Sâu bệnh là một trong những nguyên nhân làm giảm năng suất, chất lượng nông sản phẩm. Ngày nay khi lương thực đã đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu tiêu dùng của con người thì chất lượng nông sản ngày càng được quan
tâm, vì vậy các loại rau ngày nay đã được sản xuất theo quy trình sạch và an toàn đối với người tiêu dùng. Những biện pháp kỹ thuật làm tăng khả năng chống chịu sâu bệnh của cây mà không phải sử dụng đến thuốc bảo vệ thực vật, đây là hướng đi đúng đắn cần được phát triển trong thời gian lâu dài. Tuy nhiên ngày nay cây trồng lại bị nhiễm nhiều loại sâu bệnh khác nhau rất đa dạng và phong phú, mức độ nhiễm bệnh nặng hay nhẹ phụ thuộc sức đề kháng của giống, điều kiện ngoại cảnh (nhiệt độ, ánh sáng, lượng mưa, ) và các biện pháp kỹ thuật trồng trọt như: bón phân, thời vụ, mật độ trồng. Ở cà chua thường xuất hiện một số bệnh phổ biến như: Bệnh héo cây con, bệnh héo xanh, chết nhát, bệnh thán thư (Colletotrichum phomoides), bệnh mốc đen lá (Cladosporium fulvum), . Bệnh héo muộn, sương mai . một số loại
sâu hại thường xuất hiện và gây hại: Sâu xanh đục trái (Heliothis armigera)
. Bọ phấn trắng, rệp phấn trắng (Bemisia tabaci)
29 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5215 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu ảnh hưởng của giá thể đến sinh trưởng, phát triển và năng suất cà chua trong nhà lưới có sử dụng phương pháp tưới nhỏ giọt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ễn : Xác định được loại giá thể thích hợp cho cây cà chua trồng trong nhà lưới, góp phần làm hoàn thiện quy trình kỹ thuật trồng cà chua trên nền giá thể phù hợp nhất
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Giống tham gia thí nghiệm xác định giá thể là giống cà chua F1 Savior (giống chống bệnh vàng xoăn lá cà chua)
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu ảnh hưởng của các loại giá thể đến khả năng sinh trưởng, cho năng suất và chất lượng của cà chua trồng trên các nền giá thể khác nhau trong nhà lưới
- Địa điểm nghiên cứu: Khu nông nghiệp công nghệ cao Long Việt – TT Quang Minh– Mê Linh – Hà Nội
- Thời gian nghiên cứu: 13 tuần (từ ngày 23/02/2011 đến 22/05/2011). Hạt cà chua được gieo vào ngày 26 tháng 02 năm 2011. Trồng ngày 10 tháng 05 năm 2011.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Nguồn gốc, phân bố và phân loại cà chua
1.1.1 Nguồn gốc:
Học thuyết về trung tâm phát sinh cây trồng của N.I. Valilov đề xướng và P.M. Zukovxki bổ xung, cho rằng quê hương của cây cà chua ở vùng Nam Mỹ. Nhiều tài liệu nghiên cứu của các tác giả De Calldolle (1884), Muler (1940), Lukwill (1943) và Sinskaia (1969) cho rằng số lượng lớn của cà chua hoang dại cũng như cà chua trồng được tìm thấy ở Pêru, Equado, Bolivia.
Quá trình thuần hoá và du nhập của cà chua đến các Châu lục có thể tóm tắt như sau.
Theo tài liệu từ Châu Âu thì chắc chắn cà chua được người Aztec và người Toltec mang đến. Đầu tiên năm 1554 nhà nghiên cứu về thực vật Pier Andrea Mattioli giới thiệu những giống cà chua của Mehico có màu vàng nhạt và đỏ nhạt. Năm 1960 ở Bắc Âu thời gian đầu cà chua chỉ được dùng để trang trí và thoả trí tò mò.
Mặc dù cà chua đã được rất nhiều nhà khoa học quan tâm, nhưng thời bấy giờ người ta vẫn quan niệm là cà chua là một cây trồng độc hại vì nó có họ hàng với loại cà độc dược.
Đầu thế kỷ thứ 18, các giống cà chua đã trở lên đa dạng và phong phú, nhiều vùng đã trồng cà chua để làm thực phẩm. Cuối thế kỷ 18, cà chua mới được dùng làm thực phẩm ở Nga và Italia.
Đến thế kỷ thứ 19 cà chua đã trở thành thực phẩm không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày.
Những tiến bộ về dòng, giống cà chua là hoàn toàn dựa vào châu Âu. Năm 1863, có 23 giống được giới thiệu và trong vòng hai thập kỷ, dòng, giống cà chua được phát triển tới hàng mấy trăm giống.Năm 1886, chương trình thử nghiệm của Liberty Hyde Bailey ở trường nông nghiệp Michigan (Mỹ) đã tiến hành chọn lọc và phân loại giống cà chua trồng trọt. Từ năm 1870 đến 1893 ông đã giới thiệu 13 giống cà chua trồng trọt được chọn lọc theo phương pháp chọn lọc cá thể.
Quá trình chọn lọc và cải tiến giống được các nhà chọn giống thực hiện liên tục không ngừng, đến nay giống cà chua đã trở lên phong phú và đa dạng, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng trên thế giới.
1.1.2 Phân loại:
Tên Việt Nam: Cây cà chua
Tên khoa học: Lycopesicon esculentum Mill
Loài: S.lycopersicum
Họ cà: Solanaceae
Phân loại cà chua đã được nhiều các tác giả phân loại, nhưng sự phân loại của Muller được sử dụng rộng rãi nhất cho đến nay. Theo Muller chi lycopersicon Tour được phân làm hai chi phụ.
* Chi phụ eriopersicon: Chi này gồm các loài dại, cây dại một năm hoặc nhiều năm. Quả thường có lông, vỏ xanh hoặc vàng nhạt, có các vệt màu với các sắc tố Anthocyanin, hạt nhỏ, chùm hoa có lá bao. Chi này gồm các chi phụ:
L.peruvianumm. Mill; L.cheesmanii; L.hirsutum; L.glandulosum.
* Chi phụ Eulycopersicon: thuộc dạng cây hàng năm, quả không có lông, khi chín có màu đỏ hoặc đỏ vàng, hạt to, chùm hoa không có lá bao, trong nhóm này gồm hai loài:
L.pimpinellifolium: Đặc trưng bởi thân yếu và mảnh, quả nhỏ màu đỏ, hoa mọc thành chùm từ 15-20 quả/chùm, quả có hai ngăn.
L.esculentum: Là dạng cà chua trồng trọt, loại hình sinh trưởng từ hữu hạn, đến vô hạn.
Chi này bao gồm 5 biến chủng:
+ L.esculentum var. Commune - là giống cà chua thông thường. Hầu hết cà chua trồng hiện nay thuộc dạng biến chủng này. Thân lá rậm rạp, sum sê phải cắt tỉa cành, hoa, quả có khối lượng từ trung bình đến lớn
+ L.esculentum var. Cerasiforme: Cà chua anh đào, lá nhỏ, mỏng, hoa mọc thành chùm dài, khoảng 10 quả/chùm, có màu đỏ hoặc vàng.
+ L.esculentum var.Pyriforme: Cà chua hình quả lê, thuộc loại hình sinh trưởng vô hạn. Có khoảng 10 quả/chùm, quả màu vàng hoặc da cam.
+ L.esculentum. var. Grandifolium – lá của biến chủng này to giống lá khoai tây, mặt lá rộng và láng bóng , số lá trên cây từ ít đến trung bình
+ L.esculentum var. Vadium - cà chua anh đào, thuộc loại sinh trưởng hữu hạn cây đứng, mập, mọc thẳng và lùn, lá màu xanh đậm, quăn và nhiều lá.
1.1.3 Phân bố cà chua trên thế giới:
Trước khi Critxtốp Côlông phát hiện ra Châu Mỹ thì ở Pêru, Mêhicô đã có người trồng cà chua, lúc bấy giờ được gọi là Tomati. Đầu thế kỷ XVI, cà chua được đưa vào Italia. Năm 1554 nhà thực vật học Mathiolus qua Italia phát hiện ra cà chua gọi là Gloten Apple.
Năm 1570 các nước Đức, Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha cũng đã biết trồng cà chua có hình quả nhỏ. Năm 1596, ở Anh cà chua trồng dùng làm cây cảnh gọi là Love Apple.
Sang thế kỷ XVII, cà chua được trồng rộng rãi khắp lục địa Châu âu, nhưng cũng chỉ được xem như một loại cây cảnh và bị quan niệm sai lệch cho là loại quả độc. Đến thế kỷ XVIII, cà chua mới được chấp nhận là cây thực phẩm ở Châu Âu, đầu tiên là ở Italia và ở Tây Ban Nha [51].
