Qua quá trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá về mối liên hệ mật thiết giữa
tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trưòng ở nước ta dựa trên nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến, chúng ta đã thấy rõ rằng việc tìm ra giải pháp góp phần cân
bằng hai yếu tố này là vô cùng quan trọng. Trong quá trình tăng trưởng kinh tế,
phải đặt vấn đề bảo vệ môi trường lên hàng đầu, cần đảm bảo môi trường luôn
xanh, sạch, đẹp, có như vậy tăng trưởng mới bền vững
29 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2942 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và tác đông qua lại giữa tăng trưởng kinh tế và vấn đề bảo vệ môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Đề tài:
“Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và tác đông qua lại giữa
tăng trưởng kinh tế và vấn đề bảo vệ môi trường”
2
Mở đầu
Hơn 20 năm qua, kể từ khi bước vào thực hiện mô hình kinh tế thị trường
định hướng XHCN, nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng nhanh, đạt được nhiều
thành tựu lớn, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước. Kinh tế ra khỏi tình trạng
khủng hoảng, hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả. Của cải xã hội
ngày càng nhiều, hàng hóa ngày càng phong phú. Đời sống nhân dân từng bước
được cải thiện. Đất nước chẳng những giữ vững được ổn định chính trị trước
những chấn động lớn trên thế giới mà còn có bước phát triển đi lên. Tổng sản
phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân 7%/năm. Nông nghiệp phát triển liên tục,
đặc biệt là về sản xuất lương thực, nuôi trồng và khai thác thủy sản. Giá trị sản
xuất công nghiệp tăng 13,5%/năm. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường.
Các ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu phát triển. Quan hệ đối ngoại và hội
nhập kinh tế quốc tế không ngừng được mở rộng,...
Tuy nhiên, cùng với sự tăng trưởng cao của nền kinh tế, chúng ta đang
phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường đang xảy ra với quy mô ngày càng
rộng và mức độ ngày càng nghiêm trọng. Việc khai thác quá mức các nguồn tài
nguyên, sử dụng các hoá chất độc hại trong công - nông nghiệp, các chất thải
không được xử lý trước khi thải ra môi trường, khói bụi và tiếng ồn từ các nhà
máy, phương tiện giao thông...đang dẫn tới tình trạng môi trường ngày càng kiệt
quệ và ô nhiễm.
Do vậy, có thể nói giữa tăng trưởng kinh tế và vấn đề bảo vệ môi trường có
mối liên hệ tác động qua lại mật thiết. Xuất phát từ thực tế khách quan đó, cần
tìm hiểu, phân tích, đánh giá mối liên hệ này thông qua phép biện chứng về mối
liên hệ phổ biến từ đó tìm ra giải pháp góp phần cân bằng giữa tăng trưởng kinh
tế và bảo vệ môi trường. Việc tìm ra hướng đi phù hợp cho vấn đề này đóng vai
3
trò quan trọng trong việc giúp kinh tế tăng trưởng bền vững nhưng vẫn đảm bảo
môi trường ngày càng xanh, sạch, đẹp.
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong hai nguyên lý cơ bản của
phép biện chứng duy vật:
1.1. Khái niệm mối liên hệ:
Các sự vật, các hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới có mối
liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời
nhau? Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định mối liên hệ đó?
Trong lịch sử triết học, để trả lời những câu hỏi đó ta thấy có nhiều quan
điểm khác nhau. Trả lời câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình
cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên
cạnh cái kia. Chúng không có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc và quy định
lẫn nhau. Nếu giữa chúng có sự quy định lẫn nhau thì cũng chỉ là những quy định
bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên.
Tuy vậy trong số những người theo quan điểm siêu hình cũng có một số
người cho rằng, các sự vật, hiện tượng có mối liên hệ với nhau và mối liên hệ rất
đa dạng, phong phú, song các hình thức liên hệ khác nhau không có khả năng
chuyển hóa lẫn nhau. Chẳng hạn, giới vô cơ và giới hữu cơ không có liên hệ gì
với nhau; tồn tại độc lập, không thâm nhập lẫn nhau; tổng số đơn giản của những
con người riêng lẻ tạo thành xã hội, v.v..
Trái lại, những người theo quan điểm biện chứng lại cho rằng, các sự vật,
hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác
động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau.
Trả lời câu hỏi thứ hai, những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan
và chủ nghĩa duy tâm chủ quan trả lời rằng, cái quyết định mối liên hệ, sự chuyển
4
hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên (như trời)
hay ở ý thức, cảm giác của con người.
Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống
nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Các
sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao
nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất,
thống nhất - thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại
biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau
theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng
khẳng định rằng, liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác
động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các
mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
1.2. Các tính chất của mối liên hệ:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba tính
chất cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
- Tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện: các mối liên hệ là vốn có của
mọi sự vật, hiện tượng; nó không phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Tính phổ biến của mối liên hệ biểu hiện: bất kỳ một sự vật, hiện tượng
nào; ở bất kỳ không gian nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên hệ với
những sự vật, hiện tượng khác. Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ
một thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần,
những yếu tố khác.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện: sự vật khác nhau,
hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên
hệ biểu hiện khác nhau. Có thể chia các mối liên hệ thành nhiều loại: mối liên hệ
bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu, v.v..
5
Các mối liên hệ này có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của
sự vật, hiện tượng.
Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối, vì mỗi loại mối
liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ phổ biến.
Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hóa lẫn nhau tùy theo phạm vi
bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát triển của chính các sự
vật.
Tuy sự phân chia thành các loại mối liên hệ chỉ mang tính tương đối,
nhưng sự phân chia đó lại rất cần thiết, bởi vì mỗi loại mối liên hệ có vị trí và vai
trò xác định trong sự vận động và phát triển của sự vật. Con người phải nắm bắt
đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao
nhất trong hoạt động của mình.
Phép biện chứng duy vật nghiên cứu các mối liên hệ phổ biến chi phối sự
vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hoá, quy định lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính
phổ biến nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiến con người phải
tôn trọng quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên
hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và
trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ
trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về
sự vật.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng
mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối
6
liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên, và lưu ý đến sự chuyển hoá lẫn nhau giữa
các mối liên hệ để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù
hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự
vật, chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà
còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng
thời, chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác
nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
- Vì các mối liên hệ có tính da dạng, phong phú - sự vật, hiện tượng khác
nhau, không gian, thời gian khác nhau các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan
điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác
động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ
thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy rằng, một luận
điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này, nhưng sẽ không là luận
điểm khoa học trong điều kiện khác.
