Đề tài Những chính sách giáo dục tiêu biểu của Singapore

MỤC LỤC 1. Giới thiệu chung về Singapore 5 2. Những chính sách giáo dục tiêu biểu của Singapore 6 2.1. Ngân sách đầu tư cho giáo dục 6 2.2 Chính sách song ngữ 8 2.2.1.Vì sao chọn chính sách song ngữ 8 2.2.1.1.Chính sách song ngữ vì hòa bình sắc tộc 8 2.2.1.2.Tiếng Anh – ngôn ngữ quốc tế 10 2.2.2. Sự phản đối của người Hoa 11 2.2.3. Những mặt hạn chế của chính sách 11 2.3. Chính sách thu hút nhân tài 12 2.3.1. Lí do chọn chính sách thu hút nhân tài 12 2.3.2. Các biện pháp đưa ra để thực hiện chính sách này và những kết quả đạt được 13 2.4. Kết hợp cả giáo dục phương Đông và phương Tây 15 2.5. Phương pháp dạy ít hơn, học nhiều hơn 16 2.5.1. Tại sao chọn chính sách này 16 2.5.2.Chính sách được thực hiện như thế nào 17 2.5.3. Thách thức đối với mô hình giáo dục này 19 2.6. Đầu tư dạy môn toán và khoa học trong trường học 19 3. Những thành tựu tiêu biểu đã đạt được 20 4. Bài học kinh nghiệm cho giáo dục Việt Nam 22 4.1. Tăng cường việc dạy và học tiếng Anh 22 4.2. Chú trọng đầu tư chất lượng giáo viên bằng các biện pháp thực tế 23 4.3. Việt Nam nên có những ngành nghề đào tạo kĩ thuật, đào tạo những công nhân lành nghề đang còn rất thiếu trong bối cảnh công nghiệp hóa hiện đại hóa 24 4.4. Nhân tài và thu hút nhân tài 25 Kết luận 27 Tài liệu tham khảo 28

doc29 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5015 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những chính sách giáo dục tiêu biểu của Singapore, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng nguyên nhân như : Vị trí địa lí thuận lợi, khả năng lãnh đạo linh hoạt, bộ máy nhà nước trong sạch, giáo dục được đầu tư và phát triển đồng bộ…. Trong đo chính sách giáo dục góp phần không nhỏ vào sự phát triển của đảo quốc này và trở thành một trong những nguồn nội lưc vô cùng quan trọng. Chính vì vậy trong báo cáo khoa học này em muốn tìm hiểu về một trong những lí do trên đó là sự phát triển của giáo dục có những đóng góp như thế nào cho sự thành công của Singapore. 2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề: Ở Việt Nam đã có rất nhiều tạp chí, bài báo đề cập tới vấn đề này và luôn xem đây là một trong những quyết sách không thể thiếu khi nói tới sự thành công của Singapore. Em xin được kể ra đây một vài tác giả đã có những nghiên cứu tới vấn đề này. Trần Khánh với bài nghiên cứu : “ kinh nghiệm phát triển sức mạnh quốc gia của Singapore “ . Lê Thanh Hương với bài nghiên cứu : “Tính cộng đồng , tính cá nhân và thành công trong phát triển đất nước của Singapor “ trên tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á ) … Bên cạnh đó, trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng đang rất quan tâm tới giáo dục Singapore bởi hiện nay du học tại Singapore đang là một lựa chọn của rất nhiều phụ huynh và học sinh. Như các trang web : vnexpress.net, dantri.com, tuoitre.com.vn…. 3. Mục đích nghiên cứu của báo cáo khoa học bao gồm các vấn đề sau: - Giới thiệu và phân tích những chính sách giáo dục tiêu biểu của Singapore trong những năm qua (những chính sách đó đã xuất hiện trong thời kì nào, những mặt tích cực, mặt hạn chế của các chính sách đó và giải pháp nhằm tìm ra hướng đi mới đúng đắn và thành công hơn). - Nêu lên những thành tựu giáo dục Singapore như là kết quả của các chính sách giáo dục của chính phủ. - Từ những chính sách và thành tựu giáo dục của Singapore có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Vì hai nước cùng nằm trong khu vực Đông Nam Á, cùng nằm trong khối ASEAN nên ít nhiều cũng có những nét tương đồng về mặt văn hóa, hoàn cảnh phát triển với nước ta. Do đó, chúng ta nên tham khảo những chính sách giáo dục của Singapore xem có thể áp dụng vào nền giáo dục Việt Nam. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu : Trong báo cáo khoa học này đối tượng nghiên cứu là chính sách và thành tựu giáo dục tiêu biểu của Singapore khi tách khỏi Liên bang Malaysia cho đến nay và một số chính sách giáo dục mà Việt Nam có thể học tập từ Singapore. Do đó, phạm vi nghiên cứu của báo cáo khoa học không chỉ trình bày về giáo dục Singapore mà ít nhiều mở rộng sang cả những vấn đề giáo dục của Việt Nam 5. Phương pháp nghiên cứu : Phương pháp chủ yếu là tổng hợp, phân tích nhằm trình bày được những vấn đề chính về chính sách và thành tựu giáo dục Singapore Ngoài ra, phương pháp do sánh cũng được sử dụng nhằm tìm ra những ưu điểm và hạn chế trong giáo dục Singapore, so sánh với các nền giáo dục khác đặc biệt là giáo dục Việt Nam. Trên cơ sở đó tìm ra các biện pháp giáo dục có thể áp dụng và Việt Nam. Kết cấu đề tài I.Mở đầu 1.Lí do chọn đề tài 2.Lịch sử nghiên cứu 3.Mục đích nghiên cứu 4.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 5.Phương pháp nghiên cứu Tài liệu nghiên cứu Nội dung 1. Giới thiệu chung về Singapore 2.Những chính sách giáo dục tiêu biểu của Singapore 3.Những thành tựu tiêu biểu đã đạt được 4. Bài học cho giáo dục Việt Nam Kết luận Tài liệu tham khảo Phần II: Nội dung 1. Giới thiệu chung về Singapore Nếu như những năm đầu thập niên 50 của thế kỉ trước chúng ta được chứng kiến sự phát triển thần kì của Nhật Bản- một quốc gia bại trận sau thế chiến thứ hai đã vươn lên mạnh mẽ và đến nay đã trở thành cường quốc thứ hai trên thế giới sau Mĩ thì đến những năm đầu thập niên 70 sự phát triển thần kì ấy được lặp lại ở quốc đảo Singapore. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Singapore gặp nhiều khó khăn: là một đảo quốc với diện tích nhỏ bé không đầy 650km2, nghèo tài nguyên thiên nhiên, mức sống của người dân thấp, đất canh tác tỉ lệ nghịch với dân số, đất chật người đông, nạn thất nghiệp ngày càng tăng cao. Hơn nữa, Singapore lại vừa trải qua một thời kì dài nằm dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân phương Tây nên nền kinh tế vẫn trong tình trạng lạc hậu. Do những khó khăn đó, Singapore đã gia nhập Liên bang Malaysia vào năm 1963 với mục đích tìm kiếm thị trường nội địa để phát triển. Tuy nhiên từ năm 1963 – 1965 nền kinh tế Singapore đã không thể phát triển được giống như kế hoạch mà những nhà cầm quyền đưa ra cùng với đó là sự mâu thuẫn gay gắt về quyền lợi giữa tư sản người Hoavà tư sản người Malaysia nên các nhà cầm quyền Singapore quyết định chuyển hướng chiến lược tách Singapore ra khỏi Malaysia năm 1965. Sau đó các nhà lãnh đạo Singapore quyết tâm thi hành các chính sách phát triển kinh tế xã hội và đạt được một số kết quả đáng mừng như : ngay từ đầu những năm 80 của thế kỉ trước Singapore đã là một nước công nghiệp mới, phúc lợi xã hội của người dân ngày càng được