ở Châu á, cà chua xuất hiện vào thế kỷ XVIII, đầu tiên là Philippin, đảo Java (Inđônêxia) và Malayxia thông qua các lái buôn từ Châu Âu và thực dân Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha. Từ đó cà chua được phổ biến đến các vùng khác ở Châu á [51].Ở Bắc Mỹ lần đầu tiên người ta nói đến cà chua là vào năm 1710, nhưng mới đầu chưa được chấp nhận do quan niệm rằng cà chua chứa chất độc, gây hại cho sức khỏe. Tới năm 1830 cà chua mới được coi là cây thực phẩm cần thiết như ngày nay [48].
Mặc dù lịch sử trồng trọt cà chua có từ rất lâu đời nhưng đến tận nửa đầu thế kỷ XX cà chua mới trở thành cây trồng phổ biến trên toàn thế giới [51].
1.2 Giá trị dinh dưỡng và ý nghĩa kinh tế:
Cây cà chua là loại rau ăn quả có giá trị dinh dưỡng cao, trong quả chín có nhiều dường, chủ yếu là đường glucoza, có nhiều vitamin: caroten, B1, B2, C; aixit amin và các chất khoáng quan trọng; Ca, P, Fe….
Theo Edward C.Tigchelaar ( 1989 )thì thành phần hóa học của cà chua như sau:
Nước: 94-95%
Chất khô: 5-6%
Trong chất khô gồm có các chất chủ yếu sau:
- Đường (glucoza, fuctoza, sucroza): 55%
- Chất không hòa tan trong rượu ( protein, xenlulo, pectin, polysacarit ):21%
- Axit hữu cơ ( xitric, malic, galacturonic, pyrrolidon-caboxylic ): 12%
- Chất vô cơ: 7%
- Các chất khác ( carotenoit, ascorbic, chất dễ bay hơi, aminoaxit, v.v… )5%
Do có thành phần dinh dưỡng phong phú nên cà chua đã trở thành món ăn thông dụng của nhiều nước trên 150 năm nay và là cây rau ăn quả được trồng rộng rãi trên khắp các châu lục. cà chua cũng là các loại rau có nhiều cách sử dụng: có thể dùng để ăn như quả tươi, trộn salat, nấu canh, sào, nấu sốt vang và chế biến thành các sản phẩm như: cà chua cô đặc, tương cà chua, nước sốt nấm ….
Cà chua là loại rau cho hiệu quả kinh tế cao và là mặt hàng xuất khẩu quan trọng của nhiều nước. như Đài Loan hàng năm xuất khẩu cà chua tươi với tổng giá trị là 952.000USD và 40.800USD cà chua chế biến.
1.3 Đặc điểm thực vật học của cây cà chua
* Rễ: Rễ chùm, ăn sâu và phân nhánh mạnh, khả năng phát triển rễ phụ rất lớn. Trong điều kiện tối hảo những giống tăng trưởng mạnh có rễ ăn sâu 1 - 1,5m và rộng 1,5 - 2,5m vì vậy cà chua chịu hạn tốt. Khi cấy rễ chính bị đứt, bộ rễ phụ phát triển và phân bố rộng nên cây cũng chịu đựng được điều kiện khô hạn. Bộ rễ ăn sâu, cạn, mạnh hay yếu đều có liên quan đến mức độ phân cành và phát triển của bộ phận trên mặt đất, do đó khi trồng cà chua tỉa cành, bấm ngọn, bộ rễ thường ăn nông và hẹp hơn so với điều kiện trồng tự nhiên.
* Thân: Thân tròn, thẳng đứng, mọng nước, phủ nhiều lông, khi cây lớn gốc thân dần dần hóa gỗ. Thân mang lá và phát hoa. Ở nách lá là chồi nách. Chồi nách ở các vị trí khác nhau có tốc độ sinh trưởng và phát dục khác nhau, thường chồi nách ở ngay dưới chùm hoa thứ nhất có khả năng tăng trưởng mạnh và phát dục sớm so với các chồi nách gần gốc.
Tùy khả năng sinh trưởng và phân nhánh các giống cà chua được chia làm 4 dạng hình:
- Dạng sinh trưởng hữu hạn (determinate)
- Dạng sinh trưởng vô hạn (indeterminate)
- Dạng sinh trưởng bán hữu hạn (semideterminate)
- Dạng lùn (dwart)
Thân cây cà chua thay đổi trong quá trình sinh trưởng ph9ị thuộc vào giống, điều kiện ngọai cảnh ( nhiệt độ ) và chất dinh dưỡng v.v…
Ở thời kỳ cây con, thân tròn, có màu tím nhạt, có lông tơ phủ dày, thân giòn dễ gãy, dễ bị tổn thương
Khi trưởng thành cây có màu xanh hơi tối, thường có tiết diện đa giác, cây cứng, phần gốc hóa gỗ
* Lá: Lá thuộc lá kép lông chim lẻ, mỗi lá có 3 - 4 đôi lá chét, ngọn lá có 1 lá riêng gọi là lá đỉnh. Rìa lá chét đều có răng cưa nông hay sâu tùy giống. Phiến lá thường phủ lông tơ. Đặc tính lá của giống thường thể hiện đầy đủ sau khi cây có chùm hoa đầu tiên.
* Hoa: Hoa mọc thành chùm, lưỡng tính, tự thụ phấn là chính. Sự thụ phấn chéo ở cà chua khó xảy ra vì hoa cà chua tiết nhiều tiết tố chứa các alkaloid độc nên không hấp dẫn côn trùng và hạt phấn nặng không bay xa được. Số lượng hoa trên chùm thay đổi tùy giống và thời tiết, thường từ 5 - 20 hoa
* Quả : Quả thuộc loại mọng nước, có hình dạng thay đổi từ tròn, bầu dục đến dài. Vỏ trái có thể nhẵn hay có khía. Màu sắc của trái thay đổi tùy giống và điều kiện thời tiết. Thường màu sắc trái là màu phối hợp giữa màu vỏ trái và thịt trái
Quá trình chín của trái chia làm 4 thời kỳ:
+ Thời kỳ trái xanh: Trái và hạt phát triển chưa hoàn toàn, nếu đem dấm trái không chín, trái chưa có mùi vị, màu sắc đặc trưng của giống.
+ Thời kỳ chín xanh: Trái đã phát triển đầy đủ, trái có màu xanh sáng, keo xung quanh hạt được hình thành, trái chưa có màu hồng hay vàng nhưng nếu đem dấm trái thể hiện màu sắc vốn có.
+ Thời kỳ chín vàng: Phần đỉnh trái xuất hiện màu hồng, xung quanh cuống trái vẫn còn xanh, nếu sản phẩm cần chuyên chở đi xa nên thu hoạch lúc nay để trái chín từ từ khi chuyên chở.
+ Thời kỳ chín đỏ: Trái xuất hiện màu sắc vốn có của giống, màu sắc thể hiện hoàn toàn, có thể thu hoạch để ăn tươi. Hạt trong trái lúc nay phát triển đầy đủ có thể làm giống.
* Hạt: : Hạt cà nhỏ, dẹp, nhiều lông, màu vàng sáng hoặc hơi tối. Hạt nằm trong buồng chứa nhiều dịch bào kiềm hãm sự nảy mầm của hạt. Trung bình có 50 - 350 hạt trong trái. Trọng lượng 1000 hạt là 2,5 - 3,5g.
1.4. Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh đối với sinh trưởng và phát triển cây cà chua
1.4.1 Nhiệt độ:
Cà chua thuộc nhóm cây ưa ấm. Nhiệt độ thích hợp nhất cho hạt nảy mầm là 24-25oC, nhiều giống nảy mầm nhanh ở nhiệt độ 28-32oC [66].
Tác giả Tạ Thu Cúc lại cho rằng, cà chua chịu được nhiệt độ cao, rất mẫn cảm với nhiệt độ thấp. Cà chua có thể sinh trưởng, phát triển trong phạm vi nhiệt độ từ 15-35oC, nhiệt độ thích hợp từ 22-24oC. Giới hạn nhiệt độ tối cao đối với cà chua là 35oC và giới hạn nhiệt độ tối thấp là 10oC, có ý kiến cho là 12oC [3].
Theo Kuo và cộng sự (1998), nhiệt độ đất có ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển của hệ thống rễ, khi nhiệt độ đất cao trên 39oC sẽ làm giảm quá trình lan toả của hệ thống rễ, nhiệt độ trên 44oC bất lợi cho sự phát triển của bộ rễ, cản trở quá trình hấp thụ nước và chất dinh dưỡng [51].
Theo Lorenz O. A và Maynard D. N (1988) [52], cà chua sinh trưởng tốt trong phạm vi nhiệt độ 15-30oC, nhiệt độ tối ưu là 22-24oC. Quá trình quang hợp của lá cà chua tăng khi nhiệt độ đạt tối ưu 25-30oC, khi nhiệt độ cao hơn mức thích hợp (>35oC) quá trình quang hợp sẽ giảm dần.
