Đề tài Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước Việt Nam để kích thích kinh tế của nhóm nghiên cứu Harvard

Chương 1: Lý thuyết về phá giá đồng nội tệ Trang 1.1./ Khái niệm 4 1.2./ Những tác động 5 1.2.1./ Ngắn hạn 5 1.2.2./ Trung hạn . 6 1.2.3./ Dài hạn . 6 1.3./ Tại sao chính phủ phá giá tiền tệ . 7 1.4./ Điều kiện để phá giá thành công 7 1.4.1./ Phương pháp tính độ co giãn: 7 1.4.2./ Phương pháp hấp thu: . 8 1.4.3./ Phương pháp tiền tệ : 9 1.5./ Trung Quốc phá giá đồng Nhân dân tệ 9 1.5.2./ Những mặt lợi mà Trung Quốc có được từ phá giá: . 10 1.5.1./ Cụ thể hành động của chính phủ: 13 1.6./ So sánh độ mở nền kinh tế Việt Nam năm 2008 và Trung Quốc giai đoạn 1993-1994 18 Chương 2: Đề xuất giảm giá VND của nhóm nghiên cứu đại học Harvard 2.1./ Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam . 19 2.1.1./ Thuận lợi để thực hiện đề xuất giảm giá VND . 19 2.1.1.1./ CPI tăng: 19 2.1.1.2./ Lạm phát ở mức cao: . 21 2.1.1.3./ Các biện pháp hành chính thời gian qua tỏ ra không có hiệu quả: . 23 2.1.1.4./ Sự gia tăng nguồn vốn đầu tư nước ngoài: . 29 2.1.1.5./ Thu nhập quốc dân tăng cao: 33 2.1.1.6./ VND đang bị định giá cao: . 36 2.1.1.7./ Những yếu tố khác làm cho tỷ giá USD/VND tăng 49 2.1.2./ Khó khăn khi thực hiện đề xuất giảm giá VND 50 2.2./ Đánh giá tác động của việc giảm giá VND đối với Việt Nam 52 2.2.1./ Những tác động tích cực của việc giảm giá VND 52 2.2.2./ Những tác động tiêu cực của việc giảm giá VND 54 2.2.2.1./Ảnh hưởng đến các ngành xuất khẩu . 54 2.2.2.2./Tác động đến các ngành sản xuất trong nước . 57 2.2.2.3 ./Tác động đến thị trường ngoại tệ trong nước . 58 2.2.2.4./ Tác động tâm lý người dân và các doanh nghiệp 58 2.2.2.5./ Tác động đến các khoản nợ của chính phủ và DN trong nước . 59 2.2.2.6./ Tỷ giá, lạm phát & lãi suất 60 2.2.2.7./ Tác động đến cán cân tài khoản vãng lai 61 Chương 3: Những giải pháp hỗ trợ cho đề xuất giảm giá VND 3.1./ Giải pháp cho doanh nghiệp xuất khẩu trước biến động tỷ giá: sử dụng các công cụ phái sinh của ngân hàng thương mại 62 3.2./ Hiện nay, VND mang rủi ro lớn nhất chính là “mất niềm tin” . 62 3.3./ Điều chỉnh ưu tiên của đầu tư công . 62 3.4./ Thành lập tổ công tác đặc biệt về đầu tư công 63 3.5./ Không được đánh mất sự kiểm soát đối với tăng trưởng cung tiền và tín dụng. 64 3.6./ Cần phải khuyến khích cạnh tranh 64

doc69 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2299 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước Việt Nam để kích thích kinh tế của nhóm nghiên cứu Harvard, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h đến ngày 22/10 là 2 tỷ USD. Tính từ đầu năm 2008, đã có 953 dự án đăng ký mới, với tổng số vốn 58.3 tỷ USD, gấp 5 lần so với cùng kỳ năm 2007. Nếu tính thêm 1 tỷ USD vốn đăng ký bổ sung của 247 lượt dự án được cấp phép các năm trước thì 10 tháng cả nước đã thu hút được 59.3 tỷ USD vốn đăng ký. Tổng vốn FDI của nước ngoài thực hiện 10 tháng năm 2008 ước tính đạt 9.1 tỷ USD (trong đó: phía nước ngoài ước đạt 700 triệu USD) tăng 38,3% so với cùng kỳ năm 2007. Điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài vẫn tin tưởng vào sự ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam về trung hạn và dài hạn. Ü FDI cam kết của cả năm 2008 đã đạt con số kỷ lục 64,011 tỷ USD, tăng gấp 3 lần so với năm 2007. Lượng giải ngân của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam lên con số 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007. ¤ Công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong lượng vốn đăng ký, với 572 dự án chiếm 54% về vốn đầu tư đăng ký. Trong đó, các dự án thăm dò và khai thác dầu tại Việt Nam thu hút 17,5% tổng vốn FDI. ¤Năm 2008 cũng chứng kiến một loạt dự án thép quy mô lớn vào Việt Nam, và đến nay vẫn còn một vài nhà đầu tư nước ngoài xếp hàng chờ được cấp phép. Lĩnh vực dịch vụ cũng chiếm lượng vốn lớn, 45%. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâm-ngư. Nguồn: Tổng cục thống kê Biểu đồ 2.11: Cơ cấu vốn FDI Ü FDI thực hiện là nguồn tài trợ chính cho các khoản thâm hụt thương mại đang diễn ra. Như vậy, về lâu dài thì nâng cao chất lượng tăng trưởng, tiết kiệm trong nước và cải thiện cán cân thương mại mới là những nhân tố giúp nền kinh tế phát triển bền vững. Ø Dòng vốn ODA tiếp tục xu hướng tích cực: Ü Đến ngày 23/9/2008 nguồn vốn này đã được hợp thức hoá thông qua các hiệp định ký kết với các nhà tài trợ đạt 1.826 tỷ USD, gồm có viện trợ không hoàn lại 184 triệu USD, vốn vay 1.642 tỷ USD. Số vốn ODA giải ngân 9 tháng đạt 1.415 tỷ USD. Ü Tháng 10/2008, tổng số vốn ODA giải ngân đạt 22,065 tỷ USD, chiếm 52% tổng vốn ODA cam kết và 62,65% tổng vốn ODA đã ký kết. Trong cơ cấu ODA, ngành giao thông vận tải, bưu chính viễn thông chiếm tỷ trọng cao nhất. Biểu đồ 2.12: Cơ cấu sử dụng vốn ODA Ø Dòng vốn FII và kiều hối: Ü Vốn đầu tư gián tiếp (FPI) vào các thị trường cổ phần và nợ rất dễ thay đổi. Ngay từ nửa cuối 2006, nguồn FPI đã được khuyến khích chuyển vào TTCK Việt Nam khi chỉ số thị trường tăng lên gấp đôi. Trong năm 2007, có tới 10 tỉ USD FPI vào Việt Nam, tương đương 15% GDP. Ü So với năm 2007, (lượng kiều hối năm 2007 là 6,7 tỷ USD) thì năm 2008 lượng kiều hối tăng cao, đạt mức 8 tỷ USD. Lượng kiều bào về nước đầu tư, hợp tác làm ăn hiện nay khoảng 3.000 doanh nghiệp đứng tên hoặc có vốn của kiều bào. Tổng mức đầu tư đăng ký gần 2 tỷ USD, trong đó sơ bộ đánh giá có 60% số dự án hoạt động có hiệu quả. 2.1.1.5./ Thu nhập quốc dân tăng cao: Ø Trong ba năm trở lại đây, Việt Nam đã hưởng thụ một thời kỳ hưng thịnh với mức tăng trưởng GDP vừa cao lại ổn định, thậm chí vượt trên cả tiềm lực tăng trưởng của nền kinh tế. Biểu đồ 2.13: Tăng trưởng GDP và tỷ lệ đầu tư/GDP giai đoạn 1997 – Q1/2009 Ø GDP bình quân đầu người theo giá thực tế năm 2008 đạt vào khoảng 17.328.227 VND, qui đổi ra USD là 1032 USD, tăng 197 USD so với năm 2007, vượt khoảng 80 USD so với kế hoạch năm 2008 và đạt 98% so với mục tiêu kế hoạch 2006-2010 về GDP bình quân đầu người được Quốc hội phê duyệt. Nguồn: CEIC, TT Nghiên cứu Kinh tế Goldman Sachs Biểu đồ 2.14: Từ năm 2005, kinh tế Việt Nam có dấu hiệu ngày càng "nóng" lên Có được bước nhảy vọt này là nhờ vào sự mở rộng của công nghiệp, và đặc biệt là ngành dịch vụ. Nguồn: CEIC, TT Nghiên cứu Kinh tế Goldman Sachs Biểu đồ 2.15: GDP qua các năm Công lớn thuộc về sức phát triển vượt trội của ngành dịch vụ Chú thích: So sánh lượng GDP theo các khu vực của nền kinh tế : Khu vực thứ nhất : Khu vực thứ hai : Khu vực dịch vụ  Ø Điều này có nghĩa là sản lượng hàng hóa sản xuất dần dần không đáp ứng được nhu cầu ngày càng nhiều của người tiêu dùng. Cầu càng lớn hơn cung thì khoảng cách càng nới rộng. Về lâu dài, khi nền kinh tế không còn khả năng "chịu nhiệt" nữa, sức ép sẽ dồn lên nền kinh tế. Ü Giới tiêu dùng trẻ tại Việt Nam đã nhiệt tình quảng bá phương châm sống "tiêu trước, trả sau", chạy theo những sản phẩm mới nhất của xe máy Piaggio, điện thoại di động Nokia hay quần áo hàng hiệu. Tư tưởng sống "không cần đến ngày mai" này phần nào đóng góp vào tình trạng bất ổn định của nền kinh tế ngày hôm nay.  