nâng cao. Từ đầu những thập niên 90 thu nhập quốc dân của Singapore đã đạt 7.000$ và đang phấn đấu trở thành Thụy Sĩ của châu Á (Phan Ngọc Liên : Giáo dục – một dộng lực phát triển của Singapore). Năm 2002 GDP đạt 160 tỉ $ [3]. Năm 2005 theo báo cáo của ngân hàng thế giới Singapore được xếp hạng thứ 3 trên tổng số 45 nước trên thế giới có môi trường kinh doanh thuận lợi. Singapore trở thành quốc gia sử dụng dịch vụ viễn thông lớn nhất tại châu Á với tỉ lệ sử dụng dịch vụ Internet là 42 %. Tháng 3/ 2002 Tạp chí Economist đưa ra cho thấy chất lượng sống tại Singapore còn vượt hơn cả hai thành phố London và New York dựa trên tiêu chuẩn đánh giá trên 39 lĩnh vực bao gồm ổn định chính trị, tự do cá nhân, ô nhiễm môi trường, chất lượng chăm sóc y tế, trường học nhà hát, nhà hàng…[3] Thành công đó có được từ những chính sách hết sức linh họat, nhạy bén của chính phủ Singapore trong sự phát triển kinh tế, đẩy mạnh hợp tác đầu tư, xây dựng bộ máy hành chính trong sạch, và một yếu tố góp phần vô cùng quan trọng trong thành công đó là nhờ sự đầu tư vào giáo dục. 2. Những chính sách giáo dục tiêu biểu của Singapore Chính phủ Singapore rất nỗ lực trong việc đưa ra các chính sách nhằm phát triển kinh tế - xã hội như : “tập trung vị trí địa lí thuận lợi để phát triển kinh tế hàng hóa xuất nhập khẩu, giao thương trên biển, tăng cường phát triển khoa học kĩ thuật nhằm đưa Singapore trở thành một quốc gia có nền văn minh điện tóan, một xã hội có độ chín về văn hóa, một thành phố hoàn hảo, một xã hội ưu việt”(Trần Khánh : Phát triển và thích nghi nguồn nhân lực với công nghiệp hóa-kinh nghiệm của Singapore ). Trong các chính sách nhằm phát triển đất nước sau khi tách khỏi Liên bang Malaysia của Singapore là phát triển giáo dục và đề ra các chính sách giáo dục trọng điểm như : chú trọng đầu tư ngân sách cho giáo dục, thu hút nhân tài ở trong và ngoài nước, kết hợp cả phương pháp giáo dục của phương Đông và phương Tây, chú trọng giảng dạy các môn khoa học tự nhiên,( đặc biệt là môn toán), áp dụng phương pháp dạy ít học nhiều. 2.1.Ngân sách chi cho giáo dục Chính phủ Singapore xác định đào tạo con người là một quốc sách hàng đầu nhằm biến Singapore trở thành một xã hội có học vấn cao và xác định đây là mục tiêu trọng điểm của quốc gia này từ khi thành lập cho đến nay. Chính vì thế mà ngân sách chi cho giáo dục luôn ở con số khổng lồ chỉ đứng sau quốc phòng. Năm 1960-1970 ngân sách chi cho giáo dục của Singapore vào loại cao nhất ở châu Á, bình quân hàng năm chiếm tới 20% tổng ngân sách quốc gia (Trần Khánh : “Phát triển và thích nghi nguồn nhân lực với công nghiệp hóa – kinh nghiệm của Singapore’’) Năm 1960 chi phí cho giáo dục là $600.000 , đến năm 1963 lên đến $ 10.000.000 (Lê Thị Thanh Hương : “ Tính cộng đồng, tính cá nhân và thành công trong phát triển đất nước của Singapore ”) Trong thập niên 80 chính phủ Singapore đã đề ra “cương lĩnh hoạt động đến năm 1999”. Một phần trong cương lĩnh nhấn mạnh đên việc tăng cường đầu tư cho giáo dục. Để tạo thêm nguồn vốn cho giáo dục , chính phủ Singapore vào những năm 1980 đã thành lập Quỹ phát triển kĩ năng. Nguồn vốn của quỹ là do các ông chủ xí nghiệp, công ty đóng góp với 2% tiền thu nhập hàng tháng của mình( Phan ngọc Liên : “ Giáo dục – một động luwjcphast triển của Singapore” ). Mặt khác chính phủ kêu gọi các công ty tổ chức chính phủ trên thế giới giúp đỡ Singapore về nguồn vốn, thiết bị kĩ thuật, giảng viên và chương trình giảng dạy để thành lập các trung tâm đào tạo và nghiên cứu tại nước này. Cách làm này không những tạo thêm nguồn vốn để phát triển nguồn nhân lực mà còn là một trong những cách tốt nhất cho lực lượng lao động tiếp cận và lĩnh hội nhanh chóng những kiến thức và công nghệ tiên tiến nhất của thế giới. Ngoài ra, chính phủ còn khuyến khích các tổ chức cộng đồng quyên góp tiền của xây dựng trường học cho con em mình. Việc làm này đã giúp mở ra rất nhiều trường học mới đáp ứng nhu cầu của ngành giáo dục và phát huy tinh thần đoàn kết của toàn dân vì một nền giáo dục phát triển. Kết quả là đến những năm 80 có nhiều trung tâm nghiên cứu đào tạo do người nước ngoài giúp đỡ xây dựng ở nước này như : Học viện Nhật- Singapore, Học viện Pháp- Singapore, Học viện Đức – Singapore…(Trần Khánh : “ Phát triển và thích nghi nguồn nhân lực với coongn ghiệp hóa – kinh nghiệm của Singapore” )Điều này cho thấy chính phủ Singapore đã rất nhạy bén trong việc giáo dục, huy động nguồn vốn đầu tư cho giáo dục từ nguồn vốn sẵn có trong nước và nước ngoài, việc làm này một mặt phát huy nội lực bên trong đất nước làm cho người dân có ý thức trong việc xây dựng giáo dục quốc dân, mặt khác thu hút sự quan tâm của nước ngoài nhằm tạo tính cạnh tranh, tăng cường phát triển hơn nữa giáo dục, tạo dựng mối quan hệ với bạn bè quốc tế và tiếp thu công nghệ từ khắp nơi trên thế giới 2.2. Chính sách song ngữ 2.2.1.Vì sao lại chọn chính sách song ngữ Năm 1959, Thủ tướng Lí Quang Diệu và cộng sự quyết định dùng tiếng Malay làm quốc ngữ song sau đó các nhà lãnh đạo đã nhận ra rằng tiếng Anh phải là ngôn ngữ nơi làm việc và là ngôn ngữ chung. Bên cạnh đó tỏng dư luận xã hội có nhiều luồng phản ứng khi đề nghị chính phủ đảm bảo vị thế của người Hoa như một ngôn ngữ chung vì người Hoa chiếm một số lượng đông đảo dân số của Singapore . Từ những vấn đề đó chính phủ Singapore đã đưa ra phương án song ngữ nhằm mục đích để tiếng Anh trở thành ngôn ngữ chung ở Singapore làm cầu nối cho mọi công dân có nguồn gốc chủng tộc khác nhau. Do vậy chính phủ áp dụng xây dựng Giáo trình song ngữ hay chính sách tiếng mẹ đẻ và chính sách này đã trở thành một nền tảng của hệ thống giáo dục Singapore. Anh ngữ là ngôn ngữ duy nhất và là phương tiện giao tiếp trong giáo dục ở nhà trường. Phần lớn học sinh sinh viên được yêu cầu học một năm tiếng mẹ đẻ. Ở đây 3 ngôn ngữ chính là Hoa, Tamil, Malay .Môn tiếng mẹ đẻ là một môn bắt buộc ở kì thi cuối cấp 1 và kì thi GCE( Advanced level )của các trường Singapore kết hợp cùng trường Cambridge trong chương trình dự bị đại học . Sinh viên được yêu cầu đạt được một chuẩn mực thông thạo tiếng mẹ đẻ của họ như là một yếu tố tiên quyết được nhận vào các đại học địa phương. 