Đề tài Những bất cập trong hệ thống thuế thu nhập tại Việt Nam và giải pháp hoàn thiện

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay, việc điều chỉnh các chính sách sao cho hợp lý nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển là một điều cực kỳ quan trọng. Trong đó, công cụ thuế là một công cụ tối quan trọng để Nhà nước thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. Hệ thống thuế thu nhập cũng nằm trong số đó. Việc ra đời của hệ thống pháp luật thuế thu nhập mới bao gồm thuế TNDN và thuế TNCN đồng bộ thực thi vào 01/01/2009 đã tạo ra những bước chuyển biến mới trong đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam. Không thể phủ nhận những điểm tích cực mà hệ thống thuế mới ra đời đã mang lại. Hệ thống thế mới đã tạo ra những ước biến chuyển mới Những điểm tích cực này tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các thành phần dân cư an tâm hơn trong sản xuất lao động, đồng thời cũng khuyến khích hơn nữa đầu tư nước ngoài từ doanh nghiệp và cá nhân tới Việt Nam. Tuy nhiên, trong đó cũng tiềm ẩn những bất cập vướng mắc mà ngày một ngày hai chúng ta không thể giải quyết được. Việc khắc phục những hạn chế này đòi hỏi sự phối hợp của các cấp, các ngành từ trung ương tới địa phương cùng với sự đóng góp từ đông đảo quần chúng nhân dân. Nếu làm được điều đó, chúng ta tin tưởng rằng Việt Nam sẽ vững bước trên con đường hội nhập phía trước.

pdf95 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6208 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những bất cập trong hệ thống thuế thu nhập tại Việt Nam và giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đến nay tỷ lệ lạm phát tăng khoảng 23,0%, như vậy, mức khởi điểm chịu thuế đã trượt giá lên 4.920.000 đồng và mức giảm trừ gia cảnh tăng 1.968.000 đồng. Điều này vi phạm tính “thuận tiện” của một luật thuế khi luật thuế này không có khả năng thích ứng với những sự thay đổi của hoàn cảnh kinh tế, cụ thể ở đây là vấn đề lạm phát và tính trượt giá. 62 - So sánh với mức thuế suất, sự bất hợp lý còn rõ hơn khi mức thuế đều rất cao. Cách đánh thuế luỹ tiến cao (bậc 7 lên đến 35%) thực chất sẽ phản tác dụng khi làm xói mòn sự hăng say làm giàu chính đáng; giảm năng suất lao động. Sẽ thật bất công nếu như người ta càng vắt óc, vắt sức ra để kiếm được nhiều tiền lại càng bị đánh thuế cao. Các mức thuế luỹ tiến 5,6,7 trong bậc luỹ tiến (tương đương với mức 25%, 30% và 35%) đã đánh vào đối tượng là người có tài, người có khả năng làm giàu. Điều đó sẽ phản tác dụng vì sự công bằng, bình quân chủ nghĩa khi nhiều người bất bình và cho rằng đây là sự tước đoạt của người này để chia cho người khác. Mức thuế suất cao chưa hẳn đã là tận thu cho NSNN. Như đã nói ở trên, những người có mức thu nhập cao sẽ tìm mọi cách để hạ thu nhập của mình xuống như việc nhận con nuôi, nhận phụ cấp, nuôi dưỡng người tàn tật,…nhằm “lách luật”. Khi đó chúng ta lại cần thêm chi phí cho công tác thanh kiểm tra. Ngược lại, nếu như luật quy định một mức thuế suất vừa phải sẽ khuyến khích người dân tự giác kê khai nộp thuế. Số thuế thu được trên một cá nhân có thể giảm xuống, nhưng do có nhiều người đi nộp thuế nên doanh thu thuế hẳn sẽ tăng lên. Vả lại, mức sống của dân ta hiện rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới, vì vậy, không nên áp dụng ngay một lúc mức mức lũy tiến lên đến 35% được. Hãy so sánh với Singapore, một đảo quốc có mức thu nhập bình quân đầu người rất cao 26.892 USD (năm 2005), trong khi đó, mức thuế thu nhập cá nhân cao nhất chỉ 20%. 2.3.2.5. Bất cập về mức giảm trừ gia cảnh . Theo điều 19, luật thuế TNCN 2007: mức giảm trừ gia cảnh cho cá nhân nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng. Đây làm một mức rất thấp so với thời điểm ngay khi luật thuế được ban hành vào năm 2007 và dường như là quan tâm quá ít tới yếu tố lạm phát và trượt giá. Để làm rõ hơn về vấn đề này, chúng ta có thể làm một bài 63 toán như sau: Chẳng hạn 01 người sống ở Thành phố Buôn Ma Thuột – tỉnh Dak Lak, anh ta phải chi phí các khoản cho 1 tháng như sau: + Xăng xe đi lại: 20km x 2 lít/100km x 14.000 đ/lít x 30 ngày = 168.000 đồng + Khấu hao xe máy: 20.000.000 đ /5 năm /12 tháng = 333.000 đồng + Tiền ăn + cà phê sáng: 70.000 đồng/ngày x 30 ngày =2.100.000 đồng + (Quần 150.000x2 + áo 250.000x2 + dày 300.000 + mũ 150.000)/12 = = 105.000 đồng + Tiền thuê nhà + điện + nước = 700.000 đồng + Điện thoại 2.400.000 đ/12 tháng + cước 200.000 đ = 400.000 đồng + Các vật dụng cá nhân = 100.000 đồng Tổng cộng: 3.906.000 đồng Như vậy, với mức 4 triệu đồng/tháng, một cá nhân ở Buôn Ma Thuột chỉ đủ chi tiêu ở mức tối thiểu, chưa kể các thành phố lớn như Hà Nội hay TP. Hồ Chí Minh có vật giá đắt đỏ hơn nhiều thì làm sao đủ chi tiêu cho nhu cầu tối thiểu?; trong khi anh ta không thể có chi phí để học tập thêm, tham gia các nhu cầu giải trí, du lịch và đặc biệt là... mãi mãi anh ta không thể có tích luỹ để mua nhà hay giải quyết công việc gì lớn có giá trị vài chục triệu đồng trở lên. Điều đó cho thấy mức khởi điểm chịu thuế thấp sẽ không cho người dân có cơ hội tích luỹ, không mang tính "khoan thư sức dân" mà mang tính "tận thu". Và do đó sẽ khó có thể tạo ra xã hội giàu có theo tinh thần dân giàu, nước mạnh. Điều này vi phạm tính thuận tiện của một luật thuế khi luật thuế này không có khả năng thích ứng với những sự thay đổi của hoàn cảnh kinh tế, cụ thể ở đây là vấn đề lạm phát và tính trượt giá. Như vậy, rất có thế, chỉ sau năm nay thôi, mặt bằng lương và giá cả sẽ tăng lên, khi đó rất có thể chúng ta lại phải bổ sung, xây dựng một luật thuế TNCN mới để điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh trong một tương lai rất gần. - Trong giảm trừ gia cảnh không tính đến giảm trừ cho những người có nhu cầu đi học tiếp để nâng cao trình độ như đại học, cao học, nghiên cứu sinh, đi học 64 thêm để lấy các chứng chỉ hành nghề chuyên nghiệp quốc tế như CFA, ACCA,…Trong khi chúng ta có thể thấy rõ một điều rằng, nhu cầu đi học tiếp để nâng cao trình độ là một nhu cầu ngày càng phổ biển và không thiếu. Chính vì thế với mức khởi điểm thu nhập để tính thuế suất như vậy sẽ là một rào cản đối với những người có nhu cầu học lên cao. Điều này vi phạm tiêu chí công bằng theo chiều ngang khi mà những người có mức thu nhập như nhau, mức chi phí chính đáng khác nhau nhưng vẫn phải nộp một khoản thuế như nhau. Bên cạnh đó, Điều 19 luật thuế TNCN 2007 cũng quy định mức giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng cho các đối tượng không có khả năng lao động mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng. Điều này tạo ra một kẽ hở là có nhiều người có thu nhập ở mức cao làm thủ tục nhận con nuôi, hoặc nuôi dưỡng các đối tượng khác mà trên thực tế không trực tiếp chăm sóc. Họ làm thế để hạ mức thu nhập tính thuế xuống mức lũy tiến thấp hơn hòng giảm hoặc trốn khoản thuế đáng lẽ phải nộp. Vì vậy, doanh thu thuế có thể sẽ bị giảm xuống. Hơn nữa, với các khoản giảm trừ cho người phụ thuộc này, cơ quan thu thuế sẽ phải tổ chức thêm một bộ phận giải quyết, thanh, kiểm tra các giấy tờ liên quan tới việc chứng minh giảm trừ gia cảnh. Việc này làm tăng chi phí trong công tác thu thuế. Doanh thu giảm, chi phí tăng, hiệu quả thu thuế tất yếu sẽ giảm xuống. 