Ü Hơn nữa, những báo cáo về hiện trạng nút cổ chai cơ sở hạ tầng và một thị trường lao động gắt gao cũng là cảnh báo về những sức ép đang ngày càng tích lũy. Đường xá, cầu cảng thường xuyên tắc nghẽn đã kìm hãm năng suất của ngành vận tải. Ü Cùng lúc đó, việc thiếu điện đã trở thành “cơm bữa” không chỉ tại các thành phố lớn mà còn trong những khu công nghiệp – xương sống của nền kinh tế. Trong thị trường lao động, dù lợi thế dân số đem lại nguồn nhân lực dồi dào, lượng lao động lành nghề vẫn là quá ít để đáp ứng nhu cầu đang gia tăng nhanh của các hãng đầu tư.  2.1.1.6./ VND đang bị định giá cao: Ø Vài số liệu về tình hình tỷ giá các năm qua: Ü Biến động giá và tỷ giá của Việt Nam và Mỹ giai đoạn 2001 – 2007: ¤ Nếu quan sát trên tỷ giá danh nghĩa, so sánh biến động giữa các năm thì Việt Nam đồng vẫn mất giá tương đối so với đô la Mỹ một cách đều đặn. Chẳng hạn, nếu năm 2001 tỷ giá là 14.725 đồng và tỷ giá trung bình của năm 2006 là 15.994 đồng thì Việt Nam đồng vẫn mất giá so với năm gốc là 8,6%. Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tỷ giá USD/VND 14.725 15.280 15.510 15.740 15.859 15.994 16.241 Nguồn: Tính toán trên số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam và Thống kê Tài chính quốc tế của IMF. Số liệu 2007 là số liệu của tháng 8 Biểu đồ 2.16: Biến động tỷ giá ¤ Bảng bên trên cho thấy, từ năm 2001, giá cả ở Mỹ tăng 16,2% trong khi giá ở Việt Nam tăng đến 39,3%. Do đó, dù tỷ giá danh nghĩa của Việt Nam có đánh giá thấp một cách tương đối so với đô la Mỹ (10%) thì tỷ giá thực vẫn cho thấy tiền đồng của Việt Nam đang định giá cao 8% kể từ năm 2001. Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp xuất khẩu sang Mỹ đang bất lợi từ tỷ giá và ngược lại, các doanh nghiệp nhập khẩu sử dụng đồng đô la đang hưởng lợi. Ü Diễn biến tỷ giá USD/VND năm 2008: ¤ Sau một thời gian ổn định, tỷ giá trở lại xu thế tăng với giao dịch chạm biên giới hạn. Nguồn: SBV, Bloomberg. Biểu đồ 2.17: Tỷ giá USD/VND năm 2008 ¤ Trong năm 2008, VND lên giá khoảng 20% so với USD. So với 3 năm trước, VND đã lên giá khoảng 30 - 40% so với USD (xét trong bối cảnh USD tăng giá mạnh so với rổ tiền tệ nhưng VND hầu như vẫn được neo với USD). VND đã lên giá nhiều so các đồng tiền khác. Do đó, việc duy trì một tỷ giá VND/USD khá ổn định trong thời gian qua trong khi đồng USD tăng giá mạnh so với các đồng tiền chủ chốt khác, đã dẫn tới VND lên giá so các đồng tiền này làm tăng khó khăn cho xuất khẩu Việt Nam.: VND tăng so với đồng euro khoảng 10%, với đồng tiền của một số nước khác trong khu vực từ 5 – 7%. Nguồn: VietstockFinance Biểu đồ 2.18: Tỷ giá VND so với các nước ¤ Có rất nhiều điều kiện căn bản cho một cuộc khủng hoảng tiền tệ đã xuất hiện. Đó là tỷ giá đang vượt quá giá trị thực, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng và dự trữ ngoại hối thấp ( tháng 6/2008: 20,7 tỷ). Tỷ giá hiệu lực thực của VND được giữ ở mức quá cao, nhưng vẫn chưa phải ở mức cao nhất, chỉ cao hơn 1.3 lần độ lệch chuẩn so với mức trung bình dài hạn của nó. Theo tính toán của nhóm nghiên cứu Hardvard, tỷ giá hiệu dụng thực của VND đã giảm trong giai đoạn 2000 - 2003, nhưng sau đó đã tăng gần như liên tục (trừ một giai đoạn giảm giá ngắn trong nửa đầu 2006) khi lạm phát bắt đầu tăng nhanh. . Biểu đồ 2.19: Tỷ giá thực hiệu dụng REER ¤ Tỷ giá thực của VND vào thời điểm tháng 9/2008 đã cao hơn mức của tháng 1/2000 là 20% và cao hơn mức của tháng 1/2004 tới 33%. Và xu hướng tăng tỷ giá thực của VND vẫn được duy trì trong 3 tháng cuối năm 2008 do đồng USD mạnh lên so với đồng EURO, cũng như với hầu hết các đồng tiền của châu Á. Ø Tác động của việc VND định giá cao đến: Ü Nhìn chung: ¤ Việc VND tăng giá tương đối so với USD sẽ làm giảm giá nguyên vật liệu nhập khẩu như xăng dầu, giảm sức ép lên lạm phát từ những mặt hàng này. ¤ VND tăng giá sẽ tăng cung hàng nội địa, góp phần giảm khan hiếm hàng hóa trong nước hiện nay. Khi lượng cung hàng tăng, lạm phát cũng sẽ giảm. ¤ Để thị trường có tiếng nói quan trọng hơn nữa trong quyết định tỷ giá. Điều này sẽ góp phần cởi trói cho Chính sách tiền tệ trong nước, giúp NHNN thoát khỏi đối mặt với “Bộ ba bất khả thi”. Việc linh hoạt chính sách tỉ giá sẽ giúp NHNN hạn chế được lượng cung tiền vào thị trường vì không phải gắn chặt với nghĩa vụ mua lại nguồn vốn ngoại tệ, giúp kiềm chế lạm phát và có thể sử dụng tự do hơn chính sách tiền tệ khác như lãi suất và thị trường mở đối phó với những cú sốc nội địa như thiên tai, khủng hoảng thanh khoản... ¤VND mạnh lên sẽ giúp giảm lãi suất của đồng nội tệ. NHNN sẽ tránh được việc phải can thiệp hành chính vào chính sách lãi suất tiền gửi của các NHTM. ¤ VND mạnh lên sẽ giúp duy trì và cải thiện giá trị đồng nội tệ, giảm thiểu hiện tượng Đô la hóa: Theo như số liệu của IMF năm 2001 thì chỉ số Đô la hóa tại Việt Nam đã ở mức cao (2) ngay cả khi chưa tính đến lượng ngoại tệ tiền mặt lưu hành trong dân chúng ngoài tầm kiểm soát của NHNN. Thời gian gần đây, VND yếu tương đối, lạm phát tăng cao khiến lãi suất tiền gửi âm do vậy nhiều người dân sẽ tìm cách chuyển đổi tài sản của mình sang các ngoại tệ mạnh khác và vàng khiến chỉ số Đô la hóa tại Việt Nam đã và đang tăng. Lưu ý Đô la hóa ở đây nên được hiểu theo nghĩa rộng là sử dụng ngoại tệ mạnh thay thế như Yên Nhật, đồng Euro, và vàng…không nhất thiết phải là đồng USD. ¤ Giúp chọn lọc vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam: VND lên giá sẽ có thể giảm lượng ngoại tệ chảy vào Việt Nam nhưng nó lại có tác dụng chọn lọc những nguồn đầu tư lâu dài thực sự có hiệu quả cao, hạn chế được những nguồn ngắn hạn mang tính đầu cơ rủi ro lớn. Tất nhiên về dài hạn, Việt Nam chỉ có thể thu hút vốn nước ngoài khi kinh tế vĩ mô ổn định mà điều kiện cần là lạm phát trong tầm kiểm soát. Ü Cụ thể tác động đến: ¤ Cán cân thương mại: Là một nền kinh tế dựa nhiều vào xuất khẩu và ngày càng mở cửa đối với nhập khẩu, Việt Nam không thể giữ tỷ giá thực của VND quá cao trong một thời gian quá dài, đặc biệt trong bối cảnh suy giảm toàn cầu năm 2009. Việc VND trở nên quá mạnh so với các đồng tiền của các đối tác thương mại chủ yếu làm cho thâm hụt thương mại gia tăng. Khi VND tăng giá so với USD, đồng USD lại tăng giá so với nhiều đồng tiền khác thì VND càng mạnh hơn, làm cho làm hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam bị giảm sức cạnh tranh, tác động tiêu cực