2.Các khái niệm, nội dung, vai trò cơ bản của tăng trưởng kinh tế và bảo vệ
môi trường:
2.1. Tăng trưởng kinh tế:
2.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ và quy
mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được
so sánh theo các thời điểm gốc sẽ phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng
quy mô sản lượng kinh tế nhanh hay chậm so với thời điểm gốc. Quy mô và tốc
độ tăng trưởng là "cặp đôi" trong nội dung khái niệm tăng trưởng kinh tế. Hiện
7
nay, trên thế giới người ta thường tính mức gia tăng về tổng giá trị của cải của xã
hội bằng các đại lượng tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm quốc
nội (GDP).
- Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng giá trị tính bằng tiền của những
hàng hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra từ các yếu tố sản xuất của mình (dù
là sản xuất ở trong nước hay ở nước ngoài) trong một thời kỳ nhất định (thường
là một năm).
- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng giá trị tính bằng tiền của toàn bộ
hàng hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra trên lãnh thổ của nước đó
(dù nó thuộc về người trong nước hay người nước ngoài) trong một thời gian
nhất định (thường là một năm).
2.1.2. Vai trò của tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế là cơ sở để thực hiện hàng loạt vấn đề kinh tế, chính
trị, xã hội:
- Trước hết, tăng trưởng kinh tế thể hiện bằng sự tăng lên về số lượng, chất
lượng hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất ra nó, do đó tăng trưởng kinh tế là
tiền đề vật chất để giảm bớt tình trạng đói nghèo, khắc phục sự lạc hậu, hướng tới
giàu có, thịnh vượng.
- Tăng trưởng kinh tế làm cho mức thu nhập của dân cư tăng, phúc lợi xã
hội và chất lượng cuộc sống của cộng đồng được cải thiện như: kéo dài tuổi thọ,
giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo dục, y tế, văn hoá...
phát triển.
- Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, giảm thất
nghiệp. Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên
nhân quan trọng là đã sử dụng tốt hơn lực lượng lao động. Vì vậy, tăng trưởng
kinh tế nhanh thì thất nghiệp có xu hướng giảm.
8
- Tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề vật chất để củng cố an ninh quốc phòng,
củng cố chế độ chính trị, tăng uy tín và vai trò quản lý của nhà nước đối với xã
hội.
- Đối với các nước chậm phát triển như nước ta, tăng trưởng kinh tế còn là
điều kiện tiên quyết để khắc phục sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước
đang phát triển.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế nhanh là mục tiêu thường xuyên của các quốc
gia, nhưng sẽ là không đúng nếu theo đuổi tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá.
Thực tế cho thấy, đôi khi quá trình tăng trưởng mang tính hai mặt.Vì vậy, mỗi
quốc gia trong từng thời kỳ phải tìm ra những biện pháp tích cực để đạt được sự
tăng trưởng hợp lý, bền vững. Tăng trưởng kinh tế bền vững là tăng trưởng kinh
tế đạt mức tương đối cao, ổn định trong thời gian tương đối dài (ít nhất từ 20 - 30
năm) và giải quyết tốt vấn đề tiến bộ xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.
2.1.3. Các nhân tố tăng trưởng kinh tế:
Theo quan điểm hiện đại, muốn có tăng trưởng kinh tế cao phải sử dụng có
hiệu quả các yếu tố cơ bản sau:
- Vốn: Vốn hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ của cải vật chất do con người
tạo ra, tích luỹ lại và những yếu tố tự nhiên... được sử dụng vào quá trình sản
xuất. Nói một cách khái quát, vốn là toàn bộ tài sản được sử dụng để sản xuất,
kinh doanh. Vốn tồn tại dưới hai hình thức: vốn tài chính và vốn hiện vật.
- Con người: Trong các yếu tố hợp thành quá trình lao động sản xuất, sức
lao động là yếu tố quyết định, mang tính sáng tạo, là nguồn lực không cạn kiệt.
Vì vậy, con người có sức khoẻ, trí tuệ, tay nghề cao, có động lực và nhiệt tình,
được tổ chức chặt chẽ sẽ là nhân tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững..
- Khoa học và công nghệ: Khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng
để tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nhờ ứng dụng những thành tựu khoa học và
9
công nghệ đã làm cho hiệu quả sử dụng của các yếu tốlao động, vốn, tài nguyên
tăng lên. Sự phát triển khoa học và công nghệ cho phép tăng trưởng và tái sản
xuất mở rộng theo chiều sâu, làm xuất hiện những ngành kinh tế có hàm lượng
khoa học cao như: công nghệ điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học...
Như vậy, khoa học và công nghệ cũng là một yếu tố đóng vai trò đặc biệt quan
trọng đối với sự tăng trưởng nhanh và bền vững.
- Cơ cấu kinh tế: Mọi nền kinh tế đều tồn tại và vận động trong một cơ cấu
nhất định. Cơ cấu kinh tế là mối quan hệ hữu cơ, phụ thuộc và quy định lẫn nhau
cả về quy mô và trình độ giữa các ngành, các thành phần, các vùng, các lĩnh vực
của nền kinh tế. Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại để phát huy mọi
tiềm năng, nội lực, lợi thế so sánh của toàn bộ nền kinh tế, phù hợp với sự phát
triển của khoa học và công nghệ tiên tiến, gắn với phân công lao động và hợp tác
quốc tế là yếu tố tạo tiền đề, cơ sở cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Thể chế chính trị và vai trò của nhà nước: Thể chế chính trị tiến bộ có
khả năng định hướng sự tăng trưởng kinh tế vào những mục tiêu mong
muốn, khắc phục được những nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường, phân hoá
giàu nghèo sâu sắc...
Hệ thống chính trị mà đại diện là nhà nước có vai trò hoạch định đường
lối, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, cùng hệ thống chính sách đúng đắn sẽ
hạn chế được tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, khuyến khích tích luỹ, tiết
kiệm, kích cầu... làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, đúng hướng.
2.2. Môi trường:
2.2.1. Khái niệm môi trường và bảo vệ môi trường:
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo có
quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản
xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên.
