Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng là một xu thế tất yếu, trong đó 
hội nhập vào thị trường tài chính - tiền tệ thế giới là không thể thiếu. Khi 
đất nước ta ngày càng mở cửa thì những ảnh hưởng từ thị trường tiền tệ bên 
ngoài là không nhỏ. An ninh kinh tế nói chung và an ninh tiền tệ nói riêng 
đang trở nên ngày càng quan trọng đối với mỗi quốc gia. Tìm hiểu các nhân 
tố ảnh hưởng tới vấn đề an ninh tiền tệ của Việt Nam thông qua thực trạng 
nhập khẩu vàng là một vấn đề đáng quan tâm, bởi từ trước tới nay, dù có 
trải qua bao nhiêu thăng trầm thì vàng vẫn chưa bao giờ thoát khỏi chức 
năng tiền tệ của mình.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 96 trang
96 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2493 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nhập khẩu vàng của Việt Nam năm 2008 và ảnh hưởng tới vấn đề an ninh tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
au: 
- Nhập khẩu vàng có ảnh hưởng như thế nào tới cán cân thanh toán 
quốc tế của Việt Nam; 
- Vàng nhập khẩu có ảnh hưởng như thế nào tới thực trạng đô la hóa; 
- Nên xem xét vàng như một loại hàng hóa hay một loại ngoại tệ; 
- Chính phủ có nên xem xét việc cho phép nhập khẩu vàng trở lại 
trong năm 2009; 
- Có nên cho phép xuất khẩu vàng khối để cân bằng thị trường và 
đảm bảo cán cân thanh toán; 
 61 
Về vấn đề này, từ thực tế và một vài phân tích lý thuyết ở trên, ta có 
thể rút ra một vài ảnh hưởng của việc nhập khẩu vàng tới vấn đề an ninh 
tiền tệ của Việt Nam như sau 
 Thứ nhất, ảnh hưởng tới cán cân thanh toán quốc tế 
Nhập khẩu vàng đã góp phần làm tăng thâm hụt cán cân thanh toán 
quốc tế của Việt Nam. Đây cũng là nhận định của NHNN, nhập khẩu vàng 
là một nguyên nhân quan trọng làm tăng thăm hụt cán cân thanh toán quốc 
tế của Việt Nam. Khi mà chính phủ Việt Nam vẫn quy định chỉ cho phép 
xuất khẩu vàng trang sức và vàng theo các hợp đồng gia công quốc tế thì số 
lượng vàng đã nhập khẩu vào Việt Nam có thể coi như không được xuất 
khẩu ra bên ngoài nữa. Tính đến tháng 7 năm 2008, tức là tới tời điểm 
chính phủ tạm ngừng cấp phép nhập khẩu vàng, thì chúng ta đã nhập khẩu 
khoảng 62 tấn vàng, theo số liệu của Hội đồng vàng thế giới. Lượng nhập 
khẩu này bằng tổng lượng nhập khẩu của năm 2007. Nếu tính theo giá thị 
trường vào thời điểm ngày 07/08/2008 là 885 USD/ounce, thì 62 tấn vàng 
nhập vào Việt Nam trị giá khoảng 1,8 tỉ USD. Nếu đem so với con số dự 
trữ ngoại hối chính thức 20,7 tỷ USD được công bố lần đầu tiên vào tháng 
6 năm 2008 (hiện nay dự trữ ngoại hối của Việt Nam vào khoảng 21.9 tỷ 
USD – từ tháng 9 năm 2008) thì con số 1,8 tỷ dùng để nhập khẩu vàng 
chiếm 8.6%. Còn nếu đem so sánh với con số nhập siêu tính đến hết tháng 
6 năm 2008 – thời điểm NHNN ra quyết định tạm ngừng cấp phép nhập 
khẩu vàng là 14.7 tỷ USD (Tổng Cục Thống kê) thì giá trị nhập khẩu vàng 
chiếm khoảng 12,24%. Cả hai con số này đều xấp xỉ 10%, rõ ràng là không 
nhỏ và không thể làm ngơ. 
Đối phó với tình trạng này, để giảm nhập siêu, NHNN đã thực hiện 
nhiều biện pháp từ quản lý hành chính tăng mức thuế nhập vàng lên 1%, 
thay cho mức 0,5% như trước; đến biện pháp mạnh là tạm ngừng không 
cấp thêm quota nhập vàng. Với hai quyết định này, mối liên hệ duy nhất 
 62 
giữa thị trường vàng Việt Nam và thị trường vàng thế giới đã bị cắt đứt. 
Việt Nam cần giảm tỷ trọng nhập siêu, và ngừng nhập khẩu vàng sẽ phần 
nào hạn chế được điều này, nhưng những biện pháp NHNN đưa ra có thật 
sự tối ưu? 
Thực chất của nhập siêu chính là việc tiêu dùng quá khả năng của đất 
nước. Tuy nhiên, nhập siêu vẫn có thể khắc phục được nếu cán cân thanh 
toán bảo đảm ở mức dương. Cán cân thanh toán bao gồm cán cân thương 
mại và các phần chênh lệch của xuất nhập khẩu hàng dịch vụ, du lịch, đầu 
tư, kiều hối, trợ cấp... Như vậy, dẫu cán cân thương mại âm nhưng nếu 
được bù đắp bởi phần dương của du lịch, kiều hối, đầu tư... thì nền kinh tế 
hoàn toàn có thể khắc phục được ảnh hưởng của nhập siêu và tự chủ về 
ngoại tệ. 
Mục đích của việc tạm ngừng cấp phép nhập khẩu vàng, theo giải 
thích của NHNN là để giảm căng thẳng về nguồn cung ngoại tệ. Tuy nhiên, 
phân tích kỹ tình hình hiện nay thì có thể thấy Quyết định này chỉ là một 
giải pháp mang tính ngắn hạn, đối phó với những hậu quả khó khăn do 
chính NHNN (góp phần) tạo ra. 
 Một số lý do khiến cung ngoại tệ khan hiếm có thể kể ra như: 
 1. Tiền đồng thực tế đã lên giá quá nhiều so với USD do chênh lệch lạm 
phát quá lớn ở Việt Nam và Mỹ. Mà lạm phát cao ở Việt Nam có nguyên 
nhân là hệ quả tất yếu của việc liên tục tăng cung tiền và chính sách tiền tệ 
nới lỏng của NHNN trong thời gian qua. Tiền đồng lên giá đồng nghĩa với 
tăng nhập siêu, lên tới 7,5 tỷ USD trong quý I năm 2008. Nhu cầu USD 
khổng lồ như vậy đã làm suy kiệt nguồn cung USD ở Việt Nam. 
 2. Trong khi lạm phát tăng cao và người dân có kỳ vọng lạm phát cao 
trong tương lai thì NHNN lại áp đặt trần lãi suất tiền gửi là 12%, và thậm 
chí còn thông qua Hiệp hội Ngân hàng vận động các ngân hàng áp dụng 
trần lãi suất 11%, thấp xa so với mức lạm phát dự kiến trong năm. Lãi suất 
 63 
thực âm đã khuyến khích người gửi tiền rút tiền khỏi hệ thống ngân hàng, 
chuyển sang các hình thức tích trữ khác như mua vàng để bảo toàn tài sản. 
Do đó, chỉ riêng trong quý I năm 2008, lượng vàng nhập khẩu về đã lên tới 
40 tấn, tương đương với khoảng 1,5 tỷ USD ngoại tệ phải bỏ ra để nhập 
khẩu vàng. Bất cân đối cung cầu về ngoại tệ càng vì thế mà trầm trọng. 
 3. Chính sách tỷ giá của NHNN khá cứng nhắc trong khi chênh lệch lãi 
suất tiền đồng và USD ở mức lớn (5-6%), nhiều người đổ xô vay ngoại tệ, 
chuyển ra tiền đồng để gửi ngân hàng hưởng lãi suất cao hơn. 
 Thứ hai, vai trò cất trữ giá trị của vàng 
Cho đến nay chưa có con số thống kê chính thức đã có bao nhiêu vàng 
được nhập vào Việt Nam. Trong nhiều năm qua, Việt Nam là một trong 
những nước nhập khẩu vàng lớn trên thế giới, gồm cả nhập chính thức và 
không chính thức. Trung bình mỗi năm Việt Nam nhập khẩu khoảng 50-60 
tấn vàng. Nếu tính theo mức 30 triệu USD/tấn thì mỗi năm số tiền chi ra để 
nhập vàng khoảng 1,5-1,8 tỉ USD. Theo tỉ giá hiện hành thì số tiền để mua 
vàng hằng năm vào khoảng 26.700-32.000 tỉ đồng. 