đến cán cân thương mại. Điều này trở nên nghiêm trọng khi nhu cầu thế giới giảm ª Tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán luôn là một trong những vấn đề hàng đầu của nền kinh tế Việt Nam. Từ nhiều năm qua, khi nền kinh tế phát triển thuận lợi, cán cân thanh toán tương đối ổn định, nhờ vào sự bù đắp của các nguồn thu ngoại tệ (cán cân vốn), bao gồm FDI, kiều hối, ODA, đầu tư gián tiếp (FII – chứng khoán), và du lịch. Tuy nhiên, sự mất cân đối đã trở nên nghiêm trọng hơn trong những năm gần đây, nhất là từ khi xảy ra những biến động kinh tế trong và ngoài nước hồi đầu năm 2008. Nguồn: IMF; lãi suất cho vay bình quân 2008 là ước tính của Harvard Biểu đồ 2.20: Các chỉ báo kinh tế vĩ mô của Việt Nam ª Nhìn vào ta thấy giá trị nhập siêu tăng rất nhanh trong 5 tháng đầu năm và tăng chậm lại ở các tháng cuối năm. Cụ thể là nhập siêu tháng 1 là 1 tỷ USD và tháng 2 giá trị nhập siêu tăng thêm gần 3.2 tỷ USD, cao nhất là tháng 4 tăng gần 3.7 tỷ USD, nhưng sang tháng 6 tăng chỉ là 356 triệu USD và tháng 9 nhập siêu giảm 137 triệu USD, các tháng còn lại của quý III và quý IV tăng chậm dưới 1 tỷ USD. Biểu đồ 2.21: Giá trị tăng thêm của nhập siêu qua mỗi tháng trong năm 2008 Þ Nguyên nhân chủ yếu của sự tăng nhanh trong các tháng đầu năm là nhu cầu nguyên vật liệu tăng cao đối với các doanh nghiệp trong nước, và trong các tháng đầu năm, hợp đồng nhập khẩu được thực hiện nhiều hơn. Còn trong các tháng cuối năm, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, làm cho giá trên thị trường giảm, làm giá trị nhập khẩu giảm. giá trị xuất khẩu cũng giảm tương ứng. ª Thâm hụt thương mại đang mở rộng ngày càng lớn. Trong hai năm qua, thâm hụt trong thương mại hàng hóa mỗi quý tăng từ trung bình 1.2 tỉ đô vào 2006 tới 3.1 tỉ vào 2007, và cuối cùng phồng lên tới 8.3 tỉ trong quý 1 năm 2008, tương đương tới 11.2% của GDP vào 2007 .   Nguồn: CEIC, TT Nghiên cứu Kinh tế Goldman Sachs Biểu đồ 2.22:Thâm hụt thương mại ngày càng lớn khi cung nội địa dâng cao Biểu đồ 2.23: Giá trị tăng thêm của xuất khẩu và nhập khẩu mỗi tháng trong năm 2008 ª Cán cân thương mại tiếp tục bị thâm hụt vào tháng 10. Kim ngạch xuất khẩu trong tháng ước tính đạt 5.1 tỷ USD, giảm 3.3%. Điều này được giải thích do việc giảm giá của một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam như dầu thô giảm 20%, cà phê giảm 7% và gạo giảm 20%... Tính chung cho 10 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 53,8 tỷ USD, tăng 36,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu tháng 10 ước đạt 5.8 tỷ USD, tăng 5.2% so với tháng trước, mặc dù một số mặt hàng chiếm giá trị lớn như xăng dầu giảm 7.7%, sắt thép giảm 7.1%, phân bón giảm 17.1%. Như vậy thâm hụt thương mại vào tháng 10 lên đến 700 triệu USD, thấp hơn rất nhiều so với 5 tháng đầu năm nhưng lại cao hơn trong 2 tháng gần đây. Tính chung kim ngạch hàng hóa nhập khẩu 10 tháng ước tính đạt 70,1 tỷ USD, tăng 42,6% so với cùng kỳ năm trước. Mức thâm hụt thương mại trong 10 tháng đã lên tới 16.528 tỷ USD. Nguồn Tổng cục Thống kê Biểu đồ 2.24: Cán cân thương mại 10 tháng 2008 ª Sự thâm hụt cán cân thương mại (nhập siêu) do nhập khẩu tăng nhanh và cao hơn mức tăng trưởng xuất khẩu, thể hiện rõ qua biểu đồ……..Trong 5 tháng đầu năm 2008, nhập siêu tăng mạnh, lên đến mức báo động, 14,4 tỷ USD, nhưng được kiềm chế ở mức thấp trong những tháng sau đó, một phần do giá hàng trên thị trường thế giới giảm mạnh, và khép lại với con số 17.5 tỷ USD cho năm 2008 (20% GDP), tăng đáng kể so với 12.45 tỷ, năm 2007. Biểu đồ 2.25: Cán cân thương mại Việt Nam qua các năm . Với xu hướng tỷ giá USD/VND năm 2008, năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu của Việt Nam đang suy giảm, đồng thời tỷ giá này cũng đang khuyến khích nhập khẩu. Nếu trong năm 2009, NHNN không điều chỉnh tỷ giá USD/VND cho phù hợp thì tình hình nhập siêu cao sẽ vẫn tiếp tục được duy trì.==> không tốt cho nền kinh tế. Bảng 2.3: Một vài chỉ tiêu kinh tế qua các năm Các chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009E Cân bằng ngân sách chính phủ (% GDP) -0,1 1,1 -2,2 -1,6 -4,0 Cán cân thương mại (triệu USD) -4.314 -5.065 -14.121 -18.452 -17.044 Cán cân tài khoản vãng lai (triệu USD) -561 -229 -6.901 -9.135 -5.210 Nợ nước ngoài (% GDP) 32,5 31,4 33,3 29,8 30,9 Dự trữ ngoại tệ (triệu USD) 8.557 11.485 21.000 22.400 22.962 Nguồn: Ngân hàng Thế giới (WB) - Ghi chú: E là dự báo. ¤ DN XNK: Ở Việt Nam, tuy nhà nước đã điều chỉnh tỉ giá nhưng mức điều chỉnh vẫn chưa theo kịp biến động của thị trường. Trong năm 2008, nhà nước điều chỉnh khoảng 5%, đến ngày 25/12 /2008, điều chỉnh thêm 3% nữa trong khi tỉ lệ lạm phát cả năm trên 2%. Như vậy, rõ ràng vẫn chưa có sự cân đối. Với tỉ giá như hiện nay, hàng hoá của Việt Nam nếu tính bằng ngoại tệ đã trở thành quá đắt so với hàng hoá của nước khác. Các biện pháp thắt chặt tiền tệ trong quý I/2008 của Chính phủ nhằm kiềm chế lạm phát và tốc độ tăng giá tiêu dùng đã bước đầu phát huy tác dụng nhưng cũng khiến không ít doanh nghiệp rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan do không huy động vốn để đầu tư, trong khi giá nguyên vật liệu và chi phí nhân công tăng cao. Ä So với cuối năm 2007, tỷ giá USD/VND đã tăng khoảng 9%, vượt xa mức thay đổi quanh 1% những năm gần đây, trong khi đồng USD vẫn chiếm tỷ trọng chi phối trong thanh toán quốc tế (khoảng 70%). Ä Mức tăng vượt trội này đẩy chi phí nhập khẩu, chi phí sản xuất kinh doanh của những ngành hàng có đầu vào lớn từ nguyên liệu nhập khẩu, chi phí vay nợ ngoại tệ tăng cao. Đây cũng là năm nổi bật khi trong báo cáo tài chính của nhiều doanh nghiệp chi phí của tỷ giá tăng đột biến. Ä Biến động khó lường của tỷ giá còn thể hiện ở sự trái chiều trong nửa đầu năm 2008 (giảm mạnh những tháng đầu năm, tăng đột biến ngay sau đó), gây xáo trộn kế hoạch sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Nguồn: www.agro.gov.vn Biểu đồ 2.26: Biến động tỷ giá hối đoái trên thị trường liên NH Nguồn: SBV, Bloomberg Biểu đồ 2.27: Biến động tỷ giá hối đoái trên thị trường liên NH Trong 7 tháng đầu năm 2008, tỷ giá VND/USD có nhiều biến động, cụ thể giảm liên tục trong 3 tháng đầu năm và tăng liên tục trong 3-4 tháng tiếp theo. Việc tỷ giá VND/USD biến động tăng trong nửa cuối những tháng đầu năm 2008 khi nhu cầu trong nước đang cao và chi phí mua nguyên liệu nhập khẩu liên tục tăng đã gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp nhập khẩu và nguyên liệu. Ä DN XK khi vay vốn phải vay VND, nhưng nguồn trả nợ là tiền hàng thu được từ nước ngoài lại là USD. DN khi cần NK phải mua USD với giá cao, nhưng khi ngoại tệ về tài khoản lại phải bán cho NH với giá thấp hơn... Vì vậy, nhiều DN XNK trong năm 2008 do mức chênh lệch tỷ giá giữa mua