Với các số liệu và thông tin được cập nhật mới nhất tính đến năm 2010,đề tài sẽ cho bạn biết các nguồn vốn trong doanh nghiêp và tình hình sử dụng của nó.Tài liệu vừa có ích cho các bạn viết báo cáo thực tập cũng như làm tiểu luận nhóm.Mong các bạn so sánh với các tài liệu khác và ủng hộ.
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế hiện nay, vốn là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với sản xuất kinh doanh. Thiếu vốn thì mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều không thể hoạt động được. Chính vì vậy, vấn đề vốn luôn được xem xét đến hàng đầu trong các đơn vị sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong các doanh nghiệp.
Trong thực tế hiện nay, việc sử dụng vốn trong các doanh nghiệp - đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước luôn là vấn đề được nhiều người quan tâm nhất. Bởi vì một doanh nghiệp sẽ chỉ vững mạnh nếu doanh nghiệp đó biết cách sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Nếu sử dụng vốn không có hiệu quả, chắc chắn sản xuất kinh doanh sẽ sút kém, có thể dẫn tới doanh thu thấp, thậm chí là thua lỗ, phá sản.
Khi nghiên cứu các vấn đề về vốn, sinh viên - đặc biệt là sinh viên trường kinh tế cần có được những hiểu biết ban đầu về sự vận hành, lưu thông vốn trong các cơ sở sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp, . Từ đó giúp cho chúng ta có thể hiểu được vốn hoạt động ra sao? Làm sao để vốn hoạt động một cách có hiệu quả. để sau này chúng ta có thể vận dụng nhằm giúp ích cho đất nước và cho chính bản thân chúng ta. Nhất là khi nắm được sự vận động vốn trong doanh nghiệp Nhà nước, chúng ta cũng sẽ có một cái nhìn rõ nét hơn về các đường lối, chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề vốn trong doanh nghiệp Nhà nước, nhóm 12 bọn em xin mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình về đề tài: “Nguồn vốn trong doanh nghiệp, phân tích thực trạng huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp Nhà nước”.
Do thời gian và tài liệu tham khảo có hạn, và vốn kiến thức hiểu biết của bọn em về vấn đề chưa thật sự sâu sắc nên khó tránh khỏi sai sót. Kính mong thầy cô góp ý để bài viết em được hoàn thiện hơn.
MỤC LỤC 2
LỜI NÓI ĐẦU 5
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN VỐN 6
1. Khái niệm, bản chất của nguồn vốn đầu tư 6
1.1. Khái niệm về vốn và nguồn vốn 6
1.2. Bản chất của của nguồn vốn đầu tư 6
2 .Vai trò của nguồn vốn đầu tư 7
3. Phân loại nguồn vốn đầu tư 8
3.1. Nguồn vốn trong nước 8
3.2. Nguồn vốn nước ngoài. 9
4. Nội dung nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp. 10
4.1. Nguồn vốn chủ sở hữu 10
4.1.1. Vốn ban đầu: 10
4.1.2. Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia: 10
4.1.3. Phát hành cổ phiếu: 11
4.2. Nguồn vốn nợ: 11
4.2.1. Phát hành trái phiếu công ty. 11
4.2.2. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng 12
4.2.3. Nguồn vốn tín dụng thương mại 13
5. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước. 13
5.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước. 13
5.2. Đặc điểm của Doanh nghiệp nhà nước. 14
5.3. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước. 14
6. Các nhân tố tác động tới nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước 15
6.1. Cơ sở huy động nguồn vốn đầu tư phát triển trong các DNNN 15
6.2. Các nhân tố vĩ mô. 15
6.2.1. Năng lực tăng trưởng kinh tế 15
6.2.2. Tình hình chính trị trong nước, chủ trương của nhà nước 16
6.2.3. Các chính sách kinh tế vĩ mô. 16
6.3. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp nhà nước 17
6.3.1. Ngân sách nhà nước 17
6.3.2. Khấu hao hàng năm 18
6.3.3. Lợi nhuận giữ lại 18
6.3.4. Thực hiện cổ phần hóa và phát hành cổ phiếu trái phiếu 18
6.3.5. Bất động sản. 20
6.4. Các nhân tố khác. 20
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN SAU ĐỔI MỚI ĐẾN NAY 22
1. Thực trạng huy động vốn 22
1.1. Nguồn vốn từ NSNN 22
1.2. Nguồn vốn từ các ngân hàng thuơng mại 23
1.3. Quỷ đầu tư mạo hiểm 23
1.4. Huy động vốn từ thị trường chứng khoán 26
2. Thực trạng sử dụng vốn. 26
2.1. Đầu tư xây dựng cơ bản 26
2.2. Vốn lưu động bổ sung 26
2.3. Vốn đầu tư phát triển khác. 27
2.3.1. Đầu tư nghiên cứu triển khai các hoạt động khoa học công nghệ 27
2.3.2. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực 27
2.3.3. Đầu tư phát triển tài sản vô hình 27
2.3.4. Đầu tư ra ngoài doanh nghiệp 27
3. Những vướng mắc. khó khăn còn tồn tại và nguyên nhân. 27
3.1. Những khó khăn đối với hoạt động huy động vốn ở các DNNN. 27
3.1.1. Những vướng mắc trong việc đa dạng hóa hình thức huy động vốn 27
3.1.2. Những khó khăn về tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước. 28
3.1.3. Những khó khăn về cơ chế quản lý tài chính DN Nhà nước. 28
3.1.4. Là những khó khăn từ phía doanh nghiệp Nhà nước. 29
3.2. Những vướng mắc trong việc huy động và sử dụng vốn. 29
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 31
1. Các giải pháp cho việc huy động vốn 31
1.1. Các giải pháp và tầm vĩ mô. 31
1.1.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách quản lý tài chính ở DNNN. 31
1.1.2. Tiếp tục sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước. 31
1.1.3. Các giải pháp về tín dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước. 32
1.2. Giải pháp cụ thể về phía các doanh nghiệp Nhà nước. 32
2. Các giải pháp nhằm tăng tích luỹ vốn cho doanh nghiệp 32
2.1. Thực hành chính sách tiết kiệm để tăng tích luỹ vốn 32
2.2. Tiếp tục đổi mới và quản lý có hiệu quả các DNNN 32
2.2.1. Cần đẩy nhanh sắp xếp và đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước. 32
2.2.2. Đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu DNNN 32
2.3. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện ngân sách Nhà nước 33
2.3.1. Huy động đầu tư cho phát triển qua ngân sách Nhà nước bằng cách tăng thu ngân sách. 33
2.3.2. Tăng quy mô đầu tư từ NS và sử dụng đúng hướng vốn vay 33
2.3.3. Nâng cao chất lượng quản lý cấp và phát kiểm soát chi NSNN 33
2.4. Tạo lập và sử dụng vốn có hiệu quả. 33
2.5. Đổi mới, phát triển,nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN 33
2.6. Thực hiện sáp nhập hay liên kết các doanh nghiệp 33
KẾT LUẬN 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO 35
38 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8082 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguồn vốn trong doanh nghiệp, phân tích thực trạng huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đây Nhà nước nắm giữ 100% vốn như điện lực, viễn thông, hàng hải, dầu khí, tài chính và bảo hiểm.
Tình hình vốn chủ sở hữu nhà nước tại các DNNN cổ phần hoá
2000
2001
2002
2003
2004
2005
SốDN hoàn thành cổ phần hóa
211
203
185
537
805
744
DNcó vốn NN năm giữ >51%
21
27
29
250
371
246
DN có vốn NN nắm giữ từ 35%-49%
30
25
22
38
217
126
DN có vốn NN nắm giữ <35%
160
151
134
249
217
372
Nguồn: Đánh giá chính sách và thực trạng đầu tư vốn nhà nước vào kinh doanh-Bùi Văn Dũng, CIEM, 2006
*Phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
- Phát hành cổ phiếu ra công chúng là nguồn huy động vốn trong thị trường đáng kể từ khi Việt Nam mở cửa hội nhập với thế giới và cũng là những bước thay đổi đáng kể trong việc huy động sử dụng vốn và hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.
- Phát hành trái phiếu quốc tế: Sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam có thể được chia làm 2 giai đoạn, trước 2006 và từ 2006 đến nay.
Trước năm 2006, việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp được thực hiện theo Nghị định số 120/CP ngày17/9/1994 của Chính Phủ về phát hành cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp Nhà nước. Khi đó, thị trường này chưa phát triển, chỉ có các tổ chức tài chính tín dụng phát hành trái phiếu, còn trái phiếu doanh nghiệp thì có rất ít các doanh nghiệp phát hành.