Theo bà Cao Thị Ngọc Dung - tổng giám đốc Công ty CP Vàng bạc đá 
quý Phú Nhuận (PNJ), lượng vàng trong dân hiện nay có thể lên tới 800 
tấn. Trong đó có khoảng 500 tấn nhập khẩu chính thức, còn lại là nhập qua 
đường không chính thức và vàng có sẵn trong dân từ nhiều năm trước. Nếu 
tính theo thời giá hiện hành thì số vàng này trị giá khoảng 24 tỉ USD (tương 
đương 427.000 tỉ đồng). 
Cũng có thể ước lượng số vàng trong dân thông qua số vàng miếng đã 
được bán ra thị trường. Theo số liệu của Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn 
(SJC), từ khi nơi này ra mắt thương hiệu vàng miếng SJC năm 1988 đến 
nay, đã có khoảng 11,7 triệu lượng vàng miếng được tung ra thị trường, 
tương đương khoảng 450 tấn vàng. Ngoài ra, theo ước tính của các công ty 
 64 
vàng, có khoảng 200 tấn vàng được dùng để chế tác nữ trang. Chưa kể còn 
nhiều thương hiệu vàng miếng khác cũng được người dân mua để cất giữ. 
Giới kinh doanh vàng cho rằng nếu trừ đi một lượng vàng đã được 
xuất lậu ngược qua biên giới, số vàng trong dân còn khoảng 700 tấn thì trị 
giá không dưới 21 tỉ USD, theo thời giá hiện nay là 374.000 tỉ đồng. 
Như vậy, vàng nhập khẩu về đã trở thành một kênh tích trữ rất lớn 
trong dân. Với đặc điểm dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt khi có nhu cầu, 
lại không bị mất giá trước áp lực lạm phát, vàng rõ rang là một kênh tích 
trữ rất hiệu quả, góp phần bình ổn thị trường tiền tệ. 
Nếu như trước đây, vàng nhập khẩu về chủ yếu để tích trữ trong dân 
thì hiện nay, trong số vàng nhập khẩu vào Việt Nam, phần lớn trong đó 
được sử dụng để đầu tư. Đầu tư vàng đã trở thành một kênh đầu tư quan 
trọng. 
Tuy nhiên, có một thức tế trái chiều vẫn đang diễn ra trên thị trường 
đầu tư vàng Việt Nam. Không ở đâu trên thế giới, khi nhà đầu tư muốn rút 
vàng vật chất khỏi giao dịch lại phải nộp một khoản phí rút vàng, hay khi 
nộp vào họ lại phải nộp thêm một khoản gọi là phí nộp vàng như ở Việt 
Nam. Thực tế này đã diễn ra tại sàn giao dịch vàng của Ngân hàng Thương 
mại Á Châu. Và thực tế này xảy ra chính là do quyết định ngừng cấp phép 
nhập khẩu vàng của NHNN. Quyết định này đã cắt đứt nguồn cung vàng từ 
nước ngoài, làm cho giá vàng vật chất tại Việt Nam và trên thị trường thế 
giới diễn biến trái chiều và luôn có một biên độ chênh lệch giữa giá trong 
nước và giá thế giới. Trong khi các giao dịch vàng tại các trung tâm giao 
dịch lại luôn bám sát theo những biến động của giá vàng thế giới. Những 
quyết định trên của các trung tâm giao dịch vàng về bản chất cũng giống 
như những quyết định thay đổi hạn mức rút vàng, chính là để hạn chế nhà 
đầu tư rút vàng khỏi tài khoản khi mức giá trên sàn thấp hơn so với mức giá 
giao dịch vàng vật chất bên ngoài. 
 65 
 Thứ ba, tình hình nhập lậu vàng 
Tình trạng nhập lậu vàng diễn biến khó lường không những làm nhà 
nước thất thu một khoản thuế lớn mà còn làm cho thị trường vàng trở nên 
không lành mạnh, làm ảnh hưởng tới tất cả các chủ thể tham gia. Trước khi 
các quyết định tăng thuế và tạm ngừng cấp phép nhập khẩu vàng được đưa 
ra, giá vàng trong nước và giá vàng thế giới có sự liên thông với nhau và 
khi hạn ngạch nhập khẩu bị giảm hoặc ngừng cấp phép nhập khẩu vàng thì 
đã xảy ra tình trạng mất cân đối cung-cầu trong nước tại một số thời điểm. 
Những lúc đó, khi nhu cầu tăng mà không có nguồn cung đáp ứng, giá vàng 
trong nước bị đẩy lên cao và người chịu thiệt là người tiêu dùng. 
Khi giá vàng trong nước lên quá cao so với giá thế giới, có thể lấy ví 
dụ ngày 14/11/2008, tại thị trường vàng vật chất, giá vàng SJC của Công ty 
Vàng bạc Đá quý Sài Gòn (SJC) niêm yết trong khoảng 16,40 triệu 
đồng/lượng (mua vào) và 16,49 triệu đồng/lượng (bán ra). Cùng thời điểm, 
giá vàng thế giới được giao dịch ở mức 729,75 - 730,25 USD/ounce. Nếu 
quy đổi theo tỷ giá USD/VND là 16.985 đồng thì giá vàng thế giới tương 
đương mức 15,316 - 15,327 triệu đồng/lượng. Như vậy, giá vàng trong 
nước cao hơn vàng thế giới là 1,163 triệu đồng/lượng. Mức chênh lệch trên 
thật sự rất hấp dẫn để những nhà kinh doanh tìm mọi cách đề đẩy nguồn 
cung tăng lên và dẫn đến nhập lậu vàng. 
Nhìn lại cả quá trình lịch sử, Việt Nam bắt đầu cho nhập khẩu vàng từ 
năm 1990 và từ đó cho đến cuối năm 1996 thì có một khoảng thời gian 4-5 
năm ngừng cấp hạn ngạch nhập khẩu vàng. Hậu quả là vàng nhập lậu ồ ạt 
đổ về và giá vàng trong nước đã cao hơn so với giá thế giới. 
Trong khoảng thời gian 4-5 năm mà Việt Nam ngừng nhập khẩu vàng, 
theo số liệu của Hội đồng vàng thế giới thì nhu cầu tiêu thụ vàng của 
Campuchia tăng vọt (có năm, vàng nhập từ Singapore vào Campuchia lên 
 66 
mức 50 đến 60 tấn). Và trong thực tế thời gian đó, từ Campuchia, vàng đã 
chảy vào Việt Nam theo đường nhập lậu. 
Việc nhập lậu vàng sẽ làm cho một khối lượng ngoại tệ trong nước 
chảy ra ngoài và làm cho thị trường ngoại tệ chợ đen hoạt động mạnh mẽ 
để hút ngoại tệ trôi nổi phục vụ cho việc nhập lậu vàng; giá đô la Mỹ ở thị 
trường chợ đen và trong các ngân hàng sẽ có chênh lệch lớn. 
Điều này chỉ tạo ra lợi nhuận cho những người buôn lậu hoặc buôn 
ngoại tệ ở thị trường không chính thức trong khi các doanh nghiệp kinh 
doanh vàng hợp pháp và các ngân hàng thương mại thì khó khăn. 
Với những phân tích ở trên chúng ta thấy, với việc tạm ngừng cấp 
phép nhập khẩu vàng, tuy bảng danh mục các mặt hàng nhập khẩu sẽ được 
giảm bớt và có thể làm giảm nhập siêu danh nghĩa, nhưng trên thực tế thì 
vàng vẫn chảy vào bằng con đường nhập lậu, và làm cho thị trường vàng, 
một thị trường rất nhạy cảm, có những diễn biến trái chiều. 
 Vậy, khi vàng đang trở thành vấn đề nóng trên thị trường thế giới 
và cả ở trong nước, và sự chênh lệch giá vàng cũng biến động từng giờ, 
từng phút, thì nhu cầu khai thông thị trường vàng bằng cách cho phép nhập 
– xuất phải chăng là điều cần thiết? Đây chính là câu trả lời cho câu hỏi 
liệu Việt Nam có nên cho phép xuất khẩu vàng trở lại ra thị trường nước 
ngoài. 
Phân tích rạch ròi hơn, cho phép xuất khẩu vàng sẽ giúp cho thị trường 
kinh doanh vàng lưu thông tốt hơn. Hiện nay, Việt Nam mới cho xuất vàng 
trang sức, chưa cho xuất vàng ký. Bảy tháng đầu năm 2008, Việt Nam xuất 
được bốn tấn vàng trang sức. 