10
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học,
sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người nhưng cũng ít nhiều chịu tác động
của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi, sông, biển cả, không khí, động thực
vật, đất và nước... Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây nhà
cửa, trồng cây, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản
phục vụ cho sản xuất và tiêu thụ
Bảo vệ môi trường là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch
đẹp, cải thiện môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các
hậu quả xấu do con người, thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử dụng
hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
2.2.2. Các chức năng chủ yếu của môi trường:
Môi trường là không gian sinh sống cho con người và thế giới sinh vật.
Trên không gian do môi trường cung cấp, con người thực hiện các hoạt động
sống của mình, trong đó có quá trình sản xuất của cải vật chất. Nói một cách cụ
thể, đối với quá trình sản xuất, môi trường đã cung cấp mặt bằng và phông tự
nhiên cho sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp.
Môi trường là nơi chứa đựng các nguồn tài nguyên cần thiết cho đời sống
và sản xuất của con người. Xét về bản chất thì mọi hoạt động của con người để
duy trì cuộc sống đều nhằm vào việc khai thác các hệ thống sinh thái của tự nhiên
thông qua lao động cơ bắp, vật tư công cụ và trí tuệ. Với sự hỗ trợ của các hệ
thống sinh thái, con người đã lấy từ tự nhiên những nguồn tài nguyên thiên nhiên
cần thiết phục vụ cho việc sản xuất ra của cải vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu của
mình. Thiên nhiên là nguồn cung cấp mọi nguồn tài nguyên cần thiết. Nó cung
cấp nguồn vật liệu, năng lượng, thông tin cần thiết cho hoạt động sinh sống, sản
xuất và quản lý của con người. Nhu cầu của con người về các nguồn tài nguyên
không ngừng tăng lên cả về số lượng, chất lượng và mức độ phức tạp theo trình
độ phát triển của xã hội. Các loại tài nguyên được khai thác bao gồm:
11
- Rừng tự nhiên: cung cấp nuớc, bảo tồn tính đa dạng sinh học và độ phì
nhiêu của đất, nguồn gỗ củi, dược liệu và cải thiện điều kiện sinh thái...
- Các thuỷ vực: cung cầp nước, dinh dưỡng, nơi vui chơi giải trí và các
nguồn thuỷ hải sản...
- Động thực vật: cung cấp lương thực, thực phẩm và các nguồn gen quý
hiếm....
- Không khí, nhiệt độ, năng lượng mặt trời, gió, nước: để con nguời hít thở,
cung cấp năng lượng cho sản xuất....
- Các loại quặng, dầu mỏ : Cung cấp năng lượng và nguyên liệu cho các
hoạt động sản xuất nông nghiệp...
Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra trong
cuộc sống và hoạt động sản xuất. Trong quá trình sản xuất và tiêu dùng của cải
vật chất, con người luôn đào thải ra các chất thải vào môi trường. Thời kỳ sơ
khai, khi dân số nhân loại còn ít, chủ yếu do các quá trình phân huỷ tự nhiên làm
cho chất thải sau một thời gian biến đổi nhất định lại trở lại trạng thái nguyên liệu
của tự nhiên. Nhưng ngày nay, do dân số thế giới tăng lên nhanh chóng cùng quá
trình công nghiệp hóa, đô thị hoá làm số lượng chất thải tăng lên không ngừng
khiến chức năng phân hủy tự nhiên của môi trường quá tải, gây ô nhiễm môi
trường. Nếu phân loại chi tiết, có thể chia chức năng này ra thành các loại sau:
- Chức năng biến đổi lý - hoá học
- Chức năng biến đổi sinh hoá
- Chức năng biến đổi sinh học
Môi trường còn lưư trữ và cung cấp thông tin cho con người:
- Cung cấp sự ghi chép và lưu trữ lịch sử địa chất, lịch sử tiến hoá của vật
chất và sinh vật, lịch sử xuất hiện và phát triển văn hoá của loài người.
12
- Cung cấp các chỉ thị không gian và tạm thời mang tính chất tín hiệu và
báo động sớm các hiểm hoạ đối với con người và sinh vật sống trên Trái Đất như
phản ứng sinh lý của cơ thể sống trước khi xảy ra các tai biến tự nhiên và các
hiện tượng tai biến tự nhiên, đặc biệt như bão, động đất, núi lửa...
- Lưu trữ và cung cấp cho con người sự đa dạng các nguồn gen, các loài
động thực vật, các hệ sinh thái tự nhiên và nhân tạo, các vẻ đẹp, cảnh quan có giá
trị thẩm mỹ để thưởng ngoạn, tôn giáo văn hoá khác.
2.2.3. Vì sao phải bảo vệ môi trường :
Như đã phân tích ở trên, môi trường có vai trò vô cùng quan trọng đối với
đời sống con người cũng như các hoạt động sản xuất vật chất, chính vì vậy cần
phải tích cực, chủ động bảo vệ môi trường. Thực tế chứng minh rằng, con người
đã, đang và sẽ phải trả giá cho những hành vi phá hoại môi trường của mình.
Hàng loạt thách thức về môi trường đang đặt ra hiện nay trên thế giới bao
gồm :
- Khí hậu toàn cầu biến đổi và tần xuất thiên tai gia tăng
- Sự suy giảm tầng ôzôn
- Tài nguyên thiên nhiên bị suy thoái
- Ô nhiễm môi trường đang xảy ra ở quy mô rộng
- Sự gia tăng dân số
- Sự suy giảm tính đa dạng sinh học trên Trái Đất
Những hiện tượng trên đe doạ nghiêm trọng tới môi trường, ảnh hưởng lớn
đến sức khoẻ và các hoạt động sống của con người nhưng nguyên nhân chủ yếu
lại xuất phát từ chính con người. Nếu không có các biện pháp thích hợp để giảm
sự huỷ hoại môi trường thì con người sẽ có lúc bị diệt vong. Chính vì vậy, bảo vệ
môi trường là vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay để con người cứu lấy môi trường
13
cũng như tự cứu bản thân mình. Theo điều 6 Luật môi trường Việt Nam : "Bảo vệ
môi trường là sự nghiệp của toàn dân. Tổ chức, cá nhân phải có trách nhiệm bảo
vệ môi trường, thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường, có quyền và có trách
nhiệm phát hiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường". Như
vậy bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ của tất cả mọi người.