2.2.1.1Chính sách song ngữ nhằm duy trì hòa bình sắc tộc Chính sách song ngữ chính thức được công nhận vào năm 1966 nhằm đảm bảo sự đa dạng văn hóa, thực hiện nguyên tắc song ngữ và bình đẳng của 4 luồng giáo dục Melayu, Trung Quốc, Anh và. Tamil. Theo đề nghị này các trường đều phải giảng dạy bằng 4 thứ tiếngvà học sinh tiểu học nhất thiết phải học song ngữ đó là tiếng Anh và tiếng mẹ đẻ.Việc xác định chính sách song ngữ trong giáo dục Singapore là một quyết sách hoàn toàn đúng đắn vì Singapore là một cộng đồng đa dân tộc, mỗi một tộc người có một bản sắc văn hóa ,ngôn ngữ riêng và dân tộc nào cũng muốn duy trì bản sắc dân tộc đó Singapore không có tôn giáo nào là quốc giáo. Theo số liệu điều tra dân số tháng 7/ 2003 dân số Singapore là 4.608.595 người trong đó người Hoa chiếm 76,4%, Ấn Độ chiếm 6,4%, người Singapore 14,9%, các dân tộc khác 2,3% (Phạm Mộng Hoa : “ Địa lí kinh tế xã hội các nước ASEAN ” tập 1 ). Như vậy Singapore vẫn là một quốc gia đa dân tộc cho đến ngày nay. Chính sách song ngữ là chính sách nhằm mục đích tạo nên sự hòa bình giữa các sắc tộc. Mỗi một thời kì ở Singapore lại có một chính sách ngôn ngữ riêng phù hợp với thời kì đó. Dưới thời thuộc địa Singapore đã có một cộng đồng nói nhiều thứ tiếng. Người Anh để mặc dân chúng quyết định cách giáo dục con cái. Chính phủ xây dựng một số lượng giới hạn trường tiếng Anh nhằm đào tạo thư kí, thủ kho, … cũng như những trường dạy tiếng Malay cho người Malay. Người Ấn điều hành các trường tiểu học hoặc các lớp dạy học bằng tiếng Ấn, Tamil. Người Hoa xây dựng trường học nhờ vào tài chính của những người thành đạt trong cộng đồng để dạy tiếng Hoa. Do các sắc tộc khác nhau được dạy dỗ bằng ngôn ngữ của chính họ cho nên họ có sự gắn bó về mặt tình cảm với tiếng mẹ đẻ rất sâu sắc. Họ không dễ dàng gì từ bỏ ngôn ngữ của mình để nói một ngôn ngữ hoàn toàn khác. Họ cũng giống như 5 triệu người sống ở Quebec kiên trì giữ gìn tiếng Pháp trong một đại lục có đến 300 triệu người nói tiếng Anh . Hơn nữa một vấn đề cấp thiết cần được giải quyết ngay đó là phải có một ngôn ngữ chung trong lực lượng vũ trang Singapore vì sẽ rất khó khăn để chỉ huy một tập thể mà nói nhiều thổ ngữ khác nhau cũng như phải đương đầu với một viễn cảnh bước vào trận chiến mà không hiểu nhau dù có sử dụng bất kì ngôn ngữ nào trong 4 ngôn ngữ chính thức đi chăng nữa. Do đó chính sách song ngữ đã giữ nguyên tiếng mẹ đẻ trong giáo dục sẽ không làm mất đi truyền thống của họ làm họ cảm thấy giá trị văn hóa dân tộc mình được lưu giữ giữa một quốc gia đa văn hóa đa dân tộc. 2.2.1.2.Tiếng Anh –ngôn ngữ quốc tế Trong xu hướng toàn cầu hóa như hiện nay, Tiếng Anh là ngôn ngữ quốc tế, ngôn ngữ nơi làm việc và đặc biệt rất phù hợp với một cộng đồng giao thương như Singapore. Tiếng Anh sẽ phá vỡ những rào cản ngôn ngữ và văn hóa trong giao tiếp lớp trẻ đồng thời xóa bỏ đi những bất công trong cơ hội tìm kiếm việc làm giữa các thí sinh tốt nghiệp trường tiếng Anh và các trường tốt nghiệp thứ tiếng khác. Thông thạo tiếng Anh là một công cụ cho họ tiếp cận được những tri thức tiên tiến nhất trên thế giới hiện nay, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiêp hóa hiện đại hóa, mang đến cho người Singapore sự tự tin và khẳng định mình trong thế giới châu Á mà từ xa xưa con người không biết đến cái tôi của mình và tạo điều kiện cho sự tiếp xúc với văn hóa phương Tây lấy cá nhân làm trung tâm cũng thâm nhập ngày càng mạnh ở nước này. Năm 1971, tiếng Anh trở thành ngôn ngữ quốc gia, ngôn ngữ hành chính thống nhất của Singapore. . Vì thế chính sách song ngữ được đưa ra là để nguyên giá trị vốn có của nó với 4 ngôn ngữ chính thức là tiếng Malay, tiếng Hoa (phổ thông) tiếng Tamil và tiếng Anh. Do đó chính phủ đề ra việc học 3 thứ tiếng Quan Thọai , Malay, Tamil ở các trường tiếng Anh và giới thiệu việc học tiếng Anh trong các trường dạy bằng tiếng Hoa, tiếng Hoa tiếng Malay và Tamil. Thực tế đã chứng minh việc sử dụng đồng thời cả tiếng Anh là một nhân tố quan trọng. Năm 1966 Đại học Nanyang( Natah) là đại học dạy bằng tiếng Hoa sau này phải đối đầu với những khó khăn. Cơ hội kiếm việc làm cho những người tốt nghiệp ở trường này rất ít. Số lượng sinh viên đến học ở Đại học Singapore ngày càng tăng vì Đaih học Singapore lúc đó sử dụng giảng dạy cả tiếng Anh trong trường đại học là một điều kiên jthuaanj lợi để sinh viên sau khi tốt nghiệp có cơ hội tìm liếm việc làm cao. Những sinh viên giỏi hơn ở các trường tiếng Hoa thi lấy chứng chỉ Anh ngữ của trường Cambridge với tư cách là thí sinh tự do để có thể vào học ở Đại học Singapore. Đại học Nanyang phải hạ điểm chuẩn đầu vào cũng như tiêu chuẩn tốt nghiệp nhưng việc làm này đồng nghĩa với việc là giảm đi uy tín của trường và giá trị của những người tốt nghiệp (Lí Quang Diệu : “Bí quyết hóa rồng ”). Do vậy càng thấy được vai trò của việc học tiếng Anh trong một cộng đồng đa sắc tộc ở Singapore là rất cần thiết . 2.2.2.Sự phản đối của người Hoa Khi chính sách này của chính phủ được đưa ra họ cũng phải đối mặt với một làn sóng phản đối mạnh mẽ của những người gốc Hoa. Khi đề ra chính sách song ngữ thì hiệp hội nhà giáo người Hoa, các ủy ban quản lí trường tiếng Hoa, chủ bút, chủ báo và phóng viên báo tiếng Hoa đã phản đối. Cuối năm 1970 tờ báo tiếng Hoa lớn nhất là Nanyang SiangPang viết nhiều bài báo buộc tội chính quyền đàn áp ngôn ngữ, nền giáo dục văn hóa của người Hoa. Họ vẽ chân dung của Thủ tướng Lí Quang Diệu như một kẻ đàn áp trong một chính phủ “toàn những kẻ ngoại lai quên tổ tông” ( Lí Quang Diệu : “ Bí quyết hóa rồng ”) 2.2.3 Hạn chế của chính sách này Tuy chính sách song ngữ có những đóng góp đáng kể trong sự phát triển giáo dục, kinh tế, xã hội, con người ở Singapore nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận những mặt hạn chế của chính sách này như : - Chính sách song ngữ bằng tiếng Anh và tiếng Malay, tiếng Hoa hay tiếng Tamil đều là gánh nặng lên vai học sinh vì 3 ngôn ngữ mẹ đẻ này hoàn toàn không can hệ gì đến tiếng Anh.Tiếng Quan Thoại ( tiếng Hoa phổ thông ) thuộc ngữ hệ Hán Tạng, tiếng Malay thuộc ngữ hệ Nam Đảo, tiếng Tamil thuộc ngữ hệ Nam Á.Bản thân 3 thứ tiếng này cùng nằm trong một châu lục nhưng cũng không có mối liên quan gì tới nhau, chứ chưa xét đến mối liên hệ với một ngôn ngữ phương Tây là tiếng Anh. - Khi dùng tiếng Anh làm ngôn ngữ giảng dạy những giá trị Nho giáo truyền thống không thể được củng cố trong toàn trường học bởi vì cả giáo viên lẫn học sinh đều là những người thuộc nhiều chủng tộc và sách giáo khoa không được viết bằng tiếng Hoa. Chính sách “nhiều tiếng nói một ngôn ngữ” cũng là một nguy cơ làm giảm đi giá trị truyền thống đạo đức trong sinh viên qua việc tăng tiếp xúc với văn hóa phương tây. -Họ được giáo dục bằng tiếng Anh từ nhỏ nên rất thuần thục tiếng Anh. Những người có bằng cấp ở Singapore muốn du học và làm việc tại những môi trường tốt hơn như Anh, Úc là điều rất dễ dàng vì họ có trong tay chìa khóa tiếng Anh vì thế đây cũng là môt hạn chế do nó thúc đẩy tình trạng chảy máu chất xám ở Singapore. 