Đề tài Nghiên cứu phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại các Ngân hàng thương Mại Việt Nam

MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 5 DANH MỤC BẢNG BIỂU 6 DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ 7 MỞ ĐẦU 8 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ QUYỀN CHỌN VÀ QUYỀN CHỌN TIỀN TỆ 11 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ THUẬT NGỮ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN VÀ HỢP ĐỒNG QUYỀN CHỌN 11 1.2. VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN TRONG NỀN KINH TẾ 15 1.2.1. Phòng ngừa rủi ro 15 1.2.2. Vai trò định giá 15 1.2.3. Tiết kiệm chi phí giao dịch 16 1.2.4. Thúc đẩy thị trường tài chính phát triển 16 1.3. PHÂN LOẠI QUYỀN CHỌN 17 1.3.1. Phân loại theo quyền của người mua 17 1.3.2. Phân loại theo thời gian thực hiện quyền chọn 17 1.3.3. Phân loại theo tài sản cơ sở 18 1.4. KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN CHỌN TIỀN TỆ 22 1.4.1. Khái niệm 22 1.4.2 Các chủ thể tham gia trên thị trường quyền chọn 22 1.4.3 Giá quyền chọn tiền tệ và các yếu tố ảnh hưởng đến giá quyền chọn tiền tệ 22 1.4.3.1. Tỷ giá kỳ hạn (forward rates) 23 1.4.3.2. Tỷ giá giao ngay (spot rates) 24 1.4.3.3.Thời hạn của hợp đồng (Time to maturity) 24 1.4.3.4. Sự biến động của tỷ giá (volatility) 24 1.4.3.5. Quyền chọn kiểu Mỹ hay kiểu châu Âu và yếu tố chênh lệch lãi suất (interest diferentials) 25 1.4.3.6. Tỷ giá thực hiện ( alternative option strike price) 26 1.4.4. Mô hình định giá quyền chọn tiền tệ 26 1.4.4.1. Định giá quyền chọn theo mô hình Black – Scholes. 26 1.4.4.2 Hạn chế của công thức Black-Scholes và công thức bổ sung 27 1.4.5. Các mô hình chiến lược kinh doanh quyền chọn tiền tệ 28 1.4.5.1.Chiến lược Short Straddle 28 1.4.5.2.Chiến lược Short Strangle 33 1.4.5.3. Chiến lược Long Put Butterfly 37 1.4.5.4. Chiến lược Long Condor: 40 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI VÀ PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ QUYỀN CHỌN TIỀN TỆ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 43 2.1. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN TIỀN TỆ TẠI VIỆT NAM 43 2.1.1. Sự cần thiết của việc triển khai thị trường quyền chọn tiền tệ tại Việt Nam 43 2.1.1.1 Nhu cầu phòng ngừa rủi ro tỷ giá của các doanh nghiệp Việt Nam 43 2.1.1.2. Nhu cầu đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ của các Ngân hàng thương mại Việt Nam 45 2.1.2. Thực trạng thị trường quyền chọn tiền tệ tại Việt Nam hiện nay 46 2.1.2.1. Về thị trường công cụ phái sinh nói chung 46 2.1.2.2. Về thị trường quyền chọn tiền tệ nói riêng 50 2.1.3. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình triển khai, phát triển thị trường quyền chọn tiền tệ tại Việt Nam 55 2.1.3.1. Thuận lợi 55 2.1.3.2. Khó khăn 57 2.2. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI VÀ PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ QUYỀN CHỌN TIỀN TỆ TẠI MỘT SỐ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 62 2.2.1. Tình hình triển khai và phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam 62 2.2.2. Tình hình triển khai và phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam 68 2.2.3. Đánh giá chung về quá trình phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại một số Ngân hàng thương mại Việt Nam 73 2.2.3.1. Kết quả 73 2.2.3.2. Tồn tại, hạn chế 75 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ QUYỀN CHỌN TIỀN TỆ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 81 3.1. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN TRÊN THẾ GIỚI VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC PHÁT TRIỂN TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN 81 3.1.1. Tình hình hoạt động của thị trường quyền chọn trên thế giới 81 3.1.2. Kinh nghiệm của một số nước trong việc phát triển thị trường quyền chọn và bài học đối với Việt Nam 87 3.1.2.1 Kinh nghiệm của Mỹ 87 3.1.2.2 Kinh nghiệm của Anh 90 3.1.2.3 Kinh nghiệm của Nhật 91 3.1.2.4. Bài học kinh nghiệm từ các nước phát triển đối với Việt Nam 92 3.2. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ QUYỀN CHỌN TIỀN TỆ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 94 3.2.1.Mục tiêu phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam 94 3.2.2. Giải pháp phát triển thị trường quyền chọn tiền tệ tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam 95 3.2.2.1.Tạo nhu cầu cho thị trường 95 3.2.2.2. Xây dựng cơ cấu bộ máy của trung tâm giao dịch ngoại tệ 99 3.2.2.3. Đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng 100 3.2.2.4. Đưa phí quyền chọn tiền tệ trở thành một lợi thế cạnh tranh 101 3.2.2.5. Hoàn thiện các quy trình, quy chế của nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ 102 3.2.2.6. Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi về những ưu việt của các công cụ phái sinh trong đó có quyền chọn tiền tệ 102 3.2.2.7. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng 103 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 104 3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ 104 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước 109 KẾT LUẬN 115 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 116

doc150 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2625 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại các Ngân hàng thương Mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại hoặc ghép 2 hợp đồng bán quyền chọn mua và bán quyền chọn bán với khách hàng theo nội dung như trên mà không thực hiện các hợp đồng đối ứng để bảo hiểm rủi ro. S1, S2 là khoảng biến thiên dự báo của tỷ giá ngoại tệ. Nếu tỷ giá biến động đúng như dự báo, ngân hàng sẽ có lợi nhuận và nếu tỷ giá biến động trong giữa khoảng X và Y thì lợi nhuận sẽ đạt tối đa bằng 2 khoản phí của 2 hợp đồng quyền chọn. Ngoài ra trong trường hợp dự đoán xu hướng thích hợp, ngân hàng cũng chủ động thực hiện chiến lược này để tối đa hóa lợi nhuận. So với chiến lược Long Straddle, chiến lược này cho khoảng bi tỷ giá rộng hơn, do đó lợi nhuận tối đa của nó cũng thấp hơn, cụ thể Ngân hàng A vừa sau : Ngân hàng A bán quyền chọn mua EUR/USD Số lượng 100.000 EUR – tỷ giá EUR/ Kỳ hạn : 1 tháng – Thu phí quyền chọn : 0.0040USD Nhận định tình hình không biến động nhiều, Ngân hàng A ký kết tiếp tục đồng bán quyền chọn bán với ngân hàng ABC với nội dung: Ngân hàng A bán quyền chọn bán EUR/USD Số lượng 100.000 EUR – tỷ giá EUR/USD : Kỳ hạn : 1 tháng – Thu phí quyền chọn : 0.0030USD Bảng 9: Khi tỷ giá biến động, lãi lỗ của chiến lược kinh doanh này như sau: Đơn vị:USD Tỷ giá EUR/USD Quyền chọn mua Quyền chọn mua Tổng lãi/ lỗ 1.3700 - Không thực hiện - Lãi: 400 - Thực hiện - Lãi: 300 - Lỗ: 1000 - Lỗ 300 1.3730 - Không thực hiện - Lãi: 400 - Thực hiện - Lãi: 300 - Lỗ: 700 - Hòa vốn 1.3750 - Không thực hiện - Lãi: 400 - Thực hiện - Lãi: 300 - Lỗ: 500 - Lãi: 200 1.3800 - Không thực hiện - Lãi: 400 - Không thực hiện - Lãi: 300 - Lãi max:700 1.3880 - Không thực hiện - Lãi: 400 - Không thực hiện - Lãi: 300 - Lãi max:700 1.3900 - Thực hiện - Lãi: 400 - Không thực hiện - Lãi: 300 - Lỗ: 200 - Lãi : 500 1.3950 - Thực hiện - Lãi: 400 - Lỗ: 700 - Không thực hiện - Lãi: 300 - Hòa vốn 1.3970 - Thực hiện - Lãi: 400 - Lỗ: 900 - Không thực hiện - Lãi: 300 Lỗ 200 Ứng dụng chiến lược Long Put Butterfly Nội dung chiến lược Long Put Butterfly Long Put Butterfly là chiến lược kết hợp: { 1 1 hợp đồng mua quyền chọn bán mua tỷ giá X 2 hợp đồng bán quyền chọn bán tỷ giá Y 1 hợp đồng mua quyền chọn bán tỷ giá Z Với cùng một số lượng ngoại tệ, cùng một ngày đáo hạn Gọi: S : là mức giá giao ngay hiện hành trên thị trường. S = Y và Y = ( X + Z ) / 2 p1: là mức phí quyền chọn ( Option premium) của hợp đồng mua quyền chọn bán tỷ giá X p2: là mức phí quyền chọn ( Option premium) của hợp đồng bán quyền chọn bán tỷ giá Y p3: là mức phí quyền chọn ( Option premium) của hợp đồng mua quyền chọn bán tỷ giá Z p: phí ròng bao gồm tổng các khoản phí thu vào và các khoản phí chi ra Tương tự như phương án trên, ta có thể tổng hợp : Người sử dụng chiến lược Long Put Butterfly ở các trạng thái sau : Lỗ giới hạn : khi S Z – /p/ Hòa vốn : khi S = X + /p/ hoặc S = Z – /p/ Lãi : khi X +/p/ < S < Z - /p/ Lãi ti đa: khi S = Y Lỗ Max = p Lãi Max = Tỷ Giá hợp đồng mua quyền chọn bán lớn nhất - /p/ Hình 16: Mô hình chiến lược Long Put Butterfly Ứng dụng chiến lược Long Put Butterfly : - Tương tự như trong chiến lược Short Straddle, khi ký kết hợp đồng bán quyền chọn bán ngoại te cho khách hàng, nếu nhận định tình hình thuận lợi cho sử dụng mô hình này, ngân hàng tiến hành thực hiện tiếp các hợp đồng quyền chọn còn lại để tạo ra lợi nhuận cao hơn và giới hạn khoản lỗ trong một mức cho phép. Tất nhiên, rủi ro nhiều hơn nhưng lợi nhuận sẽ cao hơn trường hợp mà ngân hàng hay là ký kết hợp đồng đối ứng với ngân hàng khác để bảo hiểm rủi ro và hưởng phần chênh lệch phí. Chiến lược này sẽ cho lợi nhuận tối đa chỉ khi tỷ giá ở ngay mức giá Y. - Ngoài ra trong trường hợp dự đoán xu hướng thích hợp, ngân hàng cũng nên chủ động thực hiện chiến lược này để tối đa hóa lợi nhuận. Ví dụ cụ thể : Ngân hàng A vừa ký kết hợp đồng quyền chọn với Doanh nghiệp B có nội dung như sau: Ngân hàng A bán quyền chọn bán EUR/USD Số lượng 100.000 EUR – tỷ giá EUR/USD : 1.3950 Kỳ hạn : 1 tháng – Thu phí quyền chọn : 0.0060USD/1EUR (gọi tắt là hợp đồng QC1) Nhận định tình hình không biến động nhiều, Ngân hàng A ký kết tiếp tục với ngân hàng ABC 3 hợp đồng quyền chọn khác như sau : * 1 hợp đồng bán quyền chọn bán EUR/USD như trên: Số lượng 100.000 EUR – tỷ giá EUR/USD : 1.3950 Kỳ hạn : 1 tháng – Thu phí quyền chọn : 0.0060USD/1EUR (gọi tắt là hợp đồng QC 2) * 1 hợp đồng mua quyền chọn bán EUR/USD : Số lượng 100.000 EUR – tỷ giá EUR/USD : 1.3900 Kỳ hạn : 1 tháng – Trả phí quyền chọn : 0.0040USD/1EUR (gọi tắt là hợp đồng QC 3) * 1 hợp đồng mua quyền chọn bán EUR/USD : Số lượng 100.000 EUR – tỷ giá EUR/USD : 1.4000 Kỳ hạn : 1 tháng – Trả phí quyền chọn : 0.0090USD/1EUR (gọi tắt là hợp đồng QC 4) Khi tỷ giá biến động, lãi lỗ của chiến lược kinh doanh này như sau: Phí ròng = 600+600-900+400=-100 Bảng 10: Lãi lỗ của chiến lược Long Put Butterfly Đơn vị tính : USD Tỷ giá EUR/USD HĐQC 1 HĐQC 2 HĐQC 3 HĐQC 4 Tổng lãi/ lỗ 1.3850 - Thực hiện - Lỗ: 1000 - Thực hiện - Lỗ: 1000 - Thực hiện - Lãi: 500 - Thực hiện - Lãi: 1500 - Lỗ 100 (=p) 1.3900 - Thực hiện - Lỗ: 500 - Thực hiện - Lỗ: 500 - Không thực hiện -Thực hiện - Lãi: 1000 - Lỗ 100 (=p) 1.3910 - Thực hiện - Lỗ: 400 - Thực hiện - Lỗ: 400 - Không thực hiện -Thực hiện - Lãi: 900 - Hòa vốn (=-400-400+900-100) 1.3930 - Thực hiện - Lỗ: 200 - Thực hiện - Lỗ: 200 - Không thực hiện -Thực hiện - Lãi: 700 - Lãi :200 1.3950 - Không thực hiện - Không thực hiện - Không thực hiện -Thực hiện - Lãi: 500 - Lãi max :400 1.3970 - Không thực hiện - Không thực hiện - Không thực hiện -Thực hiện - Lãi: 300 - Lãi :200 1.3990 - Không thực hiện - Không thực hiện - Không thực hiện -Thực hiện - Lãi: 100 - Hòa vốn 1.3995 - Không thực hiện - Không thực hiện - Không thực hiện -Thực hiện - Lãi: 50 Lỗ 50 1.4000 - Không thực hiện - Không thực hiện - Không thực hiện - Không thực hiện Lỗ 100 Ứng dụng chiến lược Long Condor khi : Nội dung chiến lược Long Condor: Long Condor là chiến lược kết hợp: { 1 1 hợp đồng mua quyền chọn mua tỷ giá X 11 hợp đồng bán quyền chọn mua tỷ giá Y 1 hợp đồng bán quyền chọn mua tỷ giá Y 1 hợp đồng bán quyền chọn mua tỷ giá W với cùng một số lượng ngoại tệ, cùng một ngày đáo hạn. Gọi: S : là mức giá giao ngay hiện hành trên thị trường. ( X + W ) / 2 = S và (Y + Z) / 2 =S X là giá nhỏ nhất so với Y,Z,W W là giá lớn nhất so với X,Y,Z p: phí ròng bao gồm tổng các khoản phí thu vào và các khoản phí chi ra Đây là chiến lược kết hợp của Strangle và Butterfly. Chúng ta có thể tổng hợp chiến lược này như sau: Người sử dụng chiến lược Long Condor ở các trạng thái sau : Lỗ giới hạn : khi S W - /p/ Hòa vốn : khi S = X + /p/ hoặc S = W – /p/ Lãi : khi X +/p/ < S < W - /p/ Lỗ Max = p Lãi Max = Tỷ Giá HĐ Bán QC Mua thấp – Tỷ Giá HĐ Mua QC Mua thấp -/p/ Hình 17: Mô hình chiến lược Long Condor Ứng dụng chiến lược Long Condor : Chiến lược Long Condor là sự kết hợp của Short Strangle và Long Butterfly, nó giới hạn được khoản lỗ và cũng giới hạn khoản lời. Chiến lược này giúp ngân hàng có thêm lợi nhuận, đồng thời bảo hiểm rủi ro trong một khoản lỗ xác định. Đây là ưu điểm của chiến lược Long Butterfly. Bên cạnh đó, lợi nhuận tối đa sẽ đạt được khi tỷ giá biến thiên trong khoảng Y đến Z. Đây là ưu điểm của chiến lược Short Strangle. Có thể nói, chiến lược này khá tối ưu vì nó bao gồm những ưu điểm của 2 chiến lược trên. Trong giai đoạn đầu ứng dụng các chiến lược, để bảo hiểm được rủi ro cũng như có thêm lợi nhuận, nên chăng ngân hàng nên nghiên cứu chiến lược này để thực hiện. Các mô hình trên là những mô hình phát triển từ đơn giản đến phức tạp theo một xu hướng của mô hình. Ngược lại với các chiến lược trên là các chiến lược Long Straddle, Long Strangle, Short Butterfly, Short Condor với mô hình theo chiều ngược lại. Tùy từng trường hợp riêng biệt với dự báo xu hướng tỷ giá mà ngân hàng áp dụng cho từng mô hình chiến lược. Vấn đề ở đây là dựa trên các lý thuyết này để tìm ra một chiến thuật trong kinh doanh quyền chọn hay dặm chân tại chỗ để tránh rủi ro. Tất nhiên, rủi ro càng cao thì tỷ suất sinh lời cũng càng cao. Bên cạnh đó, việc ứng dụng các chiến lược trên còn thể hiện tính chuyên nghiệp chứ không chỉ đơn thuần là nhà môi giới. Có lẽ các NHTM cũng nên cân nhắc những giải pháp trên và chúng ta trông chờ động thái của ngân hàng trong tương lai. 3.2.1.Mục tiêu phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam Như đã phân tích ở chương 2, thực trạng triển khai nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại các NHTM Việt Nam vẫn còn rất nhỏ bé về khối lượng hợp đồng cũng như giá trị các hợp đồng quyền chọn. Vì vậy để trong tương lai không xa nghiệp vụ mới mẻ này được triển khai và phát triển sôi động ở các Ngân hàng thương mại Việt Nam, thì trước hết các Ngân hàng thương mại phải định hướng được mục tiêu một cách rõ ràng và đúng đắn để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm đạt được mục tiêu đề ra: Hiện đại hóa