2.3.2.6. Bất cập về vấn đề đánh thuế thu nhập cá nhân khi chuyển nhượng chứng khoán Thứ nhất, bất cập đối với thị trường chứng khoán Việc áp thuế TNCN đối với thị trường chứng khoán vừa khó khăn trong công tác thi hành vì vậy sẽ vi phạm tiêu chí hiệu quả và tiêu chí thuận tiện, vừa gây thêm những lo lắng cho nhà đầu tư cũng như các công ty chứng khoán. Việc áp thuế sẽ có thể là rào cản lớn đối với thị trường chứng khoán. Mức thuế 25% đối với thu nhập từ chứng khoán và bất động sản cũng khiến giới kinh doanh hoang mang. Ví dụ: nếu như trong 1 năm, nhà đầu tư rủi ro và lỗ 60 triệu đồng thì nhà đầu tư phải chịu. Nhưng ở năm tiếp theo, nếu nhà đầu tư lãi được 60 triệu thì mất 65 đứt 15 triệu tiền thuế. Với cách đánh thuế này, rõ ràng nhà đầu tư vừa phải chịu rủi ro, vừa phải chịu thiệt thòi. Trong khi đó, các quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực như Hồng Kông, Singapore, Thái Lan... không đánh thuế vào chuyển nhượng chứng khoán, còn Trung Quốc thì áp dụng mức thuế rất thấp(9) Thứ hai, Repo chứng khoán đánh thuế trùng Dịch vụ Repo chứng khoán đang được áp dụng rộng rãi trên thị trường. Khi nhà đầu tư và công ty chứng khoán thực hiện hợp đồng mua bán nhưng về thực chất việc repo chứng khoán hiện nay không khác gì cầm cố chứng khoán để vay tiền. Đối với nhà đầu tư đã chọn phương thức nộp thuế trên giá chuyển nhượng chứng khoán từng lần theo thuế suất 0,1%, một khi đã thực hiện bán cho công ty chứng khoán là phải chịu thuế. Đến kỳ hạn, nhà đầu tư mua lại chứng khoán từ Công ty, sau đó bán ra thị trường sẽ phải chịu một lần thuế nữa. Trường hợp giá chứng khoán giảm đến tỷ lệ công ty chứng khoán phải thanh lý, nhà đầu tư chỉ phải chịu thuế 1 lần nhưng mức giá chịu thuế sẽ không đúng với giá bán thực tế, có thể cao hơn hoặc thấp hơn. Dịch vụ repo chứng khoán được nhiều công ty áp dụng rộng rãi, đã góp phần tăng thanh khoản cho thị trường. Tuy nhiên, cho đến nay các cơ quan quản lý nhà nước chưa quy định về dịch vụ này. Có khả năng các công ty chứng khoán và nhà đầu tư sẽ tìm cách "lách" để không nộp thuế trùng lắp. Hai bên cũng sẽ ký vào một hợp đồng mua bán. Theo đó, công ty chứng khoán tạm ứng cho nhà đầu tư một khoản tiền, thoả thuận đến một thời điểm trong tương lai sẽ thực hiện mua bán chứng khoán. Khi đến thời điểm này, hai bên cùng huỷ hợp đồng, nhà đầu tư trả tiền tạm ứng cộng một khoản phí. Bất cập trong Repo chứng khoán vừa khiến cơ quan thuế khó quản lý, vừa khiến cho đối tượng chịu thuế này lo nghĩ tìm cách lách luật. Chính vì vậy hiệu qủa thu thuế sẽ không cao. (9) Lao Động số 225 Ngày 28/09/2007 Cập nhật: 10:25 PM, 27/09/2007 66 2.3.2.7. Bất cập về thủ tục hành chính Từ khi luật thuế TNCN ra đời, có thể nói luật này đã lập kỷ lục về số văn bản dưới luật đi kèm, tính đến thời điểm tháng 02/2010 đã có hơn 30 văn bản quy phạm pháp luật được ban hành để hướng dẫn thực thi luật này. Ngày 30/9/2008, Thông tư 84/2008/TT-BTC hướng dẫn về thuế TNCN được Bộ Tài chính ban hành. Với nội dung dài hơn 60 trang, 28 biểu mẫu, chắc chắn cả cơ quan thuế và người nộp thuế sẽ có rất nhiều việc liên quan tới rất nhiều loại giấy tờ cần làm để thực thi luật này. Việc giảm trừ gia cảnh quy định rất nhiều giấy tờ, thủ tục xác nhận cần khoảng hơn 30 loại giấy tờ. Luật gia Hữu Dung nhận xét: Nếu một người nộp thuế phải tham gia tất cả quy trình trên thì có lẽ "cả năm chỉ đi lo thủ tục thuế"(10) Sẽ là quá bất cập, nhiêu khê, phức tạp khi một người có thu nhập, sau khi giảm trừ gia cảnh thì không còn phải nộp thuế TNCN, nhưng lại vẫn phải đáp ứng đầy đủ các loại giấy tờ, thủ tục như trên và rõ ràng cơ quan thuế cũng mất nhiều công sức mà thực chất không thu được một đồng tiền thuế nào. Điều này rõ ràng đã vi phạm đồng thời cả tiêu chí hiệu quả và tiêu chí thuận tiện trong việc xây dựng một sắc thuế. Việc giảm trừ gia cảnh với 1,6 triệu đồng/tháng cho người phụ thuộc sẽ là rất phức tạp. Cơ quan thuế có thể sẽ đau đầu với khái niệm "người phụ thuộc", bởi với mối quan hệ gia đình của Việt Nam thì số lượng có thể sẽ rất nhiều, và khái niệm này sẽ là rất rộng khi cá nhân được quyền nhận con nuôi. Việc xác nhận người phụ thuộc sẽ do cơ quan hành chính thực hiện, đây hoàn toàn có thể là mắt xích làm nảy sinh tiêu cực; trong khi cơ quan thuế không thể quản lý nổi đối tượng này. (10) Phạm Anh - Tú Mai, Lao Động số 205 Ngày 06/09/2008 67 Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THUẾ THU NHẬP TẠI VIỆT NAM 3.1. Định hƣớng nâng cao vai trò và vị thế của hệ thống thuế thu nhập đối với nguồn thu NSNN và phát triển kinh tế 3.1.1. Xu hƣớng phát triển của thời cuộc Như chúng ta đã biết, thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN tại hầu hết các nước trên thế giới (khoảng 90% NSNN). Tại Việt Nam, nguồn thu từ thuế chiếm khoảng 70 -80% NSNN qua các năm. Chính vì vậy, bất kỳ quốc gia nào cũng phải luôn chú ý cải cách hệ thống thuế để đảm bảo tối đa nguồn thu NSNN. Tuy nhiên, việc cải cách hệ thống thuế đều phải được nhìn trên bức tranh tổng thể của xu hướng phát triển của thời cuộc Về cơ bản, trong tương lai, thuế trực thu sẽ tăng và thuế gián thu sẽ giảm xuống. Điều này thể hiện ở những điểm sau: Thuế gián thu đánh vào việc tiêu dùng hàng hoá như các loại thuế Giá trị gia tăng, thuế Xuất nhập khẩu, thuế Tiêu thụ đặc biệt, … sẽ giảm xuống. Việc giảm thuế giá trị gia tăng là tất yếu và cần thiết nhằm thực hiện các mục tiêu khuyến khích sản xuất và tiêu dùng đồng thời hòa chung với xu hướng phát triển của thời đại(…..) .Trên thực tế, trong luật thuế Giá trị gia tăng mới ban hành vào ngày 12/06/2008 thay cho luật này năm 2003, chúng ta đã xóa bỏ mức thuế suất 20% đối với một số loại hàng hóa mà thay vào đó là là các mức thuế suất 0%, 5% và 10% cho hầu hết các loại hàng hoá phổ thông. Bên cạnh đó, cùng với lộ trình thực hiện cam kết của WTO và các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam đang dần dần phải cắt giảm thuế nhập khẩu xuống mức rất thấp (0 – 5% đối với hàng hóa nhập khẩu trong nội khối ASEAN). Chính vì vậy, trong tương lai, tỷ trọng nguồn thu NSNN từ các loại thuế gián thu sẽ giảm xuống. 