Tuy nhiên, kể từ năm 2006 trở lại đây, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã có bước phát triển tích cực, đặc biệt là sau khi có Nghị định 52/CP về việc cho phép các doanh nghiệp phát hành trái phiếu theo hình thức riêng lẻ.
Theo nguyên tắc, công ty có quyền huy động vốn dưới các phương thức khác nhau như vay, phát hành trái phiếu... để đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, do nhà nước chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ hoạt động này nên có nhiều công ty nhà nước huy động vốn quá lớn, dư nợ phải trả lớn gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu. Báo cáo mới nhất của Bộ Tài chính chỉ ra có 30/70 tập đoàn, tổng công ty có hệ số nợ phải trả trên vốn vượt trên ba lần, thậm chí nhiều đơn vị vượt trên 20 lần. Ví dụ như Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 5 gấp 42 lần, Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 1 gấp 22,5 lần, Tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam gấp 21,8 lần...
Để hạn chế tối đa rủi ro, đồng thời định hướng khuyến khích doanh nghiệp tập trung nguồn vốn huy động vào ngành nghề chính của mình, Bộ Tài chính đề xuất cơ chế huy động vốn được điều chỉnh. Theo tinh thần này thì nhà nước không hạn chế quyền huy động vốn của doanh nghiệp nhưng đối với các trường hợp có mức huy động vốn quá lớn, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và độ an toàn tài chính của doanh nghiệp thì phải chịu sự giám sát của nhà nước. Mức độ an toàn về tài chính của doanh nghiệp là: hệ số nợ phải trả/vốn điều lệ không quá ba lần.
Theo nguyên tắc thì công ty nhà nước được quyền chủ động huy động vốn. Tuy nhiên, Bộ Tài chính đề xuất nếu hoạt động kinh doanh về đầu tư chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm, quỹ đầu tư không phải ngành nghề kinh doanh chính thì doanh nghiệp không được phát hành trái phiếu để đầu tư vào lĩnh vực này. Đồng thời, hội đồng quản trị có thẩm quyền quyết định các dự án huy động vốn trong phạm vi hệ số nợ phải trả trên vốn điều lệ của công ty không vượt quá ba lần. Trong trường hợp công ty có nhu cầu vay vốn vượt quá ba lần vốn điều lệ thì phải báo cáo đại diện chủ sở hữu. Sau khi quyết định, đại diện chủ sở hữu có trách nhiệm thông báo cho Bộ Tài chính để phối hợp theo dõi và giám sát.
Hiện nay, chủ thể phát hành trái phiếu doanh nghiệp không chỉ là doanh nghiệp Nhà nước như trước đây mà còn có các công ty TNHH, công ty cổ phần và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngay cả nguyên tắc phát hành cũng thông thoáng hơn rất nhiều. Các doanh nghiệp có quyền tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm và công khai minh bạch thông tin. Điều này có nghĩa là Nhà nước không còn can thiệp quá sâu vào việc phát hành trái phiếu của doanh nghiệp.
6.3.5. Bất động sản.
Bất động sản là một trong những nguồn tài sản vô cùng quan trọng và có giá trị của các doanh nghiệp. Tuy nhiên phần lớn số bất động sản của doanh nghiệp nhà nước là do nhà nước cấp, vốn của nhà nước vì vậy không ít DN sử dụng nguồn này một cách lãng phí sai mục đích. Trong khi các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thiếu đất và nhà xưởng để mở rộng sản xuất kinh doanh, phải đi thuê đất, thuê địa điểm thì nhiều doanh nghiệp nhà nước thừa đất, bỏ hoang gây lãng phí một phần tài sản lớn.
Bất động sản còn là một sự đảm bảo, là thế chấp của doanh nghiệp nhà nước khi vay vốn từ tổ chức tín dụng và các ngân hàng thương mại...
Trong giai đoạn hiện nay giá bất động sản đang có những có biến động khó lường vì vậy các Ngân hàng thương mại đang giữ một khoảng cách với các khoản vay thế chấp bằng bất động sản để giảm thiểu rủi ro.
Hiện nay các doanh nghiệp nhà nước đang trong quá trình thực hiện cổ phần hoá,trong đó việc xác định giá trị của các nguồn bất động sản đang gặp nhiều khó khăn.Các DNNN hầu như không thể xác định đúng giá trị ngồn vốn bất động sản của mình gây khó khăn trong việc định giá giá trị DN.
6.4. Các nhân tố khác.
* Nguồn vốn từ ngân hàng thương mại
Huy động từ các nguồn tín dụng: đây là nguồn vốn huy động quan trọng nhất của các doanh nghiệp Nhà nước.
Tín dụng cung cấp cho các doanh nghiệp nhà nước luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất so với các thành phần kinh tế khác. Hiện nay, doanh nghiệp Nhà nước huy động được trên 50% tín dụng nội bộ và trên 70% tín dụng ngoại tệ từ các ngân hàng thương mại
Hiện nay, trong điều kiện vốn ngân sách Nhà nước còn nhiều khó khăn phải giải quyết nhu cầu chi tiêu lớn cho an ninh quốc phòng và các nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, đầu tư cho giáo dục và y tế nên việc trợ giúp cho các DNNN cũng rất hạn hẹp, vì vậy nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại là một trong những nguồn có vai trò quan trọng trong việc giải quyết tình trạng thiếu vốn của doanh nghiệp.Vốn đầu tư cho các DNNN do các ngân hàng thương mại nhà nước cho vay chiếm xấp xỉ đến trên dưới 50%.
Chỉ cách đây một vài năm, doanh nghiệp Nhà nước vẫn là đối tượng khách hàng cạnh tranh của các ngân hàng. Lúc đó dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước chiếm đến 70%-80% tổng dư nợ cho vay của các chi nhánh ngân hàng thương mại nhà nước nhưng từ năm 2004 đến nay tình hình đã khác.
Hiện nay, còn nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả tình trạng nợ đọng triền miên, tuy nhiên nhà nước ta lại có những chính sách loại bảo hộ bất hợp lý như khoanh nợ, giãn nợ, xóa nợ cấp vốn tín dụng ưu đãi tràn lan đối với các hoạt động kinh doanh của DNNN, gây không ít khó khăn cho các ngân hàng. Hơn nữa, bản thân các ngân hàng thương mại cũng là DN nên nguồn vốn cho vay cũng là nguồn vốn huy động. Nếu DN không trả được nợ thì ngân hàng cũng sẽ không có vốn để quay vòng và ngược lại.
Không có ngân hàng nào đặt ưu tiên tín dụng vào doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian này. Phần nhiều các đơn vị xây dựng hiện nay là doanh nghiệp nhà nước và chịu sự quản lý trực tiếp của các tổng công ty. Khi vay vốn tại các ngân hàng, các tổng công ty thường đứng ra uỷ quyền và bảo lãnh cho đơn vị thành viên. Tuy nhiên, khi xảy ra việc mất khả năng thanh toán tại các đơn vị thành viên ngân hàng yêu cầu các tổng công ty thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nhưng việc hợp tác của các đơn vị không mấy hiệu quả. Hơn nữa các doanh nghiệp nhà nước thường gặp một số khó khăn như thường có nguồn vốn tự có thấp nên khả năng tự chủ về tài chính không cao. Để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động các đơn vị này thường phải vay vốn ngân hàng có những phương án tỷ lệ vay vốn có thể lên đến 100% nhu cầu thanh toán. Phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước không có tài sản bảo đảm nên việc cho vay thường thực hiện theo hình thức tín chấp.Việc cho vay tín chấp mang nhiều rủi ro tiềm ẩn cho ngân hàng.
Tình hình các ngân hàng e ngại cho vay doanh nghiệp Nhà nước đang đặt ra những vấn đề đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa việc sắp xếp, tổ chức lại, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước. Nếu không làm được như vậy, các doanh nghiệp Nhà nước khó lòng tìm kiếm được tài trợ về vốn từ các nhà đầu tư và định chế tài chính trung gian để đạt được mục tiêu giữ vị trí then chốt và nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội trong nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta.
* Ngoài ra hiện nay còn xuất hiện hình thức thuê mua tài chính, là một hình thức huy động vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp thông qua việc đi thuê mua tài chính đối với tài sản. Thay vì trực tiếp mua thiết bị, doanh nghiệp yêu cầu một tổ chức tài chính mua thiết bị mình cần và thuê thiết bị đó. Sau khi hết thời hạn thuê, máy móc thiết bị đó có thể được bán lại cho doanh nghiệp với giá tượng trưng.