Trên thực tế, từ đầu năm nay (2009), NHNN đã bắt đầu cấp phép xuất 
khẩu vàng miếng cho một vài doanh nghiệp chủ chốt. Với quyết định này, 
theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, giá trị xuất khẩu nhóm hàng kim loại 
quý, đá quý và các sản phẩm có liên quan đã tăng vọt, từ mức chỉ vào 
 67 
khoảng 130 triệu USD trong tháng 2/2008 đến tháng 2/2009, con số đã vọt 
lên đến mức đáng kinh ngạc khi kim ngạch xuất khẩu loại hàng này ước 
tính lên đến trên 800 triệu USD. Việc này không chỉ làm kim ngạch tăng 
đột biến mà còn giúp các doanh nghiệp kiếm được một khoản lãi lớn nhờ 
tái xuất được một lượng vàng miếng đáng kể đã nhập khẩu với giá thấp hơn 
từ nửa đầu năm ngoái. 
Sự gia tăng đột biến kim ngạch xuất khẩu vàng cũng xuất phát từ thực 
tế giá vàng quốc tế đột ngột leo thang, trong khi giá vàng trong nước tuy có 
lên theo nhưng luôn có khoảng cách thấp hơn giá quốc tế từ 300.000 - 
800.000 đồng/lượng. Khoảng cách chênh lệch giá trong và ngoài nước khá 
lớn này cộng với những dòng người đổ xô đi bán vàng chốt lãi đã khiến 
việc xuất khẩu vàng trong nhiều ngày qua mang lại một nguồn lợi nhuận 
không nhỏ cho các doanh nghiệp. 
Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu vàng đều cho rằng việc xuất khẩu vàng 
có ý nghĩa rất lớn, giúp lưu thông hàng hoá, khiến giá cả vàng trong nước 
ngang bằng với giá thế giới. 
Đặc biệt, trong hoàn cảnh hiện nay, việc xuất khẩu vàng cũng giúp thu 
về một khoản ngoại tệ lớn góp phần ổn định tỷ giá và cán cân thanh toán. 
Quyết định cho xuất khẩu vàng của Ngân hàng Nhà nước diễn ra kín đáo và 
rất nhanh chóng đã mang lại hiệu quả và được đánh giá rất cao trong việc 
điều hành. Bởi vì, quyết định đúng thời điểm để doanh nghiệp xuất khẩu 
được giá, lượng ngoại tệ mạnh thu về đã bù đắp vượt mức nguồn thiếu hụt 
do giải ngân FDI đạt thấp, kiều hối chuyển về giảm và nguồn vốn đầu tư 
gián tiếp có dấu hiệu chảy ngược ra nước ngoài. 
Bên cạnh những mặt “được” kể trên thì xuất khẩu vàng cũng chứa 
đựng nhiều “nguy cơ” bất lợi. Xuất khẩu vàng nhiều không hẳn đã là dấu 
hiệu tốt, bởi sau này khi có nhu cầu, Việt Nam sẽ lại phải nhập khẩu. Và 
khi đó, nếu quản lý không tốt thì cầu ngoại tệ sẽ gia tăng cùng với việc giá 
 68 
vàng trong nước dễ lặp lại khả năng, luôn cao hơn nhiều so với giá quốc tế. 
Nguy cơ mất cân đối trên thị trường tiền tệ là điều có thể. 
Theo TS. Nguyễn Đại Lai, thị trường vàng mang lại nguồn lợi cho 
những đơn vị trên thị trường vốn, chứ chưa gắn được thị trường vốn với thị 
trường phát triển cho nền kinh tế của đất nước. Cùng đó, việc quản lý 
nguồn vốn thế nào cho hiệu quả cũng là điều cần quan tâm. 
Thực tế, việc xuất khẩu vàng đã làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến giá vàng 
trong nước thời gian qua. Để có vàng xuất khẩu, doanh nghiệp phải thu 
mua vì các công ty kinh doanh vàng không có nhiều vàng, lượng vàng nhập 
khẩu đang được phân tán ở nhiều tổ chức và cá nhân, từ đó tác động đến 
giá. Đến một lúc nào đó, giá vàng trong nước sẽ không còn thấp hơn giá 
vàng thế giới, thậm chí “bật” lên cao hơn, ảnh hưởng đến tâm lý người dân, 
không loại trừ khả năng tạo ra một xu hướng mua vàng làm cho thị trường 
vàng căng thẳng. 
 69 
CHƢƠNG III. ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP XỬ LÝ MỐI QUAN HỆ 
GIỮA NHẬP KHẨU VÀNG VÀ VẤN ĐỀ AN NINH TIỀN TỆ 
An ninh tiền tệ và an ninh kinh tế có mối liên hệ với nhau. Dưới ảnh 
hưởng của toàn cầu hóa (bên cạnh mặt tích cực, nó còn bộc lộ những khía 
cạnh tiêu cực: tăng tính phụ thuộc giữa các quốc gia, khu vực phát triển 
không đồng đều...), hội nhập kinh tế quốc tế và đặc biệt là tự do hóa tiền tệ, 
các nước phải đối mặt với rủi ro tiền tệ ngày càng lớn và khủng hoảng tiền 
tệ đã trở thành một trong những mối đe dọa lớn nhất đến an ninh kinh tế thế 
giới. 
Việt Nam đang trong thời kỳ hội nhập ngày càng sâu với nền kinh tế 
thế giới. Đây là thời cơ, nhưng cũng là thách thức lớn. Vì sự gia tăng hội 
nhập kinh tế quốc tế và coi trọng quá mức vào dòng vốn tư nhân có thể làm 
cho những nước đang phát triển trong đó có Việt Nam dễ mất ổn định do có 
sự đảo ngược lớn của dòng vốn, đặc biệt đối với những quốc gia có chính 
sách tài khóa yếu, hệ thống ngân hàng được bảo vệ quá mức cần thiết hoặc 
quản lý tồi và thị trường vốn nội địa lại bị bóp méo. Giữ vững an ninh tiền 
tệ nói riêng và an ninh kinh tế nói chung là một yêu cầu thiết yếu đối với 
Việt Nam trong quá trình hội nhập. 
Những phân tích ở trên đã chỉ ra thực trạng cũng như những ảnh 
hưởng của việc nhập khẩu vàng tới vấn đề an ninh tiền tệ quốc gia. Vậy 
chúng ta cần có những biện pháp gì để nâng cao hiệu quả của việc nhập 
khẩu vàng, làm gì để nâng cao hiệu quả công tác quản lý thị trường vàng 
trong nước cũng như đâu là những giải pháp hỗ trợ khác của chính phủ 
nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ khi có sự thay đổi trong thị trường nhập khẩu 
vàng? Nội dung chương ba sẽ lần lượt giải đáp những câu hỏi trên. 
3.1 Các đề xuất về chính sách quản lý nhập khẩu vàng 
3.1.1. Đề xuất với chính sách quản lý nhập khẩu vàng 
 70 
Hoạt động xuất nhập khẩu vàng hiện nay vẫn do NHNN cùng các cơ 
quan liên đới và Hiệp hội kinh doanh vàng quản lý. Tháng 7 năm 2008, 
nhận thấy Việt Nam đã nhập khẩu 62 tấn vàng kể từ đầu năm góp phần 
tăng nhập siêu, NHNN cùng với các cơ quan liên đới đã cùng quyết định 
không cấp phép nhập khẩu vàng nữa để giảm nhập siêu. Điều này đã góp 
phần làm giá vàng tại thị trường trong nước giảm so với giá vàng trên thị 
trường thế giới. 
Quyết định hạn chế xuất khẩu vàng của NHNN cũng gây nhiều tranh 
cãi. Do thói quen tiêu dùng, có khoảng 600 tấn vàng đã được nhập vào Việt 
Nam trong thời gian 10 năm trở lại đây trị giá khoảng 18 tỷ USD, tương 
đương gần 300 tỷ VND. Khi thị trường trong nước biến động với những 
đặc trưng riêng khiến giá vàng trong nước thấp hơn thế giới thì các doanh 
nghiệp Việt Nam lại chưa được phép xuất khẩu vàng ra nước ngoài mặc dù 
Hiệp hội kinh doanh vàng Việt Nam đã nhiều lần kiến nghị đề xuất. Xuất 
khẩu vàng sẽ khiến ngoại tệ được thu về và tăng lợi nhuận cho các doanh 
nghiệp trong nước, tạo điều kiện cho họ thu lợi nhuận và linh hoạt hơn đối 
với việc kinh doanh, thu hút lượng vàng chết rất lớn trong dân từ hàng chục 
năm nay đem ra trao đổi. Ngoại tệ thu về sẽ đi vào hoạt động một cách linh 
hoạt và như một nguồn vốn đầu tư trực tiếp cho nền kinh tế, đồng thời 
tránh được việc xuất khẩu vàng lậu qua biên giới. 