68 Ngược lại, thuế trực thu bao gồm thuế TNDN và thuế TNCN sẽ tăng lên trong cơ cấu nguồn thu từ thuế. Tại các nước công nghiệp và các nước phát triển, nguồn thu từ thuế TNDN và thuế TNCN chiếm một tỷ trọng tương đối lớn trong cơ cấu thu của NSNN(bảng1). Tại Việt Nam cũng vậy, nguồn thu từ thuế TNDN luôn dẫn đầu trong cơ cấu thu NSNN qua các năm (xem bảng 2). Theo đó, nguồn thu từ thuế TNDN luôn giữ vững ở con số khoảng 38% trong những năm gần đây. Năm 2009, tỷ trọng thuế TNDN được dự toán là sẽ giảm xuống mức 32,30% do luật thuế TNDN mới bắt đầu có hiệu lực vào ngày 01/01/2009 đã hạ mức thuế suất từ 28% xuống còn 25%. Tuy nhiên, với việc bắt đầu thi hành luật thuế TNCN cũng vào thời điểm này thì tổng tỷ trọng của thuế Thu nhập sẽ vẫn được duy trì ổn định. Trong tương lai, mức thuế suất thuế TNDN giảm đồng nghĩa với việc sẽ thu hút thêm nhiều nhà đầu tư tới Việt Nam trong thời gian tới, khi đó doanh thu từ loại thuế này sẽ tăng lên. Cùng với việc thực thi có hiệu quả hơn luật thuế TNCN, thì tổng nguồn thu từ thuế thu nhập ắt sẽ duy trì ở mức cao hơn, ổn định hơn Bảng 2: Tỷ trọng các nguồn thu từ thuế trong NSNN qua các năm Đơn vị: % Nguồn: 3.1.2. Định hƣớng nâng cao vai trò của hệ thống thuế thu nhập - Cải cách chính sách thuế nói chung và chinh sách thuế thu nhập nói riêng cần quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới chính sách thuế STT Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009* 1 Thuế thu nhập doanh nghiệp 37,05 36,63 39,56 42,23 38,76 38,45 32,30 2 Thuế thu nhập cá nhân 2,31 2,26 2,21 2,19 2,79 2,81 4,21 3 Thuế giá trị gia tăng (VAT) 25,89 24,95 23,93 23,34 26,29 25,54 30,98 4 Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng sản xuất trong nước 6,92 8,21 8,20 7,28 6,57 6,01 7,77 5 Thuế tài nguyên 7,60 11,18 11,08 11,26 7,49 7,84 5,67 6 Thuế xuất khẩu, NK và TTĐB hàng nhập khẩu 17,49 13,89 12,34 11,12 14,44 16,22 16,39 7 Các loại thuế khác 2,74 2,87 2,69 2,59 3,66 3,13 2,67 69 “…Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và cam kết quốc tế. Bổ sung, hoàn thiện, đơn giản hóa các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Áp dụng thuế thu nhập cá nhân thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát triển. Hiện đại hóa công tác thu thuế và tăng cường quản lý của Nhà nước.” (Văn kiện Đại hội Đảng lần IX – Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010). - Chính sách động viên của thuế thu nhập cần tôn trọng kỷ luật tài chính tổng thể. Nguồn lực tài chính của nền kinh tế là giới hạn. Đối với hệ thống thuế thu nhập cũng vậy, mức huy động của thuế thu nhập cũng phải có sự giới hạn. Với thực trạng là một quốc gia đang phát triển, nhu cầu chi tiêu của ngân sách rất lớn và áp lực cân đối ngân sách là không nhỏ, hơn nữa thuế thu nhập, nhất là thuế TNDN chiếm một tỷ trọng tương đối cao trong tổng thu NSNN. Tuy nhiên, không thể vì lý do đó mà tận thu để bao chi. Làm như vậy sẽ phá vỡ tính kỷ luật tài chính tổng thể, gây kìm hãm, không kích thích đầu tư, tiết kiệm của khu vực doanh nghiệp và dân cư. Thuế thu nhập không nhằm mục tiêu đóng góp càng nhiều cho NSNN càng tốt, mà quan trọng phải hướng vào mục tiêu cao hơn và xa hơn đó là thúc đẩy đầu tư, vực dậy nền kinh tế, thoát khỏi tình trạng yếu kém và đuổi kịp các nước trong khu vực. - Chính sách thuế thu nhập phải hình thành một cơ cấu thuế hợp lý nhằm tăng cường nguồn thu và vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước. Nâng cao vai trò của hệ thống thuế thu nhập cần tập trung vào việc thu hẹp những bóp méo của thuế (nhất là đối với thuế TNDN) đi đôi với việc mở rộng cơ sở thuế và hạ thấp thuế suất. Đồng thời, luật thuế thu nhập phải bao quát hết tất cả nguồn thu trên cơ sở hợp lý, công bằng và hiệu quả thu thuế là cao nhất. - Chính sách thuế thu nhập phải góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa trong điều kiện Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới. Thực hiện cải cách thuế TNDN và 70 thuế TNCN, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, minh bạch, trung lập, không phân biệt các thành phần kinh tế; đồng thời tháo dỡ dần chính sách ưu đãi không cần thiết nhằm gây sức ép, buộc các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh. Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường trong nước lẫn quốc tế. Nhu cầu tích tụ vốn để phát triển và đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp là rất lớn và cấp bách. Vì vậy, chính sách thuế thu nhập, đặc biệt là thuế TNDN cần được điều chỉnh cho hợp lý hơn nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường tích tụ vốn và đầu tư thay đổi công nghệ, hiện đại hóa sản xuất, hạ thấp giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ, bồi dưỡng nguồn thu, tăng thu nội địa cho NSNN. Thuế TNCN cần phải dựa trên cơ sở hợp lý để khuyến khích đông đảo quần chúng nhân dân tham gia hưởng ứng. Đồng thời còn phải hợp lý trên cơ sở khuyến khích tiết kiệm để đầu tư. - Hệ thống thuế nói chung và hệ thống thuế thu nhập nói riêng phải đơn giản, ổn định, mang tính luật pháp cao và có sự tương đồng với khu vực và thông lệ quốc tế. Thuế phải được phân nhiệm rõ ràng theo hướng chuyên môn hóa chức năng và thống nhất hóa mục tiêu nhằm khắc phục tình trạng đa mục tiêu trong một sắc thuế. Theo đó, cần đi sâu hoàn thiện các kỹ thuật thu thuế một cách thích hợp và đồng bộ nhằm đảm bảo hiệu quả tối ưu của mỗi loại thuế cũng như cả hệ thống thuế. Các quy định của luật thuế cần đơn giản, rõ ràng phù hợp với trình độ của bộ máy quản lý thuế cũng như người nộp thuế, đảm bảo tính dễ hiểu, dễ chấp hành và dễ kiểm tra. Đồng thời, trong bối cảnh hội nhập, hệ thống thuế thu nhập Việt Nam phải có sự tương đồng với quốc tế về những khía cạnh liên quan tới thương mại, đầu tư và sự di chuyển luồng thu nhập quốc tế. - Không ngừng hoàn thiện cơ chế hành