Có thể nói mặc dù đã xuất hiện ở Việt Nam từ khoảng năm 1997 đến nay nhưng nhìn chung các công ty CTTC còn khá mới mẻ ở thị trường Việt Nam. Trên thị trường Việt Nam hiện nay rất nhiều DNNN cần vốn để đổi mới công nghệ, mua sắm máy móc thiết bị...nhưng thay vì đến các công ty tài chính để tìm sự giúp đỡ thì các DN này lại tìm đến ngân hàng để vay vốn mặc dù ở đây thủ tục rất chặt chẽ và điều kiện để được vay vốn khó hơn rất nhiều.Thực trạng trên một mặt là do thói quen khó thay đổi của các DN Việt Nam nhưng một phần quan trọng là do hoạt động kinh doanh CTTC chưa được tuyên truyền phổ biến và quảng cáo rộng rãi ở Việt Nam.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
GIAI ĐOẠN SAU ĐỔI MỚI ĐẾN NAY
1. Thực trạng huy động vốn
1.1. Nguồn vốn từ NSNN
Đây là nguồn vốn lớn và chiếm tỷ trọng thường xuyên của doanh nghiệp nhà nước. Có nguồn vốn ngân sách vừa là một thế mạnh nhưng cũng tạo không ít hạn chế trong hoạt động quản lý của doanh nghiệp
Nhà nước là chủ sở hữu đối với tài sản trong doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) vì là người cấp vốn đầu tư ban đầu và đầu tư bổ sung cho doanh nghiệp. Như vậy, cho dù theo quy định của pháp luật, DNNN có quyền sử dụng, định đoạt vốn và tài sản trong kinh doanh để tạo ra lợi nhuận, nhưng vai trò chủ sở hữu đối với các tài sản trong doanh nghiệp vẫn thuộc về Nhà nước.
Việc xác định chủ sở hữu đối với tài sản trong DNNN liên quan trực tiếp đến nguyên tắc phân chia, sử dụng lợi nhuận thu được từ nguồn vốn do Nhà nước cấp và từ vốn của bản thân doanh nghiệp tự đầu tư, nhất là xác định tỷ lệ lợi nhuận mà doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp vào ngân sách Nhà nước (NSNN). Do đó, khi chưa có quy định cụ thể, rõ ràng làm căn cứ để phân định tài sản thuộc về sở hữu Nhà nước và tài sản thuộc sở hữu của tập thể người lao động trong doanh nghiệp để xác định phạm vi trách nhiệm đối với từng tài sản đó, thì các nguyên tắc để bảo đảm quyền tự chủ về tài chính trong kinh doanh, bảo toàn vốn, ổn định nguồn thu cho NSNN sẽ khó thực hiện. Mặt khác, nếu vẫn quan niệm tài sản trong DNNN thuộc sở hữu Nhà nước và lợi nhuận làm ra đều phải nộp cho Nhà nước, thì sẽ không tạo ra động lực gắn bó người lao động với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, khi họ đưa lợi nhuận thu được, tức tài sản thuộc sở hữu của tập thể người lao động để tái đầu tư sản xu t kinh doanh trong doanh nghiệp. Hiện nay, chế định về sở hữu tài sản trong DNNN vẫn chưa quy định rõ các căn cứ để xác định chế độ sở hữu khác nhau đối với các nguồn vốn, tài sản trong DNNN và các nguyên tắc, chế độ phân phối lại lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Đứng trước cơ chế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt thì sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước có khi làm giảm khả năng cạnh tranh trong phần đông các DNNN. làm ăn thua lỗ Một thực tế là, DNNN, đến cuối năm 2004 chỉ còn 25% DNNN đang hoạt động có hiệu quả, “cơ chế tái bao cấp” trở thành phổ biến, việc khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ đã gây thiệt hại không nhỏ cho ngân sách Nhà nước, song không xác định được trách nhiệm thuộc về hoạt động kinh doanh yếu kém của doanh nghiệp hay thuộc về các cơ quan quản lý Nhà nước.
Thực hiện chế độ phân cấp, uỷ quyền, Chính phủ giao cho Bộ Tài chính là người thực hiện quyền và trách nhiệm đại diện chủ sở hữu về vốn và tài sản trong DNNN (theo NĐ 34/CP). Song trên thực tế, UBND cấp tỉnh, các Bộ quản lý ngành cũng có một số quyền của đại diện chủ sở hữu như quyết định bổ sung vốn lưu động, quyết định phương án đầu tư vốn vào các dự án liên doanh, quyền phê duyệt các phương án thế chấp, cầm cố các tài sản có giá trị lớn... Như vậy, rõ ràng có sự chồng chéo trong việc thực hiện quyền của chủ sở hữu là Nhà nước với tư cách là người góp vốn đối với việc quản lý vốn, tài sản trong doanh nghiệp. Hiện nay, chúng ta đang có quá nhiều đại diện sở hữu, có quá nhiều cơ quan Nhà nước và thực hiện quyền quản lý Nhà nước, việc chỉ đạo, quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như việc tổ chức thực hiện các kế hoạch kinh doanh khó có thể bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, có hiệu quả, gây khó khăn, lúng túng trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Điều đáng chú ý là do có nhiều cơ quan quản lý, đại diện chủ sở hữu nên khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả, vi phạm pháp luật thì việc xác định trách nhiệm cũng rất khó khăn
1.2. Nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại
Nhu cầu vay vốn của các DN ngày càng gia tăng trước sức ép tăng khả năng cạnh tranh của mình. Qua điều tra cho thấy, nhìn chung, tỷ trọng vốn vay ngân hàng của các DNNN chiếm rất lớn trong tổng nguồn vốn, như các DNNN hoạt động thuộc ngành công nghiệp, nông nghiệp và thuỷ sản, xây dựng chiếm tỷ trọng khoảng 50-70% trong tổng nguồn vốn, vốn nhà nước chỉ chiếm 20 -40%. Đối với DN ngoài quốc doanh, chủ yếu các DN vừa và nhỏ, nhu cầu vốn trung, dài hạn cũng rất lớn nhưng chưa được đáp ứng đầy đủ. Trong khi TTCK của ta chưa phát triển, khả năng huy động vốn trực tiếp chưa cao thì nguồn vốn từ các trung gian tài chính mà chủ yếu là hệ thống các ngân hàng mà DN có thể tiếp cận chiếm vai trò quan trọng. Theo số liệu điều tra của các tổ chức quốc tế, vốn vay ngân hàng mới chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu vay vốn của các DN này, phần còn lại chủ yếu DN phải tìm đến các nguồn vay phi chính thức với lãi suất cao. Các DN thường kêu ca là khó tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng, lượng vốn vay không nhiều, thời hạn vay ngắn và thời gian cũng như thủ tục vay vốn còn phức tạp, nhất là với những DN mới thành lập, chưa có uy tín trên thị trường. Cục Phát triển DN nhỏ và vừa (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) mới công bố kết quả điều tra về thực trạng của DNNN Việt Nam, theo đó chỉ có 32,38% số DN cho biết đã tiếp cận được các nguồn vốn của Nhà nước, 35,24% số DN khó tiếp cận và 32,38% số DN không tiếp cận được. Nguyên nhân xuất phát từ nhiều phía, về quy định của Nhà nước, về phía ngân hàng và ngay cả chính về phía bản thân các DN.
Biểu đồ 4: Cơ cấu nguồn vốn vay của doanh nghiệp
1.3. Quỹ đầu tư mạo hiểm
Hiện nay, trên thị trường tín dụng Việt Nam đã xuất hiện một số quỹ đầu tư là IDG Ventures, Mekong Capital, Dragon Capital, Vina Capital…, với quy mô vốn lớn lên đến 100 triệu USD - đóng vai trò quan trọng trong cung cấp vốn lớn cho các DN Việt Nam đổi mới quản lý, công nghệ đặc biệt là các DN mới gia nhập thị trường, chưa có uy tín và các DN đang trong tình trạng khó khăn và tài chính. Năm 2005, riêng 4 DN được Quỹ IDG Ventures đầu tư là Peacesoft, iSphere, Vinagame và Vietnam Works.com/Navios Group, số vốn đầu tư đã lên đến 5 triệu USD… Qua hai năm hoạt động của Quỹ IDG, Quỹ đã đầu tư vào 9 công ty với số vốn đầu tư 12 triệu USD. Và cho đến nay, các công ty này đều làm ăn rất tốt và có lợi nhuận. Mức tăng trưởng hằng năm của họ đều ở con số 20-30%/năm.