2.3.Chính sách thu hút nhân tài 2.3.1. Lí do chọn chính sách thu hút nhân tài Đối với bất kì một quốc gia nào trên thế giới nhân tài là một hạt nhân, một yếu tố trọng yếu góp phần mang lại thành công cho đất nước vì có nhân tài sẽ là một đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Nguyên Thủ tướng Lí Quang Diệu đã phát biểu : “ Nếu thắng trong cuộc đua giáo dục sẽ thắng trong cuộc đua kinh tế”tức là nếu lĩnh vực giáo dục được đầu tư phát triển, đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao thì sẽ là một điều kiện thuận lợi đưa đất nước đi tới thành công. Thực trạng Singapore sau khi tách ra khỏi Liên Bang Malaisia rất khó khăn. Chính phủ Singapore nhận thức rằng ngoài tiềm năng con người và vị trí địa lí tự nhiên trời cho, Singapore không có một nguồn tài nguyên nào và cách duy nhất để tồn tại và phát triển là đầu tư cho giáo dục, phát triển kĩ năng con người để họ trở thành trụ cột của đất nước. Thêm vào đó, cuối những năm 70, Singapore phải đối mặt với thực trạng có 5 % người có trình độ ra đi khỏi Singapore và những khó khăn về nguồn nhân tài càng trở nên nghiêm trọng hơn khi các quốc gia phương Tây thay đổi chính sách nhập cư chấp nhận người di dân châu Á. Điển hình như : Australia sửa đổi chính sách vào tháng 3 năm 1966, Canada tháng 10 năm 1967, Mĩ tháng 7 năm 1968.. ( Lí Quang Diệu : “ Tuyển tập 40 năm chính luận ” ) Thủ tướng Lí Quang Diệu đã thực hiện chính sách thu hút nhân tài ở cả trong và ngoài nước. 2.3.2.Các biện pháp được đưa ra để thực hiện chính sách này và những thành tựu đã đạt được. Chính phủ cho thành lập hai ủy ban phát triển nhân lực trong nước: một ủy ban có nhiệm vụ giúp những người có năng lực làm đúng nghề và một ủy ban kết hợp họ lại thành xã hội. Đối với những người thuộc loại xuất sắc ủy ban sẽ có kế hoạch sắp xếp việc làm phù hợp với trình đọ của họ ngay trước khi tốt nghiệp. ( hay còn gọi là ủy ban dịch vụ tư vấn chuyên gia và chuyên nghiệp (PIPS). Kết quả là vào những năm của thập niên 90 dòng nhân tài chảy vào thông qua việc tuyển dụng đạt gấp 3 lần dòng chảy ra ) . Lập hai cơ quan thu hút nhân tài từ Ấn Độ và các nước trong khu vực nhằm giữ chân người có trình độ và thu hút thêm nhân lực có khả năng ở bên ngoài vào ( có những chính sách ưu đãi nhà ở, lương bổng, phương tiện đi lại) ( hay còn gọi là ủy ban chiêu mộ nhân tài ngoại quốc CATS ( Lí Quang Diệu : “ Tuyển tập 40 năm chính luận ”).Ủy ban này đã đưa ra vài trăm học bổng cho các sinh viên giỏi đến từ Trung Quốc, Ấn Độ và các nước khác trong khu vực với hi vọng một số sẽ ở lại vì những cơ hội việc làm tốt hơn. Những người sau này khi trở về nước vẫn có thể giúp đỡ cho các công ty của Singapore ở nước ngoài. Chính sách thu hút nhân tài ở Singapore chú trọng cả nhân tài trong và ngoài nước vì chính phủ xác định rõ ràng rằng Singapore là một quốc gia đa dân tộc và đặc điểm này vẫn còn tồn tại tới tận ngày hôm nay và người ngoại quốc tới nhập cư tại Singapore cũng chiếm một số lượng đáng kể trong tổng số dân của đảo quốc này. Chính vì thế Chính phủ Singapore xác định : “Đối với người Singapore vì lợi ích của toàn thể nhân dân, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ cần phải đào tạo những tài năng trẻ ở mức độ cao nhất để phát huy hết tiềm năng của họ. Đồng thời vì những người bình thường ở Singapore chúng ta cần để những người có tài được hưởng thù lao xứng đáng, thưởng cho những đóng góp của họ đối với sự phát triển về mọi mặt của đất nước. Nếu mất một nhân tài có học vấn Singapore sẽ như người bị chặt mất một khúc cánh tay phải, chẳng làm nên chuyện gì được ( Lí Quang Diệu : “ Tuyển tập 40 năm chính luận ”) Trong 30 bài phát biểu được tuyển chọn của thủ tướng Lí Quang Diệu có tới 9 bài đề cập đến vấn đề nhân tài, đào tạo nhân tài, chiêu mộ nhân tài tới định cư, đóng góp của các nhân tài, sự đãi ngộ nhân tài…Ông Lí Quang Diệu đã vô cùng sáng suốt khi nhận định rằng “ nếu những kẻ bất tài và cơ hội nắm quyền ở nước ta thì nhân dân sẽ phải trả giá đắt” và “ không gì có thể thay thế được những bộ trưởng tài giỏi” ( Lí Quang Diệu : “ Tuyển tập 40 năm chính luận” ) Chính phủ Singapore ngoài việcc thu hút nhân tài trong nước còn đề ra những chính sách hấp dân thu hút nhân tài từ nước ngoài đó là khuyuến khích họ định cư tại Singapore, sau này được hưởng quyền công dân, mua những căn biệt thự cao cấp của Cục nhà ở và phát triển và của công ty phát triển thành phố. Cần thu hút những nhân tài lao động trí óc, nếu họ là người châu Á học càng có khả năng thích ở lại đây lâu dài, nếu họ là người ngoài châu Á (vì ở Singapore đưa ra một điều kiện sống và làm việc cao hơn và chất lượng hơn các quốc gia của họ) thì chính phủ Singapore tạo nghề nghiệp cho họ suốt đời chứ không phải là hợp đồng nhất thời. Thực tế cho thấy những nhân tài từ nước ngoài tới đã đóng góp một phần không nhỏ cho thành công của Singapore tiêu biểu như : thập kỉ 80 các ngành ở Singapore phần lớn là người nước ngoài lãnh đạo : Chủ tịch Cục quản lí thị trấn Dụ Lang Đường Nghĩa Phương đến từ tỉnh An Huy Trung Quốc, Chủ tịch Cục điện tín Dung Vĩnh Thành đến từ Thượng Hải…( Lía Quang Diệu : “ Tuyển tập 40 năm chính luận ”) . Sự tập trung cao độ nhân tài từ bên ngoài vào đã tạo cho giới lãnh đạo Singapore có thêm nguồn nhân lực dồi dào và chất lượng cao .Do đó ngành giáo dục Singapore cũng là một trọng điểm trong việc thu hút nhân tài từ nước ngoài vào đó là việc mời nhiều hơn các giảng sư có trình độ cao hơn để nâng cao chất lượng của trường Đại học đào tạo những sinh viên ưu tú hơn. Thủ tướng Lí Quang Diệu đã viết trong hồi kí của mình : “Trong trường đại học thầy cô giáo là người da trắng, da đen, da vàng hay da nâu hay hỗn chủng điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là họ có năng lực, có nhiệt tình hay không. Nếu muốn có thầy cô giáo tốt chúng ta phải trả lương theo tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời chúng ta sẽ khuyến khích để có thêm nhiều hơn nữa học giả Singapore trở thành giảng sư đại học”( Lí Quang Diệu : “ Tuyển tập 40 năm chính luận ”) .Chúng ta thấy rõ rằng điều quan trọng trong chính sách của Singapore đó là họ đã không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, mà chú trọng việc cần đào tạo ra những tài năng ở mức độ cao nhất để phát huy hết tiềm năng của họ đối với sự phát triển về mọi mặt của đất nước. Bộ Giáo dục Singapore vừa quyết định từ tháng 4-2008 sẽ tăng lương giáo viên. Theo luật mới, lương giáo viên được tăng 12% và với người giảng dạy tốt có thể tăng 18%. Để đảm bảo đợt tăng lương này, Chính phủ Singapore