Qua đó ta nhận thấy, Việt Nam trung bình mỗi năm nhập khẩu 60-70 
tấn vàng chưa kể khối lượng nhập lậu tiêu tốn rất nhiều ngoại tệ mà việc sử 
dụng vẫn chưa hiệu quả, một số thì được sử dụng trong tích trữ và chủ yếu 
vẫn nằm trong khu vực dân cư, một số lượng vàng khác được huy động để 
sử dụng trong các ngành công nghiệp và mới đây là huy động đê tham gia 
các sàn giao dịch vàng. Tuy vàng đã không chỉ còn nằm chủ yếu dưới dạng 
dự trữ và không sinh lời, nhưng vẫn cần có những biện pháp để huy động 
số vàng này sinh lời nhiều hơn. Thiết nghĩ, NHNN và Vụ Quản lý ngoại 
 71 
hối cũng như các ban ngành liên quan xem xét kỹ lợi hại để việc xuất, nhập 
khẩu vàng dược linh hoạt, đáp ứng được những lợi ích sau: 
- Giá vàng trong nước sẽ đi dần về hướng tương đương và biến động 
sát với giá vàng thế giới, do đó, các doanh nghiệp kinh doanh vàng và các 
ngân hàng sẽ linh động hơn trong việc mua bán vàng. Trong một số thời 
điểm từ giữa năm 2008, có khi giá vàng trong nước thấp hơn nhiều so với 
giá vàng thế giới, nhà đầu tư và người dân đều không muốn giữ nhưng 
doanh nghiệp vẫn phải vào. Nếu được phép xuất khẩu, doanh nghiệp kinh 
doanh sẽ có hiệu quả hơn. Ngược lại, như vào thời điểm cuối năm, giá vàng 
trong nước cao hơn giá vàng thế giới thì các đơn vị kinh doanh vàng sẽ 
phải tính toán hạ thấp giá vàng bán ra để cạnh tranh và nhập khẩu về khối 
lượng khác với giá thấp hơn, người dân sẽ được lợi và giá vàng trong nước 
sẽ tiến tới cân bằng với giá vàng thế giới. 
- Nếu xuất khẩu vàng được khai thông, sẽ huy động được một lượng 
vốn bằng vàng lớn trong dân cư và mang về nguồn ngoại tệ rất lớn, trở 
thành nguồn vốn đầu tư trực tiếp phục vụ sản xuất kinh doanh. 
Theo đánh giá của các chuyên gia trong ngành kim loại quý, hoạt động 
của các công ty vàng bạc tại Việt Nam vẫn còn nhiều cơ hội phát triển lớn. 
Ngoài sự hậu thuẫn của một thị trường đang tăng trưởng mạnh hơn 80 triệu 
dân với nhu cầu vàng đang tăng lên thì các công ty này còn nhiều cơ hội 
tham gia vào khâu chế tác vàng trang sức quốc tế. 
Tuy nhiên trong cấp phép xuất khẩu vàng cũng cần rất thận trọng,cần 
xem xét thật cản thận doanh nghiệp nào đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vàng, và 
đủ tiêu chuẩn để xuất khẩu bao nhiêu vàng, tránh xảy ra hiện tương xuất 
khẩu ồ ạt, làm suy giảm nguồn cung vàng trong nước, có thể gây những 
hậu quả xấu về sau. 
NHNN cần luôn nhìn nhận đây là một thị trường rất nhạy cảm, việc 
điều hành cần thận trọng và tránh sai xót. Việc cấp phép cho các doanh 
 72 
nghiệp nào được xuất khẩu vàng và được phép xuất khẩu bao nhiêu cũng 
cần được NHNN tính toán thận trọng để phân bổ số lượng được xuất khẩu 
cho các đơn vị tùy theo năng lực và vốn pháp định của đơn vị để không có 
sự thắc mắc giữa các đơn vị về chuyện khối lượng vàng mỗi doanh nghiệp 
được phép xuất khẩu và đảm bảo số lượng vàng xuất đi cũng nằm trong 
một giới hạn cho phép. Đồng thời, NHNN cũng cần rà soát lại hành lang 
pháp lý để ra quy chế về quản lý việc giao dịch vàng vật chất và vàng tài 
khoản. Theo đó, với mảng vàng vật chất sẽ phân cấp là với đối tượng nào 
thì được phép xuất và số lượng xuất vàng là bao nhiêu. 
Đồng thời với việc mở cửa cho việc xuất nhập khẩu vàng, thì chúng ta 
cũng nên mở rộng loại vàng được phép xuất khẩu thành vàng thỏi hay vàng 
miếng, thay vì chỉ cho phép là vàng nguyên liệu hoặc vàng nữ trang như 
hiện nay. Bởi khi nhập khẩu, chúng ta đã phải chịu giá cao do thị trường 
nước ngoài đã phải biến vàng thỏi thành vàng nguyên liệu để xuất cho Việt 
Nam, rồi nếu được phép xuất khẩu, phía Việt Nam lại phải nấu vàng miếmg 
lại thành vàng nguyên liệu mới được xuất đi. Quy tình này gây tốn kém chi 
phí cho ngân hàng và các doanh nghiệp muốn xuất khẩu vàng. 
Cùng với các biện pháp trên, chính phủ cũng nên xem xét xây dựng 
một chiến lược toàn diện và dài hạn cho việc nhập khẩu vàng nói riêng và 
thị trường vàng nói chung. Hiện Chính phủ đã có một số nghị định về quản 
lý hoạt động kinh doanh vàng nhưng vẫn chưa có chiến lược phát triển thị 
trường này trong tầm nhìn dài hạn. Dường như chúng ta còn bỏ ngỏ, chưa 
có định hướng rõ ràng mà chỉ chạy theo thị trường. Điều này khiến nhiều 
người nhận thấy, thị trường vàng đang được thả nổi, người dân không được 
định hướng nên đầu tư tràn lan, gây nhiễu loạn thị trường. Mặt khác, thiếu 
chiến lược cũng làm bỏ phí nhiều tiềm năng lớn mà ngành kinh doanh vàng 
có thể đem lại cho nền kinh tế. 
 73 
Hiện nay, Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam đang chuẩn bị trình 
Chính phủ Chiến lược phát triển thị trường vàng trong 5 năm tới. Căn cứ 
vào chiến lược này, chúng ta sẽ định hướng cho người dân và nhà đầu tư, 
kể cả các tổ chức kinh doanh, huy động vàng làm sao để tránh và hạn chế 
thấp nhất rủi ro khi biến động giá vàng. Thứ hai chiến lược cũng là căn cứ 
để các nhà đầu tư đưa ra những nhận định dài hạn cho họ để có định hướng 
về mua sắm và kinh doanh. 
3.1.2. Đề xuất đối với chính sách tỷ giá 
Sự ổn định của thị trường tiền tệ vô cùng quan trọng. Như đã thấy 
những biến động tỷ giá vào thời điểm tháng 6 năm 2008, USD bị hút quá 
mạnh làm tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do và thậm chí thị trường 
liên ngân hàng biến động hết sức hốn loạn. Giá USD ngày 19/06 trên thị 
trường tự do lên đến 19.500 đồng khiến giá vàng trong nước cao hơn thế 
giới gần 800.000 đồng/lượng, giới đầu cơ đã nhân cơ hội này đồn thổi 
những tin tức tiêu cực để trục lợi. Khi tỷ giá được điều chỉnh thì giá vàng 
biến động theo chiều hướng ngược lại (thấp hơn giá quy đổi gần 700.000 
đồng/lượng) mặc dù giá thế giới lại đi lên. Đa số những người mua vàng 
nhỏ lẻ sợ tâm lý vàng còn lên nữa đã mua vàng vào và lỗ nặng sau đó 
NHNN điều chỉnh lại tỷ giá và có những biện pháp khống chế. Điều này 
gây tổn thất rất nhiều, tại sao NHNN và Vụ Quản lý ngoại hối đang quản lý 
tỷ giá trên cơ sở thả nổi có điều chỉnh lại không khống chế được thị trường 
tự do đang đẩy giá lên ngày một cao ngoài thị trường vào thời điểm đó. 
Ngày 11/06, NHNN niêm yết tỷ giá USD/VND là 16.461 thì bên ngoài tỷ 
lệ này bị đẩy lên là 17.500 đồng/USD. Ngày 19/06, NHNN niêm yết tỷ giá 
USD/VND là 16.454 nhưng thị trường bên ngoài là 19.500 đồng/USD. 
