúa, Nhà nước xây dựng qui hoạch và tham gia hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng vùng nguyên liệu đồng thời tổ chức đăng ký thương hiệu, sản phẩm lúa gạo hàng hoá để thống nhất quản lý chất lượng sản phẩm.
Tăng cường nghiên cứu và ứng dụng KHCN vào sản xuất lúa gạo.
Nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu công nghệ sinh học, sản xuất và lai tạo các giống lúa mới như các giống lai, giống thuần cho năng suất cao đặc biệt là các giống lúa có chất lượng cao để cung cấp cho các vùng lúa trong nước. Nghiên cứu chọn tạo, phát triển nhanh các giống lúa mới có năng suất, chất lượng và khả năng chống chịu cao phù hợp với từng vùng sinh thái, đặc biệt mở rộng diện tích lúa lai, giống lúa thích ứng với các vùng khó khăn như hạn hán, phèn mặn, úng trũng, giống chịu sâu bệnh hại lúa. Hỗ trợ nông dân áp dụng các kỹ thuật canh tác lúa mới để giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất đồng thời giảm ô nhiễm môi trường như kỹ thuật tưới nước tiết kiệm, quản lý dịch hại tổng hợp, bón phân cân đối và quản lý dinh dưỡng tổng hợp, làm mạ công nghiệp, sản xuất lúa theo qui trình GAP.
Đối với khâu chế biến và bảo quản lúa gạo, tăng cường ứng dụng công nghệ tiên tiếnsử dụng máy gặt đập liên hợp, máy sấy, đổi mới công nghệ và thiết bị trong các khâu xay xát, bảo quản lúa gạo để tăng tỷ lệ thu hồi sản phẩm, nâng cao chất lượng lúa gạo.
Nghiên cứu và phát triển các mô hình huấn luyện, phổ biến kỹ thuật sản xuất lúa cho nông dân tại các thôn, ấp và trên đồng ruộng có sự tham gia hướng dẫn của cán bộ khuyến nông, chuyên gia, nhà khoa học và nông dân sản xuất giỏi. Chú trọng phổ biến kinh nghiệm sản xuất lúa giỏi, nhân rộng các mô hình sản xuất lúa đạt hiệu quả cao tiêu biểu cho từng vùng, sản xuất lúa sạch, thân thiện môi trường, mô hình canh tác lúa kết hợp luân canh luân vụ có tác dụng né tránh, giảm nhẹ thiên tai.
Chú trọng phát triển mạng lưới dịch vụ thông tin, tư vấn chuyển giao công nghệ sản xuất lúa gạo đến cấp xã, đảm bảo 100% các hộ nông dân tiếp cận được các dịch vụ này. Xây dựng các trung tâm huấn luyện và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật sản xuất lúa cho nông dân ở các vùng và địa phương là trọng điểm sản xuất lúa.
Phát triển kinh tế trang trại, HTX để tổ chức sản xuất lúa gạo tập trung.
Để khắc phục tình trạng manh mún về ruộng đất dưới hình thức sản xuất lúa theo nông hộ, Nhà nước cần tổ chức và hỗ trợ nông dân chuyển hoá dần kinh tế hộ thành kinh tế trang trại vừa và nhỏ, kinh tế hợp tác xã và các hình thức khác để phát triển sản xuất lúa gạo tập trung, tạo điều kiện ứng dụng tiến bộ công nghệ, chuẩn hoá chất lượng lúa gạo, nâng cao hiệu quả sản xuất.
Đối với kinh tế hộ sản xuất lúa gạo, vận động và hỗ trợ nông dân thực hiện dồn điền đổi thửa, liên kết nhiều hộ nông dân liền bờ, liền thửa dưới các hình thức tổ liên gia, tổ hợp tác để phát triển sản xuất lúa gạo tập trung, đưa cơ giới hoá vào đồng ruộng.
Khuyến khích phát triển kinh tế trang trại chuyên môn hoá sản xuất lúa gạo hoặc kết hợp sản xuất lúa gạo với chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, gieo trồng các cây ngắn ngày khác trên cơ sở luân canh luân vụ hợp lý. Tại vùng sản xuất lúa chuyên canh ở ĐBSCL và ĐBSH khuyến khích tập trung sản xuất lớn, phát triển kinh tế trang trại bằng các chính sách như nới rộng qui định về mức hạn điền, miễn thuế chuyển nhượng cho nông dân có nhu cầu mở rộng qui mô sản xuất lúa, khuyến khích cho thuê đất để sản xuất lúa trang trại.