thu, tạo ra sự chuyển biến về chất trong chính sách thuế thu nhập và tương đồng với khu vực về trình độ quản lý. Từng bước hiện đại hóa công nghệ quản lý thuế, qua đó xác lập hệ thống dữ liệu 71 về thuế liên tục, chính xác, kịp thời. Tiêu chuẩn hóa cán bộ thuế gắn liền với chế thưởng phạt nghiêm minh. Kiện toàn bộ máy quản lý thuế cho phù với yêu cầu đổi mới chính sách thuế, trong đó xác lập cơ chế phối hợp đồng bộ giữa cơ quan thuế và các cơ quan công quyền để nâng cao hiệu quả công tác hành thu. Tăng cường sự giáo dục tuyên truyền; nâng cao ý thức của công chúng về ý thức chấp hành chính sách thuế; từng bước đưa thuế trở thành chuẩn mực đạo đức trong cuộc sống xã hội. Trên cơ sở đó, tiến tới thay đổi cơ chế hành thu thuế theo hướng nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của người nộp thuế trong việc kê khai và nộp thuế cho Nhà nước (cơ chế tự khai tự nộp), đi đôi là kiên quyết thực hiện các biện pháp xử lý về vi phạm nộp thuế để giảm bớt những xói mòn của thuế. Cơ quan hành thu có đầy đủ quyền lực để tăng cường thực thi luật thuế. 3.2. Kiến nghị hoàn thiện khung pháp lý đối với hệ thống thuế thu nhập tại Việt Nam 3.2.1. Một số kiến nghị đối với hệ thống pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp 3.2.1.1. Liên quan tới các khoản chi phí được trừ và không được trừ. * Để đáp ứng cao hơn tính chính xác, minh bạch và rõ ràng của một sắc thuế, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật thuế TNDN 2008 cần làm rõ hơn một số thuật ngữ sau: Tại khoản 2.5d, mục IV, thông tư 130/ 2008 quy định về các khoản chi phí không được trừ “... thù lao trả cho nhân viên sáng lập không trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh thì không được tính vào chi phí…”. Trong đó, cần làm rõ thêm về khái niệm “trực tiếp điều hành”. Tại điều 9.1a và 9.1b luật thuế TNDN 2008 có quy định: “doanh nghiệp được trừ mọi khoản chi nếu đáp ứng đủ điều kiện: a, khoản chi thực tế phát sinh liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh cảu doanh nghiệp; b, Khoản chi có đủ hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật” 72 Quy định như trên có thể làm nảy sinh một số bất cập giữa doanh nghiệp và cơ quan thuế vì thiếu định nghĩa về các khái niệm “hợp pháp”, “có đủ hóa đơn chứng từ” và “thực tế phát sinh”. Thiết nghĩ, đây là điểm hết sức quan trọng nên cần có giải thích về tập hợp từ này. Để đảm bảo chặt chẽ cũng như tránh nhầm lẫn cho doanh nghiệp cũng như cơ quan quản lý thuế trong quá trình áp dụng Luật, cụm từ “các khoản chi nếu…” nên sửa thành “các khoản chi phí nếu các khoản chi phí này đáp ứng toàn bộ các tiêu chí sau:” vì điều khoản này áp dụng cho các chi phí (dù đã chi hay chưa chi) chứ không phải các khoản chi. Tại điều này cũng nên phân biệt rõ giữa khoản chi hay chi phí để đảm bảo tránh mâu thuẫn tiềm ẩn với các khoản trích lập dự phòng (quỹ trợ cấp mất việc làm, dự phòng tồn kho, khấu hao, đầu tư ngắn hạn, dài hạn,). * Đối với phần chi cho quảng cáo, tiếp thị, khuyến mãi, hoa hồng môi giới,…theo điều 9n luật thuế TNDN 2008 không được vượt quá 10% tổng số chi được trừ, với doanh nghiệp mới thành lập là 15% trong 3 năm đầu kể từ khi thành lập… Lý do đưa ra tỷ lệ giới hạn này là do tới đây Việt nam phải mở cửa thị trường nhiều hơn trong khi hệ thống pháp luật về chống độc quyền, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh vẫn còn đang tiếp tục hòan thiện, đa số các doanh nghiệp vẫn còn yếu trên thương trường nên việc tiếp tục giữ giới hạn đối với các khoản chi trên là cần thiết, ngoài ra còn đảm bảo nguồn thu ngân sách, hạn chế các khoản chi lãng phí. Việt Nam là một trong số ít nước ở châu Á còn có quy định này, do đó nếu hạn chế chi phí này sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp. Nhiều năm nay, Việt Nam đang theo đuổi chính sách thông thoáng, minh bạch và công bằng nhằm thu hút nhiều đầu tư nước ngoài hơn để đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. Không nên đặt vấn đề trong nước hay nước ngoài vì như thế là đang tạo ra một sân chơi thiếu bình đẳng Vì vậy, trong thời gian tới, Quốc hội cần xem xét sửa đổi bỏ tỷ lệ giới hạn 10% và nên tách riêng phần chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại thực tế phát 73 sinh đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và là khoản chi phí có đủ hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật 3.2.1.2. Về chính sách ưu đãi thuế TNDN Ưu đãi thuế TNDN chỉ là một trong những yếu tố thu hút đầu tư: Các ưu đãi thông qua thuế TNDN thường là dưới dạng miễn thuế hoặc giảm thuế một phần trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy hiệu quả của những ưu đãi loại này chưa phải là tối ưu. Các ưu đãi thuế TNDN thường không phải là biện pháp hiệu quả nhất về mặt chi phí, lại vừa không thu được “tỷ suất lợi ích” cao nhất cho nền kinh tế so với phần thu thuế mà Chính phủ đã phải từ bỏ, vì khoản doanh thu thuế đó đã có thể đươc sử dụng để cải thiện cơ sở hạ tầng tại chỗ, nâng cao năng lực của các cơ quan Chính phủ và các yếu tố khác tạo thuận lợi cho môi trường kinh doanh – vốn được các doanh nghiệp đánh giá là quan trọng hơn só với những quy định ưu đai thuế TNDN. Biểu đồ 2: Xếp hạng mức độ quan trọng của các yếu tố tác động tới quyết định đầu tư Xếp hạng mức độ quan trọng của các yếu tố ảnh hưởng tới quyết định đầu tư 2 2.5 3 3.5 4 4.5 Đảm bảo cơ sở hạ tầng tốt Đảm bảo cung ứng tốt nguồn nhân lực Tiếp cập với các nguồn nguyên liệu Tiếp cận với thị trrường tiêu thụ nội địa Các quy định của chính quyền địa phương Cách cư xử của các quan chức địa phương Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp Ưu đãi tín dụng Ưu đãi về đất Tiếp cận các nguồn trợ cấp tín dụng Tiếp cận dễ dàng với các phương tiện cảng Địa điểm đầu tư này đơn giản là nơi cư ngụ Nguồn: Báo cáo nghiên cứu chính sách (2005), VNCI, số 2 74 Qua nghiên cứu trên có thể thấy rằng ưu đãi thuế TNDN chỉ là một trong những yếu tố trong chính sách thu hút đầu tư. Ngoài chính sách ưu đãi thuế, cần phải sử dụng đồng bộ các biện pháp bao gồm cơ sở hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực và môi trường kinh doanh một cách đồng bộ và tập trung mới quyết định được tốc độ tăng trưởng của đầu tư. Chính vì những lý do này và để đảm bảo tiêu chí công bằng, minh bạch của hệ thống thuế, xin có những kiến nghị đối với những ưu đãi thuế trong luật thuế TNDN 2008 như sau: - Bỏ miễn giảm