Nhiệt độ ngày và đêm đều có ảnh hưởng đến sinh trưởng sinh dưỡng của cây. Nhiệt độ ngày thích hợp cho cây sinh trưởng từ 20-25oC [51], nhiệt độ đêm thích hợp từ 13-18oC. Khi nhiệt độ trên 35oC cây cà chua ngừng sinh trưỏng và ở nhiệt độ 10oC trong một giai đoạn dài cây sẽ ngừng sinh trưởng và chết [63]. ở giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng, nhiệt độ ngày đêm xấp xỉ 25oC sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình ra lá và sinh trưởng của lá. Tốc độ sinh trưởng của thân, chồi và rễ đạt tốt hơn khi nhiệt độ ngày từ 26-30oC và đêm từ 18-22oC. Điều này liên quan đến việc duy trì cân bằng quá trình quang hoá trong cây.
Nhiệt độ không những ảnh hưởng trực tiếp tới sinh truởng dinh dưỡng mà còn ảnh hưởng rất lớn đến sự ra hoa đậu quả, năng suất và chất lượng của cà chua. ở thời kỳ phân hoá mầm hoa, nhiệt độ không khí ảnh hưởng đến vị trí của chùm hoa đầu tiên. Cùng với nhiệt độ không khí, nhiệt độ đất có ảnh hưởng đến số lượng hoa/chùm. Khi nhiệt độ không khí trên 30/25oC (ngày/đêm) làm tăng số lượng đốt dưới chùm hoa thứ nhất. Nhiệt độ không khí lớn hơn 30/25oC (ngày/đêm) cùng với nhiệt độ đất trên 21oC làm giảm số hoa trên chùm.
Nghiên cứu của Calvert (1957) [35] cho thấy sự phân hoá mầm hoa ở 13oC cho số hoa trên chùm nhiều hơn ở 18oC là 8 hoa/chùm, ở 14oC có số hoa trên chùm lớn hơn ở 20oC [66].
Ngoài ra, nhiệt độ còn ảnh hưởng trực tiếp tới sự nở hoa cũng như quá trình thụ phấn thụ tinh, nhiệt độ ảnh hưởng rõ rệt tới sự phát triển của hoa, khi nhiệt độ (ngày/đêm) trên 30/24oC làm giảm kích thước hoa, trọng lượng no•n và bao phấn. Nhiệt độ cao làm giảm số lượng hạt phấn, giảm sức sống của hạt phấn và của no•n. Tỷ lệ đậu quả cao ở nhiệt độ tối ưu là 18-20oC. Khi nhiệt độ ngày tối đa vượt 38oC trong vòng 5-9 ngày trước hoặc sau khi hoa nở 1-3 ngày, nhiệt độ đêm tối thấp vượt 25-27oC trong vòng vài ngày trước và sau khi nở hoa đều làm giảm sức sống hạt phấn, đó chính là nguyên nhân làm giảm năng suất. Quả cà chua phát triển thuận lợi ở nhiệt độ thấp, khi nhiệt độ trên 35oC ngăn cản sự phát triển của quả và làm giảm kích thước quả rõ rệt [51].
Bên cạnh đó nhiệt độ còn ảnh hưởng đến các chất điều hoà sinh trưởng có trong cây. Sau khi đậu quả, quả lớn lên nhờ sự phân chia và sự phát triển của các tế bào phôi. Hoạt động này được thúc đẩy bởi một số hooc môn sinh trưởng hình thành ngay trong khi thụ tinh và hình thành hạt. Nếu nhiệt độ cao xảy ra vào thời điểm 2-3 ngày sau khi nở hoa gây cản trở quá trình thụ tinh, auxin không hình thành được và quả non sẽ không lớn mà rụng đi.
Sự hình thành màu sắc quả cũng chịu ảnh hưởng lớn của nhiệt độ, bởi quá trình sinh tổng hợp caroten rất mẫn cảm với nhiệt. Phạm vi nhiệt độ thích hợp để phân huỷ chlorophyll là 14-15oC, để hình thành lycopen là 12-30oC và hình thành caroten là 10-38oC. Do vậy nhiệt độ tối ưu để hình thành sắc tố là 18-24oC. Quả có màu đỏ - da cam đậm ở 24-28oC do có sự hình thành lycopen và caroten dễ dàng. Nhưng khi nhiệt độ ở 30-36oC quả có màu vàng là do lycopen không được hình thành. Khi nhiệt độ lớn hơn 40oC quả giữ nguyên màu xanh bởi vì cơ chế phân huỷ chlorophyll không hoạt động, caroten và lycopen không được hình thành. Nhiệt độ cao trong quá trình phát triển của quả cũng làm giảm quá trình hình thành pectin, là nguyên nhân làm cho quả nhanh mềm hơn [51], [63]. Nhiệt độ và độ ẩm cao còn là nguyên nhân tạo điều kiện thuận lợi cho một số bệnh phát triển. Bệnh héo rũ Fusarium phát triển mạnh ở nhiệt độ đất 28oC, bệnh đốm nâu (Cladosporiumfulvum Cooke) phát sinh ở điều kiện nhiệt độ 25-30oC và độ ẩm không khí 85-90%, bệnh sương mai do nấm Phytophythora infestans phát sinh phát triển vào thời điểm nhiệt độ thấp dưới 22oC, bệnh héo xanh vi khuẩn (Ralstonia solanacearum) phát sinh phát triển ở nhiệt độ trên 20oC [5], [40], [51].
1.4.2 Ánh sáng:
Cà chua thuộc cây ưa ánh sáng, cây con trong vườn ươm nếu đủ ánh sáng (5000 lux) sẽ cho chất lượng tốt, cứng cây, bộ lá to, khoẻ, sớm được trồng. Ngoài ra ánh sáng tốt, cường độ quang hợp tăng, cây ra hoa đậu quả sớm hơn, chất lượng sản phẩm cao hơn [21]. Theo Kuddirijavcev (1964), Binchy và Morgan (1970) cho rằng cường độ ánh sáng ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng, phát triển của cây cà chua. Điểm b•o hoà ánh sáng của cây cà chua là 70.000 lux (nhiều tác giả) [46]. Cường độ ánh sáng thấp làm chậm quá trình sinh trưởng và cản trở quá trình ra hoa. Cường độ ánh sáng thấp làm vươn dài vòi nhuỵ và tạo nên những hạt phấn không có sức sống, thụ tinh kém (Johnson và Hell1953). ánh sáng đầy đủ thì việc thụ tinh thuận lợi, dẫn đến sự phát triển bình thường của quả, quả đồng đều, năng suất tăng. Khi cà chua bị che bóng, năng suất thường giảm và quả bị dị hình [55]. Trong điều kiện thiếu ánh sáng năng suất cà chua thường giảm, do vậy việc trồng thưa làm tăng hiệu quả sử dụng ánh sáng kết hợp với ánh sáng bổ sung sẽ làm tăng tỷ lệ đậu quả, tăng số quả trên cây, tăng trọng lượng quả và làm tăng năng suất. Nhiều nghiên cứu đ• chỉ ra rằng cà chua không phản ứng với độ dài ngày, quang chu kỳ trong thời kỳ đậu quả có thể dao động từ 7-19 giờ. Tuy nhiên một số nghiên cứu khác cho rằng ánh sáng ngày dài và hàm lượng nitrat ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ đậu quả. Nếu chiếu sáng 7 giờ và tăng lượng đạm thì làm cho tỷ lệ đậu quả giảm trong khi đó ánh sáng ngày dài làm tăng số quả/cây. Nhưng trong điều kiện ngày ngắn nếu không bón đạm thì chỉ cho quả ít, còn trong điều kiện ngày dài mà không bón đạm thì cây không ra hoa và không đậu quả [2].
Chất lượng ánh sáng có tác dụng rõ rệt tới các giai đoạn sinh trưởng của cây cà chua (Wassink và Stoluijk 1956). ánh sáng đỏ làm tăng tốc độ sinh trưởng của lá và ngăn chặn sự phát triển của chồi bên. ánh sáng màu lục làm tăng chất lượng chất khô mạnh nhất.
Thành phần hoá học của quả cà chua chịu tác động lớn của chất lượng ánh sáng, thời gian chiếu sáng và cường độ ánh sáng. Theo Hammer và cộng sự (1942), Brow (1955) và Ventner (1977) cà chua trồng trong điều kiện đủ ánh sáng đạt hàm lượng axít ascobic trong quả nhiều hơn trồng nơi thiếu ánh sáng.
1.4.3 Độ ẩm:
Cà chua có yêu cầu về nước ở các giai đoạn sinh trưởng rất khác nhau, xu hướng ban đầu cần ít về sau cần nhiều. Độ ẩm đất 60-70% là phù hợp cho cây trong giai đoạn sinh trưởng và 78-81% trong giai đoạn đậu quả, bắt đầu từ thời kỳ lớn nhanh của quả [55]. Lúc cây ra hoa là thời kỳ cần nhiều nước nhất. Nếu ở thời kỳ này độ ẩm không đáp ứng, việc hình thành chùm hoa và tỷ lệ đậu quả giảm.