và bán ngoại tệ đã bị ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả sản xuất, kinh doanh. ÄTình hình suy thoái toàn cầu hiện nay dẫn đến việc xuất nhập khẩu bị khó khăn vì các nước có đơn đặt hàng lớn đang trong tình trạng phải cắt giảm nhập khẩu. Việc giữ VND ở mức cao có thể khiến xuất khẩu có nhiều bất lợi. Ở những nước mà nền kinh tế dựa nhiều vào xuất khẩu, như Trung Quốc chẳng hạn, họ luôn giữ giá đồng tiền ở mức thấp, để tạo thêm năng lực cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu. Ä Đối với các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may, giày dép, đồ gỗ,... thì khó khăn hơn, vì giá nguyên vật liệu tăng bình quân 15% - 20%, riêng giá gỗ tăng trên 100%, giá xuất khẩu thì không tăng nhưng nguồn thu USD khi quy đổi sang VND thì bị giảm tới 3 – 4% nhưng cũng khó bán được. Nếu các DN hạ giá bằng các nước trong khu vực thì bị lỗ vốn, hạ ít thì khách hàng từ chối mua. Chính vì vậy mà hàng loạt các cơ sở xuất khẩu từ nông, thuỷ sản thủ công mỹ nghệ, dệt may, da giày... trong năm qua đã bị đóng cửa nhiều. Ä Tỷ giá USD/VND giảm mạnh, nhưng tỷ giá giữa Đồng Việt Nam so với các loại ngoại tệ khác thì lại tăng cao. Các doanh nghiệp có nguồn thu xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ bằng USD thì bị thiệt lớn. Song các doanh nghiệp có nguồn thu bằng Euro, Bảng Anh, Yên Nhật, Đô là úc… thì được lợi. Ngược lại các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ thanh toán bằng USD được lợi, còn thanh toán bằng các loại ngoại tệ khác thì bị ảnh hưởng. Ä Theo đánh giá của Bộ NN&PTNT thì xuất khẩu hàng nông sản bị giảm sút một phần do tỷ giá của VN. Ba đối thủ về hàng nông sản của Việt Nam, Indonesea, Ấn Độ, Braxin thì trong mấy tháng vừa rồi họ đều phá giá mạnh, trong đó có Braxin đến 50%. Ấn Độ, Thái Lan phá giá đồng tiền đến đến 30%. Tóm lại: Việc VND được định giá quá cao đã gây ra những khó khăn cho hoạt động xuất khẩu. Tình hình này khiến sản xuất trong nước có nguy cơ bị đình trệ và ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế. ¤ DN trong nước: Ä Các DN trong nước cũng bị ảnh hưởng không kém các DN XNK khi VND định giá quá cao. Các doanh nghiệp trong nước sẽ phải chịu rủi ro cạnh tranh hàng nhập khẩu rẻ tiền. Hàng nước ngoài do sự điều chỉnh tỷ giá kịp thời của họ đã trở thành quá rẻ và tràn ngập thị trường Việt Nam và bóp chết các ngành sản xuất trong nước. Ä Đối với lĩnh vực xây dựng bất động sản, tăng trưởng tín dụng sẽ khó khăn do 2 nguyên nhân: Giải quyết vấn đề nợ xấu trong quý 4 đối với các khoản vay bất động sản trước đây Thị trường bất động sản tiếp tục suy thoái. Hiện nay gần như ngân hàng vẫn nói “không” với cho vay bất động sản. Bất động sản đã từng là đối tượng tạo tăng trưởng tín dụng chủ lực của ngân hàng trong năm 2007. Rõ ràng ngân hàng đã mất đi một nguồn tiêu thụ tín dụng lớn. Người viết cho rằng bản thân ngành xây dựng bất động sản và cho vay bất động sản sẽ khó có thể triển khai ít nhất đến hết quý 1/2009. Ä Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, năm 2008 là năm vô cùng khó khăn đối với các doanh nghiệp do thắt chặt tiền tệ. Tình thế có thể sẽ thay đổi trong thời gian tới, khi chính sách tiền tệ chuyển sang dần nới lỏng. Việc các doanh nghiệp vừa và nhỏ được tạo điều kiện hơn trong tiếp cận nguồn vốn nhằm nâng sức sản xuất trong nước là điều có thể được dự đoán trước. Ä Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp: Tốc độ tăng trưởng trung bình của các doanh nghiệp, theo báo cáo điều tra của VCCI, đạt 10,9% trong  6 tháng đầu năm 2008, mức tăng trưởng được đánh giá là khá tốt so với năm 2007 (5%). Tuy nhiên, kết quả này có được chủ yếu là do thừa hưởng đà tăng trưởng từ năm 2006. Doanh nghiệp Việt Nam đang gặp khó khăn lớn với việc lạm phát trong nước năm 2008 tăng cao, suy thoái kinh tế toàn cầu đang lan rộng. Khoảng giữa năm 2008, doanh nghiệp phải vay vốn với lãi suất cao, trong khi giá các nguyên vật liệu cơ bản tăng cao. Song gần đây, giá của nhiều mặt hàng giảm nhanh, khiến họ phải đầu tư với chi phí cao nhưng phải bán sản phẩm với giá thấp. Nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng hoạt động cầm chừng và không tìm được hướng giải quyết đầu ra. Với những biến động bất thường của kinh tế như năm 2008, các doanh nghiệp muốn duy trì sản xuất đều phải tự tìm ra hướng giải quyết. Nhiều doanh nghiệp đã thu hẹp quy mô sản xuất do càng sản xuất càng lỗ để lại hậu quả là phải cắt giảm hoặc sa thải lao động gây ra những vấn đề không nhỏ về mặt xã hội. Trong khi đó, giá cả tăng cao, lương công nhân không có khả năng tăng theo dẫn đến tình trạng đình công và đình trệ kinh doanh ở nhiều doanh nghiệp sản xuất. 2.1.1.7./ Những yếu tố khác làm cho tỷ giá USD/VND tăng (tức là VND mất giá so với USD). Việt Nam đã gia nhập WTO, trong khi kinh tế có định hướng xuất khẩu, tỷ lệ xuất khẩu so với GDP đã vượt quá 70%, trong đó Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Nguồn: Bộ Thương mại Việt Nam – 2005. Biểu đồ 2.28: Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ Cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm cho tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2009 theo mục tiêu giảm mạnh so với năm trước (13% so với 29,5%), nhưng nhiều chuyên gia dự báo sẽ còn thấp hơn nhiều (có thể chỉ còn dưới 5%). Trong khi đó, hàng nhập khẩu từ các nước trong khu vực, nhất là Trung Quốc sẽ tăng mạnh. Để khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, ngoài các biện pháp khác, thì công cụ tỷ giá sẽ được sử dụng, thậm chí còn “vượt trước ngăn chặn”. Cũng do tác động của khủng hoảng mà lượng ngoại tệ vào Việt Nam năm 2009 sẽ không còn tăng như năm trước, thậm chí có nguồn còn bị giảm và giảm mạnh. Nguồn FDI năm 2008 thực hiện 11,5 tỷ USD, nhưng năm 2009 có thể giảm chỉ còn một nửa (tháng 1/2009 chỉ còn bằng 70% so với cùng kỳ). Vốn đầu tư gián tiếp (FII) năm 2007 đạt 6,5 tỷ USD, năm 2008 chỉ còn khoảng 2,5 tỷ USD, khả năng năm 2009 sẽ còn giảm nữa. Vốn ODA giải ngân thật cố gắng mới bằng năm trước (2,2 tỷ USD). Lượng kiều hối năm 2008 đạt khá và tăng cao (8 tỷ USD, tăng 2,5 tỷ USD so với năm 2007, khả năng năm 2009 chỉ còn khoảng dưới một nửa do việc làm ăn ở nước ngoài gặp khó khăn, do chênh lệch lãi suất ở Việt Nam không còn lớn). Thu từ chi tiêu của khách quốc tế đến Việt Nam năm ngoái đạt 4,020 tỷ USD (tăng 270 triệu USD), nhưng năm nay không tăng mà có thể còn giảm. è KẾT LUẬN: Khi cung - cầu USD bị mất cân đối, cán cân thanh toán tổng thể gặp khó khăn, thì phải giảm nhập siêu trên cơ sở tăng xuất khẩu, kiềm chế nhập khẩu và phải có tỷ giá USD/VND cao hơn để khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, hấp dẫn các nguồn ngoại tệ từ nước ngoài. à Do đó việc giảm giá VND là cần