3.Mối liên hệ tác động qua lại giữa tăng trưởng kinh tế và vấn đề bảo vệ môi
trường:
3.1.Tác động của tăng trưởng kinh tế đến bảo vệ môi trường:
* Tích cực:
Khoa học công nghệ là nguồn lực quan trọng để tăng trưởng kinh tế nhanh
và bền vững chính vì vậy trong quá trình tăng trưởng, tất yếu khoa học công nghệ
phải được chú trọng đầu tư phát triển. Nhờ sự phát triển cao của khoa học công
nghệ, các vấn đề về cải tạo môi trường, tìm và sử dụng các nguồn năng lượng
sạch gặp nhiều thuận lợi và được đẩy nhanh.
Tăng trưởng kinh tế cao làm cho mức thu nhập cũng như chất lượng cuộc
sống của dân cư tăng, giảm tỷ lệ mắc các loại bệnh tật, đó cũng là một yếu tố
quan trọng giúp giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường.
Tăng trưởng kinh tế cao đòi hỏi chất lượng giáo dục phải tăng, từ đó nâng
cao ý thức của người dân về bảo vệ môi trường
Tăng trưởng kinh tế tạo ra nguồn chi phí cho các hoạt động bảo vệ môi
trường như: nghiên cứu xử lý chất thải; xây dựng các khu xử lý chất thải; đầu tư
phát triển các khu bảo tồn thiên nhiên; bảo tồn các loại động thực vật quý hiếm....
* Tiêu cực:
Tài nguyên thiên nhiên là cơ sở để phát triển nông nghiệp và công nghiệp,
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động. Điều này thực sự quan
trọng với các nước đang phát triển ở thời kỳ đầu công nghiệp hoá như Việt Nam.
14
Tuy vậy, tình trạng khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên đã và đang diễn ra ở
nước ta. Các loại tài nguyên khoáng sản, rừng, đất, nước, năng lượng... đều bị
khai thác và sử dụng bừa bãi, vô kế hoạch dẫn đến tình trạng cạn kiệt, suy thoái
tài nguyên, gây ảnh hưởng rất xấu đến môi trường đồng thời xảy ra các hiện
tượng như mất cân bằng sinh thái, giảm đa dạng sinh học...Chẳng hạn như việc
khai thác dầu mỏ tại các vùng biển với các thiết bị không đảm bảo chất lượng có
thể gây ra rò gỉ dầu ra biển, vừa gây lãng phí dầu, vừa gây ô nhiễm môi trường
biển, làm chết các loại sinh vật biển dẫn đến mất cân bằng sinh thái ở khu vực ô
nhiễm...
Muốn tăng trưởng kinh tế cao thì phải đầu tư phát triển mạnh cho công
nghiệp. Điều này dẫn tới sự ra đời của hàng loạt khu công nghiệp và các xí
nghiệp công nghiệp. Những xí nghiệp, khu công nghiệp này hàng ngày, hàng giờ
thải trực tiếp vào môi trường các loại khí độc, nước thải, rác thải... hầu như chưa
qua xử lý gây ô nhiễm trầm trọng không khí, đất, nguồn nước xung quanh. Sự ô
nhiễm này tác động lớn đến sức khoẻ con người, gây ra các bệnh về đường hô
hấp, tiêu hoá, thần kinh, thậm chí là các bệnh hiểm nghèo như ung thư. Ngoài ra,
nhiều loài sinh vật sống trong vùng bị ô nhiễm sẽ chết hoặc bị biến dạng, gây tác
động tiêu cực đến cân bằng sinh thái.
Sự đòi hỏi phải đạt năng suất cao trong nông nghiệp dẫn đến việc nhiều
người lạm dụng các loại phân bón hoá học, thuốc bảo vệ thực vật...Các loại chất
này khi bị sử dụng qua liều lượng cho phép không những làm cho nhiều loại thực
phẩm tích tụ độc tố, gây ra nhiều bệnh tật cho con người mà còn làm môi trường
nước, đất bị ô nhiễm nghiêm trọng, rất khó để cải tạo.
Tăng trưởng kinh tế cao giúp đời sống nhân dân nâng cao, do đó nhu cầu
về giải trí, du lịch cũng tăng lên. Điều này có thể dẫn tới việc đất nông nghiệp,
đất rừng bị cắt xén để làm các khu vui chơi giải trí, khu du lịch gây ra những hậu
quả nghiêm trọng về môi trường do nhiều loại sinh vật mất chỗ trú ngụ dẫn đến
15
bị tiêu diệt, cảnh quan tự nhiên bị huỷ hoại. Các hoạt động vui chơi giải trí, du
lịch còn làm ô nhiễm môi trường do sự vứt rác bừa bãi vô ý thức của người dân
khi tham gia các hoạt động này. Chẳng hạn như Vịnh Hạ Long, đây là một thắng
cảnh đẹp nổi tiếng ở nước ta nhưng chủ yếu do các hoạt động du lịch cùng việc
khai thác tài nguyên quá mức đã gây ô nhiễm cho khu vực này.
Tăng trưởng kinh tế làm cho dân cư giàu lên, nhưng đồng thời cũng có thể
làm cho sự phân hoá giàu nghèo tăng lên. Như vây, một bộ phận dân cư có thể
lâm vào tình trạng nghèo đói, sống trong những nơi tồi tàn, không đảm bảo về vệ
sinh, dễ mắc các bệnh tật làm tăng nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.
Một khi đời sống nhân dân ta đuợc nâng cao thì khả năng các loại phương
tiện giao thông như xe máy, ô tô, máy bay sẽ được sử dụng ngày càng nhiều. Khí
thải và tiếng ồn của các loại phương tiện này sẽ gây ra tình trạng ô nhiễm không
khí và ô nhiễm tiếng ồn, đặc biệt là tại các đô thị lớn.
Tăng trưởng kinh tế cao có thể dẫn đến tình trạng đô thị hoá diễn ra ồ ạt,
dân số tăng nhanh cùng hàng loạt vấn đề xã hội khác, gây sức ép lên môi trường,
khiến môi trường trở nên quá tải và ngày càng ô nhiễm.