Một số nghiên cứu cho thấy giữa năng suất cà chua và lượng nước bốc hơi trên lớp đất mặt sâu 1 cm có mối quan hệ chặt chẽ. Một nghiên cứu của Mỹ cho thấy một giống cà chua đạt năng suất 220 tấn/ha thì hiệu quả sử dụng nước là 3,1 tấn/cm/ha lượng nước thoát hơi. ở Tunisia, Van Otegenetal (1982) (dẫn theo Claude J.P, 1988), khi nghiên cứu tác động của nước đối với cà chua đ• kết luận để đạt năng suất 113 tấn/ha thì hiệu quả sử dụng nước tối đa là 2,95 tấn/cm/ha. Nghiên cứu trong điều kiện California, Claude cho rằng để tạo 1 kg quả cà chua cần 32,3 kg nước.
Nhiều tài liệu cho thấy độ ẩm đất thích hợp cho cà chua là 60-65% (Barehyi,1971) và độ ẩm không khí là 70-80%. Khi đất quá khô hay quá ẩm đều ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển và năng suất của cà chua. Biểu hiện của thiếu nước hay thừa nước đều làm cho cây bị héo. Khi ruộng bị ngập nước, trong đất thiếu oxy, thừa khí cacbonic làm cho rễ cà chua bị ngộ độc dẫn đến cây héo. Khi thiếu nước quả cà chua chậm lớn thường xảy ra hiện tượng thối đáy quả, quả dễ bị rám do canxi bị giữ chặt ở các bộ phận già không vận chuyển đến các bộ phận non.
Độ ẩm không khí quá cao (> 90%) dễ làm cho hạt phấn bị trương nứt, hoa cà chua không thụ phấn được sẽ rụng (Tạ Thu Cúc, 1983). Tuy nhiên, trong điều kiện gió khô cũng thường làm tăng tỷ lệ rụng hoa. Nhiệt độ đất và không khí phụ thuộc rất lớn vào lượng mưa, đặc biệt là các thời điểm trái vụ, mưa nhiều là yếu tố ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng phát triển của cây kể từ khi gieo hạt đến khi thu hoạch.
1.4.4 Dinh dưỡng:
Cà chua là cây có thời gian sinh trưởng dài, thân lá sinh trưởng mạnh, khả năng ra hoa, ra quả nhiều, tiềm năng cho năng suất rất lớn. Vì vậy cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng là yếu tố có tính chất quyết định đến năng suất và chất lượng quả [3]. Cũng như các cây trồng khác cà chua cần ít nhất 20 nguyên tố dinh dưỡng cho quá trình sinh trưởng phát triển bình thường của nó. Trong các nguyên tố đa lượng cà chua cần nhiều kali hơn cả, sau đó là đạm và lân. Mỗi nguyên tố dinh dưỡng khác nhau có ảnh hưởng khác nhau đến sinh trưởng, phát triển của cây cà chua.
Theo More (1978) để có 1 tấn cà chua cần 2,9 kg N, 0,4 kg P2O5, 4 kg K2O và 0,45 kg Mg. Theo Becseev để tạo 1 tấn quả cà chua cần 3,8 kg N, 6 kg P2O5 và 7,9 kg K2O (Kiều Thị Thư trích dẫn - 1998) [28]. Theo Geraldson (1957) để đạt năng suất 50 tấn/ha cần bón 320 kg N, 60 kg P2O5 và 440 kg K2O. Theo L.H Aung (1979) khuyến cáo để cà chua đạt năng suất 40 tấn/ha cần bón 150 kg N, 30 kg P2O5 và 160 kg K2O. Theo Kuo và cộng sự (1998) thì đối với cà chua vô hạn nên bón với mức 180 kg N, 80 kg P2O5 và 180 kg K2O còn với cà chua hữu hạn thì lượng tương ứng là 120: 80 và 150 [51]. Theo nghiên cứu của Trần Khắc Thi và cộng sự (1999) thì trong điều kiện Việt Nam lượng phân bón cho 1 ha cà chua là 25 tấn phân chuồng, 150 kg N, 90 kg P2O5 và 150 kg K2O [16].
1.5. Tình hình nghiên cứu về cây Cà chua trong nước và ngoài nước
1.5.1.Tình hình nghiên cứu cây Cà chua trên thế giới
1.5.1.1 Nghiên cứu vật liệu dùng để trồng
Trồng cây trong giá thể là biện pháp trồng cây trong các giá thể tựtạo không phải là đất. Dinh dưỡng được cung cấp cho cây thông qua phânbón trộn trong giá thể và bón thúc. Giá thể được trồng trong các túi bầu đen hoặc một số giá thể khác như khay chậu nhựa, xứ, gỗ, kim loại… tùy từng sở thích và điều kiện môi trường mà người ta chọn giá thể thích hợp.
1.5.1.2 Nghiên cứu về dinh dưỡng bón cho rau trên giá thể
Theo các nhà khoa học của Trung tâm nhà vườn, trường đại học Maryland bón phân cho cây trồng trong khay chậu với liều lượng bao nhiêu và cách bón như thế nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: loại phân, nhucầu của cây, loại giá thể, loại khay chậu,… Mỗi thời kỳ sinh trưởngcủa cây rau có yêu cầu về dinh dưỡng khác nhau. Vào thời kỳ nảy mầmcây sống nhờ vào năng lượng dự trữ trong hạt, không cần lấy dinh dưỡngtừ đất, nhu cầu dinh dưỡng của cây trong giai đoạn này không cao. Sauđó cùng với sự phát triển của rễ, thân lá sự hấp thụ dinh dưỡng trongđất tăng lên. Và vào cuối thời kỳ phát triển các cơ quan tích luỹ dinhdưỡng đã hoàn thiện thì ở tất cả các loại rau nhu cầu dinh dưỡng giảmmạnh. Các loại rau ngắn ngày như rau dền, rau cải…có thời gian sinhtrưởng từ lúc gieo trồng tới thu hoạch khoảng 30 ngày thì trong suốtquá trình sinh trưởng chỉ bón 1-2 lần. Còn các loại rau dài ngày như:cà chua, dưa chuột, ớt…thì cần phải bón nhiều hơn có thể là 2 tuần/lầnhoặc hơn. Phân bón dạng dung dịch hoặc dạng bột thì sử dụng thuận tiệnvà hiệu quả vì dinh dưỡng được cung cấp nhanh chóng.Phân bón cho cây trồng có thể chia làm 2 loại là phân chậm tan và phân dễ tan. Theo Karen Demboski và cs., cả 2 loại phân bón này đều cần thiết cho cây trồng trong khay chậu bởi vì hầu hết các loại giá thể đều không chứa đầy đủ các chất
dinh dưỡng cho cây sinh trưởng và phát triển tốt nhất. Các tác giả cũng giới thiệu một số loại phân có thể sử dụng như: phân chậm tan Osmocote có tỷ lệ 14-14-14, 10-10-10 hay 13-13-13, phân dễ tan như: Peter 20-20-20, Miracle Gro 15-30-15. Phân chậm tan nên sử dụng ngay từ đầu khi phối trộn giá thể, phân dễ tan sử dụng khi cây bắt đầu sinh trưởng cho sản phẩm với lượng 1-2 tuần/lần[22].Theo Bunt (1965) [21], hỗn hợp bầu gieo hạt (tính theo thể tích) 1 than bùn rêu nước + 1 cát bổ sung 2,4kg đá vôi nghiền + 0,6kg supephotphat 20% + 285g KNOP3. Nhưng ở hỗn hợp bầu trồng cây 3 than bùn rêu nước + 1 cát thì bổ sung 1,8kg đá vôi nghiền + 1,5kg supephotphat 20% + 740g KNOP3 + 1,2g NH4NO3.
Lawtence và Neverell (1950) [17] cho biết ở Anh bổ sung 1,5kg đá vôinghiền và 3kg supephotphat 20%P2O5 vào 1m3 hỗn hợp giá thể là hợp lí.Nhưng khi sử dụng cho hỗn hợp trồng cây là 1,5kg đá vôi nghiền + 8,5kg phân bazơ + 12kg phân N-P-K dạng 5-10-10 cho 1m3 hỗn hợp bầu.
Theo Kaplina (1976) hỗn hợp làm bầu cho bắp cải, cải xanh và cà chua được bổ sung 1g N, 4g P2O5, 1g K2O cho 1kg hỗn hợp giá thể cho cây con sinh trưởng, phát triển tốt hơn trồng cây trực tiếp từ hạt. Ngoài ra tác giả còn cho biết vai trò của chất khoáng có ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ sinh trưởng của cây con. Có thể trộn thêm 0,5kg supelân cho 10kg hỗn hợp giá thể nhằm xúc tiến quá trình hình thành và phát triển của hệ rễ
1.5.1.3 Nghiên cứu về giá thể trồng
Giá thể trồng cây cũng có rất nhiều loại nhưng hầu hết được phối trộntừ các vật liệu dễ kiếm trong tự nhiên như: trấu hun, xơ dừa, mùn cưa,cát, bột đá…tuy nhiên giá thể được tạo ra phải có độ thông thoáng vàcó khả năng giữ nước tốt.