thuế đối với doanh nghiệp mới thành lập Trong thực tế, việc miễn giảm thuế sẽ không có ý nghĩa khi doanh nghiệp bước vào sản xuất kinh doanh mà chưa có lợi nhuận. Do đó, những quy định về thời gian thực hiện ưu đãi, miễn giảm thuế từ khi mới bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh, bắt đầu áp dụng công nghệ mới hoặc bắt đầu thử sản xuất thử nghiệm là không cần thiết và không hợp lý. Ngoài ra, việc ưu đãi thuế TNDN cho các doanh nghiệp mới thành lập so với các doanh nghiệp đang hoat động có hiệu quả trong cùng lĩnh vực hoặc trên cùng địa bàn sẽ tạo nên sự thiếu công bằng trong động viên thuế. Về bản chất, các biện pháp khuyến khích đầu tư được đưa ra nhằm mục đích tạo ra những hiệu ứng điều chỉnh tích cực bằng việc tìm cách giảm nhẹ những yếu kém hay trục trặc của thị trường, hoặc theo hướng mà thị trường không làm được. Nhưng các biện pháp khuyến khích đầu tư cũng có thể tạo một số méo mó ngoài ý muốn, và thậm chí còn có khả năng phản tác dụng. Ví dụ như khi các doanh nghiệp chủ tâm thiết lập các cơ sở sản xuất “vệ tinh” mới thay vì đầu tư mở rộng cơ sở kinh doanh hiện có để có thể hưởng lợi tối đa từ những ưu đãi thuế TNDN. Hoặc doanh nghiệp có thể tiến hành đăng ký thành lập một công ty mới để thay thế cho công ty cũ đã hết thời hạn ưu đãi thuế TNDN nhằm hội đủ điều kiện hợp pháp hưởng các ưu đãi thuế mới. Hoặc thông qua biện pháp chuyển giá để hưởng tối đa ưu đãi thuế ở địa phương. Những ưu đãi thuế TNDN hiện hành còn tạo thuận lợi hơn cho những doanh nghiệp mới thành lập so với các doanh nghiệp đã 75 vững mạnh hoạt động trong cũng lĩnh vực hay trên cùng địa bàn, tạo nên sự thiếu công bằng. Trong khi một trong những kết quả đạt được từ việc đưa ra các ưu đãi thuế TNDN hiện nay là khuyến khích thành lập các doanh nghiệp mới thì những ưu đãi đó có thể gây tác hại khi vô tình khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam “chia nhỏ” hay “chuyển đổi” một cách vô căn cứ thành nhiều doanh nghiệp nhỏ mà không doanh nghiệp nào trong số đó đạt được lợi ích nhờ quy mô để có thể cạnh tranh hiệu quả với các đối thủ quốc tế, cũng không thể gắn kết được với hệ thống sản xuất toàn cầu một cách có hiệu quả. Nếu tình trạng đó xảy ra, một phần do hiệu quả của chế độ ưu đãi thuế TNDN. Có lẽ tốt hơn là nên điều chỉnh các ưu đãi hướng vào việc khuyến khích đầu tư vào các tài sản sinh lợi hoặc vào nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, hơn là việc thành lập doanh nghiệp mới hay những gì tương tự- có thể bằng cách cho tăng khấu hao thay vì miễn thuế. Đăng ký thành lập doanh nghiệp mới, xét cho cùng, chỉ là một miếng giấy và việc gắn ưu đãi vào đó là phương án hoàn tòan dự trên kỳ vọng, chứ không phải dựa trên thực tế. - Giảm thời gian miễn giảm thuế: thời gian miễn giảm thuế được quy định trong thông tư 130/ 2008 là tương quá dài như đã đề cập tới trong chương 2. Việc giảm bớt thời gian miễn giảm thuế xuống còn khoảng từ 1 tới tối đa là 4 năm có thể giảm bớt được những tác động tiêu cực này. Thứ nhất, thời gian miễn giảm ngắn tạo cảm giác khoản thu từ miễn giảm thuế là đáng kể so với thu nhập của một số doanh nghiệp. Điều này khiến các doanh nghiệp sẽ tập trung vào sản xuất kinh doanh hơn là chăm chăm đi làm thủ tục để được hưởng miễn giảm thuế. Thứ hai, Việc rút ngắn thời gian miễn giảm thuế cũng phần nào đó giảm bớt được các chi phí liên quan tới việc quản lý, thanh tra, giám sát các đối tượng thuộc diệnh miễn giảm, khi đó hiệu quả thu thuế sẽ cao hơn. - Quy định ít ưu đãi hơn, có chọn lọc và rõ ràng minh bạch hơn. Việc quy định ưu đãi thuế TNDN tuy không còn tràn lan như trước đây, nhưng vẫn còn tương đối dàn trải theo nhiều tiêu chí như vùng miền, ngành nghề sẽ làm giảm hiệu lực tác động của ưu đãi lên hành vi của doanh nghiệp so với cách 76 đưa ra các quy định ưu đãi ít hơn và có chọn lọc hơn. Theo một số cuộc điều tra, có rất ít doanh nghiệp muốn hoặc thấy cần phải đầu tư vào vào những khu vực kinh tế đặc biệt khó khăn. Hơn thế nữa, có không ít doanh nghiệp vẫn giữ nguyên hoạt động ở các vùng có điều kiện thuận lợi hơn những vẫn đủ tiêu chuẩn để hưởng ưu đãi thuế TNDN do đảm bảo các yêu cầu khác. Hơn nữa, quá nhiều tiêu chí cũng đồng nghĩa với việc, ngành thuế lại phải xây dựng nhiều hơn các tiêu chuẩn cho các đối tượng được miễn giảm này song hành với việc duy trì thêm một bộ phận quản lý nữa. Điều này khiến cho chi phí thu thuế tăng, làm giảm hiệu quả thu thuế. Tóm lại, các ưu đãi đầu tư cần được đưa ra và thực hiện một cách thận trọng và theo một phương cách sao cho có thể bảo đảm có những tác động tích cực của ưu đãi sẽ vượt trội so với chi phí (chẳng hạn như doanh thu thuế phải từ bỏ) và sẽ hạn chế được những tác động tiêu cực có thể xảy ra. Những ưu đãi đầu tư, nếu có thể tạo ra, không nên làm soa nhãng việc đáp ứng đòi hỏi thiết yếu hơn, đó là phải khắc phục những trở ngại căn bản hơn đối với đầu tư và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cũng vì lý do này, ưu đãi đầu tư có thể là giải pháp ngắn hạn “tốt thứ hai” 3.2.1.3. Về quan điểm chuyển lỗ và trích lập quỹ phát triển khoa học công nghệ. Về quan điểm chuyển lỗ: Về mặt nguyên tắc, thuế TNDN tính trên thu nhập có lãi của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp làm ăn có lãi thì đóng thuế, nếu làm ăn thua lỗ thì không phải đóng thuế. Tuy nhiên, với chính sách giúp đỡ các doanh nghiệp trong những năm mới thành lập hoặc trong những năm khó khăn, việc quy định chuyễn lỗ là hợp lý. Ngược lại, những quy định về chuyển lỗ cũng sẽ tạo ra vô vàn những kẽ hở lớn để các doanh nghiệp dựa vào đó lách luật 77 Dựa trên những bất cập đã nêu ở chương 2 về hệ thống pháp luật thuế TNCN, xin đưa ra một số kiến nghị như sau nhằm hoàn thiện tốt hơn khung pháp lý đảm bảo cho việc thực thi luật thuế này. Liên quan tới việc chuyển lỗ vẫn phải đảm bảo hiệu quả thu thuế. Như đã phân tích trong chương 2, việc quy định thời gian chuyển lỗ 5 năm là quá dài và sẽ gây ra rất nhiều những tác động trái chiều so với mong đợi. Nếu có thể, chính phủ nên xem xét phương án giảm mức thời gian chuyển lỗ xuống khoảng thời gian từ 2 đến 3 năm. Với việc quy định này, doanh nghiệp vẫn được chuyển lỗ nhưng phải luôn ý thức rằng việc chuyển lỗ chỉ là có giới hạn và trong một thời gian ngắn. Vì thế việc cố tình hạch toán lỗ sẽ khó khăn hơn, giảm thiểu được tình trạng tránh thuế, giúp nâng cao hiệu quả thu thuế. Về việc chuyển