Đẩy mạnh phát triển kinh tế HTX để khắc phục hạn chế về ruộng đất phân tán, manh mún trong sản xuất lúa gạo, khai thác ưu điểm của mô hình sản xuất vừa đáp ứng được yêu cầu sản xuất hàng hoá lớn vừa đáp ứng được yêu cầu tạo điều kiện cho các hộ nông dân hợp tác cùng nhau phát triển sản xuất, nhất là đối với những hộ nông dân nghèo, thiếu kinh nghiệm, thiếu vốn đầu tư cho sản xuất lúa gạo.
Giải pháp phát triển thị trường lúa gạo:
Để phát triển thị trường lúa gạo các đơn vị tổ chức, doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm lúa gạo cần tìm hiểu và nghiên cứu kỹ thị trường lúa gạo trong và ngoài nước, công việc này vô cùng quan trọng trong công cuộc hội nhập hiện nay. Bên cạnh đó cần xây dựng thương hiệu cho sản phẩm lúa gạo Việt Nam. Thương hiệu hiện nay chưa có uy tín lớn trên thế giới mặc dù Việt Nam là nước đứng thế hai thế giới về xuất khẩu lúa gạo nhưng thương hiệu vẫn kém so với các nước điển hình là Thái Lan.
Cần xây dựng hệ thống thông tin thị trường và thông tin quảng bá cho sản phẩm lúa gạo Việt Nam. Đó là những tiêu chuẩn kỹ thuật mà sản phẩm lúa gạo Việt Nam đạt được, cần phổ biến thông tin để khách hàng tin tưởng và lựa chọn sản phẩm lúa gạo Việt Nam với niềm tin là gạo an toàn và giàu chất dinh dưỡng.
Giải pháp về mặt xã hội:
Đào tạo nâng cao tay nghề của người sản xuất lúa gạo.
Lực lượng sản xuất lúa gạo hiện nay của Việt Nam chủ yếu là người nông dân với trình độ dân trí thấp, kỹ thuật canh tác chưa tiên tiến vì vậy cần mở những lớp đào tạo ngắn hạn cho người dân, để người dân nắm bắt được chu trình kỹ thuật sản xuất để nâng cao hiệu quả cây trồng và tránh được thiệt hại cho sâu bệnh và thiên tai
Chính sách trợ giá để đảm bảo cuộc sống người sản xuất lúa gạo.
Như đã nêu ở trên hiện nay chi phí sản xuất mặt hàng lúa gạo vẫn còn rất cao chính vì thế đời sống của người dân gặp nhiều khó khăn khi mất nhiều chi phí cho sản xuất. Chính sách trợ giá được áp dụng đúng thời điểm sẽ làm ổn định thị trường và ổn định đời sống của người sản xuất. Chính sách trợ giá đầu ra nhằm đảm bảo lợi nhuận thu được của người sản xuất cao hơn từ đó góp phần cải thiện cuộc sống của người dân trồng lúa.
Mở rộng việc làm phi nông nghiệp để tranh thủ thời gian nhàn rỗi của người nông dân.
Một đặc điểm của sản xuất lúa gạo là có tính thời vụ, thời gian bận nhất của người trồng lúa là lúc gieo cấy và mùa thu hoạch chính vì thế thời gian còn lại là thời gian nhàn rỗi của nông dân. Cần mở rộng các làng nghề, tiểu thủ công nghiệp như mây tre đan, thủ công mỹ nghệ, thêu thùa may vá,… tranh thủ thời gian nhàn rỗi và nâng cao thu nhập cho người dân. Đây là biện pháp vô cùng cần thiết với xã hội Việt Nam hiện nay để nâng cao đời sống nhân dân đồng thời giảm tai tệ nạn xã hội do không có việc làm gây ra.
Giải pháp về môi trường:
Xây dựng các định mức về tiêu chuẩn kỹ thuật đối với các loại phân bón, thuốc BVTV để không có tác động xấu tới môi trường.