Ở các nước đang phát triển, hỗn hợp đặc biệt gồm đá trân châu, thanbùn có sẵn ở dạng sử dụng được cung cấp ngay cho mục đích thay thế chođất. Các trang trại thâm canh chủ yếu ở các nước đang phát triển thiênvề nhập khẩu những hỗn hợp không phải là đất này, không có khả năngkhai thác việc sử dụng vật liệu sẵn có ở địa phương. Thực tế, môitrường nhiệt đới có rất nhiều vật liệu có thể sử dụng pha chế hỗn hợpbầu trong vườn ươm. Hỗn hợp bầu trong vườn ươm cần đảm bảo khả nănggiữ nước và làm thoáng khí, khả năng cung cấp dinh dưỡng cho câytrồng, sạch bệnh. Hỗn hợp bầu vườn ươm được sử dụng có rất nhiều côngthức phối trộn, dựa vào khả năng có sẵn của nguyên vật liệu có tỉ lệ1:1:1 là cát rây + đất vườn + phân hữu cơ; đất vườn + bột xơ dừa +phân hữu cơ hay đất vườn + phân chuồng + bột xơ dừa.[8]Theo Lawtence; Newell (1950) cho biết ở Anh sử dụng hỗn hợp đấtmùn + than bùn + cát thô (tính theo thể tích) có tỉ lệ 2:1:1 để gieohạt, để trồng cây là 7:3:2Theo Kaplina (1976), đối với cùng một loại cây nhưng với thành phầngiá thể khác nhau cho năng suất khác nhau: Để gieo hạt cải bắp, cáixanh nếu thành phần giá thể gồm 3 phần mùn + 1 phần đất đồi + 0,3 phầnphân bò và trong 1kg hỗn hợp trên cho thêm 1g N, 4g P2O5,
1 gK2O thì năng suất sớm đạt 181,7 tạ/ha. Nếu thành phần giá thể gồm than bùn 3phần + mùn 1 phần + phân bò 1 phần và lượng chất khoáng như trên thì năng suất sớm đạt 170 tạ/ha. Không chỉ đối với cải bắp, cải xanh màđối với dưa chuột cũng thế. Nếu thành phần giá thể cây con gồm 4 phầnmùn + 1 phần đất đồi và trong 1 hỗn hợp trên cho thêm 1g N, 4g P2O5 và1g K2O thì năng suất sớm đạt 238 tạ/ha. Nếu thành phần giá thể gồm 4phần mùn + 1 phần đất trồng thì năng suất sớm đạt 189 tạ/ha.Roe và cs. (1993) [18] việc ứng dụng sản xuất giá thể đặt nền tảng choviệc phòng trừ cỏ dại sinh trưởng giữa các hàng rau ở các thời vụ.Chất thải hữu cơ là tiền đề làm tăng giá trị thương mại của các loạigiá thể. Nhờ vào kỹ thuật, công nghệ mà làm tăng chất lượng cây vàgiảm thời gian sản xuất. Cho thấy lợi nhuận của việc sử dụng giá thểtrên vùng đất nghèo dinh dưỡng làm tăng độ màu mỡ của đất, tăng thêmlượng đạm trong đất và làm tăng năng suất rau.Trung tâm nghiên cứu phát triển Rau châu Á khuyến cáo việc sử dụng rêuthan bùn hoặc chất khoáng được coi như môi trường tốt cho cây con. Vídụ: đối với ớt, sử dụng 3 phần than bùn + 1 phần chất khoáng. Hỗn hợpđặc biệt bao gồm đất + rêu than bùn + phân chuồng. Trấu hun và trấuđốt cũng được sử dụng như thành phần của hỗn hợp [19].Masstalerz (1997) [20] cho biết ở Mỹ đưa ra công thức phối trộn (tínhtheo thể tích) thành phần hỗn hợp bầu bao gồm mùn sét, mùn cát sét vàmùn cát có tỉ lệ 1:2:2; 1:1:1 hay 1:2:0 đều cho hiệu quả. Cho thêm5,5- 7,7g bột đá vôi và 7,7- 9,6g supe photphat cho 1 đơn vị thể tích.Bunt (1965) [21] sử dụng hỗn hợp cho gieo hạt (tính theo thể tích) 1than bùn rêu nước + 1 cát + 2,4kg/m3 đá vôi nghiền và hỗn hợp trồngcây: 3 than bùn rêu nước + 1 cát + 1,8kg đá vôi nghiền đều cho thấycây con mập, khoẻ
1.5.2.Tình hình nghiên cứu cây Cà chua trong nước.
1.5.2.1 Nghiên cứu về dinh dưỡng bón cho rau trên thế giá thể
Ngô Thị Hạnh (1997),[12] Viện rau quả Hà Nội đưa ra công thức phốitrộn giá thể cho gieo cải bao trong khay gồm đất + cát + phân chuồng +trấu hun theo tỷ lệ 3:1:1:1 và lượng NPK là 500g sunphat amon, 500gsupe photphat và 170g clorua kali trong 1tấn giá thể.
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, Lê Hữu Phan (2001) [13] qua thực tế cho biết:trong nhà lưới có mái che, cứ 100kg đất than bùn thì trộn 10kg vôibột, 10kg supe lân và 6kg N-P-K con cò (13-8-12) và ủ 1-2 tháng rồiđem vào khay để gieo hạt
Theo Tạ Thu Cúc và cs., (2000) [1] cứ 10 kg giá thể gieo hạt rau trộnthêm 0,5 kg supe lân để xúc tác quá trình hình thành và sinh trưởngcủa rễ.
1.5.2.2 Nghiên cứu về giá thể trồng
Trước đây giá thể chủ yếu sử dụng là cát hoặc sỏi. Ngày nay giá thể đãđược thay đổi rất nhiều. Như ta đã biết, cây cần cả oxi và dinh dưỡngtiếp xúc với rễ cây. Giá thể lí tưởng là loại có khả năng giữ nướctương đương với độ thoáng khí. Khả năng giữ nước và độ thoáng khí củagiá thể được quyết định bởi những khoảng trống (khe, kẽ) trong nó.Trong cát mịn có những khoảng trống rất nhỏ, không chứa được nhiềunước và oxi. Ngược lại, sỏi thô tạo ra những khoảng trống quá lớn,nhiều không khí nhưng mất nước nhanh [25].
Giá thể lí tưởng phải có những đặc điểm:
- Có khả năng giữ ẩm cũng tốt như độ thoáng khí
- Có pH trung tính và có khả năng ổn định pH
- Thấm nước dễ dàng.
- Bền, có khả năng tái sử dụng hoặc phân huỷ an toàn cho môi trường
- Nhẹ, rẻ và thông dụng.
Giá thể có nhiều loại như xơ dừa, trấu hun, mùn cưa, cát, sỏi vụn, đất nung xốp, đá trân châu, đá bọt núi lửa, rockwool (loại vật liệu có nhiều thớ, sợi, rất được các trang trại lớn ở nước ngoài ưa chuộng),...Có thể dùng đơn lẻ hoặc trộn lại để tận dụng ưu điểm từng loại.
