KHÁI NIỆM VÀ BẢN CHẤT CỦA XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ
a. Khái niệm xuất khẩu hàng hoá
Hoạt động xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế so sánh của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế.
Theo cách khác chúng ta có thể định nghĩa xuất khẩu hàng hoá là : việc đưa hàng hoá ra thị trường nước ngoài để tiêu thụ nhằm thoả mãn nhu cầu và mong muốn của khách hàng nước ngoài.
b. Bản chất của xuất khẩu hàng hoá
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển. Nó diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng tiêu dùng cho tới hàng hoá tư liệu sản xuất, từ máy móc thiết bị cho tới công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động đó đều nhằm mục tiêu đem lại lợi nhuận cho các quốc gia tham gia.
Xuất khẩu là một trong những hình thức kinh doanh quan trọng nhất trong hoạt động thương mại quốc tế. Nó có thể diễn ra trong một hai ngày hoặc kéo dài hàng năm, có thể tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau.
Xuất khẩu hàng hoá là nguồn chính của thu nhập và chi tiêu quốc tế ở hầu hết các quốc gia .Trong số các công ty tham dự vào một số dạng hoạt động thương mại quốc tế, ngày càng có nhiều công ty hơn xâm nhập vào các hoạt động xuất khẩu hơn bất kỳ loại giao dịch nào khác.
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động đầu tiên của một công ty quốc tế vì nó đòi hỏi sự ràng buộc và sự rủi ro tối thiểu về những nguồn lực của công ty.
Xuất khẩu hàng hoá được tiếp tục ngay cả khi công ty đa dạng hoá phương thức hoạt động. Hay nói cách khác, trong một số trường hợp xuất khẩu có thể bị gián đoạn nhưng nó vẫn thường tiếp tục, hoặc bởi những hoạt động thương mại với các thị trường khác hoặc bước sang những hoạt động thương mại mới.
2. QUAN ĐIỂM CHỦ ĐẠO CỦA NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
a. Quan điểm chủ đạo của nhà nước vễ xuất khẩu hàng hoá
Để khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại với nước ngoài góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước, căn cứ vào luật tổ chức chính phủ ngày 39/09/1992, theo quy định của Bộ trưởng Bộ thương mại thì chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam rất ưu tiên cho công tác xuất khẩu của các doanh nghiệp. Các quy định và hướng dẫn chi tiết về việc này được ghi trong nghị định 57 CP ngày 30/07/1998.
Việc quản lý của Nhà nước về hoạt động xuất khẩu được thực hiện theo nguyên tắc sau:
Tuân thủ luật pháp và các chính sách có liên quan của Nhà nước về sản xuất lưu thông và quản lý thị trường .
Tôn trọng các cam kết với nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế.
Đảm bảo quyền tự chủ trong kinh doanh của các doanh nghiệp và đảm bảo sự quản lý của Nhà nước.
Nhà nước khuyến khích và có chính sách hỗ trợ đối với các doanh nghiệp phát triển và mở rộng thị trường mới, xuất khẩu các mặt hàng mà Nhà nước khuyến khích xuất khẩu.
Bộ thương mại cùng uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Bộ tài chính, ngân hàng Nhà nước, các Bộ có liên quan trình Chính phủ danh mục mặt hàng khuyến khích xuất khẩu, các chính sách và biện pháp để thực hiện các mục tiêu trên.
Nhằm khuyến khích xuất khẩu trường hợp các doanh nghiệp đã có giấy phép kinh doanh xuất khẩu, những mặt hàng ngoài phạm vi danh mục nghành hàng đã đăng ký trong giấy phép kinh doanh xuất khẩu thì Bộ thương mại có trách nhiệm xem xét và giải quyết cụ thể từng hợp đồng xuất khẩu nhưng mặt hàng đó.
Đặc biệt trong văn kiện đại hội VIII Đảng ta đã xác định rõ: Công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn trước hết phải nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đa dạng của nông, lâm, ngư nghiệp, bảo đảm vững chắc yêu cầu an toàn lương thực cho xã hội, tạo nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị, phát triển các nghành nghề , làng nghề truyền thống và các nghành nghề mới bao gồm cả tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp.