công nghệ, tiếp cận với những công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực tài chính ngân hàng của thế giới để có thể đáp ứng những nghiệp vụ đòi hỏi kỹ thuật cao, phức tạp. Nền tảng công nghệ là một trong những yếu tố quyết định đến sự thành công của ngân hàng trong thời kỳ cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay. Tiếp tục triển khai và nâng cao chất lượng nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ để thu hút được nhiều đối tượng khách hàng. Giữ vững và duy trì những khách hàng truyền thống, thu hút thêm nhiều đối tượng khách hàng nhất là những khách hàng có trình độ hiểu biết cao vì những đây là những đối tượng thường rất quan tâm đến những dịch vụ mới, sức hấp dẫn lớn. Nâng cao doanh thu của nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ cũng như tỷ trọng doanh thu của nghiệp vụ phái sinh này trong doanh thu về kinh doanh ngoại hối. Đa dạng hóa sản phẩm quyền chọn tiền tệ, áp dụng những sản phẩm mới kết hợp giữa quyền chọn tiền tệ và các sản phẩm khác như sản phẩm cơ cấu (structured product) để nâng cao khả năng cạnh tranh. Phấn đấu áp dụng những chiến lược kinh doanh quyền chọn tiền tệ mà các ngân hàng trên thế giới đã áp dụng, không chỉ còn là trung gian môi giới hợp đồng quyền chọn tiền tệ giữa khách hàng trong nước với các ngân hàng nước ngoài. Có như vậy, việc kinh doanh nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ mới hiệu quả, tăng lợi nhuận và doanh thu cho ngân hàng. Đào tạo đội ngũ nhân viên giỏi nghề, tâm huyết, am hiểu và có thể tư vấn cho khách hàng những kiến thức chuyên sâu về tài chính nói chung và nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ nói riêng. Đội ngũ nhân viên này là những người đầu tiên khách hàng được tiếp xúc để đi đến quyết định có thực hiện hợp đồng quyền chọn hay không vì vậy nếu nguồn nhân lực có chất lượng cao là một lợi thế rất lớn cho các ngân hàng. 3.2.2. Giải pháp phát triển thị trường quyền chọn tiền tệ tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam 3.2.2.1.Tạo nhu cầu cho thị trường Có thể nói, trên thị trường ngoại hối có không nhiều người hiểu biết rõ về nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ và số lượng những người sử dụng công cụ này lại càng ít. Do đó, các ngân hàng cần phải tổ chức nhiều và liên tục hơn nữa các cuộc hội thảo, trò chuyện, giải đáp thắc mắc về nội dung, ích lợi của công cụ này cho tất cả các đối tượng khách hàng. Bên cạnh đó, sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để quảng cáo về sản phẩm dịch vụ của mình. Công tác tiếp thị cần phải vạch rõ theo từng bước, cụ thể như: Bước một, tiếp thị để tất cả các đối tượng khách hàng đều chú ý đến. Ở bước này, chúng ta chỉ cần khách hàng chú ý đến sản phẩm của ta thôi, chưa cần họ phải hiểu nó hay thực hiện giao dịch. Khách hàng của chúng ta là những tổ chức, cá nhân đang có nhu cầu cần phòng ngừa rủi ro tỷ giá hay không hề quan tâm về mảng thị trường này, là những người nắm rõ nghiệp vụ này hay những người chưa nghe đến khái niệm quyền chọn tiền tệ. Thành công ở bước một là phải làm cho mọi người biết rằng ngân hàng có sản phẩm quyền chọn, mặc dù có thể họ hiểu hay không hiểu, cần hay không cần sản phẩm này. Bước thứ hai là làm cho khách hàng cảm thấy hứng thú với sản phẩm của chúng ta. Phải đem đến cho khách hàng suy nghĩ rằng quyền chọn không phải chỉ dành cho những nhà kinh doanh tài chính mà dành cho tất cả mọi người đều có thể làm được, quyền chọn không chỉ dành cho những đối tượng có nhu cầu phòng ngừa rủi ro về tỷ giá mà dành cho tất cả những ai muốn đầu tư kinh doanh mạo hiểm, quyền chọn không phải chỉ dành cho những đại gia mà còn là giải pháp cho các nhà đầu tư nhỏ kinh doanh với số vốn khiêm tốn. Bởi vì, ngân hàng luôn hỗ trợ cho khách hàng về những phân tích kỹ thuật cũng như tư vấn cho khách hàng phương án hiệu quả nhất. Bước thứ ba chúng ta nên khuyến khích khách hàng thử nghiệm giao dịch này. Trong các buổi hội thảo, nên cho khách hàng xem tỷ giá giao dịch trực tiếp và thử đặt các lệnh mua bán quyền chọn ngoại tệ để họ nắm rõ lý thuyết đồng thời phân tích những rủi ro cũng như lợi nhuận có thể đạt được khi sử dụng và kinh doanh nghiệp vụ này. Điều quan trọng là để khách hàng thấy đựợc lợi ích cũng như khả năng sinh lời từ nghiệp vụ này để người có nhu cầu sẽ thực hiện giao dịch và người chưa có nhu cầu sẽ phát sinh nhu cầu. Bước thứ tư, khi khách hàng bắt đầu thực hiện những giao dịch nghiệp vụ quyền chọn, chúng ta luôn hợp tác khách hàng để giúp họ đạt được lợi ích cao nhất như cung cấp những thông tin mới nhất, kịp thời nhất và tư vấn phương án hiệu quả. Ngân hàng cần phối hợp với các chuyên gia tài chính, chuyên gia marketing, sự hỗ trợ từ các trường đại học để có thể thực hiện tốt từng bước phát triển nhu cầu thị trường như trên. Các NHTM nên xác lập trong nội dung hợp đồng quyền chọn thêm quyền được mua ngoại tệ khi doanh nghiệp không thực hiện quyền lựa chọn, do đối với các doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam khi thực hiện hợp đồng quyền lựa chọn ngoài ý nghĩa về phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái còn có nhu cầu cần đảm bảo có đủ số lượng ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng nhập khẩu khi đến hạn. 3.2.2.2. Xây dựng cơ cấu bộ máy của trung tâm giao dịch ngoại tệ Như đã trình bày ở chương 2, hiện nay các NHTM Việt Nam chưa có một trung tâm giao dịch ngoại tệ theo đúng tiêu chuẩn quốc tế, vì vậy nên sớm xây dựng các trung tâm giao dịch ngoại tệ với đủ 3 bộ phận như sau: - Bộ phận giao dịch kinh doanh (front office) là bộ phận trực tiếp đưa ra những quyết định kinh doanh và là yếu tố quyết định đến kết quả kinh doanh của trung tâm giao dịch ngoại tệ. Những cán bộ của bộ phận giao dịch kinh doanh phải luôn theo sát thị trường và phải có một độ nhạy bén nhất định để có thể đưa ra những quyết định kinh doanh sáng suốt và có hiệu quả. Hơn nữa họ phải là những con người trung thực và có ý thức kỷ luật cao. - Bộ phận kiểm soát rủi ro (Middle office) là bộ phận có trách nhiệm kiểm soát giám sát hoạt động của các giao dịch viên tại Bộ phận giao dịch kinh doanh. Một trung tâm giao dịch ngoại tệ thương quy định rất khắt khe về quy trình thực hiện giao dịch, về những hạn mức mà giao dịch viên được phép kinh doanh. Và bộ phận kiểm soát rủi ro hình thành với mục tiêu đảm bảo tất cả những quy định đó được tuân thủ một cách nghiêm túc. Trường hợp có bất cứ một sự vi phạm nào, bộ phận kiểm soát rủi ro phải phát hiện ra và đưa ra những hình thức ngăn chặn hoặc xử lý thích hợp. - Bộ phận kế toán hạch toán (Back office) với chức năng hạch toán tất cả những giao dịch kinh doanh ngoại tệ mà bộ phận giao dịch kinh doanh thực hiện. Back office còn có chức năng đối chiếu lệnh xác nhận từ phía ngân hàng đối tác đảm bảo khớp đúng. Bộ phận kế toán hạch toán phải theo dõi những khoản giao dịch đó đảm bảo việc thanh toán chuyển tiền được thực hiện đúng theo hợp đồng. Sự phối hợp giữa các bộ phận này phải nhịp nhàng và thống nhất. Sự nhịp nhàng và thống nhất thể hiện ở chỗ khi những giao dịch phát sinh tại bộ phận giao dịch kinh