3.2. Tác động của vấn đề môi trường đến tăng trưởng kinh tế:
* Tích cực:
Môi trường cung cấp các yếu tố cơ bản cho quá trình sản xuất:
- Nền kinh tế nước ta vẫn còn phải dựa chủ yếu vào tài nguyên thiên nhiên
(TNTN). Riêng giá trị sản lượng nông nghiệp còn chiếm tới 23% tổng giá trị
GDP. Nếu tính cả các lĩnh vực khác, thì có thể thấy TNTN đã đóng góp tới 50%
tổng giá trị GDP, 60-70% tổng giá trị hàng xuất khẩu, và mang lại việc làm cho
hàng triệu người lao động
- Các yếu tố rất quan trọng trong sản xuất như nước, không gian, nơi tiếp
thu và xử lý rác thải... đều do môi trường cung cấp. Thiếu hụt các yếu tố này sẽ
16
ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sản xuất, kìm hãm sự phát triển. Chẳng hạn nói
về nước, nếu thiếu nước sạch thì đời sống người lao động sẽ mất ổn định gây ảnh
hưởng lớn đến quá trình sản xuất xã hội, thiếu nước cho các hồ thuỷ điện sẽ dẫn
tới tình trạng cắt điện thường xuyên gây nhiều thiệt hại cho hoạt động kinh
doanh, sản xuất...
Môi trường cung cấp các địa điểm du lịch, khu vui chơi, giải trí tự nhiên,
đem về nguồn lợi không nhỏ cho nền kinh tế
Thời tiết, khí hậu ổn định là tiền đề quan trọng cho quá trình sản xuất.
* Tiêu cực:
Nước ta có khí hậu rất thất thường, thiên tai như hạn hán, lũ lụt, sạt lở
đất....thường xuyên xảy ra. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân dân và
quá trình sản xuất, đặc biệt là đến sản xuất nông nghiệp. Nhiều đợt hạn hán, lũ lụt
xảy ra đã gây mất mùa nghiêm trọng tại nhiều địa phương, dẫn đến tình trạng
thiếu lương thực, đời sống người nông dân gặp nhiều khó khăn, nguồn cung cấp
nông sản cho công nghiệp chế biến thiếu hụt, giảm tỷ trọng xuất khẩu....
Môi trường ngày càng bị ô nhiễm dẫn đến các hiện tượng như mưa axit,
hiệu ứng nhà kính, sự suy thoái ôzôn trong tầng bình lưu... Những hiện tượng đó
trước hết ảnh hưởng trước hết đến sức khoẻ con người, gây ra nhiều bệnh tật về
đường hô hấp, về thần kinh...Sức khoẻ bị giảm sút kéo theo hiệu suất lao động
giảm.
4. Thực trạng đáng báo động của môi trường Việt Nam:
4.1. Các loại tài nguyên ở nước ta đang ngày càng cạn kiệt, suy thoái:
Về tài nguyên rừng: Độ che phủ của rừng liên tục giảm sút, chỉ có dấu hiệu
tăng trong gần 10 năm trở lại đây. Năm 1943, diện tích rừng Việt Nam ước tính
có khoảng 14 triệu ha, tỷ lệ che phủ là 43 %. Năm 1976 giảm xuống còn 11 triệu
17
ha với tỷ lệ che phủ còn 34 %. Năm 1995 còn 8 triệu ha và tỷ lệ che phủ là 28 %.
Cho đến năm 2005, nhờ đẩy mạnh hoạt động trồng và bảo vệ rừng nên diện tích
rừng đã tăng lên được 12,6 triệu ha (10,3 triệu ha rừng tự nhiên và 2,3 triệu ha
rừng trồng), độ che phủ đạt khoảng 37 %. Xét về chất lượng rừng, trước năm
1945 rừng nước ta có trữ lượng gỗ vào khoảng 200 - 300 m³/ha, trong đó các loài
gỗ quý như đinh, lim, sến, táu... rất phổ biến. Những cây gỗ đuờng kính 40 - 50
cm chiếm tới 40 - 50 % trữ lượng rừng. Nhưng hiện nay chất lượng rừng đã giảm
sút đáng kể, chỉ còn chủ yếu là rừng nghèo giá trị kinh tế không cao. Về tài
nguyên động vật, thực vật hoang dã: Đa dạng sinh học ở Việt Nam đang ở mức
báo động cần đuợc bảo vệ khi tỷ lệ tuyệt chủng ở Việt Nam ước tính cao hơn
mức trung bình của thế giới. Theo Sách đỏ Việt Nam 2004, tổng số loài động vật,
thực vật hoang dã trong thiên nhiên đang bị đe dọa ở các mức khác nhau đã lên
tới 857 loài, trong đó có 407 loài động vật và 450 loài thực vật. So với số liệu
công bố trong Sách Đỏ Việt Nam 1992 -1996 là 709 loài bị đe dọa (359 loài động
vật và 350 loài thực vật), có thể thấy rằng số loài hiện thời bị đe dọa tăng lên
đáng kể. Hiện tượng này xảy ra là do các hoạt động săn bắn và buôn bán trái
phép động thực vật hoang dã ngày càng gia tăng, diện tích rừng bị thu hẹp, ...
Về tài nguyên đất: Theo kết quả kiểm kê đất đai năm 2005, tổng diện tích
đất tự nhiên cả nước là 33,1 triệu ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp là 24,8
triệu ha, diện tích đất phi nông nghiệp là 3,2 triệu ha, diện tích đất chưa sử dụng
và núi đá không có rừng cây là 5,1 triệu ha. Tuy diện tích đất nông nghiệp tăng
liên tục nhưng chất lượng đất ngày càng suy thoái do việc sử dụng nhiều loại chất
độc hại trong nông nghiệp và chất thải công - nông nghiệp đuợc thải trực tiếp vào
đất. Các hiện tượng như xói mòn, rửa trôi, sạt lở, hoang mạc hoá, suy thoái hoá
học (mặn hoá, phèn hoá, chua hoá), mất chất dinh dưỡng, mất khoáng xảy ra
ngày càng nhiều với mức độ nghiêm trọng ngày càng lớn. Sự suy thoái đất dẫn
đến giảm năng suất cây trồng, vật nuôi, làm nghèo thảm thực vật, suy giảm đa
18
dạng sinh học, đồng thời chúng cũng tác động ngược trở lại làm các quá trình xói
mòn, thoái hoá đất diễn ra nhanh hơn.
Về tài nguyên nước: Theo đánh giá của các nhà chuyên môn, về chất
lượng, tài nguyên nước của Việt Nam tốt nhưng đã có dấu hiệu suy thoái và ô
nhiễm. Việt Nam là quốc gia có lượng mưa trong nước phân bố không đều theo
mùa và theo khu vực, lượng nước mặt dự trữ có tới hơn 2/3 bắt nguồn từ nước
ngoài và lượng nước dưới đất có dấu hiệu cạn kiệt. Một số khu vực đã xảy ra
mưa có độ pH thấp (mưa axít) và hệ thống các hồ, ao, kênh rạch và các sông nhỏ
chảy qua các khu đô thị lớn hầu hết đều bị ô nhiễm nghiêm trọng, vượt quá mức
cho phép từ 5 - 10 lần. Nước dưới đất tại các vùng ven biển đều bị nhiễm mặn.