thiết. Kinh tế Việt Nam là nền kinh tế nhỏ, mở, và đang phát triển do vậy ảnh hưởng từ tác động bên ngoài là không thể tránh khỏi khiến hoạch định và thực thi các chính sách vĩ mô là tương đối khó khăn. Chính vì vậy để điều hành hiệu quả cần chú trọng theo dõi tình hình kinh tế thế giới và khu vực để có những dự báo và điều chỉnh chính sách linh hoạt. Tác giả cũng thừa nhận những giải pháp như nâng cao chất lượng đầu tư, cải cách bộ máy điều hành vĩ mô là cần thiết nhưng đây là những giải pháp dài hạn có thể mất hàng năm để tiến hành. Chính sách tỷ giá linh hoạt vừa có tác dụng ngắn hạn vừa có tác động dài hạn do vậy chính là sự lựa chọn đúng đắn cho Việt Nam trong việc chống lạm phát hiện nay. 2.1.2./ Khó khăn khi thực hiện đề xuất giảm giá VND: Theo ông Jonathan Pincus: khi sự mất giá VND diễn ra quá nhanh thì cần phải xem xét lại. Bởi vì, đồng nội tệ đang ở thế đứng giữa đồng USD và Nhân dân tệ. Cần phải đảm bảo rằng VND sẽ không mất giá nhiều so với Nhân dân tệ. Nếu không, khi Việt Nam nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc thì cũng nhập khẩu luôn cả lạm phát của nước này. Mặt khác, Việt Nam cũng lại xuất khẩu nhiều vào Mỹ, vì vậy cần xem xét để VND không quá cao giá so với USD nhằm khuyến khích xuất khẩu vào thị trường lớn này. Bài toán đặt ra là phải làm sao để cân bằng giữa hai đồng tiền, không muốn có tỷ lệ lạm phát cao, không làm cho đồng VND mất giá nhiều so với đồng nhân dân tệ và vẫn phải làm cho VND có sức cạnh tranh với USD. Muốn thúc đẩy xuất khẩu thì tăng giá ngoại tệ. Nhưng với Việt Nam tăng giá ngoại tệ lúc này, không kích thích được xuất khẩu vì thế giới suy giảm và các thị trường đang thu hẹp việc nhập khẩu, giá thế giới cũng đã giảm mạnh. Khi tỷ giá USD/VND tăng lên, doanh nghiệp xuất khẩu sẽ được lợi. Tuy nhiên, trong trường hợp các doanh nghiệp xuất khẩu đi vay bằng VND và đổi ra USD để nhập nguyên liệu và khi hàng đã xuất khẩu thu USD trả nợ, nhưng giả sử 3 tháng sau tỷ giá USD/VND giảm xuống thì các doanh nghiệp xuất khẩu bán USD lấy VND trả nợ sẽ bị thiệt hại lớn. Tỷ giá tăng không chỉ mang lại cơ hội, nếu không theo dõi sát diễn biến của tỷ giá thì ngay cả các doanh nghiệp xuất khẩu cũng sẽ gặp rủi ro. Nhất là khi hiện nay, việc bảo hiểm rủi ro tỷ giá được rất ít doanh nghiệp xuất nhập khẩu thực hiện vì nhiều lý do khác nhau. Thành phần chủ yếu cấu thành nên sản phẩm XK có đến 70% là từ hàng NK. Nếu phá giá đồng nội tệ, thì giá hàng nhập trở nên đắt hơn. Do đó, giá hàng XK không thể giảm để cạnh tranh với các nước trên thế giới như mục tiêu ban đầu đã xác định. Việc điều chỉnh tăng mạnh tỷ giá VND, chẳng hạn so với USD, tức phá giá mạnh đồng bản tệ, lại có thể tạo nguy cơ bùng nổ tái lạm phát và thậm chí có thể xuất hiện tình trạng suy thoái - lạm phát, gây mối nguy hiểm kép, tức vừa có lạm phát cao với các hệ quả đắt đỏ mà chúng ta vừa trải qua, vừa có sự đình trệ, thậm chí suy giảm mạnh quy mô và tốc độ tăng trưởng nền kinh tế, hết sức tiêu cực cho sự ổn định hệ thống tài chính-tiền tệ và cả thể chế quốc gia.    Tỷ giá USD/VND tác động rất lớn đến quan hệ nợ và trả nợ, bao gồm cả doanh nghiệp và Nhà nước. Nợ của doanh nghiệp không nhỏ. Nếu USD tăng giá mạnh so với VND sẽ làm cho doanh nghiệp gặp rủi ro về tỷ giá. Đồng thời gánh nặng trả nợ của Chính phủ tăng thêm. Hiện nay, Việt Nam đang có khoản nợ nước ngoài 18 tỷ USD, chủ yếu là nợ dài hạn (theo thông báo Bộ Tài chính trong giai đoạn 2006 - 2010, mỗi năm Việt Nam phải trả nợ nước ngoài khoảng 2 tỷ USD). Việc tăng tỷ giá đương nhiên sẽ là điều cần cân nhắc, bởi nó khiến khoản nợ tính theo VND tăng lên. Đề xuất giảm giá VND không có con số nào lượng hóa được mức độ tác động đến xuất khẩu là bao nhiêu, hạn chế được nhập khẩu như thế nào. Với mặt hàng xuất khẩu chính là lương thực, nguyên liệu thô và các mặt hàng gia công, thì mặt hàng nào sẽ xuất khẩu được nhiều hơn khi giá cả rẻ hơn. Chính vì không tính được kết quả cụ thể rõ ràng nên vẫn chưa thuyết phục được mọi người. Điều này, đương nhiên có thể dẫn đến nhiều hậu quả không mong muốn. Một kịch bản xấu có thể trông thấy ngay được đó là chỉ cần tuyên bố phá giá VND, người dân chắc chắn sẽ đổ xô đi mua ngoại tệ. Kinh nghiệm Thái Lan năm 1997 cho thấy, khi đó cung - cầu ngoại tệ mất cân đối nghiêm trọng, tỷ giá sẽ tăng vượt tầm kiểm soát. Đó là chưa kể tới, khi dân giữ quá nhiều ngoại tệ thì mức độ đô la hóa kinh tế tăng cao, chính sách tiền tệ sẽ giảm hiệu lực, hậu quả sẽ không hề đơn giản. 2.2./ Đánh giá tác động của việc giảm giá VND đối với Việt Nam: Tỷ giá hối đoái: là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc tế. 2.2.1./ Những tác động tích cực của việc giảm giá VND: Thứ nhất, chính sách làm yếu đồng nội tệ để tạo ra cung hàng hoá giá rẻ đã được một số nền kinh tế áp dụng và đạt được thành công nhất định. Để duy trì sản xuất và xuất khẩu, các nước đã có chính sách điều chỉnh tỉ giá đồng nội tệ của họ ở từng thời điểm giảm từ 15 - 50%. Cách điều chỉnh này giúp cho DN trong nước dù giảm giá xuất khẩu để cạnh tranh nhưng vẫn không bị lỗ vốn và vẫn duy trì được sản xuất, không phải giảm lương của người lao động,ảnh hưởng rất tích cực sẽ tới với các doanh nghiệp thủy sản, nông sản, khoáng sản . Thứ hai, khi phá giá tiền tệ ,nền kinh tế sẽ chịu những cú sốc lớn, khó khăn cho đời sống người dân. Điều chỉnh tỷ giá được thực hiện từng bước, điều tiết phù hợp với thị trường sẽ giúp Việt Nam tránh khỏi những cú sốc khi thực hiện chính sách. Thứ ba, trong thời gian vừa qua, cung cầu ngoại tệ vẫn có sự chênh lệch. Tỷ giá giao dịch tại các ngân hàng luôn chạm mức kịch trần cho phép (khoảng 17.700đồng/USD), và giá USD tại thị trường tự do luôn cao hơn mức kịch trần tại các ngân hàng.Giá ngoại tệ trên thị trường chợ đen luôn cao hơn các ngân hàng,gây khó khăn cho việc thu hút và cung cấp ngoại tệ thanh toán cho các doanh nghiệp nhập khẩu. Nguồn: Tổng cục Thống kê Biểu đồ 2.29: Tỷ giá luôn được giao dịch kịch trần trong thời gian gần đây Điều này cho thấy các giao dịch trên thị trường ngoại tệ chưa thực sự phản ánh đúng tính thị trường.Nguồn USD vào ngân hàng bị hạn chế dần theo diễn biến đi lên của USD trên thị trường tự do,luôn có áp lực cần điều chỉnh giảm giá đồng VND so với USD. Việc Ngân hàng Nhà nước nới rộng thêm biên độ,đưa tỷ giá danh nghĩa về sát với tỷ giá thực của nó sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng có thể giao dịch ở một khoảng rộng hơn, thu hẹp thị trường chợ đen, cân bằng cung cầu ngoại tệ, ngăn chặn tình trạng đô la hóa nền kinh tế dẫn đến mất hiệu lực của các chính sách kinh tế và ổn định thị trường. Thứ tư, cải thiện cán cân tài khoản vãng lai và giảm thâm hụt thương mại. Đối với một nền kinh tế mở, cán cân thương mại có hai tác động quan trọng: Xuất khẩu ròng bổ sung vào tổng cầu (AD) của nền kinh tế; Số nhân đầu tư tư nhân và số nhân chi tiêu chính phủ khác đi do một phần chi tiêu bị "rò rỉ" qua thương mại quốc tế. Trong những năm gần đây,Việt Nam luôn bị thâm hụt về cán cân thương mại, nhập khẩu luôn lớn hơn xuất khẩu,một phần là do VND đang được định giá cao. Biểu đồ 2.30: Cán cân thương mại Việt Nam qua các năm 2.2.2./ Những tác động tiêu cực của việc giảm giá VND: Bên cạnh những tác động tích cực từ việc giảm giá đồng nội tệ, ta cần xem xét những mặt trái của vấn đề này.Ta dễ dàng thấy rằng khi VND giảm giá, luồng vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam nhiều hơn dẫn đến việc kiểm soát lạm phát trở nên khó khăn hơn vì cung tiền được mở rộng. Việc giảm giá VND tuy đã tạo ra nhiều việc làm nhằm giải quyết nạn thất nghiệp nhưng lại làm tăng lạm phát trong nước lên. 2.2.2.1./Ảnh hưởng đến các ngành xuất khẩu Chúng ta đang là một nướcđang phát triển, nhập siêu lớn, cần nhập khẩu rất nhiều máy móc, thiết bị phục vụ cho sản xuất và tăng trưởng, tỷ trọng nguyên vật liệu nhập khẩu của nhiều ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực là rất cao.Trong đó, dệt may một trong những ngành đang dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu sau dầu khí trong nước,phải nhập khẩu hơn 70 % nguyên liệu,dày da cùng với dệt may và gổ chiếm gần 4% kim ngạch xuất khẩu thì tỷ lệ nhập khẩu nguyên liệu cũng xấp xỉ gần là 60%, nhựa là 55 đến 60 %, ngành phân bón phải nhập khẩu trung bình hơn 30% thành phẩm . Bộ NN-PTNT cho biết, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản 9 tháng đầu năm 2008 ước đạt hơn 12,3 tỷ USD, tăng 26% so với cùng kỳ năm ngoái.Tuy nhiên hiệu quả xuất khẩu cũng sụt giảm do tốc độ tăng mạnh của giá vật tư, nguyên liệu nhập khẩu (dao động từ 0,5-2-3 lần) như phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc... Tốc độ tăng của nhập khẩu cao hơn xuất khẩu tới 2,6 lần, nhập khẩu các mặt hàng vật tư, nguyên liệu cũng đạt mức kỷ lục, chiếm tới 2/3 giá trị xuất khẩu toàn ngành. Nếu các mặt hàng xuất khẩu có hàm lượng nhập khẩu lớn thì một nước vẫn có khả năng cạnh tranh bất chấp sự lên giá liên tục của đồng nội tệ như Tây Đức của các năm 1970 là một ví dụ. Biểu đồ 2.31: Tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu năm 2008 Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu Trị giá (triệu USD) Kim ngạch xuất khẩu (%) Dầu thô 10450 16.61 Dệt may 9108 14.48 Giày dép 4697 7.47 Thủy sản 4562 7.25 Gạo 2902 4,61 Gỗ 2779 4,42 Điện tử 2703 4,3 Cà phê 2022 3,21 Cao su 1597 2,54 Than đá 1444 2,3 Dây điện 1017 1,62 Nhựa 920 1,46 Túi xách,ví, mũ,… 825 1,31 Đá quý và kim loại quý 767 1,22 Thủ CN 599 0,89 Rau quả 396 0,63 Hạt tiêu 313 0,5 Chè 147 0,23 Mì ăn liền 108 0,17 Đồ chơi 106 0,17 Xe đạp 91 0,14 Hàng hóa khác 14463 22,99 Tổng hàng hóa 62906 100 Bảng 2.4: Tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng của Việt Nam năm 2008 Đối với ngành dầu khí, một mặt hàng xuất khẩu chủ lực, chiếm tỷ trọng lớn nhất , vì vừa phải xuất khẩu dầu thô và nhập khẩu các chế phẩm xăng dầu để sử dụng trong nước. Khi ấy giảm giá Việt Nam đồng sẽ có tác động hoàn toàn ngược lại, giảm kim ngạch xuất khẩu và tăng kim ngạch nhập khẩu. Ngành thép đang trong tình trạng dư thừa ngắn hạn trên toàn thế giới khiến nhiều nước phải tìm cách xuất khẩu thép dư thừa trong thời gian qua. Tình hình tương tự cũng đang diễn ra ở Việt Nam. Trên thực tế, trong ngắn hạn, tỷ giá tăng là một lợi thế cho các doanh nghiệp trong nước trong việc giải quyết hàng tồn kho do giá thép nhập khẩu sẽ kém cạnh tranh hơn. Tuy nhiên, về dài hạn, do ngành thép vẫn chủ yếu nhập phôi thép từ nước ngoài, tỷ giá tăng sẽ có ảnh hưởng tới chi phí đầu vào của ngành thép. Thêm vào đó, khi xét tới tác động của tỷ giá tới xuất khẩu cần phải tính thêm cả yếu tố so sánh với các nước xuất khẩu cạnh tranh. Về điều này, đối thủ cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là Trung Quốc và Asean .Nhìn lại từ tháng 7/2005 khi Trung Quốc thả nổi có kiểm soát đồng Nhân dân tệ, tới nay đồng tiền này đã tăng giá trị tới gần 20% so với đồng đô-la Mỹ. Nếu tính theo tỷ giá hiệu dụng thực thì sự tăng giá của đồng Nhân dân tệ còn cao hơn bởi lạm phát của Trung Quốc thường cao hơn khá nhiều so với các nước phương Tây và Nhật Bản. Như vậy.Trong những năm qua khó có thể nói giá hàng xuất khẩu Việt Nam chịu thiệt do tỷ giá. Việc giảm kim ngạch trong năm 2009 có nguyên nhân chính là do nhu cầu thế giới giảm giảm,sau đó sẽ kéo theo sự cạnh tranh trong khi giá cả có xu hướng giảm.... 2.2.2.2./Tác động đến các ngành sản xuất trong nước Rất nhiều ngành sản xuất và kinh doanh trọng yếu trong nước khác phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu phục vụ sản xuất,điển hình như ngành sữa, với 80 % nguyên liệu phải nhập khẩu,ngành dược là 90% ,phân.Khi ấy, giảm giá Việt Nam đồng tức tăng tỷ giá,sẽ làm tăng chi phí đầu vào cho sản xuất trong nước, làm giá cả đầu ra leo thang theo dẫn đến lạm phát. Nếu giá nhập khẩu tăng, làm cho hàng nhập khẩu đắt hơn một cách tương đối. Khi ấy nếu các nhà sản xuất trong nước có thể cung cấp những hàng hóa thay thế thì người tiêu dùng và doanh nghiệp sẽ chuyển sang mua những hàng hóa này. Tuy nhiên thực tế là nhiều hàng hóa mà người dân và doanh nghiệp cần mà trong nước không sản xuất được,không thể đáp ứng hết, hay nếu sản xuất thì mức giá cao hơn hay chất lượng thấp hơn hàng nhập khẩu. Điển hình như phân bón phải nhập khẩu gần 50 % thành phẩm, máy móc thiết bị hiện đại cho sản xuất Việt Nam cũng chưa thể tự sản xuất được,…Khi ấy, hạn chế nhập khẩu là điều không thể,kết quả là nền kinh tế sẽ nhập khẩu lạm phát từ bên ngoài vào. Đây là một nguyên nhân khiến việc tăng thâm hụt ngân sách tại thời điểm này trở nên rất rủi ro, Nếu áp lực lạm phát cao trở lại,khi ấy giảm giá VND sẽ dẫn đến việc leo thang giá cả. Tỷ giá hối đoái mạnh (trong trường hợp của chúng ta tức là để VND lên giá) sẽ kiềm chế lạm phát: lương ổn định và giá các mặt hàng nhập khẩu rớt (đáng tiếc tỷ lệ nhập khẩu hàng tiêu dùng ở ta quá nhỏ phản ánh chính sách “thay thế nhập khẩu” vẫn rất thịnh hành). 2.2.2.3 ./Tác động đến thị trường ngoại tệ trong nước. Chính phủ thực hiện giảm giá VND,đồng VND mất giá dần, khi ấy mọi người sẽ có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử dụng vàng hoặc các ngoại tệ mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và tích lũy của cải. Nền kinh tế bị càng bị đô la hóa (và vàng hóa) hơn. Và USD khan hiếm là không khó hiểu. Các ngân hàng phải tăng lãi suất tiền gửi USD, khiến chênh lệch lãi suất USD ở trong nước và ngoài nước ngày càng doãng ra, điều này lại khuyến khích các dòng vốn ngắn hạn (đầu cơ hay cho ngân hàng trong nước vay ngắn hạn) chảy vào gây áp lực hơn nữa lên lạm phát.