phải chi thêm 380 triệu đô la Singapore/năm. Ngoài ra, tuỳ vào thành tích giảng dạy, giáo viên sẽ được thưởng tương đương 1 tháng đến 2,25 tháng lương. Như vậy, mức lương mới của giáo viên đứng lớp bình quân trên 3 năm sẽ tăng từ 52.000 lên 58.000 đô la Singapore, cao nhất có thể lên đến 65.000 đô la Singapore[1]. Mức lương hấp dẫn và đảm bảo cho cuộc sống của họ nên đó sẽ là một điều kiện thuận lợi để họ tập trung cho chuyên môn của mình từ đó mà chất lượng giáo dục sẽ cao lên, hơn nữa cũng là một trong những biện pháp để hạn chế tình trạng tham nhũng trong ngành giáo dục. 2.4. Kết hợp mô hình giáo dục theo kiểu phương Đông và phương Tây Singapore là một đất nước của những người nhập cư từ rất nhiều quốc gia đặc biệt là ở khu vực châu Á. Chính vì thế ở Singapore nét văn hóa phương Đông được giữ gìn và phát huy một cách mạnh mẽ trong đó người Hoa chiếm phần lớn dân số ở đảo quốc này và văn hóa của họ cũng chiếm ư thế hơn so với các quốc gia khác. . Thực tế trong thời đại hội nhập và phát triển như hiện nay việc kết hợp những giá trị truyền thống phương Đông và giá trị hiện đại của phương Tây cũng là một việc làm hết sức cần thiết. Về mặt giáo dục và đào tạo chính phủ Singapore đã nhận thấy điểm mạnh của hệ thống giáo dục phương Đông là định hướng thi cử và trọng nhân tài. Điểm mạnh của hệ thống giáo dục phương Tây chú trọng phát triển cá tính và phát triển toàn diện . Do đó việc kết hợp cùng lúc hai mô hình giáo dục này sẽ đào tạo ra những con người Singapore mới toàn diện, có nhân cách, biết giữ gìn các giá trị đạo đức chân chính, sống khoan dung và có lòng tự hào về bản thân mình và đất nước mình. Ở Singapore các nền văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng đều được trân trọng. Tuy nhiên với một số dân là người Hoa chiếm ưu thế thì Nho giáo vẫn chiếm vị trí chủ đạo.Thủ tướng Lí Quang Diệu cho rằng Khổng học giáo dục nhân cách tốt hơn, và muốn duy trì một xã hội tốt đẹp thì không thể không giữ gìn các giá trị truyền thống, xây dựng một người Singapore mang đậm màu sắc Trung Hoa truyền thống : tôn trọng kỉ cương, cần cù lao động, tự lực, tôn trọng thành quả chung, củng cố gia đình,ý thức về bổn phận và nghĩa vụ, ham học. Chính phủ rất chú trọng việc giáo dục Nho học trong thế hệ thanh thiếu niên, chính vì thế từ năm 1984 Bộ giáo dục Singapore đã chính thức đưa môn học Khổng giáo thành môn lí luận cho tất cả các trường phổ thông. Song song với đó, nhà trường còn tổ chức cho học sinh tham gia các họat động ngoại khóa, giải trí, thể thao, nghệ thuật biểu diễn ….là những hoạt động bên lề của giáo dục. Những chính sách trên cho thấy, Singapore là một đất nước hiện đại, tuy nhiên những giá trị văn hóa truyền thống mà tiêu biểu ở đây là Singapore kết hợp được giá trị của Nho giáo và phát huy song song với sự giáo dục theo kiểu phương tây. Sự kết hợp ấy đã mang lại cho Singapore một ưu thế đóng góp không nhỏ cho sự phát triển giáo dục mà còn cả trong các lĩnh vực kinh tế ( tôn trọng chữ tín, cạnh tranh lành mạnh) chính trị ( chống tham ô,tham nhũng, gây dựng được lòng tin tuyệt đối ở nhân dân) … 2.5.Phương pháp dạy ít hơn, học nhiều hơn 2.5.1.Tại sao lại đưa ra chính sách này Trước năm 1997 giáo dục Singapore vẫn còn mang nặng những đặc điểm của nền giáo dục theo kiểu truyền thống Á Đông. Phương pháp giảng dạy đó còn máy móc, chỉ giúp cho sinh viên ghi nhớ kiến thức và để vượt qua các kì thi, không giúp phát huy tính sáng tạo trong học sinh sinh viên. Năm 2005 Bộ giáo dục Singapore đưa ra khẩu hiệu dạy ít Hơn, học nhiều hơn ( Teach less, learn more), nhằm tăng cường khả năng tư duy, dộc lập trong suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo trong học sinh, sinh viên. Học các kĩ năng sống, hòa nhập với cộng đồng, hòa nhập với thế giới, kĩ năng lãnh đạo. kĩ năng xử kí tình huống. Đây là những kĩ năng cần thiết cho con người trong thời đại ngày nay khi mà thế giới đang ngày càng tiến tới sự hội nhập, hợp tác. 2.5.2.Chính sách được thực hiện như thế nào? Mô hình “Dạy ít, học nhiều” được thực hiện từng bước một chứ không phải là một bước chuyển đột ngột. Một ví dụ về việc thực hiện mô hình này là sự ra đời của chương trình “Project Work” vào năm 2000, cho phép sinh viên học cách làm việc nhóm và áp dụng kiến thức vào thực tế[7]. Theo Bộ giáo dục Singapore, Project Work là một phương pháp đào tạo, theo đó các môn học sẽ được tích hợp, kết nối với nhau giúp sinh viên khám phá sự gắn kết và thống nhất giữa chúng. Project Work sẽ giúp sinh viên phát triển kỹ năng trong 4 lĩnh vực sau: Áp dụng kiến thức: Sinh viên được học các kỹ năng nghiên cứu cơ bản, áp dụng và lưu chuyển kiến thức giữa các môn học khác nhau và tạo mối liên hệ giữa chúng. Truyền thông: Sinh viên học cách truyền đạt ý tưởng một cách rõ ràng và hiệu quả. Hợp tác: Sinh viên phát triển các kỹ năng xã hội thông qua các bài tập làm việc nhóm nhằm đạt mục tiêu chung. Học tập độc lập: Sinh viên phải chịu trách nhiệm và tự quản lý sự học của mình, phát triển thái độ học tập và nghiên cứu tích cực. Project Work được chú trọng hơn ở trường Trung học cơ sở, Trung học phổ thông. Đối với trường tiểu học, Bộ giáo dục đưa ra chính sách “Giáo dục tích cực” (Strategies for Effective Engagement and Development – SEED), kêu gọi giáo viên xây dựng các chiến lược hiệu quả để kích thích tinh thần học tập của học sinh ngay từ khi các em mới bước chân vào trường học.[15] Theo chính sách này, các trường tiểu học sẽ phải cải thiện cả chương trình giảng dạy và phương pháp đánh giá chất lượng giáo dục. Ví dụ, Trường tiểu học Rulang đã tổ chức lại chương trình học để học sinh hào hứng và tham gia tích cực hơn vào bài giảng. Các em được học các kiến thức và kỹ năng thông qua những hoạt động vui tươi, hấp dẫn và phù hợp. Để hỗ trợ việc đổi mới giáo dục, Bộ giáo dục Singapore cam kết thực hiện những thay đổi về cấu trúc chương trình học và cung cấp những nguồn lực cần thiết. Bộ sẽ tăng cường tính linh hoạt, chủ động của các trường bằng cách rút gọn chương trình giảng dạy tới 10-20% để tạo “thời gian trống”. Giáo viên được tự do giành thời gian trống thực hiện các bài giảng do họ tự thiết kế, áp dụng nhiều phương pháp giảng dạy, đánh giá đa dạng để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của từng học sinh. Bộ giáo dục giảm 2 giờ làm mỗi tuần cho mỗi giáo viên để họ có thêm thời gian lên kế hoạch giảng dạy và trao đổi kinh nghiệm chuyên môn. Theo chiến lược “Dạy ít, học nhiều”, Giáo dục Singapore tập trung nâng cao chất lượng học tập của sinh viên bằng cách tạo thêm nhiều “khoảng trống” trong chương trình học để giáo viên có thể