So với ngân hàng, quỹ đầu tư mạo hiểm có nhiều ưu điểm hơn như: Ngoài hỗ trợ về vốn, họ có thể sát cánh cùng DN trong triển khai dự án; hỗ trợ chuyên gia giỏi trong quản lý kinh doanh; áp dụng các phương thức quản lý, SXKD tiêu chuẩn quốc tế nhằm tối đa hóa lợi nhuận; quyền lợi của nhà đầu tư gắn liền với sự thành công hay thất bại của dự án, theo tỉ lệ thỏa thuận từ lợi nhuận của DN. Mỗi quỹ này hướng đến một đối tượng khác nhau. Mekong Capital đầu tư vào những công ty đã được thành lập và đang hoạt động tốt (không nhất thiết phải hoạt động trên lĩnh vực CNTT), đồng thời làm việc sát sao cùng các DN để đẩy mạnh mức tăng trưởng. Trong khi đó, IDG Ventures thường đầu tư vào những công ty mới thành lập, rủi ro cao nhưng tỷ lệ hoàn vốn cũng cao hơn nếu đầu tư thành công.
Tuy vậy, số lượng DN đủ điều kiện tiếp cận các quỹ nói trên còn ít. Dưới góc độ từ các quỹ đầu tư, quy mô của DN Việt Nam còn quá nhỏ đối với các nhà đầu tư, DN chưa đầu tư để thu hút và phát triển đội ngũ quản lý giỏi. Trong khi nhân tố quan trọng nhất mà các quỹ thường xem xét khi xét chọn đầu tư là sự cam kết, năng lực và động lực của những cổ đông chính và đội ngũ quản lý cao cấp.
Hiện nay, chính sách của Nhà nước đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm ngày càng có hệ thống và ưu đãi hơn. Điều này đã thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư vào thị trường Việt Nam kể cả các nhà đầu tư đã có trên thị trường và nhà đầu tư mới. Nhiều quỹ đầu tư mạo hiểm có chiến lược mở thêm một số công ty khác (IDG Ventures,...), bên cạnh việc thúc đẩy tìm kiếm những dự án khả thi để đầu tư, với thị trường mục tiêu là đầu tư vốn vào các lĩnh vực công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tiếp đến sẽ đầu tư vào giáo dục và các dịch vụ phân phối và hạ tầng mạng ở Việt Nam. Tuy nhiên, TTCK chưa phát triển hoàn chỉnh đã gây khó khăn rất lớn cho các nhà đầu tư mạo hiểm muốn đổ tiền vào các công ty thông qua việc niêm yết công ty và thu hồi vốn thông qua TTCK. Thứ nữa, việc quy định các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được phép góp vốn, mua cổ phần trong các DN Việt Nam với tỷ lệ không quá 30% vốn điều lệ. Sự khống chế đó cũng không cho phép nhà đầu tư được can thiệp vào các quyết định chiến lược phát triển kinh doanh vốn là một điểm yếu của các DN Việt Nam, nhất là DN khởi sự.
Có thể nói, hình thức hoạt động của các quỹ mạo hiểm Việt Nam tuy chưa phát triển mạnh mẽ, nhưng cũng đã có đóng góp đáng kể vào việc phát triển dịch vụ tài chính hỗ trợ DN, nhất là những DN đang gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay từ ngân hàng và có nhu cầu vay vốn lớn để đầu tư về nhân sự, marketing, nâng cấp hạ tầng cơ sở, nâng cao vị trí thương hiệu, nghiên cứu và phát triển các lĩnh vực kinh doanh mới cũng như mở rộng việc thâm nhập thị trường.Việc hình thành Quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao Việt Nam chính là dấu hiệu đánh dấu cho hoạt động đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, mở ra cơ hội lớn hơn cho các DN Việt Nam trong vấn đề thu hút vốn đầu tư, nâng cao năng lực về vốn của DN.
Kết quả điều tra chọn mẫu quy mô nhỏ của Dự án tiến hành vào cuối năm 2006 và đầu năm 2007 đối với 150 DN trên địa bàn 2 tỉnh Hà Nội và Hưng Yên cũng cho những kết quả khá tương đồng. Theo đó, các DN được điều tra chủ yếu huy động vốn từ 2 nguồn chủ yếu là “Từ các trung gian tài chính” (67,3% số DN được hỏi đã lựa chọn) và “Tự huy động” (40,7%). Trong khi đó, các kênh huy động vốn khác như “Thị trường chứng khoán, Thị trường bất động sản” hay “từ các quỹ đầu tư nước ngoài” hầu như chưa thể hiện được vai trò đáng kể trong việc huy động vốn của DN.
Biểu đồ 5: Nguồn huy động vốn của các DN
Nguồn: Số liệu xử lý từ cuộc điều tra của Nhóm nghiên cứu trong Dự án
Tuy nhiên, đi vào nghiên cứu sâu hơn, chúng tôi cũng nhận được phản hồi về những khó khăn mà DN gặp phải khi tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng – một trong những kênh huy động cơ bản. Còn tới 14% số DN được hỏi cho biết họ gặp khó khăn khi tiếp cận với nguồn vốn vay từ ngân hàng, đặc biệt là tỉ lệ - dù rất nhỏ - của các DN cho biết họ không thể tiếp cận được nguồn vốn này (3%).
Biểu đồ 6: Khả năng doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn vay
Nguồn: Số liệu xử lý từ cuộc điều tra của Nhóm nghiên cứu trong Dự án
Theo phản hồi của cộng đồng DN tại Hà Nội và Hưng Yên, có nhiều nguyên nhân dẫn tới việc khó có thể tiếp cận với nguồn vốn vay từ ngân hàng trong đó có những lý do như “Không có tài sản thế chấp” và “Quy định thủ tục vay khắt khe”. Đây chính là những góp ý mà giới Ngân hàng nước nhà cần lưu ý trong quá trình phát triển nhằm góp phần hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam.
1.4. Huy động vốn từ thị trường chứng khoán
Chứng khoán hóa nguồn vốn của DN thay cho dựa chủ yếu vào nguồn vốn vay ngân hàng
Trong khi hệ thống ngân hàng đang "kẹt" vốn, nhiều doanh nghiệp (DN) đã lên kế hoạch huy động vốn qua kênh chứng khoán để đầu tư cho các dự án trong năm nay.
Vay ngân hàng chưa hẳn là giải pháp tốt nhất để huy động vốn cho DN. Mặc dù thị trường chứng khoán ở nước ta mới phát triển nhưng con đường lâu dài của DN là phải chứng khoán hóa nguồn vốn của mình, tiếp cận vốn thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu chứ không phải vay ngân hàng là chính. Hệ thống ngân hàng thương mại rất quan trọng và vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn huy động vốn của DN, tuy nhiên trong tương lai, thị trường chứng khoán phải là nguồn huy động chính. Do đó, DN cần phát huy tính năng động, sáng tạo, ý thức cao của cộng đồng DN, kể cả DNNN và DN các thành phần kinh tế tham gia vào thị trường chứng khoán.
Theo các chuyên gia kinh tế, các DN cần phải tính toán làm sao có thể huy động được tỷ lệ vốn: 1/3 vốn chủ sở hữu, 1/3 vốn vay ngân hàng và vay thông qua phát hành trái phiếu, 1/3 vốn từ chứng khoán, thì mới có thể hoạt động hiệu quả và bảo đảm khả năng cạnh tranh trong môi trường hội nhập.
Ngoài thị trường chứng khoán trong nước, các DN cần phải nghiên cứu tìm hiểu và thâm nhập vào thị trường chứng khoán nước ngoài dưới sự bảo lãnh của các tổ chức tín dụng, của Nhà nước. Thị trường chứng khoán nước ngoài là một kênh thu hút vốn rất tiềm năng đối với các DN Việt Nam. Hơn thế nữa, khi chứng khoán của DN Việt Nam được niêm yết và trao đổi trên thị trường chứng khoán nước ngoài sẽ càng thể hiện chất lượng kinh doanh, nâng cao uy tín của DN Việt Nam trên trường quốc tế. DN cần tuân thủ các tiêu chuẩn kiểm toán quốc tế, thực hiện xếp hạng tín nhiệm DN để giúp phát hành trái phiếu DN trên thị trường chứng khoán nước ngoài. Một khía cạnh rất quan trọng đối với các DN là việc tăng cường hiệu quả sử dụng vốn và đổi mới công nghệ để tăng hiệu quả đầu tư. Đây là mục tiêu rất quan trọng, ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn của DN.