Mực nước dưới đất ngày càng hạ thấp, gây ra tình trạng thiếu nước cho sinh hoạt
và nước phục vụ nông nghiệp. Ở nhiều nơi đã phát hiện dấu hiệu ô nhiễm phốt
phát và asen trong nước ngầm. Tại Hà Nội, số giếng có hàm lượng phốt phát cao
hơn cho phép chiếm tới 71 %. Nước biển Việt Nam cũng đã bắt đầu ô nhiễm bởi
chất rắn lơ lửng, dầu và kim loại kẽm.
Về tài nguyên năng lượng: Theo những kết quả được đưa ra tại hội thảo
"Phát triển năng lượng bền vững ở VN" diễn ra trong năm 2006, mức độ tổn thất
điện năng ở Việt Nam có thể đến 15,8 % trong khi nhiều nước trên thế giới chỉ
khoảng 7 - 9 %. Để làm ra 1 USD giá trị gia tăng, VN tiêu tốn năng lượng nhiều
hơn các nước trong khu vực khoảng 30-40%. Theo một đại diện của Tập đoàn
Than – Khoáng sản Việt Nam, hiện nay, chỉ riêng tổn thất năng lượng trong khâu
thăm dò than cũng đã lên tới 10-20%; còn tổn thất trong khâu thăm dò dầu khí
lên tới 70%. Với tốc độ gia tăng mức khai thác năng lượng như hiện nay, các
nguồn năng lượng của Việt Nam sẽ trở thành khan hiếm, các mỏ dầu và khí đốt
sẽ cạn kiệt trong vòng 40-60 năm tới. Cho đến nay, vẫn còn nhiều nguồn năng
lượng khác gọi là “năng lượng tái tạo” như gió, mặt trời, nhiên liệu sinh khối (từ
thực thực vật, động vật) mặc dù dồi dào nhưng vẫn chưa được thúc đẩy sử dụng.
VN hiện có hơn 25 triệu tấn sinh khối gỗ năng lượng, hơn 53 triệu tấn sinh khối
19
phụ phẩm nông nghiệp… có thể cho ra hàng chục triệu tấn năng lượng. Về dầu
thực vật, trong khi một số nước đã nghiên cứu từ dầu thực vật để cho ra nhiên
liệu sinh học pha trộn với xăng để giảm phụ thuộc vào dầu mỏ thì ở ta chưa có
nghiên cứu, đánh giá toàn diện về nguồn năng lượng này. Về năng lượng mặt
trời, VN có số giờ nắng trung bình khoảng 2.000-2.500h/năm với tổng năng
lượng bức xạ mặt trời trung bình khoảng 150kCal/cm2/năm. Tiềm năng từ năng
lượng mặt trời có thể lên khoảng 43,9 tỷ tấn năng lượng năm. Về gió, mặc dù VN
có nhiều nơi dồi dào về gió, nhưng hiện chỉ có một vài nhà máy phát điện từ gió
với công suất không đáng kể…
Về tài nguyên khoáng sản: Tài nguyên khoáng sản gồm 3 nhóm lớn, đó là:
khoáng sản kim loại, khoáng sản phi kim loại và khoáng sản cháy. Hiện nay
nguồn tài nguyên khoáng sản của nước ta vẫn còn khá dồi dào nhưng đã ở một số
mỏ khai thác đã bắt đầu xảy ra hiện tượng cạn kiệt do khai thác quá mức hoặc
lãng phí vì máy móc, công nghệ lạc hậu. Mặt khác, hiện nay chúng ta đang khai
thác ồ ạt một số loại khoáng sản kim loại như titan, kẽm... rồi đem bán thô với
giá rẻ cho nước ngoài, gây lãng phí nghiêm trọng nguồn tài nguyên khoáng sản
quốc gia.
4.2. Tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng, đặc biệt là tại các đô
thị lớn:
Ô nhiễm nguồn nước: Môi trường nước ở nhiều đô thị, khu công nghiệp và
làng nghề ngày càng bị ô nhiễm bởi nước thải, khí thải và chất thải rắn. Tình
trạng ô nhiễm nước ở các đô thị thấy rõ nhất là ở thành phố Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh. Ở các thành phố này, nước thải sinh hoạt không có hệ thống xử lý
tập trung mà trực tiếp xả ra nguồn tiếp nhận (sông, hồ, kênh, mương). Mặt khác,
còn rất nhiều cơ sở sản xuất không xử lý nước thải, phần lớn các bệnh viện và cơ
sở y tế lớn chưa có hệ thống xử lý nước thải; một lượng rác thải rắn lớn trong
thành phố không thu gom hết được… là những nguồn quan trọng gây ra ô nhiễm
20
nước. Hiện nay, mức độ ô nhiễm trong các kênh, sông, hồ ở các thành phố lớn là
rất nặng, các thông số chất lơ lửng (SS), BOD; COD; Ôxy hoà tan trong nguồn
nướcở nơi tiếp nhận nước thải đều vượt từ 5-10 lần, thậm chí 20 lần tiêu chuẩn
cho phép. Ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp, phần lớn các chất thải
của con người và gia súc không được xử lý nên thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi,
làm cho tình trạng ô nhiễm nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng
cao. Trong sản xuất nông nghiệp, do lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, các
nguồn nước ở sông, hồ, kênh, mương bị ô nhiễm, ảnh hưởng lớn đến môi trường
nước và sức khoẻ nhân dân. Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản ồ ạt, thiếu quy hoạch,
không tuân theo quy trình kỹ thuật cũng đã gây nhiều tác động tiêu cực tới môi
trường nước. Cùng với việc sử dụng nhiều và không đúng cách các loại hoá chất
trong nuôi trồng thuỷ sản, thì các thức ăn dư lắng xuống đáy ao, hồ, lòng sông
làm cho môi trường nước bị ô nhiễm các chất hữu cơ, làm phát triển một số loài
sinh vật gây bệnh và xuất hiện một số tảo độc; thậm chí đã có dấu hiệu xuất hiện
thuỷ triều đỏ ở một số vùng ven biển Việt Nam.