lỗ giữa các doanh nghiệp liên doanh, liên kết tốt nhất nên bỏ. Về cơ bản, khi đầu tư góp vốn kinh doanh vào doanh nghiệp khác thì các doanh nghiệp phải cố gắng làm đủ mọi cách sinh lợi để kiếm lời chứ không phải trốn thuế. Việc bỏ bỏ nội dung này sẽ buộc các doanh nghiệp khi góp vốn kinh doanh phải có trách nhiệm hơn so với đồng vốn của mình để đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất. Về vấn đề trích lập quỹ phát triển khoa học công nghệ: Trên thực tế, các doanh nghiệp luôn chủ động tìm cách sử dụng các nguồn lực hiệu quả để tối đa hóa lợi nhuận cho doanh nghiệp. Quỹ phát triển của doanh nghiệp dù cho mục đích gì cũng nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Vậy là, bằng cách này hay cách khác việc quy định này vẫn tạo ra kẽ hở cho doanh nghiệp lách luật. Nếu có thể, nên bỏ việc quy định này và giảm thuế suất ở mức vừa phải hơn. Như vậy các doanh nghiệp vừa có thể dùng tiền của mình để đầu tư vào khoa học công nghệ hay các mục đích khác tùy ý chứ không phải tốn thủ tục để sử dụng khoản tiền này. 78 3.2.2. Kiến nghị đối với luật thuế TNCN Dựa trên những bất cập đã nêu ở chương 2 về hệ thống pháp luật thuế TNCN, xin đưa ra một số kiến nghị như sau nhằm hoàn thiện tốt hơn khung pháp lý đảm bảo cho việc thực thi luật thuế này. 3.2.2.1. Về đối tượng chịu thuế và thu nhập miễn thuế - Để giảm thiểu sự bất cân bằng giữa thành thị và nông thôn, chúng ta có thể áp dụng mức phụ cấp đối với giảm trừ gia cảnh giữa các khu vực khác nhau. Theo đó, ở khu vực thành thị vì giá cả đắt đỏ hơn nên được hưởng mức hệ số cao hơn so với quy định cơ bản trong luật. Như vậy, sẽ có 2 khu vực khác nhau. Khu vực nông thôn được hưởng mức chiết trừ gia cảnh cơ bản. Còn khu vực thành phố được hưởng mức giảm trừ gia cảnh bằng hệ số nhân với mức giảm trừ gia cảnh cơ bản. Việc tính toán hệ số này dựa trên hệ số lương và chênh lệch giữa chỉ số giá tiêu dùng giữa các khu vực. - Đối với các khoản thu nhập miễn thuế cho chuyển nhượng bất động sản, tài sản là thừa kế, quà tặng giữa cha mẹ nuôi và con nuôi nên khống chế về số lượng con nuôi. Dù cho thủ tục nhận con nuôi có dễ dàng hay phức tạp thì đây cũng là cơ hội để các cá nhân lách luật.Vì vậy tốt nhất nên khống chế số lần chuyển nhượng giữa cha mẹ nuôi và con nuôi là 1 lần duy nhất nhằm đảm bảo tính công bằng giữa các đối tượng chịu thuế. - Đối với bất động sản, nhà ở là tài sản duy nhất thì tốt nhất nên bỏ. Như đã đề cập ở trên, việc chứng minh bất động sản hay tài sản là tài sản duy nhất là quá khó trong tình hình nước ta hiện nay. Hơn nữa, với cơ chế tự khai, tự tính và thanh tra sau thì việc người kê khai sẵn sàng kê khai là tài sản duy nhất rất dễ xảy ra. Họ cứ tạm thời tránh thuế trước đã. Đến lúc đó, việc truy thu thuế là điều rất khó khăn đối với cơ quan thuế. Hiệu quả thu thuế sẽ giảm xuống. 3.2.2.2. Về cách tính thuế, ngưỡng thuế và biểu thuế suất 79 - Về mức thu nhập tối thiểu 5 triệu đồng là vẫn còn thấp sẽ gây ra cảm giác cho đối tượng nộp thuế là Nhà nước chỉ muốn tận thu thuế mà thiếu sự quan tâm cần thiết tới đời sống nhân dân. Nên chăng, chính phủ cần mức tối thiểu này lên để giúp nhân dân yên tâm làm ăn, sản xuất. - Về 3 mức thuế suất cao nhất lên tới 25, 30, 35% đánh vào các đối tượng có thu nhập rất cao trong xã hội Việt Nam. Đây là một điểm mà khi làm luật, chính phủ đưa vào nhằm tận thu cho NSNN. Tuy nhiên với mức 35% ở Việt Nam, một nước vẫn còn đang phát triển, thì mức thuế này là quá cao dễ gây ra tình trạng bất bình trong cộng đồng xã hội người có thu nhập cao. Từ đó, có thể dẫn tới các hành vi trốn thuế theo kiểu thu nhập ngầm mà chính phủ không thể kiểm soát được. Vì vậy, thiết nghĩ, nên xóa bỏ mức 35% và dừng lại ở mức 30% là hợp lý và khuyến khích đông đảo quần chúng nhân dân hưởng ứng chấp hành nghiêm túc luật thuế này, nhằm tăng hiệu quả thu thuế. 3.2.2.3. Về vấn đề giảm trừ gia cảnh - Đối với quy định giảm trừ gia cảnh là con nuôi,cũng giống như quy định về thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, tài sản thừa kế, biếu tặng, chúng ta chỉ nên quy định mức giảm trừ cho con nuôi tối đa là 2 con nuôi/1 gia đình. Như vậy, việc những người cố ý nhận nhiều con nuôi trên thủ tục giấy tờ sẽ được hạn chế. Các thủ tục hành chính liên quan tới việc kiểm tra đối tượng này nhờ đó mà cũng được giảm thiểu. Điều này vừa đảm bảo công bằng, vừa tăng hiệu quả thu thuế. - Về mức giảm trừ gia cảnh đối với cá nhân đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng. Theo như phân tích ở trên thì mức này còn quá thấp đối với các đối tượng sống ở thành phố, đặc biệt là các thành phố lớn, đó là còn chưa tính đến yếu tố trượt giá. Vì vậy, chỉnh phủ nên nâng mức thu giảm trừ lên mức tối thiểu là 5 triệu đồng/người/tháng. Việc này khiến cho quần chúng nhân dân thấy được tinh thần chủ đạo của luật thuế TNCN là thuế đánh vào đối tượng có thu nhập cao chứ không phải là biện pháp tận thu đối với tất cả đối tượng chịu thuế. Vì thế, họ sẽ có tinh thần tôn trọng và tự giác nộp thuế. Hơn thế nữa, mức chiết trừ gia cảnh đối 80 với cá nhân là trên 5 triệu cũng là hợp lý đối với những người có nhu cầu học thêm, nâng cao hiểu biết và trình độ. 3.2.2.4. Đối với vấn đề chuyển nhượng chứng khoán - Sở dĩ xảy ra vấn đề bất cập đối với chuyển nhượng chứng khóan là do cơ quan thuế lo ngại về vấn đề thu thuế khó khăn do thu nhập từ đầu tư chứng khoán là rất khó thống kê và khó kiểm soát. Thế nhưng, không nên vì điều đó mà quy định thuế thu nhập trên mỗi lần chuyển nhượng như vậy vì điều đó có thể gây thiệt thòi cho nhà đầu, tất yếu sẽ gây nên sự bất bình trong dư luận. Thiết nghĩ, cơ quan thuế nên xem xét lại vấn đến này, nhất là trong giai đoạn tới khi thị trướng chứng khoán Việt Nam mở cửa, ngày càng có nhiều hình thức giao dịch mới sẽ được thực hiện tại nước ta. Khi đó, việc duy trì đánh thuế từng lần như hiện nay tất yếu sẽ bộc lộ những bất cập rõ rệt gây khó khăn cho công tác thu thuế. Nên chăng, chúng ta nên quy định thu nhập từ chứng khoán dựa trên cơ sở giống như thu nhập từ tiền công, tiền lương vì nhiều đông đảo rất nhiều nhà đầu tư hiện nay không xem chứng khoán là nghề tay trái nữa mà đầu tư một cách chuyên nghiệp. Khi đó, thu nhập từ chứng khoán sẽ được tính trong một thời kỳ và được khấu trừ lỗ lãi giống như thu nhập từ kinh doanh. 