Sau nhiều năm tìm tòi và nghiên cứu, Tiến sĩ Lê Thị Khánh, Trưởng bộmôn Khoa học nghề vườn thuộc khoa Nông học, Trường Đại học Nông lâmHuế đã trồng thử nghiệm rau sạch trên giá thể thành công. Đây là môhình trồng rau sạch đầu tiên tại Thừa Thiên Huế nói riêng và miềnTrung nói chung, mở ra nhiều hướng phát triển mới cho nông nghiệp.Hiện nay, Tiến sĩ Lê Thị Khánh đã thành công trong việc tạo ra giá thểbằng trấu hun, mùn cưa, vỏ lạc ủ, đầu tôm ủ, rơm sau khi đã trồng nấm.Đây là những nguyên liệu sẵn có, dễ làm, không mất tiền mua, lại giải quyết được vấn đề vệ sinh môi trường. Điều đặc biệt giá thể sau thời gian nuôi rau sạch (khoảng 3-4 năm) trong nhà lưới, có thể dùng vào việc bón phân cho cây cảnh [20]
Cũng sau nhiều năm nghiên cứu, thử nghiệm và xây dựng nhiều mô hìnhtrên diện rộng thành công, mới đây Trung tâm nghiên cứu phân bón vàdinh dưỡng cây trồng trực thuộc Viện Thổ nhưỡng Nông hoá đưa ra khuyếncáo bà con nông dân và các hộ gia đình ở thành phố áp dụng kỹ thuậttrồng rau an toàn trên nền giá thể GT 05. GT 05 là giá thể sinh họckhông đất, có hàm lượng chất hữu cơ (OM) và dinh dưỡng cao: 44% chấthữu cơ (OM), 1,2% đạm (N), 0,8% lân (P2O5), 0,7% kali (K2O) và cácdinh dưỡng trung và vi lượng cần thiết khác cho cây trồng. Giá thể GT05 cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng, có độ tơixốp, thoáng khí, nhẹ, sạch nguồn bệnh, không có tuyến trùng, hút vàgiữ ẩm tốt. Trong sản xuất rau an toàn, GT 05 được sử dụng làm bầugieo ươm cây rau giống, sản xuất rau mầm, rau thương phẩm như các loạirau ăn lá, rau ăn quả rất hiệu quả và thuận lợi [26].Dòng sản phẩm đất Multi của Công ty TNHH Nguyên Nông Gino đã được xử lý bằng công nghệ sinh học, thích hợp khí hậu Việt Nam để trồng trongkhay, chậu, máng, bồn hay luống. Thành phần chính của hệ Multi là giáthể hữu cơ từ bụi xơ dừa, phân trùn quế, rong biển, hệ vi sinh vật hữuích, bánh dầu lên men,...Đây là nguồn hữu cơ lâu dài, thân thiện môitrường, không chất độc và vi sinh vật gây hại; hoàn toàn không có đấtthật, không dùng phân hoá học, thuốc trừ sâu bệnh hoá học. Hệ Multi có11 sản phẩm riêng được phối trộn khác nhau để tạo nền dinh dưỡng cânđối cho nhiều loại cây trồng; đồng thời có sự kết hợp liên hoàn giữacác sản phẩm với nhau. Ví dụ: đất multi tổng quát, đất cho rau ăn lá,đất rau ăn quả và hoa, đất ăn trái, đất ginut chuyên trồng rau mầm[27].Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội (2003) [11] qua nghiêncứu bước đầu, đã đưa ra 5 công thức phối trộn giá thể cho 5 loại câytrồng như sau: cây hồng Đà Lạt: than bùn 76,5% + bèo dâu 13,5% + đất10%; cây cảnh: than bùn 76,5% + 6,75% trấu + 6,75% bèo dâu + 10% đất;hoa giống: than bùn 45% + 22,5% trấu + 22,5% bèo dâu + 10% đất; ớt:than bùn 67,5% + 22,5% trấu hun + 10% đất và cà chua: 67,5% than bùn +22,5% bèo dâu + 10% đất
Theo Tạ Thu Cúc và cộng sự., (2000) [1] ở những vùng có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt và đối với những giống rau quý hiếm có thể gieo cây controng vườn ươm. Giá thể làm bầu gồm đất bột đã phơi ải, đập nhỏ, sạchcỏ dại chiếm 1/3 khối lượng ruột bầu, 1/3 xỉ than và 1/3 phân chuồnghoai mục trộn đều, cứ 10kg ruột bầu (chất bồi dưỡng cây giống) trộnthêm 0,5kg supe lân để xúc tiến quá trình hình thành và sinh trưởngcủa rễ. Nếu gieo hạt vào khay thì độ dày của chất bồi dưỡng tuỳ theoloại cây trồng, trung bình từ 5-7cm.
Nghiên cứu về giá thể để trồng rau sạch cũng đã được Trường Đại học AnGiang nghiên cứu, với đề tài: “Nghiên cứu một số giá thể trồng cải mầmthích hợp và cho hiệu quả kinh tế cao”. Nghiên cứu sử dụng giá thể vàdinh dưỡng thích hợp cho việc trồng cải mầm được thực hiện tại khoaNông nghiệp TNTN- Trường Đại học An Giang từ tháng 5 đến tháng 8 năm2005 với 4 loại giá thể rẻ tiền và có sẵn tại tỉnh An Giang là trấu,tro trấu, đất hỗn hợp với các trường hợp không sử dụng hoặc có sửdụng bổ sung phân cá, dinh dưỡng thủy canh rau châu Á (Hà Nội), dinhdưỡng MS (Murashge Skoog) tự pha chế. Qua thí nghiệm đã cho thấy sửdụng phân cá với giá thể tro trấu + trấu cho lợi nhuận cao 23.616đồng/kg. Từ đó có thể thấy việc trồng cải mầm bằng giá thể là khá đơngiản, dễ thực hiện, giá thể trồng rất dồi dào và luôn có sẵn, chi phíđầu tư thấp, hiệu quả kinh tế khá cao.
Theo Dương Thiên Tước (1997) [10] để nhân giống cây trong vườn dùngchậu, bồn để giâm. Dưới đáy bồn chậu nên lót bằng than củi để dễ thoátnước, bên trên dùng 4/5 bùn ao phơi khô, đập nhỏ và 1/5 cát vàng (hoặccát đen) trộn phủ một lớp tro bếp mịn
Đánh giá về các nguồn nguyên liệu sử dụng để phối trộn giá thể, đốivới rau giống và rau an toàn thì đất phù sa sông Hồng và sông Cửu Longlà thành phần cơ bản của giá thể. Tuy nhiên, tỉ lệ phối trộn ở miềnBắc và miền Nam khác nhau phụ thuộc vào chất độn hữu cơ. Miền Bắc chủyếu dùng trấu hun và rơm rạ mục, miền Nam chủ yếu là xơ dừa ngoài racó bổ sung than bùn và phân chuồng hoai mục [9].
1.7. Tình hình cơ bản của nơi sản xuất
1.7.1 Điều kiện tự nhiên
1.7.1.1 Điều kiện khí hậu
Khu Nông Nghiệp Công Nghệ Cao Long Việt – TT Quang Minh– Mê Linh – Hà Nội thuộc đồng bằng sông Hồng có điều kiện khí hậu nhiệt đới có mùa đông lạnh, ít chịu ảnh hưởng của gió bão lớn.
Tổng tích ôn hàng năm là 8.575oC, nhiệt độ trung bình 23,5oC, độ ẩm trung bình là 87%. Lượng mưa trung bình khoảng 1548mm/năm. Với số ngày mưa trên dưới 125 ngày/năm, mùa mưa tập chung chủ yếu từ tháng 5 cho đến tháng 10 ( tập chung 85% tổng lượng mưa trong năm), nguồn nước mặt, nước ngầm chưa bị ô nhiễm, còn dồi dào, diện tích đất thịt nhẹ nhiều, thích hợp cho nhiều loại cây trồng như hoa, cà chua, dưa vàng ……
1.7.1.2 Điều kiện địa hình đất đai của công ty
- Địa bàn công ty nằm ở khu vực:
+ Phía Tây tiếp giáp với Việt Trì - Phú Thọ.
+ Phía Đông tiếp giáp với Bắc Ninh.
+ Phía Bắc tiếp giáp với sân bay Nội Bài.
+ Phía Nam tiếp giáp với trung tâm Hà Nội.
- Do nằm ở khu vực tiếp giáp với đầu nối giao thông, ngoại giao, nên công ty ngày càng phát triển mạnh mẽ.
- Với diện tích đất hơn 9,6 ha thì công ty đã sử dụng chủ yếu để trồng hoa, cây cảnh, cây ăn quả và cây lấy gỗ. Về thành phần đất canh tác chủ yếu là đất phù xa không được bồi đắp hàng năm, đất cát pha, đất thịt nhẹ có tầng canh tác dầy trên 40cm giàu dinh dưỡng cho cây trồng nói chung và cây hoa nói riêng. Nên đã được sử dụng làm nhà lưới trồng hoa rất nhiều.
1.7.2 Điều kiện kinh tế xã hội
1.7.3 Tình hình phát triển hoa, quả và cây cảnh của công ty Long Việt
Công ty có truyền thống trồng hoa cây cảnh từ lâu, có đội ngũ cán bộ kỹ có trình độ cao trong công ty có kinh nghiệm trồng hoa cây cảnh với nhiều mô hình hoa cây cảnh cho thu nhập cao.
Từ năm 2002 công ty đã trồng thử nghiệm một số giống hoa như: Cúc, hồng môn, lyli…với số lượng ít, quy mô nhỏ. Đến nay không những tốt về chất lượng nhiều về số lượng mà có rất nhiều loại hoa mới có chất lượng cao, mang lại thu nhập cao cho công ty đáp ứng nhu cầu thưởng thức hoa của người người tiêu dùng.
CHƯƠNG II
VẬT LIỆU NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu:
- Vật liệu cho nghiên cứu : Giống cà chua SAVIOR có đặc tính chống bệnh vàng xoăn lá, là giống cà chua bán hữu hạn. Đây là giống cà chua đang được trồng rộng rãi trên các tỉnh như Hưng Yên, Nam Định, Hải Dương, Bắc Giang, Tiền Giang.
- Giá thể sử dụng để trồng:
+ Đất: đất màu được phơi khô, đập nhỏ, sàng, rây nhằm loại bỏ đất to,sỏi đá và các vật hỗn tạp.