Ô nhiễm không khí và tiếng ồn: Theo số liệu điều tra mới đây của Viện
Quy hoạch đô thị-nông thôn (Bộ Xây dựng), cùng với ô nhiễm nước, ô nhiễm
không khí xảy ra tại hầu hết các đô thị trong vùng và các tuyến quốc lộ, những
nơi có mật độ xây dựng và giao thông cao ở VN. Nồng độ bụi tại nhiều khu đô
thị hiện vượt tiêu chuẩn cho phép 2 - 3 lần, các nút giao thông vượt 2 - 5 lần, khu
vực xây dựng vượt quá 10 - 20 lần. Một trong những nguyên nhân dẫn đến ô
nhiễm không khí, tiếng ồn, ùn tắc, tai nạn giao thông là do hệ thống giao thông
đô thị và công nghiệp còn nhiều bất cập, lưu lượng giao thông ngày một tăng
nhanh, trong khi đó thì đường đô thị hẹp, khó cải tạo và nâng cấp. Ô nhiễm các
loại khí độc như SO2, CO, NOx... tại các đô thị tuy chưa đến mức độ báo động
nhưng nồng độ khí thải giao thông tại các nút giao thông lớn tại Hà Nội, quốc lộ
1 Đồng Văn, Hà Nam, quốc lộ 5 tại Hưng Yên, Hải Dương đã vượt quá tiêu
chuẩn cho phép. Bụi và ô nhiễm không khí tại các khu dân cư quanh các khu
21
công nghiệp cũ trong đô thị, đặc biệt tại Hà Nội như Thượng Đình, Vĩnh Tuy ...
cũng xấp xỉ, nhiều nơi vượt tiêu chuẩn cho phép. Ô nhiễm tiếng ồn Quốc lộ 5 và
Quốc lộ 1 khá nghiêm trọng, mức ồn tại Quốc lộ 5 (Sài Đồng) là 80 dBA, Quốc
lộ 1 (Giáp Bát) là 77 DBA. Tiếng xe ôtô, xe máy chạy, thậm chí cả máy bay trên
không trung, tiếng máy móc sản xuất ở những khu chế xuất, âm thanh vọng ra từ
các sàn nhảy, sân khấu... đều là những nguyên nhân gây nên tình trạng ô nhiễm
tiếng ồn.
Ô nhiễm đất: Môi trường đất ở nước ta hiện nay cũng đang ở trong tình
trạng ô nhiễm nghiêm trọng. Ở các vùng sản xuất nông nghiệp hiện nay, do sử
dụng phân bón không đúng kỹ thuật trong canh tác nên hiệu lực phân bón thấp,
có trên 50 % lượng đạm, 50 % lượng kali và xấp xỉ 80 % lượng lân dư thừa trực
tiếp hay gián tiếp gây ô nhiễm môi trường đất. Các loại phân vô cơ thuộc nhóm
chua sinh lý còn tồn dư axit làm chua đất, nghèo kiệt các kation kiềm và xuất
hiện nhiều độc tố trong đất. Các loại thuốc bảo vệ thực vật có đặc điểm rất độc
với mọi sinh vật được sử dụng ngày càng nhiều, tồn dư lâu dài trong môi trường
đất - nước, gây chết tất cả các sinh vật có lợi và có hại trong môi trường đất.
Khảo sát trong những năm gần đây cho thấy hàm lượng kim loại nặng trong đất
gần các khu công nghiệp đang tăng lên.
5. Một số giải pháp để góp phần cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và vấn đề
bảo vệ môi trườngở nước ta:
* Sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên:
- Sử dụng hợp lý tài nguyên rừng:
+ Đẩy mạnh việc trồng rừng.
+ Giảm nguy cơ cháy rừng, sâu bệnh, săn bắn trộm, thải các chất ô
nhiễm ảnh hưởng đến rừng.
+ Hạn chế tiến tới chấm dứt du canh du cư
22
+ Sử dụng các phương pháp khai thác rừng hợp lý, giảm việc sử
dụng lãng phí gỗ
+ Quản lý bền vững các vùng đệm
- Ngăn chặn ô nhiễm, xói mòn và hoang mạc hoá đối với tài nguyên đất:
+ Thực hiện các kế hoạch quốc gia về sử dụng và quản lý đất bền
vững.
+ Tuyên truyền, huấn luyện cho người dân về việc bảo vệ đất
+ Cải tạo lại các vùng đất đã bị suy thoái
+ Hạn chế việc thải các hoá chất độc hại trong công - nông nghiệp
vào lòng đất
- Bảo vệ và quản lý chặt chẽ việc khai thác và sử dụng tài nguyên biển:
+ Có các hình thức sử phạt nặng đối với các cá nhân, tổ chức gây ô
nhiễm hoặc khai thác trái phép tài nguyên biển
+ Nâng cao chất lượng sống và ý thức cho người dân ven biển để họ
tích cực tham gia vào công tác bảo vệ môi trường biển
+ Xây dựng và duy trì các hệ thống xử lý nước thải, tránh thải nước
thải gần các bãi cá, bãi tắm
+ Phát triển nuôi trồng thủy sản, giảm lãng phí trong đánh bắt, bảo
quản và chế biến thuỷ hải sản,
+ Cấm dùng các hình thức khai thác, đánh bắt cá mang tính chất huỷ
diệt
+ Bảo vệ các hệ sinh thái (HST) nhạy cảm như: HST rạn san hô,
HST cửa sông, HST rừng ngập mặn....
- Bảo vệ và quản lý nguồn nước ngọt:
23
+ Có các tiêu chuẩn về nước thải thành phố và công nghiệp
+ Đảm bảo nước sạch, an toàn cho người dân ở nông thôn
+ Quản lý việc khai thác đánh bắt thuỷ sản nước ngọt, không phá
hủy HST thuỷ sinh
+ Phát triển các nguồn nước ngọt thay thế (khử muối, nước mưa,
nước quay vòng tái sử dụng) với công nghệ rẻ, sẵn có
+ Giảm thiểu việc sử dụng các hoá chất gây ô nhiễm nguồn nước
trong nông nghiệp
- Duy trì, bảo vệ đa dạng sinh học:
+ Ban hành luật pháp, chính sách bảo vệ đa dạng sinh học và các
khu bảo tồn thiên nhiên
+ Đánh giá tác dộng của các dự án phát triển đến đa dạng sinh học,
tính toán các chi phí do mất mát phải trả cho những tổn thất về đa dạng sinh
học
+ Áp dụng các công nghệ hiện đại, các biện pháp thích hợp để phục
hồi các HST đã bị phá huỷ và các loàu đang bị đe dọa
+ Tuyên truyền, giáo dục để nâng cao hiểu biết về tầm quan trọng
của đa dạng sinh học
+ Ngăn chặn việc đưa vào, kiểm soat hoặc loại bỏ các giống ngoại
lai có khả năng đe doạ HST và môi trưưòng sống của các loài bản địa
- Khai thác và sử dụng tiết kiệm, hợp lý các nguồn năng lượng:
+ Khai thác các nguồn tài nguyên năng lượng không tái tạo (than,
dầu mỏ, khí đốt) phải có kế hoạch để tránh cạn kiệt và lãng phí
+ Đẩy mạnh việc sử dụng có hiệu quả các nguồn năng lượng vĩnh
cửu và năng lượng tái tạo (Mặt Trời, nước, gió và sinh khối)
24
+ Nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượngở gia đình, các khu công
nghiệp, các công trình công cộng...