Hiện nay đã có những tiêu chuẩn kỹ thuật để đảm bảo sản xuất lúa gạo phát triển bền vững không làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Trước hết cần nâng cao nhận thức của người trồng lúa với việc bảo vệ môi trường vì ý thức quyết định hành động của họ. Một khi nhận thức đúng về tác động xấu của môi trường tới đời sống con người họ sẽ có ý thức bảo vệ môi trường ngay trong quá trình sản xuất. Việc xây dựng các hạng mục về tiêu chuẩn phân bón được dùng, thuốc bảo vệ thực vật bao nhiêu trên 1 đơn vị diện tích trồng lúa sẽ có tác động không chỉ nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn không làm ảnh hưởng xấu tới môi trường sinh thái.
Tuyên truyền và nâng cao ý thức của người dân về bảo vệ môi trường sinh thái từ việc sản xuất lúa gạo.
Trong quá trình đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn của người sản xuất đồng thời nên tuyên truyền để nâng cao ý thức của người dân về việc bảo vệ môi trường trong đời sống hàng ngành cũng như trong sản xuất. Việt Nam là nước ảnh hưởng nặng nề do sự biến đổi khí hậu và nguyên nhân lớn là do con người tác động làm biến đổi điều kiện tự nhiên. Trong đó có nguyên nhân do sản xuất nông nghiệp. Tuy không có tác động nhiều như sản xuất trong công nghiệp nhưng sản xuất nông nghiệp với việc sử dụng nhiều chất hóa học và không tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật cũng là nguyên nhân dẫn tới môi trường bị ô nhiễm. Việc nâng cao ý thức trách nhiệm của người sản xuất trong sản xuất nói chung là rất cần thiết. Cần mở các lớp đào tạo chuyên môn kỹ thuật đi kèm với tuyên truyền về ý thức bảo vệ môi trường là giải pháp cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Một số kiến nghị để phát triển bền vững ngành lúa gạo Việt Nam.
Kiến nghị đối với nhà nước:
Nhà nước cần đầu tư thích đáng hơn đối với nông nghiệp nông thôn vì đây là là tiềm năng phát triển bền vững của cả đất nước.
Quan tâm hơn đối với đời sống của người dân hay người sản xuất lúa gạo vì chỉ có ổn định cuộc sống họ mới yên tâm sản xuất.
Kiến nghị đối với doanh nghiệp:
Doanh nghiệp là nơi cung cấp nguyên yếu tố đầu vào và tiếp nhận sản phẩm đầu ra để đưa vào thị trường tiêu thụ vì thế vai trò của nhà doanh nghiệp là vô cùng quan trọng. Các doanh nghiệp nên làm tốt công tác nghiên cứu thị trường để đảm bảo tối đa hóa lợi nhuận đồng thời bảo vệ lợi ích của người sản xuất vì người sản xuất lúa gạo là đối tượng chịu thiệt thòi nhất trong dây truyền sản xuất đến tiêu thụ.
Kiến nghị đối với nhà khoa học:
Nhà khoa học là những người nghiên cứu và đưa vào sử dụng những giống lúa mới chất lượng cao cùng với nghiên cứu ra những công nghệ để tăng năng suất lao động làm giảm tải sức lao động thủ công vào sản xuất. Vì thế kiến nghị tới các nhà khoa học là cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu giống lúa có chất lượng cao, khả năng chống chịu thiên tai tốt và cho năng suất lúa cao. Cùng với đó là nghiên cứu ra những công trình khoa học áp dụng trực tiếp vào quá trình sản xuất phù hợp với điều kiện Việt Nam và hiệu quả sử dụng cao.
Kiến nghị với người sản xuất:
Người sản xuất là người trực tiếp sản xuất ra những hạt gạo là những người chịu rất nhiều khó khăn vất vả để làm ra được sản phẩm lúa gạo có chất lượng trên thị trường. Vì vậy vai trò của người sản xuất là không thể thay thế được. Một kiến nghị với người sản xuất là người sản xuất luôn luôn học hỏi tìm tòi những cách thức sản xuất có hiệu quả nhưng nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cũng như đảm bảo sức khỏe của người sử dụng sản phẩm lúa gạo.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ngành sản xuất lúa gạo Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển bền vững.doc