3.3. Giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống thuế thu nhập tại Việt Nam 3.3.1. Cải cách và hiện đại hóa công tác thu và quản lý thuế TNCN 3.3.1.1. Cải cách hành chính để áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế thuận tiện hơn Luật thuế TNDN đã chính thức áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế trên toàn quốc vào năm 2007 sau gần 4 năm thí điểm từ năm 2003 theo quyết định số 197/QĐ – TTG và đang từng bước đi vào quy củ và chuyên nghiệp hơn. Luật thuế TNCN mới cũng áp dụng công tác tự khai, tự nộp thuế thu nhập cá nhân. Theo đó, đã phần nào khắc phục được tình trạng rườm rà, mất thời gian về thủ tục hành 81 chính so với trước đây, khi mà cán bộ thu thuế là người phải tính thuế cho người nộp thuế. Tuy nhiên, việc áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp vẫn còn mới mẻ đối với đại đa số những người đi nộp thuế. Vì vậy cần phải tuyên truyền và phổ biến rõ cho đối tượng nộp thuế biết và tuân thủ. Mặt khác, việc áp dụng cơ chế này cũng đòi hỏi trình độ công nghệ và quản lý tốt. Tổng cục thuế cần cụ thể hóa các biện pháp cải cách và hiện đại hóa công tác thu thuế theo phương pháp này bằng cách: mở các lớp đào tạo nghiệp vụ về cách thu thuế mới cho cán bộ thuế, phát động phong trào áp dụng khoa học công nghệ hiện đại trong ngành thuế và thay đổi thái độ giữa cơ quan thuế với đối tượng nộp thuế. Thái độ này cần phải được xem xét mang tính thị trường hơn, coi đối tượng nộp thuế chính là người mang lại doanh thu thuế cho ngành thuế, tương tự như khách hàng của doanh nghiệp. Với thái độ đó, ngành thuế sẽ thực sự đứng về phía đối tượng nộp thuế để trợ giúp sao cho công tác tự khai tự nộp thuế đạt hiệu quả cao nhất. 3.3.1.2. Cải tổ bộ máy quản lý thuế Bên cạnh công tác thu thuế, Tổng cục thuế cần cải tổ lại các bộ phận trong cơ quan thuế theo chức năng nhằm chuyên môn hóa và phù hợp với yêu cầu cao hơn của cơ chế mới, các biện pháp cụ thể là: - Chuyển phần lớn các cán bộ thuế đang thực hiện nhiệm vụ tính toán và thu thuế sang bộ phận khác vì theo cơ chế mới, khâu này đã được đối tượng nộp thuế đảm nhận - Thành lập bộ phận chuyên sâu về tuyên truyền và hỗ trợ đối tượng nộp thuế. Bộ phận này đảm nhiệm xây dựng các chiến lược chuyên sâu về các mục tiêu: + Đưa thuế TNCN đến mọi người dân, làm cho thuế thực sự trở thành nếp nghĩ thông thường trong xã hội. Đưa thuế TNDN ăn sâu hơn nữa vào tâm trí của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì đây là đối tượng tương đối nhạy cảm với thuế. 82 Các biện pháp tuyên truyền có tác dụng nhất vẫn là qua các phương tiện thông tin đại chúng. Công tác tuyên truyền cần được bộ phận tuyên truyền nghiên cứu theo các chiến dịch và quảng bá một cách chuyên nghiệp để có tác dụng với tất cả mọi tầng lớp nhân dân. Chỉ có những kế hoạch tuyên truyền chuyên nghiệp và chuyên sâu mới đưa các chính sách thuế mới đến với người dân và doanh nghiệp nhanh nhất và đem lại hiệu quả nhanh chóng cho công tác thi hành thuế trong tình hình luật đã có hiệu lực như hiện nay. + Giải đáp mọi thắc mắc về thuế TNDN và thuế TNCN Cơ quan thuế cần phát triển hơn những trung tâm giải đáp thắc mắc thông qua đường dây nóng điện thoại, thư tín, công văn, hòm thư điện tử, diễn đàn,… để giải quyết những vấn đề khúc mắc của người dân và doanh nghiệp. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp, các lớp tập huấn nghiệp vụ ngắn ngày tại các chi cục thuế địa phương là rất cần thiết để doanh nghiệp hiểu biết và tuân thủ luật thuế dễ dàng hơn + Hỗ trợ đối tượng nộp thuế tối đa trong kê khai và nộp thuế Các quy trình hướng dẫn kê khai và nộp thuế cần được cụ thể hóa thành những ấn bản dễ hiểu, không gây nhầm lẫn. Những ấn bản cần được phát miễn phí rộng rãi khi thấy đối tượng nộp thuế có yêu cầu. Ngoài ra, bộ phận này cũng có thể đảm đương việc thiết kế các sản phầm như bản khi thuế điện tử (E-file), phát triển các phần mềm kê khai thuế, phát hành những cuốn cẩm nang hướng dẫn kê khai thuê,… Mục tiêu của các công tác hỗ trợ này là phải luôn có sẵn mỗi khi đối tượng nộp thuế cần. - Tăng cường bộ phận thanh tra, giám sát thuế Đây là bộ phận chủ chốt trong cơ chế tự khai, tự nộp thuế. Bộ phận thanh tra, giám sát thuế đã tồn tại từ lâu trong ngành thuế, tuy nhiên không thể đáp ứng cho cơ chế thi hành thuật thuế mới. Không chỉ vì cơ chế cũ có số lượng đối tượng nộp thuế ít hơn mà công tác tính toàn và thu thuế chủ yếu do cán bộ thuế đảm nhiệm nên công tác thanh tra thuế có phần nhẹ hơn. Nay khi thi hành luật thuế mới, sự gian lận sẽ xảy ra nhiều hơn vì sự kê khai hoàn toàn phụ thuộc đối tượng nộp thuế. 83 Nếu bộ phận thanh tra, giám sát không đủ khả năng phát hiện sai phạm thì hậu quả sẽ là thất thu lớn cho ngành thuế. Bởi vậy, bộ phận thanh tra, giám sát thuế cần đặc biệt được chú trọng. Bộ phận thanh tra, giám sát phải đảm bảo các yêu cầu sau: + Có đội ngũ cán bộ giỏi để lập ra các quy trình giám sát hoặc đảm đương các quy trình giám sát hiện đại, khoa học, có hiệu quả cao. Những quy trình này thường quản lý trên một cơ sở thuế rất rộng và đa dạng nên trình độ giám sát của cán bộ thuế yêu cầu khá cao + Tuân thủ luật, công bằng, trong sạch trong thực hiện thanh tra, giám sát + Quản lý theo mức độ tuân thủ luật của các nhóm đối tượng nộp thuế. Không dàn trải họat động mà chú trọng đến các đối tượng có nguy cơ trốn thuế cao hơn để tối ưu hiệu quả hoạt động. 3.3.1.3 Tăng cường hoạt động của bộ phận thống kê, nghiên cứu chính sách thuế. Thống kê đóng vai trò quan trọng để đánh giá tình hình thi hành và tuân thủ thuế. Thống kê còn giúp lập ra những chính sách thuế hiệu quả dựa trên thực tế công tác thi hành thuế. Chính vì vậy, những chính sách xuất phát từ cơ sở thống kê tôi mới có tính khả thi trong thực tế giúp tăng cường mức độ tuân thủ luật đảm bảo công bằng xã hội 3.3.2. Phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu cải cách và hiện đại hóa trong quản lý thuế Thực tế đã chứng mình vai trò cốt lõi của công nghệ thông tin trong quá trình thi hành và quản lý thuế TNCN và thuế TNDN trên các nước. Hiện nay, Tổng cục thuế cần xây dựng hệ thống quản lý thuế đủ mạnh trước hết là đảm bảo tiến độ và mục tiêu của dự án TAMP. Dự án trên hoàn thành càng sớm càng tốt để sớm áp dụng ngay vào công tác thu nộp thuế mang lại hiệu quả cao cho thu ngân sách. Tổng cục thuế cần luôn học hỏi, áp dụng những công nghệ quản lý thuế tiên tiến 84 trên thế giới đế đáp ứng sự phát triển theo thời gian của tính hình thi hành thuế trong nước Không chỉ từ phía Tổng cục thuế, chính phủ cũng cần liên tục cải thiện chất lượng dịch vụ hạ tầng công nghệ thông tin trong nước nhằm đảm bảo cả cơ quan Nhà nước (cơ quan thuế) và người dân đều có thể tiếp cận công nghệ thông tin dễ dàng đặc biệt là những thông tin về thuế, chính sách thuế và việc quản lý thuế. Yêu cầu chủ yếu là phải dễ dàng, tiện lợi và giá cả phải chăng. 