Nhận thấy biến động lớn gây thiệt hại không chỉ khu vực ngoại tệ mà còn 
ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh khi nhiều doanh nghiệp 
không thể có USD để nhập hàng và cũng không dám nhận dự án rồi tái 
 74 
xuất, NHNN lúc này mới điều chỉnh tỷ giá. Ngày 10/06, NHNN niêm yết 
1USD = 16.139 đồng, ngày 11/06, NHNN nâng lên mức 16.461 đồng/USD, 
tăng 322 đồng/USD – một mức tăng chưa từng có. Với biên độ 2%, giá 
USD được quy đổi tối đa thành 16.790 đồng/USD, dễ dàng nhận thấy rằng 
VND được neo giữ ở mức ổn định nhằm thu hút đầu tư nhưng không thể 
vượt qua được nhu cầu thị trường và sức mạnh thật sự của đồng tiền. USD 
càng dần về sau thì càng ổn định xoay quanh mức trung bình 16.500 
đồng/USD. 
Một điều cần lưu ý là nhiều sàn giao dịch vàng hiện đang sử dụng tỷ 
giá niêm yết của NHNN với mức biên độ cao tối đa là 2% để quy đổi giá 
giao dịch quốc tế ra VND. Tuy nhiên, nhiều sàn giao dịch vàng ra đời, mỗi 
sàn lại sử dụng những mức tỷ giá khác nhau thậm chí trong giai đoạn đầu là 
sai lệch rất nhiều so với giá niêm yết của NHNN khiến nhà đầu tư không 
thể tránh khỏi rủi ro tỷ giá khi giá vàng biến động mạnh bất ngờ đầu ngày 
do tỷ giá không hợp lý. 
Tuy nhiên, điều thiết nghĩ ở đây là NHNN nên kịp thời điều chỉnh tỷ 
giá USD/VND hợp lý, tránh tình trạng như tỷ giá niêm yết ngày 11/06 trên 
Website của NHNN là 16.461 nhưng quy đổi theo giá chéo giữa các ngân 
hàng thông qua EUR và GBP thì tỷ giá thực giữa USD/VND lên đến 
khoảng 17.500 đồng/USD. 
Kinh doanh vàng trên tài khoản đã được NHNN cho phép, hoạt động 
này sẽ dần kéo giá vàng Việt Nam biến động sát với thế giới, NHNN cần 
quan tâm đến ảnh hưởng của tỷ giá đối với giá vàng để giá vàng không bị 
méo mó và bất ổn, tránh tình trạng đầu cơ, làm giá. 
3.2 Các đề xuất liên quan đến quản lý thị trƣờng vàng nội địa 
3.2.1. Đối với cơ quan quản lý nhà nƣớc 
3.2.1.1. Phát triển vàng tiền tệ và sản xuất vàng theo tiêu chuẩn quốc tế 
 75 
Hiện nay, vàng miếng Việt Nam chưa được chấp nhận lưu thông trên 
thị trường , ở đây có hai điểm cần lưu ý: 
- Quy định 1 lượng = 1,20556 ounce khiến việc quy đổi chậm và 
không thích ứng với việc kinh doanh vàng tài khoản quốc tế chỉ sử dụng 
đơn vị đo lường là ounce. 
- Uy tín và năng lực sản xuất của các nhà sản xuất tại Việt Nam. Việc 
sản xuất nên được đảm bảo từ một ngân hàng đặc biệt là ngân hàng thuộc 
quản lý nhà nước chứ không nên thuộc trách nhiệm riêng của một doanh 
nghiệp (nhà sản xuất) nào đó (như SJC, Bảo Tín Minh Châu…) hay một 
ngân hàng thương mại đảm trách như ACB, AAA của NHNN$PTNT…) để 
có thể đảm bảo được chất lượng và uy tín đối với thị trường nước ngoài, 
dần dần tạo được niềm tin khi mà Việt Nam không phải là một thị trường 
kinh doanh vàng truyền thống và lâu đời. 
 Do vậy, trong khi đợi thời gian để được chấp nhận chất lượng và lưu 
thông trên thị trường quốc tế thì Nhà nước nên có biện pháp khuyến khích 
đẩy mạnh lưu thông vàng tiêu chuẩn quốc tế tại Việt Nam để sớm có cơ hội 
gắn kết việc kinh doanh trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế, 
giúp việc xuất nhập được dễ dàng. 
3.2.1.2. Quản lý hoạt động kinh doanh vàng 
- Hoạt động kinh doanh vàng và các quy định liên quan đến giao dịch 
vàng hiện nay còn chưa hoàn thiện, chỉ theo nhu cầu của thị trường với 
những ràng buộc chưa mang tính khách quan. Môi trường kinh doanh vàng 
chính vì vậy bị ảnh hưởng không ít. Hiện nay việc kinh doanh vàng trên tài 
khoản đã được phép phát triển nhưng quy chế quản lý chung cho việc này 
vẫn còn bỏ ngỏ, mỗi ngân hàng hay tổ chức kinh doanh tự đưa ra những 
ràng buộc áp đặt mang tính chủ quan thậm chí gây nên tình trạng cạnh 
tranh không lành mạnh giữa nhà đầu tư và các nhà sáng lập sàn giao dịch 
vàng. Bởi nhu cầu kinh doanh ngày càng mạnh mẽ, việc lưu thông vàng 
 76 
cần được phát triển lên tầm cao mới, giúp các nhà đầu tư ngày càng tiếp 
cận được với những sản phẩm kinh doanh hiện đại, NHNN nên phối hợp 
cùng Vụ quản lý ngoại hối và Hiệp hội kinh doanh vàng ngồi lại cùng soạn 
thảo những quy định và quy chế riêng để áp dụng cho các trung tâm giao 
dịch vàng và các tố chức đang kinh doanh vàng trên tài khoản để tránh rủi 
ro và thiệt hại cho các nhà đầu tư. 
- Tập trung phát triển nguồn nhân lực cho các ngân hàng để phát triển 
các sản phẩm phái sinh với chi phí thấp để phục vụ nhu cầu trong nước 
khỏi phải thông qua các tổ chức nước ngoài (Option, Future,…) 
- NHNN cũng nên tổ chức tập trung và cho ra đời Trung tâm giao dịch 
dành cho vàng để các ngân hàng ký gửi và giao dịch, tránh phải vận chuyển 
tới lui, trung tâm giao dịch này hoạt động công khai, minh bạch và hỗ trợ 
ngân hàng hay chính phủ khi gặp khó khăn thanh khoản. Quy định tách 
riêng hoạt động quản lý và kinh doanh để tránh mâu thuẫn với quyền lợi 
của nhà đầu tư. 
- NHNN cũng nên xem xét lại việc dự trữ vàng để đa dạng hóa danh 
mục dự trữ nhằm can thiệp bình ổn tỷ giá, giá vàng khi cần thiết và tránh 
rủi ro biến động của đồng Đôla khi đồng tiền này có nguy cơ mất giá trên 
thị trường. 
- NHNN cùng các cơ quan tham mưu cũng cần nghiên cứu và sớm cho 
ra đời một sàn giao dịch vàng quốc gia. 
Hiện Việt Nam đã trở thành quốc gia có số người tham gia đầu tư vàng 
đứng đầu thế giới. Do vậy, đã đến lúc cần phải có một sàn giao dịch vàng 
mang tầm quốc gia để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Còn nếu cứ tiếp tục 
để thị trường giao dịch tự do thì chắc chắn nhà đầu tư cũng như thị trường 
vàng trong nước sẽ gặp nhiều rủi ro. 
Hoạt động của sàn giao dịch vàng quốc gia là độc lập, không phụ 
thuộc hoặc hoạt động vì lợi ích của riêng một doanh nghiệp mà chủ yếu là 
 77 
làm dịch vụ, hoàn toàn không có sự cạnh tranh kinh doanh giữa các hội 
viên, các doanh nghiệp. 
Sàn giao dịch vàng quốc gia sẽ do Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt 
Nam đứng ra thành lập và chịu trách nhiệm điều hành quản lý, do đó, việc 
khớp giá ở sàn giao dịch vàng quốc gia, tỷ giá hình thành trên thị trường 
vàng Việt Nam, giá mua cũng như giá bán sẽ được minh bạch và khách 
quan nhất. 
Sàn giao dịch sẽ có dịch vụ mua bán có kỳ hạn và thực hiện các công 
cụ phái sinh để phòng ngừa các rủi ro khi thị trường vàng thế giới biến 
động bất thường. Trường hợp cần thiết, sàn giao dịch có thể sẽ cấp tín dụng 
hoặc đáp ứng các nhu cầu vàng vật chất cho nhà đầu tư. 
Nhà đầu tư sẽ được tính giá mua, giá bán trên cơ sở khớp giá hàng 
ngày của nhiều người mua, nhiều người bán, nếu lượng khách giao dịch 
càng lớn sẽ phản ánh giá mua và giá bán càng khách quan hơn. 