+ Phát động các chiến dịch tuyên truyền quảng cáo để đẩy mạnh
hoạt động tiết kiệm năng lượng và bán các sản phẩm tiêu thụ ít năng lượng
* Có các chính sách, biện pháp xử lý nghiêm minh với những doanh nghiệp, xí
nghiệp gây ô nhiễm môi trường đồng thời cũng có những hình thức khen thưởng
xứng đáng cho những cá nhân, đơn vị, tổ chức có hành động tích cực góp phần
bảo vệ môi trường
* Đầu tư xây dựng những trung tâm xử lý chất thải hiện đại, tích cực cải tạo môi
trường những khu vực bị ô nhiễm
* Lập các quỹ hoạt động vì môi trường nhằm hỗ trợ kinh phí cho việc phòng
tránh, khắc phục, xử lý các vấn đề môi trường, bảo vệ môi trường
* Hoàn thiện Luật Bảo vệ môi trường
* Hợp tác với các tổ chức quôc tế về môi trường nhằm cải thiện, nâng cao chất
lượng môi trường, chủ động tham gia vào các hiệp định, thoả thuận về bảo vệ
môi trường
25
Kết luận
Qua quá trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá về mối liên hệ mật thiết giữa
tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trưòng ở nước ta dựa trên nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến, chúng ta đã thấy rõ rằng việc tìm ra giải pháp góp phần cân
bằng hai yếu tố này là vô cùng quan trọng. Trong quá trình tăng trưởng kinh tế,
phải đặt vấn đề bảo vệ môi trường lên hàng đầu, cần đảm bảo môi trường luôn
xanh, sạch, đẹp, có như vậy tăng trưởng mới bền vững
Giới trẻ ngày nay đặc biệt là sinh viên cần có nhận thức đúng đắn, sâu sắc
về vấn đề này. Ngay khi còn ngồi trên giảng đuờng, phải luôn tập trung vào học
tập, tích cực tìm hiểu, nghiên cứu khoa học cũng như rèn luyện đạo đức đồng
thời tích cực tham gia tuyên truyền, thực hiện các chiến dịch bảo vệ môi trường,
góp phần giữ cho không gian lớp, trường, nơi ở cũng như môi trường chung của
đất nước luôn trong sạch. Sinh viên sẽ là một trong những lực lượng lao động và
quản lý đất nước chủ chốt sau khi rời mái trường đại học, chính vì vậy việc nhận
thức và có hành động đúng đắn về vấn đề tăng trưởng kinh tế phải gắn với bảo vệ
môi trường có ý nghĩa rất quan trọng đến sự phát triển bền vững của đất nước ta
hiện tại và tương lai.
26
Tài liệu tham khảo
1 - Bộ Giáo dục và đào tạo. Giáo trình "Triết học Mác - Lênin" (Dùng cho các
trường đại học, cao đẳng). Nhà xuất bản chính trị quốc gia. Hà Nội, 2006.
2 - Bộ Giáo dục và đào tạo. Giáo trình "Kinh tế chính trị Mác - Lênin" (Dùng cho
các khối ngành Kinh tế - Quản trị kinh doanh trong các trường đại học, cao
đẳng). Nhà xuất bản chính trị quốc gia. Hà Nội, 2006.
3 - Lê Văn Khoa (chủ biên). Khoa học môi trường. Nhà xuất bản giáo dục. Hà
Nội, 2002.
4 - Bộ Tài nguyên và Môi trường. Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm
2005 - Phần Tổng quan
5 - Các trang Web:
Bộ Tài nguyên và môi trường: www.monre.gov.vn
Cục bảo vệ môi trường: www.nea.gov.vn
Tạp chí Hoạt động khoa học: www.tchdkh.org.vn
Sinh học Việt Nam: www.sinhocvietnam.com
Chương trình mục tiêu Quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu
quả: www.eec.moi.gov.vn
Trung tâm thông tin - Bộ tài nguyên và Môi trường: www.ciren.gov.vn
Báo điện tử VietNamNet: www.vietnamnet.vn
27
28
MỤCLỤC
Mở đầu ................................................................................................................ 1
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong hai nguyên lý cơ bản của
phép biện chứng duy vật: ................................................................................. 3
1.1. Khái niệm mối liên hệ: .......................................................................... 3
1.2. Các tính chất của mối liên hệ:................................................................ 4
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận: ................................................................... 5
2.Các khái niệm, nội dung, vai trò cơ bản của tăng trưởng kinh tế và bảo vệ
môi trường: ...................................................................................................... 6
2.1. Tăng trưởng kinh tế: .............................................................................. 6
2.2. Môi trường: ........................................................................................... 9
3.Mối liên hệ tác động qua lại giữa tăng trưởng kinh tế và vấn đề bảo vệ môi
trường: ........................................................................................................... 13
3.1.Tác động của tăng trưởng kinh tế đến bảo vệ môi trường: .................... 13
3.2. Tác động của vấn đề môi trường đến tăng trưởng kinh tế: ................... 15
4. Thực trạng đáng báo động của môi trường Việt Nam: ................................ 16
4.1. Các loại tài nguyên ở nước ta đang ngày càng cạn kiệt, suy thoái: ...... 16
4.2. Tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng, đặc biệt là tại các
đô thị lớn: ................................................................................................... 19
5. Một số giải pháp để góp phần cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và vấn đề
bảo vệ môi trườngở nước ta: .......................................................................... 21
Kết luận ............................................................................................................. 25
Tài liệu tham khảo ............................................................................................. 26
29
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tr_23_2386.pdf