thực hiện những kế hoạch giảng dạy riêng, cùng sinh viên định hình một môi trường giáo dục riêng và bồi dưỡng nghiệp vụ. Với mô hình “Dạy ít, học nhiều”, kiểu học vẹt, học vì thành tích sẽ bị loại bỏ. Thay vào đó, sinh viên sẽ chủ động hơn trong học tập, khám phá tri thức thông qua các thí nghiệm, trải nghiệm thực tế, học các kỹ năng sống và xây dựng nhân cách nhờ chiến lược đào tạo hiệu quả và sáng tạo. Ngoài ra, sinh viên cũng có thêm nhiều cơ hội học tập và rèn luyện toàn diện để phát triển tư duy, nhân cách và những tố chất để thành công trong tương lai. Mô hình “Dạy ít, học nhiều” đã được áp dụng ở nhiều trường học Singapore, đơn cử như Trường trung học Bedok South, học sinh được học làm phim và thiết kế poster cho Quỹ Trái tim Singapore, thiết kế bộ sạc điện thoại nhờ phần mềm máy tính…Không chỉ thế, trường học còn tạo điều kiện để các em biến thiết kế của mình thành sản phẩm thực sự. Với những hoạt động như vậy, học sinh đã đồng thời được học nhiều môn học khác nhau: Âm nhạc, nghệ thuật, thiết kế, công nghệ. . Về tài chính, Bộ giáo dục dành khoảng 40 triệu đô la Singapore để xây dựng cơ sở vật chất cho trường học nhằm đảm bảo tính chủ động của giáo viên và học sinh. Các trường có thể được trang bị các lớp học đặc biệt phù hợp với cả hoạt động tập thể, hoạt động nhóm, “phố sinh thái” để học về khoa học tự nhiên, hoặc một nhà hát để học nghệ thuật biểu diễn.[7] 2.5.3. Thách thức đối với mô hình giáo dục này Nhiều người cho rằng hệ thống giáo dục cũ có thể tiếp tục vận hành theo mô hình hiện tại mà vẫn đem lại kết quả tốt. Đó chính là một thách thức lớn đối với chiến lược “Dạy ít, học nhiều” bởi những cách tân theo kế hoạch của chính phủ sẽ là đem lại những bất lợi do tồn tại từ lâu một hệ thống giáo dục theo kiểu truyền thống. Để thực hiện thành công mô hình “Dạy ít, học nhiều”, giáo viên và những người quản lý giáo dục phải hiểu rằng học tập tích cực. Một người học tích cực là người dành toàn tâm toàn ý cho việc học tập, càng tích cực bao nhiêu thì chất lượng học tập càng tăng bấy nhiêu. Theo kiểu giáo dục truyền thống, giáo viên cung cấp thông tin và kiến thức để học sinh học thuộc và “nhai đi nhai lại”. Theo mô hình mới này, người học phải là người chủ động trong quá trình học; giáo viên chỉ đóng vai trò hướng dẫn, khuyến khích và hỗ trợ. 2.6. Đầu tư giảng dạy môn toán và khoa học trong các trường học Chính phủ Singapore xác định cần chú trọng giáo dục các môn khoa học tự nhiên, toán học trong trường học. Hiện nay, Singapore là quốc gia được xếp hàng đầu trong cả hai lĩnh vực toán và khoa học tại một cuộc nghiên cứu tập trung ở lứa tuổi học sinh lớp 4 ( tiểu học) và lớp 8 ( trung học ) được tiến hành tại 49 quốc gia vào năm 2002-2003 đã xác nhận chất lượng cao của các chương trình đào tạo toán và khoa học tại các trường công lập của Singapore[10]. Bộ giáo dục Singapore thu hút rất nhiều nhà khoa học hàng đầu về các lĩnh vực khoa học và kĩ thuật làm giảng sư tại các trường đại học và trả cho họ mức lương cực kì hấp dẫn cùng điều kiện làm việc tốt. Ngày 14/01/2009 Bộ giáo dục Singapore đa trao cho mười nhà khoa học xuất sắc trong các lĩnh vực khoa học công nghệ, khoa học nano, năng lượng mặt trời, y khoa,…đến từ các quốc gia như Mĩ, Nhật , Trung Quốc…đã nhận được học bổng hỗ trợ nghiên cứu hàng năm trị giá 15 triệu $ do Quỹ nghiên cứu quốc gia Singapore (NRF) trao tặng .[2] Các nhà khoa học trên được tuyển chọn từ 186 ứng cử viên trên toàn thế giới. Mỗi người nhận được học bổng trị giá 1,5 triệu USD, số tiền này phục vụ cho chu kỳ nghiên cứu công trình khoa học của họ trong vòng ba năm ở Singapore. Ngoài học bổng, các nhà khoa học này còn  được trả lương tương ứng khi làm việc trong các viện nghiên cứu trong thời gian ở đảo quốc này. Đây là lần thứ hai NRF trao học bổng hỗ trợ nghiên cứu cho các nhà khoa học trên khắp thế giới nhằm thu hút các nhân tài trẻ đến Singapore làm việc. Báo Straits Times dẫn lời tiến sĩ Francis Yeih, giám đốc quỹ NRF cho biết tổ chức này đang nhắm đến mục đích thu hút  khoảng 50-100 nhà khoa học trẻ trên thế giới đến Singapore bằng học bổng NRF, nhằm xây dựng lực lượng khoa học hùng mạnh đến Singapore nghiên cứu và làm việc trong mọi lĩnh vực khoa học. Mười nhà khoa học này là nhóm thứ hai nhận học bổng của NRF kể từ năm 2007.[2] 3. Thành tựu đạt được từ những chính sách này. Từ những chính sách giáo dục đó Singapore đã đạt được rất nhiềut hành tựu xuất sắc như sau : Theo thống kê năm 1996 tỉ lệ người biết chữ trong độ tuổi 15 trở lên là 92,2 % trong đó nam giới là 96,4 % , nữ giới là 87,8%.[3,24] Học sinh của Singapore được giáo dục bằng tiếng Anh ngay từ những năm đầu bước vào tiểu học, học song song cùng chính sách song ngữ. Lợi thế về tiếng Anh đó là điều kiện thuận lợi để họ tiếp cận những nền tri thức tiên tiến nhất trên thế giới.Khả năng giao tiếp tiếng Anh tốt cùng với những yếu tố chủ quan và khách quan khác đã giúp Singapore trở thành trung tâm tài chính, tiền tệ lớn và khối lượng giao dịch tiền tệ cao ( năm 1975 có 70 ngân hàng nước ngoài và 36 đại diện của nhiều công ty tài chính quốc tế, đến năm 1985 Singapore có 192 ngân hàng thương mại và 34 công ty hành chính, 84 công ty bảo hiểm) Trong 100 ngân hàng lớn trên thế giới thì có đến 70 ngân hàng đặt chi nhánh họat động tại Singapore (Phạm Thị Ngọc Thu : “ Bí quyết hóa rồng của Singapore ”). Tính đến năm 2006 Singapore có đến 6000 công ty đa quốc gia họat động thuận lợi. Bên cạnh đó, Singapore còn là một điểm du lịch hấp dẫn ở khu vực và trên thế giới là do có tiềm năng về lĩnh vực này như : một quốc gia đa dân tộc, nhiều bản sắc văn hóa, cơ sở hạ tầng khang trang và hiện đại và lợi thế về khả năng nói tiếng Anh là một yếu tố không thể thiếu được. Do được học tiếng Anh và tiếp xúc với văn minh phương tây khá sớm nên người Singapore được tiếp cận với những nền văn hóa phương Tây và do đó việc hòa nhập trong một xã hội, một nền kinh tế hiện đại là điều đơn giản. Singapore là quốc gia sử dung dịch vụ viên thông lớn nhất ở châu Á với tỉ lệ sử dụng dịch vụ Internet là 41% [3] - Trường Đại học Quốc gia Singapore (NUS) được xếp hạng 18 trong chương trình khảo sát 200 trường đại học tốt nhất trên thế giới năm 2004 của Thời báo Luân Đôn. NUS còn xuất hiện trên hàng top trong số các trường bách khoa và IT, đứng thứ 9 trong bảng xếp hạng các ngành học, vượt xa nhiều trường đại học danh tiếng khác[3] Trong bảng xếp hạng Những trường Đại học tốt nhất châu Á năm 2000 của tạp chí Asiaweek, Trường Đại học Quốc gia Singapore (NUS) được xếp ở vị trí thứ 5 trong tổng số 77 trường Đại học trong bảng xếp hạng toàn