Đó là chưa kể tới, khi dân giữ quá nhiều ngoại tệ thì mức độ đô la hóa kinh tế tăng cao, chính sách tiền tệ sẽ giảm hiệu lực, hậu quả sẽ không hề đơn giản. 2.2.2.4./ Tác động tâm lý người dân và các doanh nghiệp. Sẽ cần giảm giá Việt Nam đồng như thế nào, bao nhiêu thì mới có tác động rõ ràng tới xuất khẩu,báo cáo chưa nghiên cứu và cũng không ai dám chắc.Vấn đề kích thích xuất khẩu hiện nay cũng không chỉ phụ thuộc vào giá mà còn là nhu cầu từ các đối tác thương mại của Việt Nam đang sụt giảm. Giảm giá tiền đồng chưa biết sẽ hỗ trợ xuất khẩu được bao nhiêu nhưng có thể gây bất ổn trên thị trường do tâm lý đầu cơ .Tỷ giá USD/VND có thể tăng quá mức khi người trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài mất niềm tin vào khả năng quản lý cung tiền của các cơ quan quản lý điều hành ngoại tệ. Người dân và doanh nghiệp sẽ tranh nhau mua ngoại tệ, hay vàng khi đồng nội tệ bắt đầu mất giá. Khi ấy trong nỗ lực bảo toàn tài sản, người ta có thể chấp nhận trả một mức giá cao bất thường miễn là mua được ngoại tệ và không một mức lãi suất nào đủ cao để kéo họ lại với đồng nội tệ, khi đó cung - cầu ngoại tệ mất cân đối nghiêm trọng, tỷ giá sẽ tăng vượt tầm kiểm soát. Phải mất một thời gian rất lâu các doanh nghiệp mới giảm được nỗi ám ảnh về đồng tiền bị mất giá, thoát khỏi ý nghĩ găm giữ ngoại tệ. Vì thế, không có lý do gì chúng ta lại gieo tâm lý bất ổn cho họ vào lúc này. Việc giảm giá đồng Việt Nam trong thời điểm hiện nay đồng nghĩa sẽ làm giảm lòng tin của công chúng vào sự ổn định của chính sách tiền tệ. Chính phủ nên chọn một chính sách tỷ giá phù hợp nhưng linh hoạt hơn. Việc giảm sức cạnh tranh đối với hàng nhập khẩu sẽ làm cho các doanh nghiệp trong nước có tâm lý ỷ lại, trì trệ trong việc đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm; sẽ không thúc đẩy phát triển kinh tế. 2.2.2.5./ Tác động đến các khoản nợ của chính phủ và doanh nghiệp trong nước. Hiện Việt Nam đang có khoản nợ nước ngoài khoảng 20 tỷ USD, chiếm hơn 20% GDP ,chủ yếu là nợ dài hạn theo thông báo của Bộ Tài chính trong giai đoạn 2006 – 2010 và ngày càng tăng. Biểu đồ 2.31: Nợ nước ngoài gia tăng qua các năm Việc tăng tỷ giá đương nhiên sẽ là điều cần cân nhắc, bởi nó khiến khoản nợ tính theo VND tăng lên. Nhưng đó cũng chỉ là một lý do, số nợ so với kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2008 là hơn 60 tỷ USD, gấp nhiều lần số nợ phải trả.khiến cho nhiều doanh nghiệp đang nợ nước ngoài không trả được nợ, nhiều doanh nghiệp đang đầu tư máy móc để đổi mới công nghệ sẽ bị phá sản. Trong những tháng đầu năm, mặc dù xuất khẩu giảm, nhưng nhập khẩu giảm mạnh hơn.Có thể thấy thâm hụt thương mại tiếp tục được cải thiện. Đây là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới cân bằng cung - cầu ngoại tệ. Mà cung - cầu ngoại tệ mới là yếu tố quan trọng tác động tới chính sách điều hành tỷ giá hiện nay. Giảm giá đồng tiền Việt Nam vẫn có thể xảy ra, nhưng đó là do diễn biến thị trường, chứ chưa chắc đã là chủ đích của cơ quan quản lý. 2.2.2.6./ Tỷ giá, lạm phát & lãi suất: Việc phá giá VND so với USD sẽ tác động tương đối tiêu cực đến nỗ lực kiềm chế lạm phát vốn thành công trong năm 2008. Giá nhập khẩu cao hơn, sẽ làm tăng chi phí đầu vào cho sản xuất, nền kinh tế sẽ chịu một cú sốc cung tiêu cực vì giá cả sẽ tăng. Nếu tỷ giá hối đoái USD/VND tăng 1%, thì lạm phát có nguy cơ tăng lên 0,65% ngay trong năm đầu tiên. Các năm tiếp theo, tốc độ tăng của các chỉ số giá tăng cao hơn và đạt mức tăng 1%, tương đương tốc độ phá giá USD/VND sau năm năm. Khi giá đồng VND cũng phải tính đến mối tương quan giữa lãi suất VND với USD và tỷ giá của những ngoại tệ khác so với USD. Nếu không, nó sẽ tác động xấu tới tâm lý người gửi tiền và hệ thống tài chính. Quan hệ giữa tỷ giá hối đoái,lãi suất và lạm phát không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ vòng, tác động qua lại lẫn nhau, không thể coi cái này là nguyên nhân và cái kia là kết quả. Chênh lệch trong lãi suất sẽ được bù trù bằng chênh lệch trong lạm phát,chênh lệch trong lạm phát lại được bù trừ bằng chênh lệch trong tỷ giá.Khi đồng nội tệ mất giá thì lạm phát gia tăng và ngược lại.Hạ quá thấp người gửi tiền ở trong nước thấy độ hấp dẫn VND không đủ họ sẽ chuyển sang USD. Vì vậy, tới đây VND mất giá bao nhiêu là cả một nghệ thuật của Ngân hàng Nhà nước, nếu không sẽ rất nguy hiểm. Ngoài ra, hiện nay các doanh nghiệp của ta hiện nay chưa biết sử dụng các công cụ phòng chống rủi ro về tỷ giá, cho nên một độ linh hoạt rộng quá mức cũng gây ra rủi ro lớn. 2.2.2.7./ Tác động đến cán cân tài khoản vãng lai Hiện tại nguồn cung và cầu ngoại tệ, đặc biệt là USD hiện đang được cân bằng trong các giao dịch của nền kinh tế nên Chính phủ chưa có nhu cầu giảm giá đồng nội tệ. Thậm chí, nguồn cung đô la Mỹ của các ngân hàng thương mại hiện nay còn dồi dào nên Chính phủ vừa phát hành trái phiếu, mua vào cho các ngân hàng 1 tỉ đô la nên việc phá giá nội tệ lại càng chưa phải là nhu cầu cấp bách. Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP HỖ TRỢ CHO ĐỀ XUẤT GIẢM GIÁ VND  & œ 3.1./ Giải pháp cho doanh nghiệp xuất khẩu trước biến động tỷ giá: sử dụng các công cụ phái sinh của ngân hàng thương mại: Để giải pháp này thực sự hữu ích thì bản thân những người kinh doanh xuất nhập khẩu phải nâng cao hiểu biết về các sản phẩm này. Bên cạnh cần có sự hỗ trợ về phí dịch vụ. Hiện nay, các sản phẩm phái sinh đang tạm ngừng hoạt động để thí điểm nghiệp vụ quyền chọn. Đề xuất là cho tăng nhanh hay cho tạm ngưng quá trình thí điểm để kịp thới cung ứng sản phẩm giúp doanh nghiệp điều chỉnh hoạt động kinh doanh của mình. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể hạn chế dần những khoản vay bằng ngoại tệ, chuyển đổi các hợp đồng vay USD thành vay VND để tránh rủi ro tỷ giá. 3.2./ Hiện nay, VND mang rủi ro lớn nhất chính là “mất niềm tin”. Do đó, chính phủ có thể vừa cắt giảm lãi suất, vừa giảm giá đồng tiền. Người tiết kiệm VND phải được hưởng lãi suất cao hơn để bù đắp cho việc VND mất giá. Nói cách khác, tốc độ giảm giá hàng năm của VND phải phản ánh sự khác biệt về lãi suất tiết kiệm giữa USD và VND. Điều quan trọng nhất vẫn là cung cấp đầy đủ thông tin cho người dân và nhà đầu tư; cải thiện hệ thống thống kê nhằm đưa ra con số chân thực và phân tích hợp lý cho nhà đầu tư. 3.3./ Điều chỉnh ưu tiên của đầu tư công Đây là việc cấp bách. Vì khi đồng VND giảm giá thì giá trị các khoản vay của Chính phủ sẽ tăng lên. Điều này là không thể tránh khỏi. Thế nhưng, việc chắc chắn có thể làm là đầu tư số tiền vay một cách hiệu quả hơn. Ưu tiên trong đầu tư của chính phủ sẽ dành cho các dự án tạo việc làm để bảo vệ thu nhập cho người lao động, duy