CHƯƠNGI:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHIẾN LƯỢC XUẤT KHẨU Ở CÔNG TY KINH DOANH QUỐC TẾ.
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG CHIẾN LƯỢC MARKETING XUẤT KHẨU MẶT HÀNG GẠO CỦA TỔNG CÔNG TY LƯƠNG THỰC MIỀN BẮC
CHƯƠNG III
NHỮNG GIẢI PHÁP THỰC TIỄN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CHIẾN LƯỢC MARKETING XUẤT KHẨU MẶT HÀNG GẠO TẠI TỔNG CÔNG TY LƯƠNG THỰC MIỀN BẮC .
77 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2495 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp nâng cao hiệu quả Marketing Xuất khẩu mặt hàng Gạo tại công ty lương thực Miền Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n công tác này.
QUYỀN TỰ DO KINH DOANH:
Tổng công ty Lương thực Miền Bắc là một doanh nghiệp nhà nước, có tư cách pháp nhân và có đủ thẩm quyền để tham gia vào các hoạt động thương mại nội địa cũng như quốc tế. Tổng công ty có quyền tự do kinh doanh những mặt hàng được quy định trong chức năng kinh doanh của mình.
NĂNG LỰC PHÁP LÝ CỦA TỔNG CÔNG TY LƯƠNG THỰC MIỀN BẮC:
Năng lực pháp lý của Tổng công ty được xác định rất rõ ràng thông qua các điều kiện sau:
Được nhà nước thành lập.
Có các tài khoản ở ngân hàng và tự chủ về tài chính.
Độc lập về pháp luật, về tài sản, bình đẳng về kinh tế, xã hội trong tham gia các quan hệ pháp luật, kinh tế, xã hội.
Độc lập tiến hành các hoạt động kinh doanh, tự chịu trách nhiêm với pháp luật hiện hành về hoạt động kinh doanh của mình.
Có bộ máy tổ chức điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH CỦA TỔNG CÔNG TY LƯƠNG THỰC MIỀN BẮC :
Khả năng hay tình hình tài chính của các doanh nghiệp là vấn đề cốt lõi để các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu tiến hành công tác ngoại thương của mình.
Kế hoạch tài chính của Tổng công ty Lương Thực Miền Bắc bao gồm: xác định nhu cầu về vốn và huy động các nguồn vốn đáp ứng khả năng kinh doanh, xác định doanh thu, chi phí, lợi nhuận, phân phối lợi nhuận và nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà Nước.
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
2001
Doanh thu
2.574
3.573
3.468
3.511
Nộp Ngân sách Nhà Nước
51
75
92,7
138
Lãi thực hiện trước thuế
57,97
80
170
45,695
BIỂU HÌNH 14 : KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH CỦA
TỔNG CÔNG TY LƯƠNG THỰC MIỀN BẮC TỪ NĂM 1998 – 20001
Từ năm 1998 cho đến năm 2000, tình hình sản xuất kinh doanh của Tổng công ty rất có hiệu quả, đặc biệt là mức lợi nhuận qua các năm đều tăng. Cụ thể năm 1999, lợi nhuận tăng 138 % so với năm 1998. Năm 2000 lợi nhuận tăng 212,5% so với năm 1999.
Nhưng năm 2001, mặc dù mức doanh thu vẫn tăng đều như các năm khác nhưng lợi nhuận của năm 2001 giảm xuống. Lý do vì:
Từ tháng 7 đến tháng 12/2001, một số đơn vị được Bộ Thương Mại giao chỉ tiêu xuất khẩu uỷ thác đã bỏ không thực hiện các chỉ tiêu được giao. Điều này gây khó khăn và phát sinh rất nhiều chi phí cho VINAFOOD I , là đơn vị đầu mối.