diện các trường học có nhiều ngành học đa dạng ở châu Á. Trường Đại học Kỹ thuật Nanyang (NTU) đứng thứ 9 trong tổng số 39 trường Đại học trong bảng xếp hạng toàn diện các trường Đại học khoa học và kỹ thuật. Và trong bảng xếp hạng các trường Đại học Quản trị hàng đầu châu Á năm 2000, Trường Thương mại NUS được đánh giá là một trong những “Trường đào tạo Thạc sĩ Quản trị bán thời gian tốt nhất” và nhận được danh hiệu “Trường học danh tiếng nhất”. Những trường đại học này rõ rang flà đã đào tạo ra một nguồn nhân lực chất lượng cao, năng động, có kiến thức phục vụ trong rất nhiều ngành nghề. Đây là một yếu tố quan trọng góp phần đưa Singapore phát triển. - Trường Đại học Kỹ thuật Nanyang (NTU), những sinh viên học ngành Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh của trường cũng được bình chọn trong số “những sinh viên xuất sắc nhất thế giới” trong một cuộc điều tra nghiên cứu xếp hạng do Economist Intelligence Unit, một thành viên của Tập đoàn Kinh tế tiến hành khảo sát vào năm 2004[3] NTU nằm trong số 100 trường đào tạo Thạc sĩ Quản trị hàng đấu trên thế giới. - Sau Nhật Bản, giáo dục Singapore đang dần khẳng định thương hiệu của mình trong khu vực. 70000 sinh viên quốc tế ( trong đó có 4000 sinh viên Việt Nam ) chọn đây là địa điểm du học lí tưởng.[3] 4. Bài học kinh nghiệm cho giáo dục Việt Nam Singapore và Việt Nam cùng nằm trong khu vực Đông Nam Á do đó cũng có đôi nét tương đồng về văn hóa, hoàn cảnh lịch sử. Tuy nhiên mỗi nước lại có những chính sách khác nhau trong bước đi của mình. Ngày nay Singapore đã trở thành một trung tâm giáo dục hàng đầu ở khu vực Đông Nam Á và khu vực cũng như tầm ảnh hưởng trên thế giới. Sức hút từ giáo dục Singapore ngày càng lớn không chỉ đối với Việt Nam mà còn với các nước khác. Từ những bài học đem lại thành công cho giáo dục Singapore em nhận thấy có rât nhiều bài học Việt Nam có thể tiếp thu được và xây dựng trong tương lai không xa. 4.1.Tăng cường việc dạy và học tiếng Anh Bộ giáo dục Việt Nam cần có những chính sách hợp lí hơn nưa để đưa môn tiếng Anh vào trường học một cách sâu rộng hơn nữa, làm cho tiếng Anh không chỉ là một môn học mà còn là một ngoại ngữ quan trọng cho học sinh. Nguyên Thủ tướng Lí Quang Diệu đã gợi ý Đại học Việt Nam nên có sách giáo khoa tiếng Anh ở các ngành kĩ thuật, công nghệ, bởi nếu chỉ dùng sách Việt Nam thì chắc chắn sẽ tụt hậu. Trên thực tế hiện nay tất cả các kĩ sư làm việc quốc tế đều có khả năng nói tiếng Anh rất tốt. Ông cảnh báo rằng nếu tất cả sinh viên Việt Nam sau này không thể nghe và nói tiếng Anh trôi chảy chỉ có thể đọc thôi cũng là tụt hậu[11]. Thực tế ở Việt Nam tiếng Anh đã được đưa vào chương trình dạy và học từ rất lâu tuy nhiên môn học này thực sự phát triển . Ở nước ta vai trò của tiếng Anh đã được đặt ra. Năm 2006 Viện chiến lược và chương trình giáo dục ( Bộ giáo dục và đào tạo) khởi thảo đề án “ Chiến lược dạy ngôn ngữ trong trường phổ thông ”trong dó xác định tiếng Anh là ngôn ngữ chính. Tuy nhiên đề án còn đang bỏ ngỏ vì những tranh cãi căng thẳng về việc có nên suy tôn tiếng Anh như vậy không[12]. Cần phát triển việc dạy và học tiếng Anh cả về phạm vi và chất lượng đào tạo vì đây là thời đại công nghệ thông tin, toàn cầu hóa và việc tiếp xúc trao đổi, xúc tiến giáo dục đã trở thành một nhu cầu tất yếu và tiếng Anh là ngôn ngữ quốc tế để giao dịch, kết nối mọi người. 4.2.Chú trọng đầu tư chất lượng giáo viên bằng các biện pháp thực tế. Giáo dục Việt Nam cần tăng lương thoả đáng cho giáo viên vì khi có lương cao, được đảm bảo cuộc sống, họ sẽ chuyên tâm đầu tư nghiên cứu phục vụ công việc giảng dạy của mình và như thế chất lượng bài giảng, thời gian đầu tư cho công việc của mình sẽ tăng lên. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã từng bày tỏ sự băn khoăn về việc trả lương cao cho viên chức nhà nước. Bởi lẽ khu vực này đầu tư thấp chưa thu hút được nhiều nhân tài vào đây. Ông Lí Quang Diệu đã nói “ nếu bộ máy hành chính tốt, đầu tư nhiều doanh thu sẽ nhiều, lương cho viên chức sẽ cao, sẽ thu hút được nhân tài, nhờ đó bộ máy hành chính sẽ hoạt động tốt. Chính vì thế, muốn tạo ra một nền giáo dục tốt thì điều kiện tối quan trọng là phải có một đội ngũ giáo viên có chất lượng cao và tâm huyết với nghề. Việc tăng lương cho giáo viên là một biện pháp không chỉ tác động vào kinh tế mà còn vào tâm lí của họ giống như như chính phủ Singapore đã thực hiện 4.3.Việt Nam nên có những ngành nghề đào tạo kĩ thuật, đào tạo những công nhân lành nghề đang còn rất thiếu trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vấn đề này có thể đem ra so sánh với Singapore : Nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa và từng bước đưa đất nước hòa nhập vào hệ thống toàn cầu nên ngay từ khi giành được độc lập Chính phủ Singapore đã chú trọng phát triển nguồn nhân lực. Về mặt giáo dục, từ năm 1968 trở đi, tất cả học sinh nam và nữ ở cấp trung học bắt đầu được đào tạo hướng nghiệp , chú trọng đến các môn khoa học tự nhiên, khoa học ứng dụng, quản lí kinh tế và nghiệp vụ kinh doanh. Từ cuối những năm 70, đầu những năm 80 Singapore bước sang giai đọan cải tổ cơ cấu nền kinh tế theo hướng hiện đại hóa công nghệ và sử dụng nhiều chất xám [6 ,43] Chính vì thế nên người Singapore hầu hết đều có kĩ năng nghề nghiệp cao chủ yếu về các ngành công nghệ thông tin, sử dụng máy móc kĩ thuật cao, chế tạo vi điện tử....khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật mới trên thế giới hết sức nhạy bén vì học được đào tạo bài bản tại các trường Đại học kĩ thuật chất lượng cao hàng đầu khu vực như : Đại học Quốc gia Singapore ( NUS ), Đại học Công nghệ Nanyang, cộng thêm trình độ tiếng Anh nên khả năng tiếp thu và ứng dụng công nghệ rất tốt Lí do thực hiện chính sách này : Do tâm lí của người Việt Nam “thà làm thầy còn hơn làm thợ” đã tạo ra áp lực cho hệ thống giáo dục, tạo ra những con người có lí thuyết hơn là có tay nghề. Thực trạng này trở thành một gánh nặng và áp lực cho giáo dục Việt Nam và cho sinh viên sau khi ra trường vì để đáp ứng nhu cầu xã hội nhiều sinh viên phải học thêm một bằng nữa để dễ dàng. Nhất là trong xu hướng toàn cầu hóa như hiện nay và đặc biệt là từ khi Viêt Nam gia nhập WTO tháng 11 năm 2006, chúng ta đang ngày càng có điều kiện để hòa nhập hơn nữa với những nền kinh tế lớn trên thế giới, tiếp thu những văn minh tiên tiến nhất. Vì vậy, chúng ta phải có một đội ngũ công nhân lành nghề, có trình độ , chuyên môn để có thể nắm bắt kịp những công nghệ mới, hơn nữa đáp ứng được nguồn lao đọng trong các ngành nghề hiện nay ở Việt Nam mới chủ yếu