2. Thực trạng sử dụng vốn.
2.1. Đầu tư xây dựng cơ bản
Đầu tư xây dựng cơ bản là một phần rất quan trọng trong chiến lược kinh doanh và phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy, một phần lớn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước được sử dụng để đầu tư xây dựng cơ bản. Cụ thể từ năm 2001đến năm 2005 tổng lượng vốn sử dụng trên 85600 tỷ đồng, bình quân hàng năm bằng 125%, riêng năm 2006 đạt trên 30000 tỷ đồng bằng 137,8% so với năm 2005. Tuy nhiên, năm 2005 có 2.280 dự án chậm tiến độ, chiếm 9,2% tổng số dự án thực hiện đầu tư trong năm, trong đó 48 dự án nhóm A chậm tiến độ, chiếm 11,54% tổng số các dự án nhóm A thực hiện đầu tư trong năm; năm 2006 có 3.595 dự án chậm tiến độ, chiếm 13,1%, trong đó có 25 dự án nhóm A (8,28%); năm 2007 có 3.979 dự án chậm tiến độ, chiếm 13,9%, trong đó có 19 dự án nhóm A (7,88%).
Hơn thế nữa, thủ tục tiến hành còn rắc rối với nhiều giấy tờ nên dẫn đến giải ngân chậm và giảm tiến độ.
2.2. Vốn lưu động bổ sung
Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2005 lượng hàng tồn trữ tại các doanh nghiệp nhà nước là tương đối lớn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp khoảng từ 20% đến 25% và đang có xu hướng giảm đần qua các năm . Đây là một tín hiệu tốt, nó thể hiện tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước đang trên đà phát triển, việc sản xuất và tiêu thụ ngày một thuận lợi.
Hơn nữa, hiện nay rất nhiều ngân hàng thương mại đã cho vay hỗ trợ vốn lưu động bổ sung cho các doanh nghiệp Nhà nước. Chính vì vậy mà đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp Nhà nước.
2.3. Vốn đầu tư phát triển khác.
2.3.1. Đầu tư nghiên cứu triển khai các hoạt động khoa học công nghệ
Đây là một phần quan trọng trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Nhưng thực tế vẫn chưa được chú trọng đầu tư, các hoạt động này chỉ chiến khoảng từ 1% đến 3% tổng lượng đầu tư của doanh nghiệp.Hầu hết các DN mới đầu tư khoảng 0,2-0,3% doanh thu cho nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ (tỉ lệ này ở Hàn Quốc là 10%, Ấn Độ là 5%). Mặc dù Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp đã có điều khoản quy định DN được trích tới 10% lợi nhuận trước thuế để lập quỹ phát triển KHCN nhưng hầu hết DN không thực hiện. Nhà nước vẫn đang khuyến khích các doanh nghiệp tích cực đầu tư vào lĩnh vực này để phần nào tăng cường cho nền công nghệ vốn đang còn lạc hậu của nước ta
2.3.2. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là động lực quan trọng nhất, là nhân tố chủ yếu quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Chính vì vậy đầu tư phát triển nguồn nhân lực là mục tiêu hàng đầu của hầu hết các doanh nghiệp. Hàng loạt các tổng công ty nhà nước, các tập đoàn đã và đang mở những lớp đào tạo ngay tại chính doanh nghiệp mình tạo ra một lực lượng lao động có đầy đủ chuyên môn phù hợp nhất với nhu cầu của doanh nghiệp và ngoài ra còn cung cấp cho những doanh nghiệp khác cùng địa bàn. Đây là một hướng đầu tư tích cực đang được nhà nước khuyến khích bằng nhiều chính sách cụ thể như nghị định 143 CP của chính phủ ban hành ngày 15/6/2005 về việc tổ chức đào tạo nhân lực tại các doanh nghiệp…
2.3.3. Đầu tư phát triển tài sản vô hình
Trong thời đại kinh tế thị trường đang phát triển ngày một hoàn thiện như ngày nay tài sản vô hình của doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng. Nó quyết định khả năng tiêu thụ của sản phẩm và giá cả của chúng trên thị trường. Vì lẽ đó hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước đang đầu tư rất mạnh tay để nâng cao giá trị tài sản vô hình trong doanh nghiệp bao gổm: thương hiệu, hoạt động marketing, quảng cáo phân phối… chiếm khoảng từ 18% đến 22% tổng lượng đầu tư của doanh nghiệp. Tuy vậy, hiện nay thì việc định giá tài sản vô hình tương đối phức tạp vì nó không phải là một yếu tố có thể định lượng cụ thể như những tài sản khác.
2.3.4. Đầu tư ra ngoài doanh nghiệp
Việc liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác đang dần trở thành một xu hướng mới trong chiến lược phát triển của các doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay, một bộ phận lớn các doanh nghiệp thực hiện liên doanh liên kết tạo thành những tập đoàn lớn mạnh như tập đoàn Bảo Việt, Tập đoàn Pertrolimex v.v…
Ngoài ra, một xu hướng khác đang hình thành và ngày càng phát triển mạnh mẽ đó là đầu tư ra nước ngoài. Đây là một hướng đi mới, là một tín hiệu tốt cho nền kinh tế Việt Nam, nó khẳng định các doanh nghiệp nhà nước đang ngày càng lớn mạnh đủ tiềm lực kinh tế để kinh doanh ở những thị trường mới, không chỉ quẩn quanh ở “ao làng” nữa.
3. Những vướng mắc - khó khăn còn tồn tại và nguyên nhân.
3.1. Những khó khăn đối với hoạt động huy động vốn ở các DN Nhà nước.
3.1.1. Những vướng mắc trong việc đa dạng hóa hình thức huy động vốn.
Hình thức huy động vốn bằng cách vay ngân hàng đã thể hiện rất nhiều nhược điểm đòi hỏi doanh nghiệp Nhà nước phải đa dạng hóa hình thức huy động vốn. Tuy nhiên để đa dạng hoá hình thức huy động vốn thì trước hết phải có các nguồn vốn và cơ chế pháp lý để điều chế hướng dẫn hoạt động vốn từ các nguồn này. Hiện nay việc huy động vốn từ các nguồn ngoài nguồn tín dụng ngân hàng đang gặp phải những khó khăn:
- Huy động vốn từ nguồn chủ sở hữu: Nguồn vốn hình thành vốn chủ sở hữu cho doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) bao gồm nguồn từ ngân sách Nhà nước và nguồn từ lợi nhuận để lại. Nguồn ngân sách Nhà nước (NSNN) hiện nay chủ yếu sử dụng để thành lập mới các doanh nghiệp và bổ xung vốn lưu động cho một số doanh nghiệp trọng điểm. Ngân sách Nhà nước cấp cho các DNNN đang có xu hướng giảm dần. Do vốn ít, hiệu quả sản xuất kinh doanh kém lợi nhuận phải trích để nộp khoản thu sử dụng vốn cho NSNN do đó lợi nhuận để lại dùng việc phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước sản xuất nhỏ. Vì vậy, việc huy động vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước từ các nguồn hình thành vốn chủ sở hữu của DNNN là rất khó khăn.
- Huy động vốn từ thị trường chứng khoán: DNNN huy động vốn từ thị trường chứng khoán chủ yếu bằng cách phát hành trái phiếu công ty. Nghị định 120 /CP ngày 17/9/1994 cho phép các DNNN phát hành trái phiếu để huy động vốn nhưng đến nay chưa có DNNN nào phát hành trái phiếu để huy động vốn. Nguyên nhân chủ yếu là do nước ta chưa thành lập được thị trường chứng khoán để thúc đẩy việc mua bán trái phiếu, các văn bản pháp lý hướng dẫn được phát hành trái phiếu công ty còn thiếu và chưa hoàn thiện, hiệu quả sản xuất kinh doanh ở các DNNN kém do đó người mua trái phiếu rất thận trọng lo ngại công ty bị phá sản.
- Huy động vốn từ nguồn tín dụng thuê mua: Hiện nay chúng ta đã có một số công ty cho thuê tài chính ra đời như: Công ty thuê mua và đầu tư của VietCombank, công ty tín dụng thuê mua của Vietindebank, công ty thuê mua và tư vấn của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, công ty thuê tài chính Kexin, công ty liên doanh và thuê tài chính Việt Nam (Vinalease). Hình thức tín dụng thu mua còn mang tính chất thử nghiệm ở nước ta, cả nước mới chỉ có Vietnamairline sử dụng để thuê máy bay. Nguyên nhân do các hình thức này còn rất mới mẻ đối với các doanh nghiệp ở Việt Nam, đội ngũ cán bộ quản trị kinh doanh của các công ty còn chưa biết hoặc chưa có kinh nghiệm về loại hình dịch vụ này, môi trường pháp lý còn sơ sài chưa đồng bộ đã gây khó khăn cho việc triển khai hoạt động của các công ty cho thuê tài chính.