Để giữ uy tín với khách hàng và thực hiện chỉ đạo của Bộ Thương Mại,VINAFOOD I đã giao đủ số gạo nói trên bao gồm: 9.080,95 tấn của công văn số 3094 TM/ XNK và 800 tấn của công ty Thương Nghiệp xuất nhập khẩu Đồng Tháp. Điều này phát sinh lỗ lớn cho VINAFOOD I.
Tổng công ty Lương Thực Miền Bắc luôn thực hiện tốt nhiệm vụ đối với Nhà Nước, đem lại nguồn thu cho Ngân sách Nhà Nước. Khoản nộp Ngân sách cho Nhà Nước đều tăng hàng năm nhưng năm 2001 thì tăng đến gần gấp rưỡi năm trước.
Ngoài ra, để thực hiện một cách tốt nhất các hợp đồng với các bạn hàng nước ngoài, Tổng công ty Lương Thực Miền Bắc có thể huy động vốn của các doanh nghiệp trực thuộc, của Ngân hàng v.v.
Như vậy, với tình hình tài chính và uy tín trong kinh doanh, Tổng công ty Lương Thực Miền Bắc luôn xứng đáng là một trong những nhà xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam.
TRÌNH ĐỘ CỦA CÁN BỘ CÔNG NHÂN VIÊN TRONG TỔNG CÔNG TY:
Với đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ kinh doanh khá cao, rất nhiều người có trình độ đại học và trên đại học về kinh doanh xuất nhập khẩu như cử nhân kinh tế, cử nhân luật…và một số bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh, kết hợp với các yếu tố khách quan khác, những năm qua, hoạt động kinh doanh của Tcty Lương thực Miền Bắc tỏ ra rất hiệu quả. Để có được một kết quả đáng khích lệ như vậy, yếu tố then chốt quyết định sự thành công là yếu tố con người với những yếu tố phẩm chất của họ như: tính quyết đoán, khả năng nắm bắt thông tin nhanh, chính xác, kịp thời, khả năng phân tích các dữ liệu, khả năng làm việc độc lập…và xác định được tầm quan trọng của các yếu tố khách quan ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của Tổng công ty. Tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng VINAFOOD I vẫn không ngừng lớn mạnh và là một trong những doanh nghiệp đóng góp vào ngân sách Nhà Nước với số lượng lớn. Không ai khác mà chính là những con người trong Tcty đã tạo nên sự thành công này.
UY TÍN CỦA TỔNG CÔNG TY TRÊN THỊ TRƯỜNG NƯỚC NGOÀI.
Tổng công ty Lương thực Miền Bắc là một nhà xuất khẩu gạo lớn của Việt Nam. Hoạt động rất nhiều năm trên thị trường quốc tế trong lĩnh vực xuất khẩu lương thực nên Tổng công ty đã có nhiều bạn hàng lớn, thường xuyên mua gạo với số lượng lớn và tăng theo các năm. Điều này chứng tỏ Tổng công ty đã có được uy tín đáng kể trên thị trường và có được lòng tin từ phía khách hàng – các nhà nhập khẩu nước ngoài.
Mặt dù có rất nhiều khó khăn như đã nêu ở chương II, nhưng Tổng công ty vẫn có được một mức thị phần cho mình. Uy tín của Tổng công ty là câu trả lời cho câu hỏi: “ Dựa vào đâu mà Tổng công ty Lương thực Miền Bắc lại có được những thành công như vậy? ”. Vấn đề bảo đảm và phát triển uy tín của Tổng công ty được đưa vào mục tiêu của chiến lược để ngày càng thực hiện hiệu quả hơn.
DỰ BÁO CÁC YẾU TỐ CỦA MÔI TRƯỜNG MARKETING QUỐC TẾ VÀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU GẠO
DỰ BÁO CÁC YẾU TỐ CỦA MÔI TRƯỜNG MARKETING QUỐC TẾ :
Dự báo môi trường kinh tế quốc tế :
Năm 2001, ngân hàng Châu Á ( ADB ) đã đưa ra nhận định rằng mặc dù kinh tế Mỹ xa sút, kinh tế Châu Á trong năm nay vẫn đạt mức tăng trưởng cao nhất thế giới là 5,3%. Tuy nhiên, mức tăng trưởng này đã giảm sút so với mức hơn 7% hồi năm 2000.