+ Trấu hun: vỏ trấu đem hun không hoàn toàn, có tính thoát nước, thông thoáng, nhẹ, xốp, không ảnh hưởng đến độ pH
+ Xơ dừa: giữ nước, thông thoáng
+ Phân hữu cơ vi sinh: sử dụng phân hữu cơ sinh học
-Túi bầu đem khử trùng, kích thước túi bầu
2.2 Nội dung nghiên cứu:
- Nghiên cứu đánh giá khả năng sinh trưởng của cà chua trên các nền giá thể khác nhau
- Nghiên cứu đánh giá được khả năng cho năng suất của cà chua trên các nền giá thể khác nhau
- Nghiên cứu đánh giá khả năng chống chịu sâu bệnh hại cà chua trên nền giá thể khác nhau
2.3 Phương pháp nghiên cứu:
2.3.1 Phương pháp bố trí thí nghiệm:
Thí nghiệm được bố trí trong túi bầu theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 công thức và 3 lần nhắc lại, trồng 2cây/1túi bầu diện tích mỗi ô là 6m2 với các chế độ chăm sóc như nhau.
Thí nghiệm gồm 3 công thức giá thể được phối trộn như sau:
CTĐC: trồng ngoài ruộng sản xuất.
CT I: trấu hun 70% + đất 30%
CT II: xơ dừa 70% + đất 30%
CT III xơ dừa 40% + 40% trấu hun + đất 20%
I
CT1
CT2
CT3
II
CT2
CT3
CT1
III
CT3
CT1
CT2
Chú ý: I,II,III là các lần nhắc
CT1 giá thể trấu hun
CT2 giá thể xơ dừa
CT3 giá thể trấu hun và xơ dừa
Định kỳ theo dõi 10 cây/1CT/lần nhắc lại, 7ngày theo dõi 1 lần
2.3.2 Các chỉ tiêu theo dõi:
* Chỉ tiêu về sinh trưởng, phát triển
● Chỉ tiêu về sinh trưởng
- Thời gian sinh trưởng (ngày)
+ Từ gieo đến ngày mọc mầm
+ Từ gieo đến xuất hiện lá thật
+ Từ gieo đến khi xuất hiện chùm hoa đầu tiên
+ Từ gieo đến khi nở hoa
+ Từ gieo đến khi bắt đầu đậu quả
+ Thời gian từ gieo đến khi thu quả lần đầu, các lần tiếp theo và lần cuối
+ Tổng thời gian sinh trưởng: từ khi gieo đến khi thu đợt quả cuối cùng (ngày)
- Động thái tăng trưởng chiều cao cây: đo từ sát mặt đất đến đỉnh sinhtrưởng của thân chính, theo dõi 10 cây/1CT/lần nhắc lại, định kỳ 7ngày theo dõi 1 lần
- Động thái ra lá: đếm số lá/thân chính, theo dõi 10 cây/1CT/lần nhắc lại, theo dõi 7 ngày/lần
● Chỉ tiêu về phát triển
- Vị trí xuất hiện hoa cái
- Số hoa/cây
- Tỉ lệ đậu quả:
Chỉ tiêu về sâu bệnh hại
Đánh giá khả năng chống chịu sâu hại
Các chỉ tiêu về năng suất và yếu tố cấu thành năng suất
- Khối lượng TB quả
- Số quả/cây
- Số quả dị dạng/cây.
2.3.3. Chăm sóc
- Gieo trồng gieo 1 hạt vào khay 1khay khoảng 140 hạt.tưới nước thường xuyên 2 lần/ngày vào sáng sớm và chiều tối
- Sau thời gian gieo khoảng 15 đến 20 ngày khi thấy cây đã xuất hiện lá từ 2 đến 4 lá thật tiến hành trồng cây vào các túi bầu trồng 2 cây trên 1 túi bầu.
- Sau khi cây cao khoảng 20 đến 25 cm thì tiến hành treo dây. Nhằm mục đích giữ cây làm cây không bị đổ.
- Sau 1 thời gian tiến hành cắt tỉa cành mỗi cây nên giữu lại hai thân chính, cần tỉa các lá giá, lá bệnh và tỉa bỏ các nhánh bên
- Tưới nước: bằng hệ thống tưới tự động, đảm bao cây đủ độ ẩm
- Phòng trừ sâu bệnh: Theo dõi hàng ngày phát hiện cây bệnh sớm, loại bỏ mầm mống gây bệnh ngay khi xuất hiện.
- Bón phân:
2.3.4 - Phương pháp xử lý số liệu :
Số liệu được xử lý theo phương pháp thống kê sinh học bằng phần mềm IRRISTAT 4.0 và EXCEL trên máy tính.
CHƯƠNG III
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1 Ảnh hưởng của giá thể tới sinh trưởng và phát triển của cây cà chua.
3.1.1 Thời gian sinh trưởng của cây cà chua
Mọi cây trồng từ khi gieo đến khi kết thúc thu hoạch đều trải qua các giai đoạn sinh trưởng, phát triển nhất định
- Thời gian từ gieo đến mọc: Hạt chỉ nảy mầm khi chúng gặp điều kiện sinh trưởng thuận lợi như: đất đủ ẩm, đủ oxi, nhiệt độ thích hợp, đôi khi cần cả ánh sáng nữa. Quá trình nảy mầm bắt đầu với sự hấp thụ nướcnhờ cơ chế hút trương của hạt. Môi trường nước trong hạt cần để khởi động bộ máy chuyển hóa vật chất, có tác dụng phân giải tinh bột,, chất béo và tổng hợp nhiều nguyên liệu quan trọng cho quá trình nảy mầm. Do đó, nước là yêu cầu tuyệt đối cho sự nảy mầm. Khả năng giữ nước (độ ẩm) của các loại giá thể là rất quan trọng, đảm bảo cho sự nảy mầm tốt nhất của hạt. Chúng tôi tiến hành gieo hạt vào ngày 9, tháng 9, năm 2009, gieo trựctiếp vào khay xốp và ngoài ruộng sản xuất. Sau đó 3 ngày thì tất cả hạt trong các công thức thí nghiệm đều mọc 100%, chứng tỏ các giá thể gieo hạt có thành phần khác nhau nhưng không ảnh hưởng nhiều đến thời gian mọc của hạt, do vào thời điểm gieo hạt gặp điều kiện nhiệt độ từ 30 – 350C, cung cấp đủ nước cho hạt (tưới 2 lần/ngày) là hai yếu tốthích hợp cho hạt dưa chuột nảy mầm thuận lợi. Tỉ lệ hạt mọc ở các công thức là 100% chứng tỏ chất lượng hạt giống tốt.
Thời gian từ gieo đến xuất hiện lá thật: Sau khi kết thúc giai đoạnnảy mầm thì lá thật xuất hiện. Ở CT4 (50% đất + 50% xơ dừa) xuất hiện lá thật sau gieo 6 ngày, còn các công thức khác sau gieo 1 tuần.
Thời gian từ gieo đến xuất hiện hoa: Việc xác định thời gian này làrất quan trọng, có ý nghĩa trong việc bố trí mùa vụ để thời gian nởhoa tránh được các điều kiện bất lợi của môi trường, bởi thời gian nởhoa, thụ phấn thụ tinh là thời kỳ rất mẫn cảm với điều kiện môitrường, đặc biệt là nhiệt độ, chỉ cần gặp điều kiện nhiệt độ thấp hơnnhiệt độ giới hạn dưới có thể dẫn đến không có năng suất.
Thời gian từ gieo đến bắt đầu đậu quả: Qua bảng 1, chúng tôi nhậnthấy thời gian đậu quả sớm nhất là CTĐC và CT4 (37 ngày), muộn nhất làCT1 (39 ngày), các công thức còn lại sau gieo 38 ngày cây bắt đầu đậuquả. Thời gian cho thu quả đợt cuối Dựa vào thời gian cho thu quả đợt cuối và đầu có thể xác định được thời gian cho thu quả của các công thức, đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá giữa các công thức có thành phần giá thể khác nhau. Thời gian cho thu quả càng dài thì năng suất càng cao
Tổng thời gian sinh trưởng: Được tính từ lúc gieo đến thu quả lầncuối. Tổng thời gian sinh trưởng của CTĐC là 67 ngày, các công thứccòn lại có thời gian sinh trưởng là 70 ngày.Ở thí nghiệm này, chúng tôi thấy trong cùng điều kiện chăm sóc thì dưa chuột trồng trong khay xốp với thành phần giá thể khác nhau được bố trí trong nhà lưới có thời gian sinh trưởng dài hơn so với dưa chuột trồng ngoài ruộng sản xuất.Khi hạt mới nảy mầm, thời gian đầu cây sống chủ yếu nhờ vào dinh dưỡng trong hạt, do đó không phụ thuộc nhiều vào dinh dưỡng của môi trường. Khi lá thật hình thành và rễ xuất hiện lông hút thì dần dần chuyển qua sống bằng khả năng quang hợp của bộ lá và khả năng hút nước, dinh dưỡng của bộ rễ. Thành phần giá thể khác nhau đồng nghĩa với hàm lượng dinh dưỡng, độ tơi xốp, khả năng giữ ẩm khác nhau, do đó sẽ ảnh hưởng khác nhau đến động thái tăng trưởng chiều cao và số lá của cây
3.1.2. Ảnh hưởng của giá thể tới động thái và tốc độ tăng trưởng chiều cao cây
Thân cây là bộ phận chủ yếu mà các chất khoáng được lấy từ đất vậnchuyển qua và cũng là nơi mà các chất hữu cơ sau khi được tổng hợp trên lá sẽ vận chuyển đến các bộ phận của cây thông qua hệ thống mạch dẫn. Như vậy mối quan hệ giữa bộ phận bên trên và bộ phận bên dưới của cây được điều hòa là do thân cây, đảm bảo cho thân cây sinh trưởng và phát triển tốt tạo tiền đề cho cây có năng suất cao và chất lượng tốt.