3.3.3. Phát triển hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt quan các ngân hàng, tổ chức tín dụng bằng phƣơng pháp bắt buộc và khuyến khích tự nguyện. Thanh toán không dùng tiền mặt được chứng mình là một nhân tố quan trọng giúp hệ thống thu nhập theo cơ chế tự khai tự nộp thi hành hiệu quả nhất. Vì vậy, chính phủ cần thực hiện nhanh hơn quá trình thúc đẩy thói quen không dùng tiền mặt của đông đảo người dân và doanh nghiệp, đặc biệt là khối doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước. Để làm được điều này, chính phủ cần quán triệt những biện pháp sau: - Yêu cầu các doanh nghiệp trả lương cho nhân viên thông qua hệ thống tài khoản cá nhân - Hỗ trợ, khuyến khích cho các dự án mở rộng thẻ thanh toán và các điểm thanh toán qua hệ thống ngân hàng - Coi các chứng từ ngân hàng có giá trị ngang hóa đơn đỏ của Cục thuế Đây là điều kiện khá quan trọng trong tiến trình thúc đẩy thanh toán qua ngân hàng. Chỉ khi những chứng từ thanh toán của ngân hàng có giá trị và được cục thuế thừa nhận thì bản thân các giao dịch mới có hiệu lực trong xã hội - Cho phép và xây dựng mô hình các dịch vụ công được thanh toán thông qua tài khoản Nếu làm được những yêu cần trên, không chỉ doanh nghiệp mà người dân sẽ nhanh chóng nhận ra sự tiện lợi khi không phải mang tiền mặt theo mình mà vẫn 85 có thể tham gia tất cả các hoạt động xã hội. Lúc đó, thanh toán không dùng tiền mặt sẽ trở ăn sâu vào thói quen của mọi người, mọi nhà, mọi công ty. 86 KẾT LUẬN Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay, việc điều chỉnh các chính sách sao cho hợp lý nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển là một điều cực kỳ quan trọng. Trong đó, công cụ thuế là một công cụ tối quan trọng để Nhà nước thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. Hệ thống thuế thu nhập cũng nằm trong số đó. Việc ra đời của hệ thống pháp luật thuế thu nhập mới bao gồm thuế TNDN và thuế TNCN đồng bộ thực thi vào 01/01/2009 đã tạo ra những bước chuyển biến mới trong đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam. Không thể phủ nhận những điểm tích cực mà hệ thống thuế mới ra đời đã mang lại. Hệ thống thế mới đã tạo ra những ước biến chuyển mới Những điểm tích cực này tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các thành phần dân cư an tâm hơn trong sản xuất lao động, đồng thời cũng khuyến khích hơn nữa đầu tư nước ngoài từ doanh nghiệp và cá nhân tới Việt Nam. Tuy nhiên, trong đó cũng tiềm ẩn những bất cập vướng mắc mà ngày một ngày hai chúng ta không thể giải quyết được. Việc khắc phục những hạn chế này đòi hỏi sự phối hợp của các cấp, các ngành từ trung ương tới địa phương cùng với sự đóng góp từ đông đảo quần chúng nhân dân. Nếu làm được điều đó, chúng ta tin tưởng rằng Việt Nam sẽ vững bước trên con đường hội nhập phía trước. 87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I, Danh mục văn bản quy phạm pháp luật Về thuế TNDN: - Luật thuế TNDN thông qua ngày 03/06/2008, ban hành ngày 12/06/2008 và được chính thức áp dụng từ ngày 01/01/2009. - Nghị định 124/2008/ NĐ – CP của chính phủ ban hành ngày 11/12/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật thuế TNDN 2008 - Thông tư 130/2008/ TT – BTC, do Bộ tài chính ban hành ngày 26/12/2008 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế TNDN 2008 và hướng dẫn thi hành nghị định 124/2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của luật thuế TNDN 2008 - Thông tư 12/2009/ TT – BTC do Bộ tài chính ban hành ngày 22/01/2009 hướng dẫn thực hiện gia hạn nộp thuế TNDN 2009 đối với doanh nghiệp kinh doanh một số ngành nghề - Thông tư 06/2010/ TT – BTC do Bộ tài chính ban hành ngày 13/01/2010 hướng dẫn xác định doanh thu tính thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động bán vé, bán thẻ hội viên sân gôn. - Quyết định 12/2010/ QĐ – TTg của thủ tướng chính phủ ban hành ngày 12/02/2010 về việc gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Về thuế TNCN: - Luật thuế TNCN ban hành ngày 21/12/2009, bắt đầu có hiệu lực vào ngày 01/01/2009 - Thông tư 84/2008/TT-BTC ban hành ngày 30/09/2008 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành Nghị 88 định số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân - Thông tư 62/2009/TT-BTC ban hành ngày 27/03/2009 hướng dẫn sửa đổi, bổ sung Thông tư số 84/2008/TT-BTC hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2008/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân - Thông tư 161/2009/TT-BTC ban hành ngày 12/08/2009 hướng dẫn về thuế thu nhập cá nhân đối với một số trường hợp chuyển nhượng, nhận thừa kế, nhận quà tặng là bất động sản - Thông tư 160/2009/TT-BTC ban hành ngày 12/08/2009 hướng dẫn miễn thuế thu nhập cá nhân năm 2009 theo Nghị quyết số 32/2009/NQH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội - Thông tư 176/2009/TT-BTC ban hành ngày 09/09/2009 hướng dẫn về việc giảm thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân làm việc tại khu kinh tế - Thông tư 02/2010/TT-BTC ban hành ngày 11/01/2010 hướng dẫn bổ sung Thông tư số 84/2008/TT-BTC hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 8/9/208 quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân II, Danh sách và các nguồn tài liệu tham khảo khác 1, Ăng ghen, nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và Nhà nước, Nhà xuất bản sự thật, Hà Nội, 1962 2, Mác – Ăng Ghen, tuyển tập Nhà xuất bản sự thật, Hà Nội, 1961, tập 2 3, GS. TS Bùi Xuân Lưu (chủ biên), TS Nguyễn Hữu Khải, ThS Nguyễn Xuân Nữ, Giáo trình thuế và hệ thống thuế ở Việt Nam, ĐH Ngoại Thương, NXB Giáo Dục, 2003. 4, Nguyễn Xuân Quảng, Giáo trình thuế, ĐH Bách khoa Hà Nội, NXB Giáo Dục, 2005 89 5, PGS. TS Sử Đình Thành, Bài giảng Lý thuyết Tài chính công, ĐH Kinh Tế Thành phố Hồ Chí Minh, 2006 6, TS. Nguyễn Thị Lan, Bài giảng Tài Chính công, ĐH Ngoại Thương Hà Nội, 2008 Các website: www.nationmaster.com www.webketoan.vn ế components-personal-income-tax

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf5089_2417.pdf
Luận văn liên quan