doanh thì ngay lập tức bộ phận kiểm soát phải được cập nhật và nắm bắt để có thể kiểm định những hạn mức trong kinh doanh ngoại tệ, phục vụ khách hàng kịp thời, nhanh chóng và vì vậy sẽ thu hút được nhiều khách hàng. 3.2.2.3. Đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng Trong bất kỳ tình huống nào con người vẫn là nguồn nhân tố quan trọng nhất và tiên quyết nhất đối với các hoạt động kinh tế xã hội. Đứng trước sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ thông tin và sự cạnh tranh gay gắt giữa các tổ chức tài chính ngân hàng, phi ngân hàng, để tận dụng được cơ hội, nắm bắt tri thức mới của thời đại thì vấn đề có ý nghĩa quyết định chính là đội ngũ nhân lực của ngân hàng. Việc phát triển nguồn nhân lực của các NHTM có một tầm quan trọng đặc biệt vì đặc thù chung của hoạt động ngân hàng. Để sử dụng một cách có hiệu quả các công cụ tài chính phái sinh trong việc phòng ngừa rủi ro tại các NHTM đòi hỏi các ngân hàng phải thực sự quan tâm đến công tác tuyển dụng và đào tạo đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn tốt, am hiểu những kiến thức về kinh tế, tài chính, pháp lý, đặc biệt là kỹ thuật định giá và giao dịch các công cụ tài chính phái sinh trong đó có quyền chọn tiền tệ. Trước hết, các NHTM cần tổ chức các chương trình đào tạo nhằm trang bị những kiến thức chuyên môn, kỹ thuật về các nghiệp vụ phái sinh cho nhân viên ngân hàng, mời những chuyên gia trong và ngoài nước giỏi về nghiệp vụ này tham gia giảng dạy. Nếu có điền kiện có thể cử một số nhân viên có khả năng đi nghiên cứu tại nước ngoài để có điều kiện học hỏi không chỉ về lý thuyết mà cả thực tiễn thực hiện nghiệp vụ này tại ngân hàng. Để cán bộ, nhân viên thực sự quan tâm đến việc học tập và nâng cao trình độ chuyên môn, các ngân hàng cần có cơ chế khuyến khích bằng cách hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ kinh phí, thực hiện chế độ khen thưởng, đề bạt đối với những nhân viên học tập đạt kết quả tốt và có khả năng vận dụng tốt trong thực tế công tác. Bên cạnh đó, để nhân viên ngân hàng thực hiện tốt công việc của mình cần phải được đào tạo cả về tin học, ngoại ngữ nhằm giúp cho nhân viên ngân hàng sớm tiếp cận nắm bắt được công nghệ tiên tiến. Sau nữa, các ngân hàng cần có chính sách tuyển dụng đúng đắn nhằm thu hút những sinh viên giỏi về làm việc. Để thực hiện được điều này ngân hàng nên có những chính sách cụ thể thu hút, trọng dụng người tài (như đãi ngộ cán bộ ngân hàng làm theo năng lực, trình độ, hiệu quả công việc…), tạo điều kiện để các sáng kiến của nhân viên được phát huy có hiệu quả. 3.2.2.4. Đưa phí quyền chọn tiền tệ trở thành một lợi thế cạnh tranh Như những gì đã phân tích trong chương 2 sở dĩ các doanh nghiệp, cá nhân còn thờ ơ với công cụ quyền chọn tiền tệ một phần là vì họ cho rằng mức phí quyền chọn còn cao do các NHTM Việt Nam chưa ứng dụng được các mô hình chiến lược kinh doanh quyền chọn tiền tệ đã nêu ở chương 1 để có thể giảm phí quyền chọn tương đối bằng so với các ngân hàng nước ngoài. Bên cạnh đó, trong giai đoạn đầu tạo lập thị trường, thiết nghĩ các ngân hàng không nên đặt nặng vấn đề lợi nhuận. Mục tiêu của chúng ta hiện nay là thu hút được khách hàng tham gia vào thị trường. Chính vì vậy, mức phí thấp hơn so với các ngân hàng khác sẽ là một chiêu thức thu hút, hấp dẫn giới doanh nghiệp, những nhà đầu tư và những ai quan tâm đến thực hiện thử nghiệm công cụ quyền chọn tiền tệ cho mục đích phòng ngừa rủi ro và kinh doanh sinh lời. Sau khi được tiếp cận với thực tế, khách hàng sẽ nhận thức thêm được sự bất ổn của thị trường và những lợi ích đem lại cho họ từ nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ. Từ đó, nhu cầu sử dụng công cụ này sẽ cao hơn và đa dạng hơn. Vì vậy, việc xác định một mức phí quyền chọn hấp dẫn khách hàng là việc mà ngân hàng cần nghĩ đến. Bên cạnh đó, việc định giá quyền chọn cũng là một khâu khá quan trọng và phức tạp. Tuy nhiên, ứng dụng công nghệ tin học để đánh giá quyền chọn sẽ giúp chúng ta đơn giản hóa được rất nhiều và tiết kiệm được thời gian làm việc, chúng ta chỉ cần cung cấp những thông tin cơ bản, phần mềm sẽ tự động xử lý, phân tích và cho kết quả chính xác. Do đó, các ngân hàng cần trang bị thêm những phần mềm tính toán chuyên nghiệp để nhanh chóng trong quá trình tính phí quyền chọn cho khách hàng, hỗ trợ cho việc theo dõi hạn mức giao dịch của các nhân viên kinh doanh ngoại tệ và hạn mức khách hàng đặc biệt khi thị trường phát triển với những quyền chọn đa dạng theo nhu cầu ngày càng nhiều của khách hàng. 3.2.2.5. Hoàn thiện các quy trình, quy chế của nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ Các quy trình, quy chế thực hiện nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ hiện nay chưa hoàn chỉnh và cần sớm ban hành. Như trong chương 2 đã nêu về tình hình phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền ở Vietcombank, hiện nay Vietcombank vẫn đang trong quá trình xây dựng quy trình và dự kiến phải đến đầu năm 2009 mới có thể ban hành được quy trình về nghiệp vụ này. Tuy được bắt đầu thực hiện từ cách đây vài năm nhưng cho đến nay mới chỉ có thỏa thuận chung về nghiệp vụ này, quy trình, quy chế chính thức đang trong thời gian chỉnh sửa. Để phát triển hơn nữa nghiệp vụ này, các ngân hàng cần khẩn trương hoàn thiện để có sự quản lý chặt chẽ và thống nhất. Về quyền chọn tiền đồng, do vẫn trong thời gian thực hiện thí điểm nên phạm vi thực hiện nghiệp vụ này thường chỉ ở Hội sở chính của các ngân hàng. Trong thời gian tới, nên cho phép thực hiện quyền chọn tiền đồng ở các chi nhánh để tìm kiếm được nhiều khách hàng cũng như thuận lợi cho khách hàng ở các quận huyện trong thành phố cũng như ở các tỉnh thành. Bởi vì, rủi ro tỷ giá là rủi ro mà tất cả các doanh nghiệp, tổ chức đều phải đối mặt, vậy thì tại sao chỉ có các doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh mới có điều kiện thực hiện. Các doanh nghiệp ở địa phương muốn thực hiện thì quả là vất vả khi mà nghiệp vụ này chỉ thực hiện tại Hội Sở chính. 3.2.2.6. Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi về những ưu việt của các công cụ phái sinh trong đó có quyền chọn tiền tệ Để hình thành và phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ thì điều cần thiết là các doanh nghiệp vừa là đối tác vừa là khách hàng của các NHTM phải được trang bị kiến thức nhất định về thị trường các công cụ phái sinh trong đó có quyền chọn tiền tệ, định giá các công cụ phái sinh, sử dụng các công cụ đó để phòng ngừa rủi ro nói chung và rủi ro về tỷ giá nói riêng.Vì vậy các NHTM cần phải tuyên truyền, hướng dẫn và tư vấn cho các doanh nghiệp về vai trò và tầm quan trọng của nghiệp vụ này cũng như các vấn đề kỹ thuật có liên quan. Trên thực tế, nhiều NHTM trên thế giới đã giới thiệu về các sản phẩm phái sinh trên các trang web của ngân hàng nhằm nâng cao khả năng tiếp cận của khách hàng đối với sản phẩm này. Trong điều kiện của Việt Nam, do những hạn chế nhất định về công nghệ nên ngoài phương pháp giới thiệu sản phẩm trên mang, các ngân hàng có thể sử dụng các hình thức khác như xây dựng cẩm nang, tờ rơi, tổ chức hội thảo, hội nghị khách hàng…nhằm giới thiệu về những sản phẩm mới này. Bên cạnh đó, trung tâm đào tạo của các ngân hàng cũng có thể mở những lớp tập huấn ngắn ngày cho các khách hàng để họ hiểu được những kiến thức cơ bản về kỹ thuật, công dụng…của các nghiệp vụ phái sinh nói chung và nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ nói riêng. Các kiến nghị trên là những điều cơ bản, cần thiết giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có thêm công cụ phòng ngừa rủi ro hối đoái, cũng là bước chuẩn bị cho các doanh nghiệp quen dần với môi trường kinh doanh tài chính quốc tế. Đây cũng là vấn đề mang tính chất chiến lược góp phần vào việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế. 3.2.2.7. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, công nghệ ảnh hưởng quyết định tới việc phát triển sản phẩm, chất lượng sản phẩm và phương thức phân phối sản phẩm cũng như khả năng quản lý hoạt động kinh doanh ngân hàng. Đặc biệt trong quá trình thực hiện nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ, công nghệ có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình cung cấp, xử lý thông tin để đi đến quyết định trong các giao dịch, ảnh hưởng đến kết quả tính toán và quá trình thanh toán, cũng như quá trình kiểm soát rủi ro. Chính vì vậy, để hình thành và phát triển nghiệp vụ này đòi hỏi các NHTM cần có những đầu tư nhất định để hiện đại hoá công nghệ. Trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng, quá trình tin học hoá đang được nhanh chóng triển khai, các hoạt động ngân hàng được nối mạng với nhau cung cấp dịch vụ 24/24 giờ, đồng thời nâng cao được hiệu quả phục vụ khách hàng và quản lý vốn. Tuy nhiên, cho đến nay, so với các nước trong khu vực thì công nghệ của các NHTM Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại yếu kém. Các NHTM chưa đủ trình độ thiết kế tổng thể, còn nhiều hệ thống ứng dụng tự phát triển và mang tính tạm thời để phục vụ yêu cầu trước mắt, đặc biệt là các NHTM cổ phần. Do đó, việc kiểm soát gặp nhiều khó khăn, hệ thống cơ sở dữ liệu chồng chéo và hệ thống có nhiều rủi ro. Đặc biệt là không có nền tảng để phát triển hoặc mở rộng các ứng dụng mới. Công nghệ lạc hậu không những hạn chế khả năng cung ứng các dịch vụ mới của các NHTM Việt Nam mà còn làm giảm đi hiệu quả quản lý của các nhà lãnh đạo ngân hàng. Chính vì vậy, hiện đại hoá ngân hàng là mục tiêu hết sức cấp thiết đối với NHTM trong thời gian tới để phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ. 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ Quyền chọn tiền tệ nói riêng và các nghiệp vụ phái sinh nói chung là loại hình kinh doanh còn nhiều mới mẻ, có những đòi hỏi khắt khe về môi trường pháp lý. Điều này là do tính hấp dẫn của bản thân đồng tiền và mức độ rủi ro luôn đi kèm trong hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy, các văn bản pháp lý quản lý trong lĩnh vực này phải xây dựng đầy đủ nhưng cũng cần phải thường xuyên điều chỉnh và thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế. Để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện cán cân kinh tế, từng bước thực hiện khả năng chuyển đổi của đồng Việt Nam trong các hoạt động ngoại hối và hoàn thiện hệ thống quản lý ngoại hối của Việt Nam, hiện nay Pháp lệnh Ngoại hối đã có hiệu lực thi hành từ tháng 06/2006, vì vậy các văn bản hướng dẫn như Thông tư cũng cần nhanh chóng ra đời để tạo hành lang pháp lý cụ thể, chi tiết cho các ngân hàng và các chủ thể tham gia trên thị trường ngoại hối Việt Nam. Vì nếu thực hiện kéo dài sẽ ảnh hưởng tới tình hình kinh doanh, thực hiện đa dạng hóa các hình thức giao dịch ngoại tệ của các NHTM. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, chính sách ngoại hối lại càng có vị trí quan trọng, làm sao để vừa tranh thủ các nguồn vốn quốc tế, thúc đẩy các hoạt động thương mại, du lịch, kiều hối, đầu tư… nhưng lại bảo đảm được chủ quyền của đồng Việt Nam, thực hiện được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Trong những năm gần đây, chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam đã có những đổi mới quan trọng như giảm tỷ lệ kết hối xuống bằng 0%, các doanh nghiệp và các tổ chức có toàn quyền sử dụng số ngoại tệ trên tài khoản, người nhận kiều hối không bắt buộc phải bán ngoại tệ cho ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ủy quyền cho cho chi nhánh Ngân hàng Nhà nước cấp phép cũng như tăng hạn mức mang ngoại tệ ra nước ngoài, tự do hóa lãi suất ngoại tệ, nới lỏng biên độ giao dịch tỷ giá giữ NHTM với khách hàng…Những thay đổi đó đã đem đến những thành công rất ấn tượng như lượng kiều hối chuyển về nước tăng đột biến và đạt gần 7 tỷ USD trong năm 2007. Dự trữ ngoại hối quốc gia được tăng cường, từ chỗ đạt chỉ vài chục triệu USD trong những năm cuối thập kỷ 80 đến năm 2008 đã đạt trên 20 tỷ USD đảm bảo đủ để can thiệp thị trường khi có bất trắc. Tuy nhiên nhìn nhận lại thì chính sách quản lý ngoại hối của nước ta vẫn còn những bất cập nhất định so với yêu cầu của thực tiễn. Yêu cầu đặt ra về hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối là vừa phải khắc phục được những tồn tại, đồng thời phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế. Trước hết cần thiết phải có biện pháp về lãi suất, điều hành tỷ giá, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ… để tạo ra những hấp dẫn cần thiết về lợi ích kinh tế cho các doanh nghiệp để họ thực hiện các giao dịch về ngoại tệ với ngân hàng. Cần phải chấp thuận một thực tế là có thể giảm tình trạng Đô la hóa trong xã hội nhưng sẽ tăng tình trạng Đô la hóa tài sản có trong các NHTM. Tức là thu hút tối đa ngoại tệ trong xã hội vào ngân hàng và mở rộng cho vay, còn lợi hơn là để ngoại tệ lưu thông trôi nổi trong xã hôi, ngân hàng không quản lý được. Danh mục các đơn vị được phép bán hàng và dịch vụ thu bằng ngoại tệ cần giảm thiểu tới mức thấp nhất, đồng thời tăng cường kiểm tra và xử phạt thật nghiêm minh tình trạng tùy tiện mua bán bằng ngoại tệ. Giảm thiểu tới mức có thể chấp nhận được về các loại giấy phép có liên quan đến ngoại tệ, thay vào đó bằng điều kiện kinh doanh, Ngân hàng Nhà nước nên giao quyền chủ động hơn nữa cho các NHTM trong kinh doanh ngoại hối, đa dạng hóa các nghiệp vụ để phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho doanh nghiệp. Từng bước cải cách để thực hiện tự do hóa tài chính hơn nữa. Từ khi thực hiện chính sách mở cửa, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong việc ổn định và phát triển trên cơ sở từng bước thâm nhập thị trường kinh tế thế giới. Việt nam sẽ phải mở cửa thị trường ở hầu hết các lĩnh vực, trong đó có thị trường dịch vụ tài chính. Và chính tự do hóa tài chính sẽ là tiền đề để phát triển thị trường các công vụ ngoại hối phái sinh. Để làm được điều cần thiết phải thực hiện từng bước một, chậm rãi và chắc chắn, cụ thể như sau: Việt Nam nên tiếp tục tiến hành việc mở cửa dần thị trường tài chính với một phạm vi thích hợp và một trình tự hợp lý sao cho vừa đảm bảo nâng dần năng lực và khả năng cạnh tranh vừa thích nghi và tiến gần hơn đến những tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Sự thành công về việc xúc tiến mở cửa thị trường tài chính thời gian qua đã cho thấy rằng, sự tham gia của các hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ tài chính cũng đã mang lại lợi ích đáng kể như tăng cường sự cạnh tranh, hạ thấp chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng cường chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý và tăng thêm tích luỹ vốn cho nền kinh tế. Việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính không thể không gắn liền với một tiến trình cải cách liên tục hệ thống dịch vụ tài chính ở nước ta hiện nay. Mặc dù đã có 10 năm cải cách song hệ thống dịch vụ tài chính ở nước ta vẫn còn ở điểm xuất phát thấp, kém hiệu quả và vẫn mang nặng dấu ấn của thời kỳ bao cấp. Thực trạng đó không thể cứ tiếp tục duy trì thông qua việc bảo hộ bằng cách hạn chế sự thâm nhập của các hoạt động đầu tư quốc tế, mà cần phải được bảo hộ thông qua những cải cách triệt để trên cơ sở đó tạo ra năng lực tự bảo vệ trong điều kiện cạnh tranh quốc tế khi tiến hành hội nhập. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ diễn ra trên thế giới (cùng với những nguyên nhân khác) là sự yếu kém của chính bản thân hệ thống tài chính ngân hàng nội địa của các nước thi hành chính sách mở cửa. Do đó, đã không đối phó nổi những trận bão táp tài chính nảy sinh do hiệu ứng của đầu tư quốc tế mang lại. Việc mở cửa thị trường nếu quá đột ngột do không cho sự cải cách đáng kể để nâng cao năng lực của hệ thống tài chính nội địa trước khi tiến hành mở cửa sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng hỗn loạn, bất lợi và mất khả năng kiểm soát của chính phủ đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính. Vì vậy, cải cách và loại bỏ dần tính hành chính bao cấp của hệ thống tài chính nội địa cho thích ứng với kinh tế thị trường trong môi trường quốc tế được coi là một trong những chiến lược mang lại sự thành công khi tham gia hội nhập. Cải cách hệ thống dịch vụ tài chính không có nghĩa chỉ là những cải cách về mặt cơ cấu tổ chức, năng lực nghề nghiệp, mà phải được tiến hành toàn diện cả về quan điểm và phương pháp điều hành vĩ mô của toàn bộ hệ thống gắn với những điều kiện quốc tế. Trong đó, những cải cách về hệ điều hành chính sách tỷ giá, quản lý ngoại tệ và chính sách lãi suất phải được coi là đặc biệt quan trọng vì chúng hết sức nhạy cảm đối với nền kinh tế. Cải cách tài chính song song với việc mở cửa dần dần thị trường dịch vụ tài chính cần phải được hỗ trợ đồng thời bằng việc hoàn thiện hệ thống luật pháp, nhằm tạo ra một hành lang pháp lý ổn định, hiệu quả và minh bạch, tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo hướng đối xử quốc gia (national treatment). Trong đó, đặc biệt chú ý đến những cơ sở pháp lý đảm bảo quyền giám sát kiểm tra của chính phủ và các cơ quan bảo vệ pháp luật đối với các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm đảm bảo sự khống chế của nhà nước trong việc duy trì sự ổn định và sự lành mạnh của thị trường dịch vụ tài chính. Trước mắt cần xoá bỏ ngay sự đối xử ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ tài chính nhằm đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nói chung, đối với lĩnh vực ngân hàng và thị trường chứng khoán cần phải có những bước đi hết sức thận trọng, bằng những biện pháp bảo vệ thận trọng để tiến tới việc mở cửa một cách toàn diện khi đủ điều kiện cho phép. Tiếp nữa, cần điều chỉnh cơ cấu xuất nhập khẩu, cải thiện cán cân vãng lai hoàn thiện các chính sách quản lý vĩ mô. Trong nhiều năm qua, cán cân thương mại của nước ta luôn trong tình trạng bội chi vì nhập khẩu cao hơn so với xuất khẩu, do vậy ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh ngoại hối của các NHTM. Như vậy, để củng cố và cải thiện cán cân thương mại nhằm củng cố giá trị VNĐ và tiến tới làm cho nó có khả năng chuyển đổi thì Nhà nước cần phải đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu, giảm nhập khẩu, đặc biệt giảm mạnh việc nhập các hàng hóa tiêu dùng trên cơ sở phải đầu tư nhiều hơn vào chất lượng hàng hóa xuất khẩu, thay đổi cơ cấu, chủng loại hàng hóa, đồng thời khai thác thị trường xuất khẩu. Để làm được điều này, Nhà nước cần đặc biệt chú trọng đến các chính sách tài trợ xuất khẩu, chính sách tỷ giá và các chính sách khác nữa. Cũng nhằm tạo điều kiện cho các NHTM trong việc mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại hối, Chính phủ cần quan tâm hỗ trợ một số vấn đề như: nhanh chóng giải quyết dứt điểm các khoản nợ tồn đọng và sớm bổ sung thêm vốn điều lệ cho các NHTM và tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước; sớm có chỉ đạo thống nhất tập trung nguồn thu chi ngoại tệ về đầu mối Ngân hàng Nhà nước nhằm tăng cường nguồn dự trữ ngoại tệ của quốc gia tại Việt Nam, phát huy vai trò can thiệp của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường ngoại hối từ đó đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của khách hàng được tốt nhất. Nhà nước nên hoàn chỉnh khung pháp lý xác định rõ ràng nghiệp vụ giao dịch hợp đồng Quyền chọn là một nghiệp vụ kinh doanh tài chính mang tính chất phòng ngừa rủi ro hối đoái của các doanh nghiệp không thuộc các tổ chức tài chính – tín dụng, bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán. Trên cơ sở này, Bộ tài chính xác định phí giao dịch quyền chọn là một khoản chi phí hợp lý, hợp lệ được tính vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế. Hình thành sàn giao dịch công cụ tài chính phái sinh Ở các nước phát triển như Mỹ, Anh, Đức, Nhật và Singapre đều có sàn giao dịch công cụ tài chính phái sinh tập trung. Trong thời gian qua, giao dịch tài chính phái sinh ở Việt Nam chủ yếu là giao dịch phái sinh trên thị trường ngoại hối như Hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn đều được thực hiện trên thị trường phi tập trung, dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa khách hàng và NHTM. Do không có thị trường tập trung hoạt động nên tính thanh khoản của các công cụ tài chính phái sinh thấp. Khách hàng e ngại khi thấy công cụ phái sinh như Hợp đồng quyền chọn rất khó thanh lý khi cần. Việc giao dịch phi tập trung như hiện nay có nhiều nhược điểm và làm hạn chế nhu cầu giao dịch của khách hàng, thể hiện ở chỗ: chi phí tìm kiếm thông tin và tìm kiếm khách hàng thường cao nhưng khách hàng giao dịch lại không nhiều; khách hàng rất e ngại vì họ cho rằng họ không đủ mạnh về kiến thức, chuyên môn, kinh nghiệm, thông tin …để có thể thương lượng giao dịch bình đẳng với các ngân hàng. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Nếu sử dụng sai mục đích và không được giám sát chặt chẽ, các công cụ phái sinh, từ chỗ là công cụ phòng chống rủi ro sẽ mang đến những mầm hoạ khôn lường cho nền kinh tế. Tuy nhiên làm thế nào để vừa không quản lý quá chặt cản trở sự phát triển của nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ vừa đưa nghiệp vụ về đúng quỹ đạo của nó, Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng những trụ cột cơ bản đảm bảo việc triển khai nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ được phát triển bền vững Thứ nhất: Quy định về giới hạn và giá mua Quy định này nhằm khống chế các nhà đầu tư đưa ra những mức giá quá cao hay quá thấp làm cho thị trường bị xáo trộn hay bị bóp méo. Nói cách khác, đây là những quy định nhằm kiểm soát (không ngăn cấm) các nhà đầu cơ tác động lên giá cả. Việc kết hợp các chiến lược phòng ngừa rủi ro trong các quyền chọn tiền tệ là rất phong phú, nó cho phép các doanh nghiệp Việt Nam kết hợp vừa phòng ngừa (tỷ giá) vừa tiến công khi có cơ hội (đặc biệt đối với các định chế muốn tìm kiếm lợi nhuận). Dĩ nhiên là mặt trái của quyền chọn là đầu cơ rất cao vì các nhà đầu cơ có thể kích giá lên nhằm mục đích thu lợi nhuận cao nếu họ mua hợp đồng quyền chọn bán với giá cao hơn giá giao ngay. Các nhà đầu cơ có thể đầu cơ giá lên hoặc đầu cơ giá xuống bằng các quyền chọn mua và bán. Việc đầu cơ giá trên hợp đồng quyền chọn tiền tệ có thể làm cho tỷ giá biến động vượt ra khỏi biên độ dự kiến và do đó làm mất niềm tin của các doanh nghiệp và các nhà đầu tư vào hệ thống tỷ giá mà chúng ta đã hoạch định. Mặc dù vậy, vẫn chưa có những chứng cứ nào cho thấy việc đầu cơ vào các hợp đồng quyền chọn tiền tệ dẫn tới sự sụp đổ hoặc khủng hoảng tỷ giá ở các nước trên thế giới. Chế độ tỷ giá phụ thuộc chủ yếu vàọ sự ổn định vĩ mô của nền kinh tế quốc gia. Trong những năm qua, Việt Nam được đánh giá rất cao về chỉ số ổn định kinh tế vĩ mô. Do đó, nỗi lo về tính bất ổn của tỷ giá khi mở rộng biên độ sẽ giảm đi rất nhiều. Chính vì thế, chúng ta có thể triển khai các quyền chọn có điều kiện phù hợp với điều kiện các nước như Việt Nam đã từng áp dụng và thành công. Quyền chọn có điều kiện là một dạng quyền chọn lai tạp giữa các quyền chọn phức tạp ở các nước phát triển nhưng nó làm giảm nhẹ đi tính đầu cơ để tránh thua lỗ tối đa cho các nhà đầu tư và thậm chí các nhà đầu cơ có ham muốn sử dụng quyền chọn tiền tệ như một công cụ kiếm lời. Các quyền chọn tiền tệ có điều kiện đưa ra những quy định về các mức tỷ giá trần (tối đa) và sàn (tối thiểu). Nếu tỷ giá vượt quá các mức giá này thì quyền chọn sẽ không còn có giá trị. Những rào cản này sẽ làm nản lòng các nhà đầu cơ và do đó giảm đi đáng kể tính bất ổn do Ngân hàng Nhà nước mở rộng biên độ dao động tỷ giá. Các khống chế nêu trên có thể áp dụng cho toàn bộ các hàng hoá và tài sản trên thị trường Việt Nam. Thứ hai: Yêu cầu về vốn và thế chấp trong giao dịch Kể từ vụ sụp đổ của công ty Enron năm 2001, một công ty có thể mở ra một hay nhiều công ty con "dưới bóng" của mình. Công ty con dựa uy công ty mẹ để được vay vốn, để thắng thầu, để xây dựng thương hiệu. Công ty mẹ sử dụng công ty con để huy động vốn, để hứng chịu những hợp đồng đầy rủi ro, để giấu bớt những trách nhiệm nợ của mình, làm cho báo cáo tài chính "đẹp đẽ" hơn..., các nhà kinh tế đã bắt đầu thảo luận để đặt ra những qui định về thế chấp tài sản trên các hợp đồng phái sinh. Khi một công ty có những khó khăn về mặt tài chính hoặc thậm chí đang còn hoạt động rất tốt vẫn phải đưa ra những khoản thế chấp hay các mức duy trì đặt cọc cao để chắc chắn công ty sẽ tuân thủ hợp đồng mỗi khi có những biến động cao trong giá. Mức duy trì có thể là một khoản tối thiểu mà khi tài khoản ký quỹ giảm xuống một mức nào đó, thì cách tham gia hợp đồng bổ sung vào. Trong điều kiện Việt Nam, mức tài khoản ký quỹ và mức duy trì ắt phải là rất cao, có thể lên tới 30% hợp đồng (so với mức 5% trên các thị trường thế giới). Đối với các nhà môi giới trên các hợp đồng phái sinh yêu cầu đầu tiên là phải có đủ vốn, mặc dù họ chỉ là những ngân hàng hoặc các công ty không trực tiếp tham gia vào các giao dịch phái sinh. Yêu cầu về vốn rất quan trọng, vì chúng giúp cho hệ thống các ngân hàng Việt Nam giảm bớt những nguy cơ về động cơ sẵn sàng chấp nhận rủi ro để tránh tình trạng mất khả năng thanh toán của nhà môi giới. Thứ ba: Yêu cầu bắt buộc về tái phòng ngừa rủi ro trên các thị trường quốc tế Yêu cầu này nhằm khống chế và bắt buộc hệ thống NHTM trong nước không được gánh chịu những rủi ro từ người mua các hợp đồng quyền chọn hoặc kỳ hạn. Các ngân hàng chỉ là trung gian, đứng ra thu phí giữa người mua trong nước và sau đó đem bán lại trên thị trường thế giới. Quy định này được áp dụng trong hầu hết các nước phát triển, nhưng trong điều kiện Việt Nam chúng ta bắt buộc các ngân hàng về các giao dịch này còn hạn chế nhiều, đó là chưa kể đến những yếu kém về vốn trong hệ thống NHTM. Thứ tư: Yêu cầu mở cửa thị trường tự do cho tất cả các định chế triển khai các hợp đồng quyền chọn Mở cửa thị trường các công cụ tài chính phái sinh, để tránh tình trạng phổ biến hiện nay là chính phủ chỉ cho phép một số ngân hàng làm thí điểm. Có thể nói “thí điểm” hiện nay là một căn bệnh của các cơ quan hoạch định chính sách. Trong những trường hợp như thế, giá trị hợp lý của các hợp đồng phái sinh sẽ chỉ là độc quyền của một số ngân hàng, và chắc chắn sẽ cao hơn trên thị trường thế giới. Tất cả những bóp méo giá trị các hợp đồng phái sinh sẽ đẩy sang phía người mua gánh chịu. Tác dụng ngược của các độc quyền là hoặc sẽ không tồn tại công cụ phòng ngừa rủi ro trên thực tế, do giá phí quá cao làm nản lòng các nhà đầu tư, hoặc là các nhà đầu tư sẽ càng chấp nhận mạo hiểm cùng tham gia canh bạc với cái giá phải trả rất cao với hy vọng gỡ gặc lại bằng cách hy vọng đầu cơ trên những thị trường bất đầu cơ trên không khí bất ổn của giá cả thị trường. Chính vì thế mà cần xem xét để tạo ra một thị trường tự do, để các định chế tài chính có đủ các điều kiện có thể cung cấp các hợp đồng quyền chọn. Và dĩ nhiên đi liền với đó là thiết lập khung quản lý chung cho các định chế này. Thứ năm: Yêu cầu về đăng ký và lập các Báo cáo tài chính Đây là một chuẩn mực bắt buộc nhằm làm tăng tính minh bạch cho tất cả thành viên tham gia thị trường. Tất cả các thành viên tham gia thị trường phái sinh phải hiểu hết về nhau trước khi tiến hành các giao dịch với nhau Chẳng hạn như một ngân hàng Việt nam đồng ý thực hiện một hợp đồng tương lai 1000 lượng vàng với người mua tương lai. Trong trường hợp này người mua tương lai cần phải có những thông tin rằng hiện nay ngân hàng Việt Nam hiện đang ký quỹ là bao nhiêu tại một ngân hàng nước ngoài để mua vàng thế giới bán lại cho người từ trong nước. Nói cách khác, trong cuộc chơi này trong cuộc chơi này ai cũng phải có thông tin lẫn nhau, để cuộc chơi tăng thêm phần minh bạch và có lợi cho thị trường giao dịch. Thứ sáu: Hoàn thiện những quy định tài chính kế toán liên quan, nâng cao tính thanh khoản của hợp đồng quyền chọn tiền tệ Nhà nước nên hoàn chỉnh khung pháp lý xác định rõ ràng nghiệp vụ giao dịch hợp đồng quyền chọn là một nghiệp vụ kinh doanh tài chính mang tính chất phòng ngừa rủi ro hối đoái của các doanh nghiệp không thuộc các tổ chức tài chính tín dụng, bảo hiểm, kinh doanh. Trên cơ sở này, Bộ tài chính xác định phí giao dịch quyền chọn là một khoản chi phí hợp lý, hợp lệ được tính vào chi phí khi tính vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế. Song song với việc triển khai các công cụ tài chính phái sinh thuần nhất, nên có những tiếp cận đối với các sản phẩm lai tạp. Các sản phẩm