- Ngoài ra, doanh nghiệp Nhà nước còn có thể huy động vốn bằng cách huy động từ các nguồn tín dụng nhà cung cấp, tạm ứng của khách hàng,... nhưng các hình thức này cũng gặp phải một số khó khăn do qui mô vốn của các doanh nghiệp ở nước ta nhỏ lại luôn ở trong tình trạng thiếu vốn.
3.1.2. Những khó khăn về tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước.
Tín dụng đang là nguồn vốn quan trọng nhất đối với DNNN. Hiện nay việc huy động vốn từ nguồn này đang gặp phải những khó khăn sau.
Thứ nhất, thể lệ tín dụng qui định đơn vị vay vốn phải thế chấp tài sản hoặc được bảo lãnh của người thứ ba đủ thẩm quyền người được bảo lãnh phải thế chấp tài sản cho người bảo lãnh. Điều này làm cho nhiều DNNN khó có thể vay được vốn từ ngân hàng nhất là vốn trung hạn và dài hạn. Đây không chỉ là ý kiến từ phía DNNN mà cả của một số cán bộ tín dụng "nhận khoán" mức cho vay họ nói rằng trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp vay để xây dựng mới thì làm gì có tài sản để thế chấp.
Thứ hai, để kiểm soát hoạt động tín dụng và lượng tiền cung ứng, Ngân hàng Nhà nước qui định hạn mức tín dụng cho các ngân hàng thương mại và trên cơ sở hạn mức tín dụng được duyệt ngân hàng thương mại phân phổ hạn mức tín dụng cho các Tổ chức kinh tế (khách hàng) cả hai loại hạn mức tín dụng trên đều xây dựng cho một thời gian dài (thường là 1 năm) do vậy dù DNNN có đủ các điều kiện vay vốn nhưng nếu hạn mức tín dụng không còn thì cũng không thể vay được vốn tín dụng ngân hàng.
Thứ ba, chính sách lãi suất chưa thể hiện rõ vai trò là đòn bẩy kinh tế chưa thực sự điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Chính sách lãi suất có thay đổi nhưng thay đổi còn chậm so với biến động của giá cả. Hiện nay lãi suất ngắn hạn là 1,5%/ tháng lãi suất trung và dài hạn là 1,55%/ tháng. Mức lãi suất này vẫn còn cao hơn so với tỷ suất lợi nhuận (khả năng sinh lời) của nhiều DNNN với mức lãi suất đó không mấy DNNN có thể vay đủ vốn của ngân hàng để sử dụng tiền vay có hiệu quả và trả nợ phần vay đúng hạn. Chính vì lãi suất đầu ra của ngân hàng cao nên hạn chế qui mô tín dụng, hạn chế khả năng vay vốn của DNNN, trong khi đó các DNNN luôn ở trong tình trạng thiếu vốn kinh doanh. Một nghịch lý khác là hiện nay các ngân hàng thương mại chỉ huy động vốn ngắn hạn mà khước từ cacs khoản tiền gửi dài hạn trong khi nền kinh tế đang bị thiếu vốn dài hạn. Rút cuộc ngân hàng thương mại (NHTM) tồn một lượng khá lớn vốn ngắn hạn trong khi đó "mặt hàng" vốn dài hạn được nhiều doanh nghiệp hỏi mua mà không có.
Thứ tư, năng lực và trình độ chuyên môn của một số cán bộ tín dụng trong các NHTM hiện còn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới nền kinh tế nhất là các NHTM ở quận huyện, thủ tục cho vay vốn còn rườm rà đối với khách hàng và thường chậm chễ so với yêu cầu thời gian cần cấp vốn sản xuất kinh doanh.
3.1.3. Những khó khăn về cơ chế quản lý tài chính DN Nhà nước.
Mặc dù, cơ chế quản lý tài chính ở DNNN đã được đổi mới rất nhiều nhưng vẫn còn một số tồn tại gây khó khăn cho việc huy động vốn của DNNN. Cụ thể là:
- Cơ chế quản lý tài chính hiện nay chưa xác định được rõ ràng quyền về tài sản, quyền sở hữu của doanh nghiệp đối với vốn. Cơ chế quản lý tài chính ở DNNN còn phức tạp rườm rà không tại ra được tính linh hoạt trong hoạt động huy động vốn đặc biệt là sử dụng tài sản để thế chấp.
- Việc Nhà nước qui định DNNN chỉ được huy động vốn với tổng mức dư nợ không vượt quá vốn điều lệ. Trong tình hình hiện nay điều này chưa phù hợp vì hiện nay việc huy động vốn bằng cách tăng vốn chủ sở hữu của DNNN là rất khó khăn do NSNN eo hẹp, tích luỹ từ hoạt động kinh doanh nhỏ doanh nghiệp chủ yếu huy động vốn bằng cách vay ngân hàng mà hiện nay nợ của DNNN đã vượt xa vốn tự có do đó nếu qui định tổng mức vốn huy động không được vượt quá vốn điều lệ thì rất ít DNNN có khả năng huy động được vốn. Đây cũng là một trong các nguyên nhân chủ yếu gây ra nghịch lý DNNN bị thiếu vốn trầm trọng, ngân hàng thừa hàng ngàn tỷ đồng.
3.1.4. Những khó khăn từ phía doanh nghiệp Nhà nước.
- Doanh nghiệp nhỏ công nợ lớn. Tài sản thế chấp của doanh nghiệp có giá trị nhỏ, công nghệ lạc hậu so với thế giới nếu có rủi ro xảy ra thì việc phát mại của ngân hàng rất khó khăn. Ngân hàng chỉ có thể cho doanh nghiệp vay một số lượng vốn bằng với vốn tự có của doanh nghiệp nếu vượt quá vốn tự có thì nếu có rủi ro xảy ra thì ngân hàng là người phải gánh chịu các rủi ro mất mát. Do đó DNNN rất khó có thể vay một lượng vốn lớn, để có thể tăng lượng vốn vay thì mấu chốt vấn đề là phải tăng được vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp.
- Hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN hiện nay là rất thấp tình trạng lãng phí thất thoát vốn sảy ra còn phổ biến dẫn đến thua lỗ, mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Điều này làm giám đốc các NHTM e ngại khi đặc bút ký cho các DNNN vay vốn.
- Công tác kế hoạch hóa tài chính trong các DNNN còn rất yếu. Hoạt động sản xuất kinh doanh còn mang tính chất buôn chuyến do đó rất khó xác định được nhu cầu vốn cho một thời kỳ dài hạn làm cho hoạt động huy động vốn thường xuyên bị động do đó nhiều khi để huy động được vốn doanh nghiệp phải chấp nhận được chi phí vốn lớn.
- Đội ngũ cán bộ nhân viên làm công tác tài chính của doanh nghiệp còn rất yếu về trình độ chuyên môn nhất là các nghiệp vụ huy động vốn mới như là tín dụng thuê mua, phát hành trái phiếu.
3.2. Những khó khăn trong việc huy động và sử dụng vốn.
Mặc dù sau nhiều năm đổi mới hoạt động huy động và sử dụng vốn ở doanh nghiệp Nhà nước đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ, hoạt động huy động vốn trong doanh nghiệp Nhà nước còn một số vấn đề tồn tại sau:
Thứ nhất, hình thức huy động vốn chủ yếu là đi vay đã dẫn tới các hậu quả sau:
+ Công nợ của doanh nghiệp Nhà nước đã vượt xa mức bình thường của hoạt động kinh doanh và có nguy cơ mất khả năng thanh toán. Đối với nhiều doanh nghiệp Nhà nước, theo báo cáo của Tổng cục doanh nghiệp thì tổng số nợ phải thu của doanh nghiệp Nhà nước gấp nhiều lần so với vốn lưu động của doanh nghiệp.Nợ khó đòi và nợ khoanh lại (thực chất là nợ không có khả năng thu hồi) chiếm 46,1% vốn lưu động hiện có của doanh nghiệp. Tổng số nợ phải trả của doanh nghiệp là 279376 tỷ đồng gấp 3 lần số nợ phải thu và bằng 4,1 lần số vốn kinh doanh của doanh nghiệp - số nợ này lớn hơn GDP năm 1996 (năm 1996, GDP của nước ta là 251000 tỷ đồng). Tổng số nợ của doanh nghiệp TƯ là 259160 tỷ đồng, bằng 3,2 lần nợ phải thu và bằng 5 lần vốn kinh doanh. Doanh nghiệp địa phương có số nợ là 25215 tỷ đồng, bằng 2,2 lần nợ phải thu và 1,4 lần vốn kinh doanh. Do công nợ quá lớn, hàng năm, doanh nghiệp Nhà nước phải dành một tỉ lệ doanh thu khá lớn trả lãi và nợ cho Ngân hàng, do đó, làm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp rất thấp. Năm 1995, tỷ lệ lợi nhuận/vốn là 19,3% trong khi đó lãi suất tín phiếu kho bạc Nhà nước là 21%.