Lợi ích đối với các cơ quan quản lý Nhà nướccũng sẽ là rất lớn. Nếu 
hình thành được sàn giao dịch vàng quốc gia sẽ hạn chế được lượng giao 
dịch không chính thức, tránh được những rủi ro không đáng có. Thông qua 
đó, cơ quan quản lý cũng nắm được lượng cung, cầu của thị trường vàng, 
cung cầu ngoại tệ liên quan đến vàng cũng như lượng tiền giao dịch trên thị 
trường vàng một cách chính xác, chủ động hơn, để có những điều tiết kịp 
thời khi biến động xảy ra. 
Ngoài ra, qua sàn giao dịch này, Ngân hàng Nhà nước sẽ có cơ sở để 
ban hành các quy chế cần thiết cho việc quản lý thị trường vàng. Tôi cho 
rằng, để giúp cho hoạt động của sàn giao dịch vàng linh hoạt hơn, bảo đảm 
lợi ích cho nhà đầu tư, Ngân hàng Nhà nước nên ban hành quy chế kinh 
doanh vàng trên tài khoản. Đây có thể coi là điều kiện tiền đề bởi nếu 
không có các những quy định hướng dẫn cụ thể thì nghiệp vụ phái sinh như 
 78 
hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai,… để hạn chế rủi ro sẽ không 
thực hiện được. 
Chính vì vậy, khi đi vào hoạt động, sàn giao dịch vàng quốc gia cần 
phải được hưởng những chính sách thỏa đáng để tạo điều kiện cho thị 
trường phát triển ổn định với đúng nghĩa là một thị trường dịch vụ nhưng 
vẫn bảo vệ được lợi ích cho nhà đầu tư và cơ quan quản lý. Và nếu sàn hoạt 
động tốt sẽ góp phần kiểm soát thị trường tiền tệ. 
3.2.2. Đối với các ngân hàng thƣơng mại 
Thị trường tài chính Việt Nam phát triển sau nên việc tham gia các sản 
phẩm phái sinh cũng như việc đầu tư của nhà đầu tư có nhiều khó khăn so 
với các thị trường đã phát triển. Giao dịch tại thị trường quốc tế ngoài đa 
dạng về hàng hóa (tiền tệ, vàng, kim loại quý, dầu, sản phẩm nông 
nghiệp...), còn có tất cả các sản phẩm phục vụ tối đa yêu cầu đầu tư. Ngoài 
ra, vì hoạt động lâu đời nên tính chất kinh tế thị trường tức cung cầu sẽ 
quyết định giá cả hàng hóa và các khuôn khổ pháp lý rõ ràng có thể giúp 
nhà đầu tư yên tâm khi đầu tư. Ngược lại, thị trường tài chính tại Việt Nam 
hết sức mới mẻ, có thể thấy một số những khó khăn cho việc kinh doanh 
như: Chưa có khuôn khổ pháp lý nhằm bảo vệ nhà đầu tư khỏi những rủi ro 
có thể phòng tránh, thiếu các sản phẩm phái sinh hay có nhưng chi phí quá 
cao khiến cho việc đầu tư hoặc sử dụng các sản phẩm này không thể hoặc 
phát huy tác dụng rất ít, chưa nói đến việc giá cả một số hàng hóa và tỷ giá 
được nhà nước giám sát chặt chẽ (giá dầu, tỷ giá…) khiến cho việc sử dụng 
các công cụ phái sinh này khó phát huy tác dụng. 
3.2.2.1. Kinh doanh vàng trạng thái 
Nếu có đủ nguồn lực và kinh nghiệm, việc kinh doanh vàng trạng thái 
tại các ngân hàng sẽ đem đến nhiều lợi nhuận cho các ngân hàng mặc dù 
không tránh khỏi những rủi ro. 
 79 
- Thay vì duy trì số dư ngoại tệ trên tài khoản tại một số ngân hàng 
nước ngoài thì nên chuyển một phần số dư này qua vàng để tăng thu nhập 
khi có biến động giá. 
- Mua vàng giá thấp để cho vay hoặc đầu tư và bán vàng khi giá cao 
hoặc bán nguồn vàng huy động được của khách hàng với giá cao và mua 
vào trả lại lúc giá thấp – kinh doanh trạng thái này tuy chứa đựng rất nhiều 
rủi ro nhưng đem đến lợi nhuận vô cùng hấp dẫn. 
3.2.2.2. Kinh doanh phối hợp không tồn tại trạng thái 
- Ngân hàng có thể vay vàng hoặc lấy vàng huy động được đẻ bán kết 
hợp với việc mua quyền chọn mua (call option) trong tương lai hoặc mua 
vàng kết hợp với mua quyền chọn bán (put option) trong những thời điểm 
phù hợp. Việc kinh doanh này không tồn tại trạng thái. Ít rủi ro hơn so với 
hoạt động mua bán vàng trạng thái trong thời gian dài để kiếm lời. 
- Phát huy các nghiệp vụ Option khi cần thiết để giảm thiểu rủi ro cho 
ngân hàng khi các nhà đầu tư có nhu cầu tham gia hoạt động tín dụng vàng, 
tránh trường hợp nhà đầu tư không có đủ khả năng trả nợ khi giá vàng biến 
động quá lớn. 
3.3. Các giải pháp hỗ trợ khác của chính phủ đảm bảo an ninh tiền tệ 
khi có sự thay đổi trong thị trƣờng nhập khẩu vàng 
3.3.1. Tăng cƣờng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình 
- Các cơ quan chủ chốt về hạch toán cần phải tăng cường hướng dẫn 
để đánh giá các loại chứng khoán, đồng thời tính đến việc đánh giá các sản 
phẩm phức tạp và có tính thanh khoản thấp, đặc biệt vào những thời điểm 
khó khăn. 
- Những cơ quan đề ra các chuẩn mực hạch toán cần phải thúc đẩy 
mạnh mẽ công việc của mình nhằm khắc phục những điểm yếu trong các 
 80 
chuẩn mực hạch toán và công bố thông tin đối với những khoản mục ngoại 
bảng. 
- Những cơ quan điều tiết và những cơ quan đề ra các chuẩn mực hạch 
toán cần tăng cường các yêu cầu công bố thông tin về các công cụ tài chính 
phức tạp của các doanh nghiệp cho các đối tượng trên thị trường. 
- Để thúc đẩy sự ổn định tài chính, công tác quản trị điều hành của cơ 
quan đề ra chuẩn mực hạch toán quốc gia cần phải được tăng cường, kể cả 
việc rà soát lại thành phần của cơ quan này, đặc biệt nhằm đảm bảo tính 
minh bạch rõ ràng, trách nhiệm giải trình và mối quan hệ hợp lý giữa cơ 
quan này và các cơ quan thẩm quyền hữu quan. 
- Các tổ chức thuộc khu vực tư nhân đã từng xây dựng được những 
thông lệ tốt nhất cho các công cụ vốn và/hoặc các quỹ bảo toàn tỷ giá cần 
phải đưa ra những đề nghị cho một nhóm thống nhất các thông lệ tốt nhất. 
Chính phủ cần phải đánh giá tính hoàn chỉnh đầy đủ của những đề nghị 
này, dựa trên những phân tích của các cơ quan quản lý điều tiết, Diễn đàn 
ổn định tài chính mở rộng (FSF) và các cơ quan hữu quan khác. 
Các hành động trung hạn 
- Các cơ quan chủ chốt đề ra chuẩn mực hạch toán quốc gia cần phải 
phấn đấu cho mục tiêu tạo ra một chuẩn mực hạch toán chất lượng cao duy 
nhất. 
- Các cơ quan quản lý điều tiết, các cơ quan thanh tra giám sát và các 
cơ quan đề ra chuẩn mực hạch toán, nếu thấy phù hợp, cần phải hợp tác với 
nhau và với khu vực tư nhân để thường xuyên đảm bảo cho việc ứng dụng 
và thực thi các chuẩn mực hạch toán chất lượng cao. 
- Các định chế tài chính phải cung cấp thông tin tổng hợp về rủi ro 
trong báo cáo của mình và công bố tất cả các khoản thua lỗ một cách 
thường xuyên và phù hợp với thông lệ quốc tế tốt nhất nếu thấy phù hợp. 
Các cơ quan quản lý cần phải đảm bảo rằng các sao kê tài chính của một 
 81 
định chế tài chính phải là một bức tranh mô tả tổng thể, chính xác và kịp 
thời những hoạt động của doanh nghiệp (kể cả các hoạt động ngoại bảng) 
và phải được báo cáo thường xuyên và nhất quán. 