quản trị rủi ro lãi suất, tỷ giá, giá cả và cả rủi ro tín dụng đã xuất hiện trên thị trường Việt Nam. Thời gian tới sẽ vẫn tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng của thị trường tài sản cơ cở. Từ đó, sẽ là cơ sở có thể định giá các sản phẩm phái sinh hiệu quả nhất. Thứ bảy: Chấm dứt giai đoạn thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn tiền đồng Cho phép các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại hối được thực hiện nghiệp vụ quyền chọn tiền đồng. Nên tạo một sân chơi lớn, bình đẳng để các ngân hàng cạnh tranh và phát triển, còn khách hàng mới có cơ hội lựa chọn những dịch vụ tốt nhất cho mình, một thị trường nhiều người mua và nhiều người bán thì mới có thể sôi động và phát triển. Ngân hàng Nhà nước sớm nghiên cứu và mở rộng phạm vi giao dịch hợp đồng Quyền chọn, thay vì chỉ cho phép giao dịch giữa ngoại tệ với ngoại tệ, cho phép giao dịch cả VND với ngoại tệ. Không nên quá lo lắng các doanh nghiệp sẽ “đánh bạc” với nghiệp vụ giao dịch này cũng như lo lắng trình độ hiểu biết về các giao dịch ngoại hối của doanh nghiệp. Thực tế, các doanh nghiệp quan tâm đến nghiệp vụ này thường là các doanh nghiệp có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn, trong những năm gần đây các cán bộ quản lý tài chính ở những doanh nghiệp này đa số đã có sự chuẩn bị kiến thức để thực hiện những nghiệp vụ giao dịch hối đoái đa dạng. Tạo điều kiện giúp hoàn chỉnh và đẩy mạnh hoạt động của thị trường liên ngân hàng. Nới lỏng các quy định trong việc đáp ứng các nhu cầu mua ngoại tệ của các doanh nghiệp. Thứ tám, Ngân hàng Nhà nước nên xác định chính sách tỷ giá giữa VND và USD một cách hợp lý Trên cơ sở xác định ngang giá trung tâm dựa trên tỷ giá thực tế với một dải băng có biên độ lớn hơn làm khung giao dịch Ngân hàng Nhà nước nên xác định chính sách tỷ giá giữa VND và USD một cách hợp lý, có như vậy tỷ giá VND mới có sự biến động theo tín hiệu của thị trường, Trên đây là một số giải pháp mang tính vĩ mô. Đó là những công việc mà nhà nước, chính phủ và các cơ quan liên quan cần có kế hoạch triển khai. Tuy nhiên, để thị trường ngày càng phát triển bền vững, an toàn và hiệu quả thì cần những nỗ lực của tất cả các chủ thể kinh tế, các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng ngân hàng, những chủ thể cung cấp và sử dụng sản phẩm phái sinh. Và vấn đề cốt lõi chính là nhận thức của chính các chủ thể tham gia trực tiếp chứ không phải là các chủ thể quản lý. KẾT LUẬN Nghiệp vụ tài chính phái sinh nói chung và quyền chọn tiền tệ nói riêng vẫn còn là một nghiệp vụ khá mới mẻ đối với các Ngân hàng thương mại và đối với khách hàng vì đây là một nghiệp vụ phức tạp, đòi hỏi phải có sự phát triển toàn diện về trình độ chuyên môn của các ngân hàng cũng như kiến thức về tài chính của khách hàng. Bên cạnh đó nghiệp vụ này còn đòi hỏi được triển khai trên nền tảng công nghệ hiện đại, hệ thống thông tin đồng bộ, xuyên suốt và cập nhập. Ngoài ra hành lang pháp lý cũng cần thiết phải được đổi mới để hỗ trợ tối đa hoạt động kinh doanh hợp pháp của các ngân hàng và khách hàng, không tạo ra những rào cản không cần thiết đối với việc thực hiện các giao dịch này. Với việc vận dụng kiến thức, hiểu biết và phương pháp nghiên cứu khoa học, luận văn đã hoàn thành một số nội dung sau: Thứ nhất, hệ thống hoá được các lý thuyết, mô hình về nghiệp vụ quyền chọn và quyền chọn tiền tệ. Thứ hai, khái quát được thực tiễn triển khai nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại một số Ngân hàng thương mại Việt Nam. Thứ ba, đề xuất nhóm giải pháp phù hợp với điều kiện Việt Nam để có thể phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam. Người viết hy vọng luận văn sẽ đóng góp được một phần nhỏ trong việc tìm ra giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong nghiên cứu và hoàn thiện để có thể đạt được những kết quả như đã trình bày, song do hạn chế về thời gian và trình độ nên luận văn chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Người viết rất mong được sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn đọc quan tâm để luận văn được hoàn thiện hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT TS. Bùi Lê Hà, TS. Nguyễn Văn Sơn, TS. Ngô Thị Ngọc Huyền, Ths. Nguyễn Thị Hồng Thu (2000), Giới thiệu về thị trường Future và Option, NXB Thống Kê. TS. Nguyễn Ninh Kiều (1998), Thị trường ngoại hối, NXB Tài Chính. Nguyễn Đức Lệnh (2005), “Quyền chọn tiền tệ - Công cụ hạn chế rủi ro hối đoái đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu”, Công nghệ ngân hàng (7), tr 15-18. Lê Quốc Lý (2004), Quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam, NXB Thống Kê. Ngân hàng Nhà nước (2007), Giải pháp phát triển thị trường phái sinh ở Việt Nam, NXB Văn hóa – Thông tin. Ngân hàng Thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam (2006), Báo cáo thường niên. Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (2007), Báo cáo thường niên. Lê Hoàng Nga (2003), Thị trường tiền tệ Việt Nam trong quá trình hội nhập, NXB Chính Trị Quốc Gia. Võ Trí Thanh (2002), Exchange Rate in Vietnam, NXB Thống Kê. TS. Trần Ngọc Thơ, TS. Vũ Việt Quảng (2007), Lập mô hình tài chính, NXB Lao động – Xã hội. Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Thanh Trúc, Nguyễn Thị Chiến (2001), Giáo trình Kinh doanh Ngoại hối, NXB Thống Kê. Nguyễn Văn Tiến (2004), Quyền chọn tiền tệ, NXB Thống Kê. Nguyễn Văn Tiến (2001), Tài Chính Quốc Tế hiện đại trong nền kinh tế mở, NXB Thống Kê, Hà Nội. Hồ Viết Tiến (2005), “ Tổng quan về thị trường các sản phẩm phái sinh”, Công nghệ ngân hàng(7), tr 18-22. GS.TS. Lê Văn Tư (2004), Tiền tệ Ngân hàng-Thị trường Tài chính, NXB Tài Chính. Website: www.eximbank.com.vn Website: www.vietcombank.com.vn Website: www.sbv.gov.vn TIẾNG ANH David K.Eiteman, Arthur I.stonehill, Michael H. Mofett (2004), Multinational business finance, Pearson Education, Inc. F. Peter Boer (2002), The real options Solution, John Wiley & Sons, Inc. John C.Hull (2000), Option, Future & Other Derivatives, Prentice Hal International,Inc. John F.Summa, Jonathan W.Lubow (2002), Options and Future-New trading strategies, John Wiley & Sons, Inc.. Jon Najarian (2002), How I trade options, John Wiley & Sons, Inc.. Leonard Yates (2003), High Performance Options Trading-Option Volatility & Pricing Strategies, John Wiley & Sons, Inc. Marion A.Brach (2003), Real Options in practice, John Wiley & Sons, Inc. Pilbean (1998), International Finance, London Macmillan Business. Robert W.Kolb (2002), Understanding options, John Wiley & Sons, Inc.. Stefano Lavinio (2000), The hedge fund handbook-A Definitie Guide for Analyzing and Evaluating Alternative Investment, MC Graw-Hill. Website: www.optiontradingtips.com Website: www.cboe.com Website: www.theoptionguide.com Website: www.options.com Website: www.learnmoney.co.uk Website: www.investorwords.com Website: www.forexnews.com Website: www.netdania.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNghiên cứu phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại các Ngân hàng thương Mại Việt Nam.doc
Luận văn liên quan