+ Do chủ yếu vay vốn ở ngân hàng dẫn đến việc cung cấp vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp bị phụ thuộc vào ngân hàng. Biểu hiện ở chỗ ngân hàng có loại vốn nào thì vay được loại vốn đó; có vốn ngắn hạn thì vay được vốn ngắn hạn, có vốn dài hạn thì vay được vốn dài hạn. Khi nào mà các điều kiện cho vay dễ dàng thì vay được nhiều, khi nào điều kiện cho vay khó khăn thì doanh nghiệp thiếu vốn trầm trọng vì không vay được vốn. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu lí giải cho tình trạng thiếu vốn trầm trọng ở các doanh nghiệp Nhà nước trong năm qua.Do phụ thuộc vào ngân hàng nên doanh nghiệp không xây dựng được một cơ cấu vốn tối ưu với chi phí vốn rẻ nhất mà phải chấp nhận mức lãi suất do ngân hàng đưa ra. Mức lãi suất này thường khá cao.
Thứ hai: Tốc độ gia tăng vốn huy động cho doanh nghiệp Nhà nước giảm dần do tốc độ gia tăng của hai nguồn vốn chủ yếu là vốn tín dụng và vốn Ngân sách Nhà nước bị giảm mạnh.
+ Tốc độ gia tăng của tín dụng nội tệ giảm từ 36,48% năm 1992 xuống còn 18,2% năm 1994.
+ Tốc độ gia tăng của vốn tín dụng nội tệ giảm từ 116,12% năm 1992 xuống còn 34,07% năm 1994.
Đối với nguòn vốn từ Ngân sách Nhà nước cấp cho doanh nghiệp Nhà nước bị giảm từ 8,5% GDP năm 1988 đến năm 1994 là 0,5% GDP.
Ta thấy một vấn đề rất mâu thuẫn là trong khi tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nước ta tăng với tốc độ cao, thì hoạt động sản xuất kinh doanh của cá doanh nghiệp cũng tăng nhanh, do đó nhu cầu vốn của doanh nghiệp cũng tăng nhanh để bảo đảm yêu cầu tăng trưởng, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì tốc độ gia tăng lượng vốn huy động để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp lại bị giảm. Qua đó, ta thấy rằng hiệu quả huy động vốn ngày càng giảm, doanh nghiệp ngày càng thiếu vốn trầm trọng.
Thứ ba, trong cơ cấu của vốn huy động được thì chủ yếu là vốn ngắn hạn, chưa đáp ứng được nhu cầu vốn dài hạn để đổi mới dây chuyền công nghệ, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước.
Nguyên nhân: các hình thức huy động vốn dài hạn như thuê tài chính, phát hành cổ phiếu, trái phiếu... chưa được áp dụng rộng rãi ở nước ta. Doanh nghiệp phải huy động vốn bằng cách vay ngân hàng nhưng ngân hàng dư thừa vốn ngắn hạn nhưng thiếu vốn dài hạn.
Tóm lại: trong 10 năm thực hiện đổi mới, hoạt động huy động vốn của các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Nhưng bên cạnh đó còn một số vấn đề tồn tại như các hình thức huy động vốn chưa được đa dạng hoá, chủ yếu vốn để kinh doanh, chưa xây dựng được cơ cấu vốn tối ưu, chi phí vốn cao, mới đáp ứng được một phần nhu cầu vốn ngắn hạn, chưa đáp ứng được nhu cầu vốn dài hạn... Những nguyên nhân đó dẫn đến tình trạng doanh nghiệp n bị thiếu vốn trầm trọng trong những năm qua. Vấn đề đặt ra là phải khắc phục được những tồn tại này để thúc đẩy doanh nghiệp Nhà nước phát triển, xứng đáng với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG
HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1. Các giải pháp cho việc huy động vốn
1.1. Các giải pháp tầm vĩ mô.
1.1.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách quản lý tài chính ở doanh nghiệp Nhà nước.
- Nghiên cứu ban hành các chính sách khuyến khích DNNN chủ động huy động và tích tụ vốn cho sản xuất kinh doanh.
+ Mở rộng các hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp như phát hành trái phiếu, đa dạng hóa hình thức phát hành trái phiếu ... Đồng thời có có qui chế giám sát chặt chẽ để bảo vệ lợi ích cho các nhà đầu tư.
+ Cải tiến hệ thống thuế, hệ thống tín dụng, cơ chế lãi suất tạo điều kiện cho DNNN tham gia vào thị trường vốn với tư cách là chủ thể của thị trường này, cụ thể:
Đối với hệ thống thuế: Nghiên cứu bãi bỏ tiền thu sử dụng vốn vì các DNNN chủ sở hữu là Nhà nước vốn là vốn của Nhà nước như vậy đứng trên góc độ chủ sở hữu không ai lại thu tiền sử dụng vốn vào ngay vốn của mình bỏ ra. Mặt khác, trong điều kiện hiện nay phần lớn các DNNN đang bị thiếu vốn kinh doanh trầm trọng, khả năng tích luỹ chưa cho lợi nhuận sau thuế còn ít nhu cầu bổ sung vốn còn lớn do vậy không nên thu khoản thu này. Trong thực tế hiện nay tổng số tiền thu vào sử dụng vốn và NSNN hàng năm là không đáng kể, bỏ khoản thu này DNNN sẽ có thêm điều kiện tích luỹ phát triển sản xuất.
Đối với hệ thống tín dụng: Đặc biệt chú ý đến hình thức tín dụng thuê mua. Nghị định 64/CP mới là phác thảo ban đầu cần phải hoàn thiện và bổ sung, nâng cao tính chất pháp lý của văn bản nếu cần có thể ban hành Luật thuê tài chính bên cạnh Luật ngân hàng. Cần phải có các biện pháp để khuyến khích cả hai bên đi thuê và cho thuê.
+ Cho phép các Tổng công ty thành lập các công ty tài chính để chủ động thu hút vốn từ bên ngoài và để thuận lợi cho việc điều hòa vốn giữa các doanh nghiệp thành viên trong Tổng công ty.
- Tăng cường quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm về vốn và tài sản sở hữu Nhà nước tại doanh nghiệp:
+ Cho phép DNNN sử dụng linh hoạt các loại vốn quĩ kinh doanh được chuyển đổi cơ cấu tài sản từ tài sản cố định sang tài sản lưu động và ngược lại.
+ Cho phép các doanh nghiệp chủ động nhượng bán thanh lý những tài sản cố định nằm ngoài tài sản phục vụ mục tiêu kinh doanh chính và tài sản đặc biệt được Nhà nước quản lý để thu hồi vốn phục vụ nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh mới.
+ Doanh nghiệp Nhà nước được cầm cố thế chấp tài sản để huy động vốn.
1.1.2. Tiếp tục sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước.
+ Sáp nhập các doanh nghiệp nhỏ để tạo ra các doanh nghiệp lớn có tiềm lực mạnh về tài chính khắc phục tình trạng phân tán manh mún có qui mô quá nhỏ.
+ Kiên quyết mạnh dạn sử lý các doanh nghiệp kinh doanh thu lỗ kéo dài, mất vốn bằng cách sáp nhập hoặc tuyên bố phá sản để tập trung vốn cho các DNNN khác.
+ Sắp xếp các doanh nghiệp Nhà nước: Đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước cần phải khống chế 100% thì Nhà nước phải có kế hoạch bổ xung vốn lưu động để tạo cho doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh. Đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần phải khống chế 100% tiến hành cổ phần hóa để tạo vốn doanh nghiệp, Nhà nước giữ cổ phần đủ khống chế doanh nghiệp phần còn lại có thể bán cho cán bộ công nhân viên và những người bên ngoài có nhu cầu mua cổ phần.
1.1.3. Các giải pháp về tín dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước.
Thứ nhất, đối với một số khoản tín dụng và dự án xin vay của các doanh nghiệp Nhà nước nên thay thế điều kiện tài sản thế chấp bằng tín chấp hoặc bảo lãnh. Qui chế bảo lãnh nên bỏ điều kiện người xin bảo lãnh phải thế chấp tài sản tại ngân hàng bảo lãnh. Cho vay bằng thế chấp ci áp dụng với doanh nghiệp có tính hình tài chính vững chắc có quan hệ lâu dài với ngân hàng, vay trả sòng phẳng.