 3.3.2. Tăng cƣờng quy chế lành mạnh và an toàn 
 Các quy định quy chế 
- Chính phủ và các cơ quan quản lý điều tiết khác cần đưa ra những 
kiến nghị để giảm thiểu tình trạng thiên về tính chu kỳ, bao gồm cả việc rà 
soát xem việc đánh giá và khuyến khích, vốn ngân hàng, các khoản bù đắp 
và các hoạt động trích lập dự phòng có thể làm trầm trọng thêm các xu thế 
chu kỳ. 
Các hành động trung hạn 
- Tùy mức độ của từng quốc gia và từng khu vực, mỗi quốc gia hoặc 
mỗi khu vực cam kết rà soát và thông báo về cơ cấu và các nguyên tắc của 
hệ thống quản lý điều tiết để đảm bảo cho nó tương thích với hệ thống tài 
chính hiện đại và ngày càng được toàn cầu hóa. 
- Các cơ quan thích hợp cần phải rà soát bản chất khác biệt của quy 
chế trong các hệ thống ngân hàng, chứng khoán, và bảo hiểm và cung cấp 
một báo cáo nêu lên những vấn đề và các khuyến nghị cần phải cải tiến. 
Cũng cần phải tiến hành việc rà soát lại quy mô của quy chế tài chính, đặc 
biệt nhấn mạnh đến các định chế, các công cụ và các thị trường hiện nay 
chưa có quy chế rõ ràng, cùng với việc đảm bảo rằng tất cả các định chế 
quan trọng nằm trong hệ thống đều có quy chế đầy đủ hoàn chỉnh. 
- Các cơ quan thẩm quyền quốc gia và khu vực cần phải rà soát lại các 
chế độ nghị quyết và các luật phá sản trên cơ sở những kinh nghiệm gần 
đây để đảm bảo rằng các luật lệ đó cho phép cắt giảm một cách trật tự các 
định chế tài chính liên quốc gia lớn và phức tạp. 
- Các định nghĩa về vốn cần phải được hài hòa hóa để đạt được những 
biện pháp nhất quán về vốn và an toàn vốn. 
 82 
 Giám sát an toàn 
- Các cơ quan quản lý điều tiết cần phải thực hiện các biện pháp để 
đảm bảo cho các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đáp ứng được các chuẩn mực 
cao nhất về mặt tổ chức quốc tế của các cơ quan quản lý điều tiết chứng 
khoán và tránh được tình trạng xung đột quyền lợi, tăng cường cung cấp 
thông tin cho các nhà đầu tư và các nhà phát hành và phân biệt xếp hạng 
cho các sản phẩm phức tạp. Công việc này sẽ giúp đảm bảo rằng các tổ 
chức xếp hạng tín nhiệm có được động cơ đúng đắn và có sự giám sát thích 
đáng để tạo điều kiện cho họ đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp 
thông tin và đánh giá khách quan cho thị trường. 
- Các cơ quan quản lý điều tiết chứng khoán cần phải rà soát việc ứng 
dụng các chuẩn mực và các cơ chế của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm cho 
việc tuân thủ giám sát. 
- Các cơ quan thẩm quyền cần đảm bảo rằng các định chế tài chính 
duy trì đầy đủ vốn ở mức cần thiết nhằm củng cố lòng tin. Những cơ quan 
đề ra chuẩn mực quốc tế cần phải đưa ra những yêu cầu tăng cường vốn đối 
với các hoạt động chứng khoán hóa và tín dụng được cơ cấu của các ngân 
hàng. 
- Các cơ quan thanh tra và điều tiết quản lý cần phải thúc đẩy nỗ lực 
cắt giảm rủi ro hệ thống của các giao dịch CDS và công cụ phái sinh trên 
thị trường OTC; cần phải khẳng định rằng các đối tượng tham gia thị 
trường hỗ trợ việc kinh doanh ngoại hối hoặc các sàn giao dịch điện tử đối 
với các hợp đồng CDS; tăng cường tính minh bạch của thị trường phái sinh 
OTC; và đảm bảo rằng cơ sở hạ tầng cho các công cụ phái sinh OTC có thể 
đủ khả năng hỗ trợ cho khối lượng ngày càng tăng lên. 
Các hành động trung hạn 
- Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm thực hiện xếp hạng công khai cần 
phải thực hiện đăng ký. 
 83 
 - Các cơ quan thanh tra giám sát và các ngân hàng thương mại cần phải 
xây dựng các phương pháp tiếp cận mạnh mẽ và nhất quán trên trường 
quốc tế để giám sát vốn khả dụng của, và kinh doanh vốn khả dụng ngân 
hàng trung ương cho các ngân hàng xuyên quốc gia. 
 Quản lý rủi ro 
- Các cơ quan quản lý điều tiết cần phải xây dựng quy chế hướng dẫn 
để tăng cường công tác quản lý rủi ro của các ngân hàng phù hợp với các 
thông lệ quốc tế tốt nhất, và phải khuyến khích các định chế tài chính đánh 
giá lại công tác kiểm soát nội bộ và thực hiện các chính sách tăng cường 
cho việc quản lý rủi ro lành mạnh. 
- Các cơ quan quản lý điều tiết phải xây dựng và thực hiện các quy 
trình để đảm bảo rằng các định chế tài chính thực thi các chính sách nhằm 
tăng cường quản lý rủi ro thanh khoản, bao gồm cả việc tạo ra những công 
cụ bảo vệ thanh khoản chắc chắn. 
- Các cơ quan thanh tra giám sát cần phải đảm bảo rằng các định chế 
tài chính đề ra các quy trình nhằm tính toán kịp thời và đầy đủ việc tích tụ 
rủi ro và các vị thế rủi ro đối ứng lớn qua các sản phẩm và các vùng địa lý. 
- Các định chế cần phải đánh giá các mô hình quản lý rủi ro của mình 
để đói phó với những khó khăn thách thức và báo cáo các nỗ lực này lên 
các cơ quan thanh tra giám sát. 
- Ủy ban Basel cần phải nghiên cứu nhu cầu và giúp đỡ các định chế 
xây dựng các mô hình thử nghiệm mới trong việc giải quyết tình trạng khó 
khăn, nếu thấy phù hợp. 
- Các định chế tài chính cần phải đề ra các chính sách khuyến khích rõ 
ràng trong nội bộ để duy trì tính ổn định và các hành động cần phải thực 
hiện, thông qua các nỗ lực tự nguyện hoặc hành động bắt buộc theo quy 
định, để tránh khỏi các chương trình bồi hoàn có khả năng tạo ra lợi nhuận 
ngắn hạn quá mức hoặc phải chấp nhận rủi ro. 
 84 
- Các ngân hàng cần phải quản lý rủi ro một cách có hiệu quả và kiên 
trì đối với các sản phẩm được cơ cấu và nghiệp vụ chứng khoán hóa. 
Các hành động trung hạn 
- Các cơ quan đề ra chuẩn mực quốc gia trong việc hợp tác với các 
quốc gia và các cơ quan hữu quan khác, phải đảm bảo rằng các nhà hoạch 
định chính sách quy chế quản lý phải ý thức được và có khả năng ứng phó 
nhanh chóng với các diễn biến và đổi mới trong các sản phẩm và thị trường 
tài chính. 
- Các cơ quan thẩm quyền cần phải giám sát những thay đổi lớn trong 
giá cả tài sản và ý nghĩa của những thay đổi đó đối với nền kinh tế vĩ mô và 
hệ thống tài chính. 
3.3.3. Tăng cƣờng tính thống nhất trên các thị trƣờng tài chính 
- Các cơ quan thẩm quyền quốc gia và khu vực cần hợp tác với nhau 
trong lĩnh vực quy chế điều tiết giữa các cơ quan pháp luật ở cấp độ khu 
vực và quốc tế. 
- Các cơ quan thẩm quyền quốc gia và khu vực cần hợp tác trong việc 
thúc đẩy chia sẻ thông tin về những mối đe doạ trong nước và xuyên quốc 
gia đối với sự ổn định của thị trường và đảm bảo rằng các điều khoản pháp 
lý quốc gia (hoặc khu vực nếu thích hợp) đủ mạnh để đối phó với các mối 
đe doạ đó. 
- Các cơ quan thẩm quyền quốc gia và khu vực cũng cần phải rà soát 
lại các quy chuẩn đạo đức nghề nghiệp để bảo vệ thị trường và các nhà đầu 
tư, đặc biệt là chống lại tình trạng thao túng thị trường và gian lận, và tăng 
cường hợp tác giữa các quốc gia để bảo vệ hệ thống tài chính quốc tế chống 
lại các đối tượng bất chính. Trong trường hợp xảy ra các vi phạm, cần phải 
có chế tài thích đáng. 