Chiều cao cây phụ thuộc vào chất dinh dưỡng và mùa vụ trong đó lượng chất dinh dưỡng mà cây hút được là quan trọng nhất. Thành phần của các loại giá thể khác nhau thì lượng chất dinh dưỡng và độ tơi xốp, thông thoáng cũng khác nhau làm cho khả năng hút chất dinh dưỡng cũng khác nhau. Chiều cao cây trồng nói chung, cây rau nói riêng được đánh giá quađộng thái và tốc độ tăng trưởng chiều cao cây. Theo quy luật chung của cây trồng tốc độ tăng trưởng về chiều cao cây đó là, ban đầu có tốc độ tăng dần đạt đến tốc độ tối đa vào thời kỳ bắt đầu hình thành quả, sau đó tốc độ lại giảm dần.
Động thái tăng trưởng và tốc độ tăng trưởng chiều cao cây có liên hệchặt chẽ tới năng suất cây dưa chuột, tăng trưởng một cách hợp lý theo đúng quy luật đồng thời các điều kiện phải thuận lợi thì năng suất đạt được là tối đa và ngược lại.
Qua theo dõi chúng tôi nhận thấy, trên cùng một đối tượng cây trồngvới chế độ chăm sóc như nhau thì giá thể khác nhau sẽ cho tốc độ tăng trưởng chiều cao cây khác nhau và trong cùng một loại giá thể nhưng tại thời điểm khác nhau thì có tốc độ tăng trưởng khác nhau.
3.1.3. Ảnh hưởng của giá thể trồng tới động thái ra lá và tốc độ tăngsố lá của cây cà chua
Sau khi kết thúc giai đoạn nảy mầm, các lá thật xuất hiện. Các lá đượchình thành tại đỉnh sinh trưởng. Sự tăng chiều cao cây phản ánh khả năng đồng hóa các chất dinh dưỡng từ lá về rễ. Rễ hút nước và khoáng cung cấp cho các bộ phận trên mặt đất, còn lá cung cấp các sản phẩm quang hợp cho hệ thống rễ sinh trưởng. Sự lớn lên của cây cũng như các hoạt động sinh lý khác trong cây diễn ra thuận lợi đồng nghĩa với việc cung cấp đầy đủ dinh dưỡng từ giá thể.
Lá là cơ quan dinh dưỡng làm nhiệm vụ quang hợp chủ yếu trên cây, ngoài ra lá còn có chức năng thoát hơi nước và trao đổi khí. Lá thực hiện quá trình quang hợp làm biến đổi năng lượng ánh sáng mặt trời thành năng lượng hóa học dưới dạng các hợp chất hữu cơ. Như vậy, cùng với quá trình hô hấp nó chuyển quang năng thành hóa năng, tạo ra các hợp chất hữu cơ và vận chuyển đi khắp cơ thể duy trì sự sống và giúp cho quá trình sinh trưởng, phát triển của cây. Cây có bộ lá phát triển tốt và đầy đủ sẽ có khả năng quang hợp cao do đó khả năng tích lũy vật chất nhiều tạo tiền đề cho năng suất cây trồng cao. Động thái ra lá của cây đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển của bộ rễ, các cơ quan khác cũng như tạo năng suất sau này.
3.1.4 Tình hình sâu bệnh hại trên cây cà chua ở các công thức khác nhau
Sâu bệnh là một trong những nguyên nhân làm giảm năng suất, chất lượng nông sản phẩm. Ngày nay khi lương thực đã đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu tiêu dùng của con người thì chất lượng nông sản ngày càng được quantâm, vì vậy các loại rau ngày nay đã được sản xuất theo quy trình sạch và an toàn đối với người tiêu dùng. Những biện pháp kỹ thuật làm tăng khả năng chống chịu sâu bệnh của cây mà không phải sử dụng đến thuốc bảo vệ thực vật, đây là hướng đi đúng đắn cần được phát triển trong thời gian lâu dài. Tuy nhiên ngày nay cây trồng lại bị nhiễm nhiều loại sâu bệnh khác nhau rất đa dạng và phong phú, mức độ nhiễm bệnh nặng hay nhẹ phụ thuộc sức đề kháng của giống, điều kiện ngoại cảnh (nhiệt độ, ánh sáng, lượng mưa,…) và các biện pháp kỹ thuật trồng trọt như: bón phân, thời vụ, mật độ trồng. Ở cà chua thường xuất hiện một số bệnh phổ biến như: Bệnh héo cây con, bệnh héo xanh, chết nhát, bệnh thán thư (Colletotrichum phomoides), bệnh mốc đen lá (Cladosporium fulvum), . Bệnh héo muộn, sương mai…. một số loạisâu hại thường xuất hiện và gây hại: Sâu xanh đục trái (Heliothis armigera). Bọ phấn trắng, rệp phấn trắng (Bemisia tabaci)
3.2 Ảnh hưởng của giá thể tới năng suất, chất lượng của quả cà chua
Năng suất cây trồng là mối quan tâm hàng đầu của người trồng, cũng là kết quả cuối cùng để đánh giá toàn bộ quá trình sinh trưởng và phát triển của cây. Năng suất được cấu thành bởi các yếu tố như số quả/cây khối lượng quả, tỷ lệ đậu quả, chiều dài quả, đường kính quả,… Các yếu tố này quyết định trực tiếp đến năng suất cây cà chua và có quan hệ chặt chẽ với nhau. Muốn tăng năng suất thì phải tăng một trong các yếu tố trên, không thể đồng thời tăng các yếu tố đó cùng một lúc. Nếu số quả/cây nhiều thì khối lượng quả giảm, như vậy năng suất có thể không tăng mà có thể giảm. Trong thí nghiệm để đánh giá giữa các giá thể chúng tôi xét đến các năng suất như năng suất cá thể, năng suất lý thuyết, năng suất thực thu và các yếu tố cấu thành nên năng suất.
3.3 Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất cà chua
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Kết luận
Qua theo dõi đánh giá tình hình sinh trưởng, phát triển và năng suất của dưa chuột với các nền giá thể khác nhau, chúng tôi sơ bộ rút ra một số kết luận sau:
Về đặc điểm sinh trưởng, phát triển:
Thành phần giá thể khác nhau có ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng và phát triển của cây cà chua khác nhau:
CTĐC (trồng ngoài ruộng sản xuất) có thời gian sinh trưởng ngắn nhất (60 ngày), các công thức còn lại có thời gian sinh trưởng dài hơn (65ngày).
Trong 3 loại công thức nghiên cứu thì thành phần giá thể chứa xơ dừa 70% (CTII) ) thích hợp nhất đố với sinh trưởng, phát triển của cây cà chua
Các công thức có tỷ lệ đậu quả cao là CTĐC và CT II
Về khả năng chống chịu sâu bệnh:
Các công thức bị nhiễm bệnh ở mức rất nhẹ đến nặng, riêng CT2, CT3 không bị nhiễm bênh thán thư CT1, CT2, CT3 không bị bệnh virus. Còn CTĐC lại là công thức bị nhiễm các bệnh ở mức độ bị hại nặng và sốcây bị hại nhiều hơn so với các công thức khác.
Các công thức đều bị bọ phấn trắng, rệp phấn trắng gây hại nhưng ở mức độ rất nhẹ, song tỷ lệ cây bị hại khác nhau trong từng công thức
Về năng suất
Các nền giá thể khác nhau cho năng suất khác nhau. CT II: xơ dừa 70% + đất 30%
Kết luận chung:
- Cà chua trồng ngoài ruộng sản xuất sinh trưởng, phát triển, đạt năng suất thấp hơn so với trồng trong túi bầu ở trong nhà lưới với hệ thống tưới bằng phương pháp tưới nhỏ giọt
- Giá thể thích hợp nhất cho cây cà chua sinh trưởng, phát triển,năng suất cao là 70% xơ dừa + 30% đất
Đề nghị
Do thời gian thực tập có hạn nên các kết quả nghỉên cứu thu được củachúng tôi chưa thể hoàn chỉnh, đề nghị tiếp tục tiến hành nghiên cứuđể đưa ra các kết quả hoàn chỉnh. Thí nghiệm cần lặp lại nhiều lần đểđánh giá hiệu quả của giá thể trồng phù hợp trên nhiều loại rau khácnhau.
Đề nghị tiến hành các thí nghiệm tương tự với các giá thể khác nhau để xác định giá thể thích hợp cho từng vụ, từng loại rau để có thể hoàn thành quy trình kỹ thuật
.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bctc mac ha.doc