Thứ hai, ngân hàng Nhà nước nâng hạn mức tín dụng cho phù hợp khả năng mở rộng tín dụng của từng ngân hàng thương mại, đáp ứng nhu cầu thu mua, đầu tư trung và dài hạn, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Lúc nhu cầu vốn tăng là biểu hiện kinh tế đã phát triển. Điều chỉnh hạn mức tín dụng trong "tầm tay" của NHNN tin chắc rằng công cụ này sẽ phát huy kịp thời để đáp ứng nhu cầu vốn cho DNNN đó cũng là sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, qui định lãi suất cho phù hợp với tình hình thực tế của nền kinh tế.
Thứ tư, phát triển thị trường chứng khoán, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành trái phiếu và cổ phiếu doanh nghiệp để huy động vốn cho DNNN.
1.2. Giải pháp cụ thể về phía các doanh nghiệp Nhà nước.
Một là, đa dạng hóa hình thức huy động vốn. Đa dạng hóa hình thức huy động vốn là phương thức tài trợ vốn rất linh hoạt cho các doanh nghiệp nếu không đủ điều kiện vay vốn ở hình thức này thì có thể chuyển sang vay vốn ở hình thức khác vì vậy nhu cầu vốn luôn được đáp ứng kịp thời. Hiện nay DNNN có thể huy động vốn từ các nguồn tín dụng sau: phát hành trái phiếu; vai vốn và góp vốn của công nhân viên; vay nóng tiền vốn giữa các doanh nghiệp; mua chịu hàng hóa giữa các doanh nghiệp; hình thức tín dụng thuê mua, tín dụng trả góp ...
Hai là, tăng cường công tác kế hoạch hóa tài chính đề DNNN chủ động hơn và có thời gian để lựa chọn các hình thức huy động vốn có hiệu quả nhất.
Ba là, kết hợp huy động vốn với nâng cao hiệu quả sử dụng vốn: nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là một vấn đề rất quan trọng luôn được đặt ra đối với các doanh nghiệp nếu doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn điều đó cũng tương đương với việc tiết kiệm được một lượng vốn đáng kể mà lẽ ra phải huy động thêm nếu như không nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn.
Bốn là, đào tạo và tổ chức một đội ngũ cán bộ tài chính doanh nghiệp có năng lực có trình độ chuyên môn cao.
2. Các giải pháp nhằm tăng tích luỹ vốn cho doanh nghiệp
2.1. Thực hành chính sách tiết kiệm để tăng tích luỹ vốn
2.2. Tiếp tục đổi mới và quản lý có hiệu quả các doanh nghiệp Nhà nước
2.2.1. Cần đẩy nhanh sắp xếp và đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước.
2.2.2. Đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá có hiệu quả, đa dạng hoá sở hữu doanh nghiệp nhà nước
Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ngay nay được áp dụng hết sức rộng rãi . Tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước thực sự có bước chuyển biến mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có chủ sở hữu là người lao động, để quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, tạo cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp, đồng thời giúp doanh nghiệp có thể huy động vốn trong toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp.
Việc chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần không chỉ giúp các doanh nghiệp hoạt động năng động, nhạy bén và tự chủ hơn trong kinh doanh. Quá trình cổ phần hoá đã thu hút rộng rãi các nguồn vốn của người lao động cả trong doanh nghiệp và ngoài xã hội, nhờ đó doanh nghiệp có vốn đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất kinh doanh theo chiều sâu
2.3. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện ngân sách Nhà nước
2.3.1. Huy động đầu tư cho phát triển qua ngân sách Nhà nước bằng cách tăng thu ngân sách.
2.3.2. Tăng quy mô đầu tư từ ngân sách và sử dụng đúng hướng vốn vay
2.3.3. Nâng cao chất lượng quản lý cấp và phát kiểm soát chi ngân sách Nhà nước
2.4. Tạo lập và sử dụng vốn có hiệu quả.
- Cần khai thác triệt để nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: từ lợi nhuận để lại , từ các quỹ, từ nguồn vốn sẵn có của doanh nghiệp...
- Huy động nguồn vốn bên ngoài: vay vốn của các ngân hàng tín dụng với các điều kiện dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, bảo đảm hoàn trả vốn tín dụng đã vay trong một khoảng thời gian nhất định..
Để sử dụng vốn có hiệu quả cần:
- Nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ các bộ quản ký điều hành
- Sửa đổi bổ sung cơ chế chính sách phù hợp với quá trình sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước
- Khuyến khích hình thức thuê người quản lý điều hành, đồng thời gắn hiệu quả sử dụng đồng vốn với quyền hạn và nhiệm vụ thông qua hưpi đồng kinh tế.
-Tăng cường quản lý, giám sát, phần vốn được đầu tư; ban hành các cơ chế giám sát, thực hiện rà soát một cách nghiêm ngặt, có hiệu qủa
- Rà soát, kiểm soát và có phương án cơ cấu lại vốn đang đầu tư tại các DNNN
- Thực hiện công khai minh bạch và tuân thủ nghuyên tắc thị trường trong quá trình hoạt động đầu tư
- Nhà nước cần sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cơ chính trong việc quản lý vốn đầu tư tại các DNNN
2.5. Đổi mới, phát triển,nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN
Trong nền kinh tế thị trường đang hội nhập, doanh nghiệp nhà nước ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Hoạt động của doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả, khả năng tạo ra lợi nhuận kém, hàng tồn kho tiêu thụ chậm, công nợ chưa thanh toán được... cộng thêm các cơ chế, quy chế quản lý của doanh nghiệp nhà nước cũng ngày càng trở nên bất cập với thực tiễn
- Từng bước tạo lập môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; tách bạch rõ chức năng quản lý nhà nước, quản lý của chủ sở hữu với chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp; xóa bỏ cơ chế chủ quản; phân định rõ quyền của các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu đối với DNNN;
- Cơ cấu lại vốn và tài sản theo hướng tích cực và có hiệu quả, giảm các khoản nợ xấu và tài sản tồn đọng; kiên quyết và khẩn trương xóa bỏ tình trạng bao cấp, bảo hộ bất hợp lý, đặc quyền và độc quyền trong kinh doanh của các DNNN.
- Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, trong đó phân định rõ chức năng quản lý của Nhà nước và doanh nghiệp, nhất là các quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp
- Ban hành chế độ phân phối cổ phần hợp lý;
- Đổi mới phương pháp sản xuất kinh doanh, giám sát hoạt động kinh doanh và việc chấp hành quy định của Nhà nước tại doanh nghiệp.
2.6. Thực hiện sáp nhập hay liên kết các doanh nghiệp
Tăng nguồn vốn, tạo quy mô sản xuất lớn hơ, đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành tạo ra sức cạnh tranh cao
KẾT LUẬN
Chúng ta có thể thấy, vấn đề vốn thực sự là một vấn đề cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế ngày nay. Nhất là khi nước ta đang ở thời kỳ hội nhập, đã gia nhập WTO thì vấn đề này càng trở nên quan trọng. Bởi lẽ sân chơi nào cũng có luật chơi chung và chúng ta cần phải tuân theo luật chơi đó.
Có thể thấy, trong hơn 20 năm đổi mới, các doanh nghiệp Nhà nước đã có những bước tiến nhất định trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, do vẫn còn tàn tích của chế độ tập trung quan liêu bao cấp nên trong các doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn đang tồn tại nhiều vấn đề chưa giải quyết được. Như thủ tục hành chính còn rườm rà, tốc độ giải ngân vốn chậm,...
Tuy nhiên, thành phần kinh tế Nhà nước vẫn giữ một vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta. Nên việc nghiên cứu về sự vận hành của vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước sẽ rất có ích cho sinh viên - đặc biệt là sinh viên trường kinh tế như chúng em.
Chúng em xin chân thành cám ơn thầy Phạm Văn Hùng và thầy Từ Quang Phương đã giúp đỡ chúng em trong suốt quá trình nghiên cứu và làm đề tài./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trang web của Tổng cục thống kê Việt Nam: www.gso.gov.vn
2. Giáo trình Kinh tế đầu tư - Nhà xuất bản đại học Kinh tế quốc dân.
3. Trang web của Bộ Xây dựng: www.moc.gov.vn.
4. Trang web: vietbao.vn
5. Trang web: vietnamnet.vn
6. Báo Doanh nghiệp hội nhập.
7. Trang web:
8.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nguồn vốn trong doanh nghiệp, phân tích thực trạng huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp Nhà nước.doc