Các hành động trung hạn 
 85 
- Các cơ quan thẩm quyền quốc gia và khu vực cần phải thực hiện các 
biện pháp quốc tế và quốc gia để bảo vệ hệ thống tài chính toàn cầu tránh 
khỏi những quy định pháp lý bất hợp tác và không minh bạch có thể gây ra 
những hiểm họa hoạt động tài chính bất chính. 
- Lực lượng Đặc nhiệm Hành động Tài chính cần phải tiếp tục vai trò 
quan trọng của mình chống lại các hoạt động rửa tiền và tài trợ khủng bố, 
và chúng ta ủng hộ nỗ lực của Sáng kiến thu hồi tài sản bị đánh cắp do 
Ngân hàng thế giới và Liên hợp quốc đề xướng. 
- Trên cơ sở công tác của các cơ quan hữu quan như Tổ chức Hợp tác 
và Phát triển kinh tế (OECD), các cơ quan thuế cần tiếp tục các nỗ lực 
nhằm tăng cường trao đổi thông tin về thuế. Cần phải giải quyết mạnh mẽ 
tình trạng thiếu minh bạch và ít trao đổi thông tin. 
 3.3.4. Tăng cƣờng hợp tác quốc tế 
 - Các cơ quan thanh tra giám sát cần hợp tác để xây dựng các đơn vị 
thanh tra giám sát cho tất cả các định chế tài chính lớn xuyên quốc gia là 
một phần trong nỗ lực tăng cường giám sát các định chế xuyên quốc gia. 
Các ngân hàng lớn trên toàn cầu cần phải gặp gỡ thường xuyên với các tổ 
chức thanh tra giám sát để thảo luận tổng thể về hoạt động của các định chế 
và đánh giá các rủi ro mà các định chế có thể vấp phải. 
 - Các cơ quan quản lý điều tiết cần phải thực hiện tất cả các biện pháp 
cần thiết để tăng cường công tác quản lý khủng hoảng xuyên quốc gia, kể 
cả về hợp tác và thông tin với nhau và với các cơ quan hữu quan, và lập ra 
danh sách giao dịch toàn diện và tiến hành các hoạt động diễn tập nếu thấy 
phù hợp. 
Các hành động trung hạn 
- Đặc biệt trên cơ sở công tác của các cơ quan quản lý điều tiết, các cơ 
quan thẩm quyền cần thu thập thông tin trong các lĩnh vực là nơi mà cần 
phải tổng hợp thống nhất các hoạt động quản lý điều tiết như chuẩn mực 
 86 
hạch toán, kiểm toán, bảo đảm tiền gửi cần phải được thúc đẩy nhanh 
chóng hoặc có tiềm năng tiến triển. 
- Các cơ quan thẩm quyền cần đảm bảo rằng các biện pháp tạm thời để 
phục hồi và ổn định lòng tin của giới đầu tư và người dân được thực hiện 
một cách kịp thời, đúng trình tự và hợp tác chặt chẽ. 
 87 
Kết luận 
Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng là một xu thế tất yếu, trong đó 
hội nhập vào thị trường tài chính - tiền tệ thế giới là không thể thiếu. Khi 
đất nước ta ngày càng mở cửa thì những ảnh hưởng từ thị trường tiền tệ bên 
ngoài là không nhỏ. An ninh kinh tế nói chung và an ninh tiền tệ nói riêng 
đang trở nên ngày càng quan trọng đối với mỗi quốc gia. Tìm hiểu các nhân 
tố ảnh hưởng tới vấn đề an ninh tiền tệ của Việt Nam thông qua thực trạng 
nhập khẩu vàng là một vấn đề đáng quan tâm, bởi từ trước tới nay, dù có 
trải qua bao nhiêu thăng trầm thì vàng vẫn chưa bao giờ thoát khỏi chức 
năng tiền tệ của mình. 
Nghiên cứu thực trạng nhập khẩu vàng, ảnh hưởng của việc nhập khẩu 
vàng tới vấn đề an ninh tiền tệ quốc gia không chỉ đáp ứng những kiến thức 
về thị trường vàng, về kinh doanh vàng mà còn để nhận thấy tầm bao quát 
ảnh hưởng của vàng, của việc nhập khẩu vàng đến các vấn đề thuộc về an 
ninh quốc gia, để từ đó có thể: 
- Dự đoán được giá vàng biến động theo xu hướng nào trong thời gian 
sắp tới để đầu tư vào vàng hoặc chuyển thành vốn để kinh doanh. 
- Có được những nhìn nhận khách quan về những tồn tại trong môi 
trường kinh doanh vàng tại Việt Nam, từ đó giúp nhà đầu tư giảm bới rủi ro 
và gợi ý các cơ quan hữu trách cải thiện thêm những quy định của mình 
cho ngày càng phù hợp với điều kiện thị trường hơn. 
- Có được nhận thức đúng đắn về vai trò của vàng và nhập khẩu vàng 
với vấn đề an ninh tiền tệ quốc gia, từ đó phát huy tính tích cực, hạn chế 
tiêu cực để Việt Nam có thể phát triển bền vững. 
Khóa luận được hoàn thành với sự cố gắng tối đa tìm hiểu thực tế nhập 
khẩu và kinh doanh vàng tại nước ta. Khóa luận chỉ phân tích và đưa ra 
nhận xét kiến nghị từ thực trạng nhập khẩu vàng của Việt Nam trong năm 
2008, không thể bao quát suốt thời gian dài được bởi thị trường vàng bị ảnh 
 88 
hưởng của rất nhiều yếu tố. Những gợi ý, giải pháp đưa ra còn mang tính 
chất cá nhân. Đồng thời, thời gian và kiến thức có hạn nên không thể tránh 
khỏi những thiếu xót, mong nhận được sự thông cảm và dóng góp ý kiến 
của quý Thầy Cô. 
 89 
Tài liệu tham khảo 
 Các tài liệu tiếng Việt 
- Giáo trình Lý thuyết Tài chính tiền tệ, nhà xuất bản Giáo dục, trường 
Đại học Ngoại thương, năm 1999, GS. Đinh Xuân Trình chủ biên. 
- .Giáo trình lý thuyết tài chính – tiền tệ, trường Đại học Kinh tế quốc 
dân, năm 2007, chủ biên Nguyễn Hữu Tài. 
- Kinh doanh vàng tại Thành phố Hồ Chí Minh: Chính sách và giải 
pháp, nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, năm 2008, tác giả Nguyễn Hữu 
Định. 
- Quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam, nhà xuất 
bản Thống kê, năm 2004, tác giả Lê Quốc Lý. 
- Các văn bản pháp luật về quản lý ngoại hối ở Việt Nam, nhà xuất 
bản Chính trị Quốc gia, năm 2006. 
- An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa, nhà xuất bản Chính trị 
quốc gia, năm 2004, Vương Dật Châu chủ biên. 
- Các giải pháp phát triển kinh doanh vàng tại Việt Nam, luận văn thạc 
sĩ kinh tế, trường ĐH Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, năm 2008, tác 
giả Đặng Thị Tường Vân, người hướng dẫn T.S Lại Tiến Đĩnh. 
- Kinh doanh vàng tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn 
TP.HCM, Huỳnh Phước Nguyên (2007), Luận văn Thạc Sĩ, Trường 
Đại học kinh tế TP.HCM. 
 Tài liệu tiếng nước ngoài 
- Crédit Suisse, mise à jour par l’auteur, tháng 12/2006. 
- Goldas Save Haven, tháng 12/2007, WGC. 
- Gold Investment Digest, tháng 01, 04, 07, 10/2008, WGC. 
 Website 
-  
-  
 90 
-  
-  
-  
-  
-  
-  
-  
-  
-  
 Các tạp chí 
- Thời báo kinh tế Việt Nam. 
- Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ 
- Tạp chí Phát triển kinh tế 
Phụ lục 
Bảng 1: Dự trữ vàng chính thức chính thức vào thời điểm tháng 
12/2008 
Tên quốc gia, tổ chức quốc tế 
Lượng dự trữ 
vàng (tấn) 
Tỷ lệ vàng trong dự trữ 
ngoại hối (%) 
Mỹ 8,133.5 76.5% 
Đức 3,412.6 64.4% 
IMF 3,217.3 (1) 
Pháp 2,508.8 58.7% 
Italy 2,451.8 61.9% 
Thụy Sỹ 1,040.0 23.8% 
Nhật Bản 765.2 1.9% 
Hà Lan 621.4 57.8% 
Trung Quốc 600.0 0.9% 
NHTU châu Âu 533.6 20.1% 
Nga 495.9 2.2% 
Đài Loan 422.4 3.6% 
Bồ Đào Nha 382.5 85.9% 
Ấn Độ 357.7 3.0% 
Venezuela 356.8 23.4% 
Nguồn: World Gold Council, December 2008 Report14 
14
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 4841_408.pdf 4841_408.pdf