là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo.,. Ngày 15/04/2008 Bộ chính trị ban hành kết luận về việc phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2010 . Theo đó giáo dục cần sớm khắc phục tình trạng quá tải nặng về lí thuyết, nhẹ về thực hành, không duy trì các trường đại học chất lượng kém. Đây được coi như là một giải pháp ban đầu để khắc phục tình trạng trên. Đây cũng là một sự so sánh nhỏ để thấy được giáo dục đa đóng vai trò rất quan trọng nhằm đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao thích nghi với sự phát triển của xu thế toàn cầo hóa, nhất là trong cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật như hiện nay. 4.4.Nhân tài và thu hút nhân tài Nhân tài ở bất kì quốc gia nào cũng là một yếu tố quan trọng , một nguồn sức mạnh nội lực đưa đất nước phát triển nhất là từ khi Việt Nam gia nhập WTO. Tuy nhiên thực trạng hiện nay cho thấy, có rất nhiều thanh niên có trình độ du học tại nước ngoài. Sau khi học xong họ ở lại nước bạn làm việc chính vì thế nước ta mất đi một nguồn nhân tài lớn và nguồn kinh phí ngoại tệ đổ ra nước ngoài rất lớn. Nhận thấy được tình trạng đó, năm 2004 tại Việt Nam có đề ra một chiến lược phát triển nuôi dưỡng và đào tạo nhân tài được giao cho một số đơn vị chức năng xây dựng trong đó Bộ giáo dục và đào tạo đảm nhiệm việc làm đề án chiến lược nhân tài ở bậc phổ thông, Đại học quốc gia Hà Nội xây dựng công nghệ đào tạo nhân tài từ đại học. Chúng ta phải thực sự coi trọng vấn đề này bởi lẽ “ Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp. Bởi vậy các bậc thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ có mối quan hệ thật là quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Vì thế cái ý tôn trọng họ thật là vô cùng” ( Bài kí đề tên bia Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Bảo Đại thứ 3 năm 1442 của Đông Các Đại học sĩ Thân nhân Trung- “ Lịch sử Việt nam hỏi và đáp” – Phụ san báo Khoa học và đời sống )câu nói ấy của ông cha ta cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị. Nước nào biết dùng nhân tài và biệt đãi nhân tài thì nước đó sẽ phát triển. Đề án được đưa ra như vậy nhưng khả năng thực hiện thì còn phải chờ đợi vào một quá trình lâu dài. Tuy nhiên hiện nay cũng có nhiều y kiến cho rằng : không nên ép người du học từ nước ngoài về nước làm việc ( nhất là những người đi học theo ngân sách nhà nước ) bởi lẽ ở nước ngoài học sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để phát triển năng lực cá nhân. Điều này cũng đồng nghĩe với việc đặt ra một thách thức đó là : điều kiện ở Việt Nam chưa đủ hấp dẫn để những người có năng lực trở về nước làm việc. Do vậy song song với chính sách thu hút nhân tài, chúng ta cần đổi mới trước tiên là hệ thống giáo dục sau đó là các điều kiện về kinh tế xã hội nhằm tạo ra môi trường tốt là nhân tố chủ quan để thu hút nhân tài. Kết luận. Từ những vấn đề đã đề cập ở trên, chúng ta thấy những chính sách ở Singapore đã đóng góp rất lớn vào sự phát triển của đất nước. Nền giáo dục không chỉ làm nhiệm vụ phổ cập giáo dục mà còn đào tạo ra nhiều nhân tài trên tất cả các lĩnh vực khoa học, kĩ thuật...Bước sang thế kỉ XXI, nền kinh tế tri thức là động lực chính cho toàn cộng đồng thì giáo dục lại càng quan trọng hơn trong việc định hình tương lai cho một quốc gia vì giáo dục không chỉ nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân mà còn là một yếu tố then chốt để phát triển cộng đồng, xây dựng đất nước, giao lưu và hội nhập quốc tế. Sự lớn mạnh và phát triển của một quốc gia tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố. Bên cạnh những luới thế về tự nhiên, chính trị, lịch sử… giáo dục đóng một vai trò hết sức quan trọng. Bước sang thế kỉ 21, thế giới đã có những bước chuyển mình vượt bậc về nhiều lĩnh vực. Sự cạnh tranh về chất xám đang diễn ra một cách quyết liệt và trở thành một vấn đề mang tính toàn cầu. Singapore đã đạt được những thành tựu rực rỡ trên nhiều lĩnh vực và giáo dục đóng vai trò không nhỏ. Đối với Việt Nam, Singapore là một đối tác mang tầm chiến lược về nhiều lĩnh vực đồng thời cũng là một tấm gương về việc đào tạo con người, thu hút nhân tài. Việt Nam là một đất nước Á Đông, vốn coi trọng hiền tài, coi trọng những giá trị giáo dục. Trong thời kì hội nhập chúng ta nên có những quyết sách đầu tư,phát triển giáo dục và tiếp thu kinh nghiệm từ bạn bè quốc tế để giáo dục trở thành một đòn bẩy, một động lực đưa đất nước phát triển nhanh hơn và bền vững hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Thị Thanh Hương. Tính cộng đồng, tính cá nhân và thành công trong phát triển đất nước của Singapore – Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, năm 2004 số 1-6 2. Lí Quang Diệu. Bí quyết hóa rồng nhà xuất bản trẻ thành phố Hồ Chí Minh năm 2001 3. Lí Quang Diệu. Tuyển tập 40 năm chính luận 4. Phạm Mộng Hoa. Địa lí kinh tế xã hội các nước ASEAN ( tập 1) – Nxb. Khoa học xã hội năm 2004 5. Phạm Thị Ngọc Thu . Bí quyết hóa rồng của Singapore – Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, năm 2006 số 1-6. 6. Phan Ngọc Liên. Giáo dục – một động lực phát triển của Singapore – Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, năm 1991. 7.Trần Khánh. Kinh nghiệm phát triển sức mạnh quốc gia của Singapore - Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, năm 2008. 8. Trần Khánh. Phát triển và thích nghi nguồn nhân lực với công nghiệp hóa – kinh nghiệm của Singapore – Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á. 8 Trang web : 1. Tên bài viết : Singapore – tăng lương giáo viên ( thứ 7 ngày 29/12/2007) 2. Tên bài viết : Thu hút chất xám bằng học bổng khổng lồ ( thứ hai ngày 19/1/2009 ) 3. Tên bài viết : Tại sao nên chọn học tập ở Singapore 4. Tên bài viết : giao lưu trực tuyến về giáo dục Singapore ( Thứ hai, ngày 20/08/2007 ) 5. Tên bài viết : Giáo dục Singapore- người bạn “ nhỏ “ nhưng bài học “ lớn “ ( chủ nhật ,ngày 20/08/2006) 6. Tên bài viết : Ấn tượng giáo dục Singapore 7. Tên bài viết : Singapore cải cách giáo dục theo hướng dạy ít học nhiều ( 06/12/2009) 8. Tên bài viết : Singapore hạ dự báo tăng trưởng kinh tế trong năm 2009 ( ngày 23/01/2009 ) 9. ngày 24/1/2007 Tên bài viết : Vì sao Singapore phát triển thần kì ( ngày 24/01/2007 ) 10. Tên bài viết : Các khóa học và ngành học tại Singapore 11. Tên bài viết : Ông Lí Quang Diệu tặng Việt Nam 4 ý tưởng giáo dục ( ngày 23/01/2007 ) 12. buổi gặp gỡ ngày 16/1. Tên bài viết : Lí Quang Diệu và chính sách giáo dục để hóa rồng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhững chính sách giáo dục tiêu biểu của Singapore.doc
Luận văn liên quan