trì nhu cầu nội địa, giảm thiểu thâm hụt thương mại và khuyến khích sản xuất trong nước. Tập trung vào việc cung ứng những cơ sở hạ tầng cơ bản cho những khu vực và ngành nghề thâm dụng lao động nhiều nhất và tạo ra kim ngạch xuất khẩu. Một khi đã lựa chọn chính sách từng bước giảm giá Việt Nam đồng, khi đó xuất khẩu sẽ mạnh hơn, việc các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước cần được đầu tư phát triển để sản xuất nhiều hàng hóa hơn đáp ứng nhu cầu xuất khẩu là hết sức cần thiết. Sẽ là vô tác dụng nếu giảm giá VND, hàng hóa Việt Nam rẻ hơn, nhu cầu của thế giới với hàng hóa của Việt Nam tăng nhưng chúng ta lại không đủ khả năng cung cấp và bỏ lỡ cơ hội. Mặt khác, chính sách giảm giá Việt Nam đồng hướng đến giảm kim ngạch nhập khẩu để cải thiện cán cân thương mại và tăng quỹ dự trữ ngoại tệ. Khi ấy, doanh nghiệp sản xuất trong nước phải đủ khả năng về máy móc thiết bị, trang bị kỹ thuật và nguồn nhân lực trong nước để cân bằng nhu cầu về hàng hóa chất lượng cao thay thế cho hàng nhập khẩu. Nếu các doanh nghiệp không được quan tâm và đầu tư đúng mức sẽ không thể sản xuất được các mặt hàng thay thế với chất lượng và giá cả tương đương, khi ấy sẽ không những không thể hạn chế nhập khẩu, mà nền kinh tế sẽ còn lạm phát cao hơn nữa. 3.4./ Thành lập tổ công tác đặc biệt về đầu tư công: Đầu tư công cộng, hay chi tiêu chính phủ, là các khoản chi của chính phủ để cung ứng hàng hóa công cộng, phát triển đường xá, trường học, quân sự,…Nếu cộng nguồn vốn ODA và nguồn phát hành trái phiếu để đầu tư vào các chương trình mục tiêu từ năm 1997 đến nay thì tỷ lệ đầu tư công chiếm hơn 20% GDP! Mặc dù khu vực dân doanh trong nước và đầu tư nước ngoàu là hai khu vực năng động nhất thì khu vực nhà nước lại luôn nhận được những khoản đầu tư và sự ưu ái của nhà nước.Thế nhưng, tương phản với con số khổng lồ của nguồn vốn, chính sách đầu tư công bộc lộ nhiều bất cập, thiếu minh bạch và thiếu tính trách nhiệm. Nghiêm trọng nhất là ở quyết định đầu tư, tình trạng đầu tư sai mục đích, vượt thẩm quyền gây thất thoát lớn còn nhiều . Cải cách thủ tục đầu tư công là cực kỳ quan trọng.Thực hiện điều này sẽ là một tổ công tác đặc biệt, tồn tại như một cơ quan tham mưu chứ không phải là một cơ quan điều tiết, thực hiện nghiên cứu về toàn bộ quá trình từ lập kế hoạch cho đến đánh giá dự án đầu tư công, trên cơ sở đó đề xuất những thay đổi chính sách trực tiếp tới Thủ tướng Chính Phủ nhằm giải quyết những ách tắc trong quá trình xét duyệt đồng thời tăng cường tính minh bạch và chịu trách nhiệm của các dự án. Hiệu quả của đầu tư công sẽ được nâng cao, đó sẽ là tiền đề quan trọng, giúp phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông, điện, nước,…Chỉ có như vậy mới giúp nền kinh tế thu hút và đủ khả năng hấp thu thêm nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp FDI, cũng như kích thích sản xuất trong nước phát triển hỗ trợ cho xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu,hỗ trợ cho chính sách giảm giá Việt Nam đồng. 3.5./ Không được đánh mất sự kiểm soát đối với tăng trưởng cung tiền và tín dụng. Trong những năm gần đây, nhà nước Việt Nam duy trì việc tăng cung tiền nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong một thời gian dài.Tuy nhiên,khi sự mất cân đối giữa tốc độ tăng cung tiền và tốc độ tăng GDP ngày càng nhiều thì sức ép lạm phát sẽ tăng.Trong giai đoạn 2004-2005,tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thấp hơn Trung QUốc nhưng tốc độ tăng cung tiền lại gần gấp đôi.Kết quả là trong khi chỉ số giá tiêu dùng ở Trung Quốc trong năm 2007 chỉ khoảng 6,5% thì ở Việt Nam lên tới 12,6% như đồ thị bên dưới. Biểu đồ 3.1: Cung tiền và tăng trưởng( Việt Nam và Trung Quốc) Mặc dù lạm phát đã giảm nhưng chưa hoàn toàn biến mất vì những nguyên nhân có tính cơ cấu của nó vẫn chưa bị loại trừ . Trong thời kỷ khủng hoảng kinh tế hiện nay,việc tăng tín dụng đột ngột sẽ làm tăng cung tiền trong khi tốc độ tăng trưởng GDP thì chậm lại rất nhiều , tác động gộp của điều này sẽ dẫn đến lạm phát cao hơn nữa, hàng hóa trong nước mắc hơn 1 cách tương đối, đẩy người tiêu dùng hướng đến hàng ngoại, khuyến khích nhập khẩu trong khi nguồn ngoại tệ để tài trợ cho nhập khẩu của Việt Nam ở thời điểm này rất hạn chế , xuất khẩu sẽ giảm làm cho cán cân thanh toán thâm hụt lớn hơn nữa.Tác động tích cực sẽ xảy ra nếu ta kìm hãm được tốc độ tăng trưởng của cung tiền và tín dụng. 3.6./ Cần phải khuyến khích cạnh tranh. Hiện nay hàng hóa Trung Quốc tràn lan khắp thế giới. nhiều người cho rằng đó là do đồng Nhân dân tệ đã bị đánh giá thấp trong thời gian trước. Thế nhưng không thể không nói đến những nỗ lực tìm kiếm và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của các doanh nghiệp Trung Quốc. Ai không biết việc giảm giá VND sẽ tăng khả năng cạnh tranh cho hàng xuất khẩu Việt Nam nhưng chính bản thân doanh nghiệp cần tự nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Giảm giá Việt Nam đồng sẽ khuyến khích được xuất khẩu nhưng đó chỉ là lợi thế trước mắt đối với một số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam,chủ yếu là hàng nông sản, khoáng sản,…hàm lượng chất xám ít, giá trị gia tăng không nhiều và tốc độ tăng trưởng rất thấp ,còn các sản phẩm và dịch vụ thâm dụng vốn, lợi nhuận lớn thì tỷ trọng xuất khẩu thấp và tốc độ phát triển rất chậm. Theo xếp hạng năng lực cạnh tranh hàng năm của diễn đàn Kinh tế Thế Giới, Việt Nam đứng sau hầu hết các nước láng giềng Đông Á và Đông Nam Á và thứ tự chưa được cải thiện. Hai trở ngại lớn cho cạnh tranh và phát triển chính là vấn đề về nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng,ngoài ra còn có một hệ thống hành chính quan liêu kém hiệu quả và nhũng nhiễu.Các doanh nghiệp của Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước sẽ không thể cạnh tranh được trên thị trường thế giới nếu không được đầu tư ,tạo điều kiệnvà quan tâm đúng mức. Tỷ giá tăng, giá hàng trong nước giảm sẽ chỉ là bước đầu,là yếu tố nhỏ góp phần thúc đẩy tăng trưởng xuất khấu.Về lâu dài, chính yếu tố về khoa học kỹ thuật,công nghệ và quản lý mới là yếu tố quyết định. Do đó, cùng với 1 chính sách tiền tệ hợp lý, cần phối hợp đồng bộ với các chính sách phát triển khác. Bảng 2.5: Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế Thế giới 2006-2007 Năm 2006 2007 Singapore 7 8 Hàn Quốc 11 23 Hồng Kông 12 10 Đài Loan 14 13 Ma-kay-xi-a 21 19 Thái Lan 28 28 Trung Quốc 34 35 In-đô-nê-xia 51 54 Việt Nam 64 64 Phi-lip-pin 67 75 Þ Chính sách giảm giá VND sẽ được tiến hành từng bước, vừa thực hiện vừa thăm dò nhằm theo kịp phản ứng của thị trường.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước Việt Nam để kích thích kinh tế của nhóm nghiên cứu Harvard.doc
Luận văn liên quan