ADB dự đoán năm 2002, kinh tế Châu á sẽ có mức tăng trưởng cao hơn năm 2001, đạt tỷ lệ: 6,1% do nền kinh tế Mỹ sẽ ổn định hơn nên lượng hàng hoá xuất khẩu sang Mỹ từ các nước công nghiệp mới như: Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc, và Đài Loan sẽ tăng.
Dự báo môi trường chính trị và pháp luật:
Với mục đích là phát triển nên mọi quốc gia trên thế giới đều mong muốn độc lập, phát triển và quyền lợi của mình không bị xâm phạm do vậy các hoạt động về chính trị và pháp luật đều bảo vệ quyền lợi của công dân nước mình hay giai cấp thống trị của nước đó.
Dự báo trong năm 2002, hoạt động của hầu hết các chính phủ đều là hoạt động đàm phán, thương lượng và hợp tác kinh tế với mục đích : giúp đỡ lẫn nhau, hai bên cùng có lợi. Nhưng cũng không thể tránh khỏi các cuộc xung đột xác tộc của một số quốc gia Trung Đông. Đặc biệt, tình hình căng thẳng tại Iraq là ảnh hưởng lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam đang hợp tác làm ăn với Iraq nói chung và hoạt động kinh doanh của Tổng công ty Lương thực Miền Bắc nói chung.
Dự báo môi trường văn hoá - xã hội:
Văn hoá là yếu tố ảnh hưởng sâu đậm nhất đối với con người, từ khi họ sinh ra và được truyền từ đời này qua đời khác. Mặt khác, cuộc sống của con người ngày càng văn minh, hiện đại nên họ có thể tiếp nhận những cái tiên tiến và văn minh mà loại bỏ đi những các lạc hậu, kém giá trị.
Do vậy, xu hướng thay đổi của các yếu tố thuộc môi trường văn hoá - xã hội hiện nay là khá ổn định, hướng tới hoàn thiện và loại bỏ đi những hủ tục, tập quán lạc hậu, kém phát triển và nói chung là không phù hợp với sự phát triển của loài người.
Dự báo môi trường công nghệ:
Các nước trên thế giới hiện nay không ngần ngại chi trả nhiều tiền vào đầu tư cho giáo dục, nghiên cứu khoa học kỹ thuật… để phục vụ cho sự phát triển chung của cộng đồng.
Đăc biệt, các nước rất quan tâm đến công tác nghiên cứu và phát triển các phát minh mới. Những công cuộc nghiên cứu này đã tạo ra được những kết quả ứng dụng vào sản xuất để phục vụ cho đời sống hàng ngày như hàng loạt các máy tính thế hệ mới, robot, công nghệ sinh học, vật liệu mới, khám phá vũ trụ… đồng thời có sự chuyển giao công nghệ giữa các nước công nghiệp với nhau và giữa các nước công nghiệp phát triển với các nước đang phát triển và kém phát triển.
Dự báo các thị trường gạo thế giới :
Theo dự báo của tổ chức lương thực thế giới ( FAO ) buôn bán gạo toàn cầu đạt 23,4 triệu tấn năm 2001 so với 22,8 triệu tấn. Xuất khẩu của Ai Cập, Pakistan, Thai Lan lên bù đắp cho mức xuất khẩu giảm của Braxin, Trung Quốc.
Buôn bán gạo toàn cầu năm 2002 dự báo đạt 23,8 triệu tấn cao hơn 500.000 tấn so với dự báo trước. Thị trường gạo Trung Quốc được tự do hoá theo cam kết WTO sẽ ảnh hưởng mạnh tới nhập khẩu với lượng gạo nhập khẩu có thể tăng lên tới 1 triệu tấn. Nhập khẩu gạo của Đài Loan dự báo cũng sẽ đạt 145.000 tấn theo các cam kết về lượng nhập tối thiểu.
Nhập khẩu gạo của Châu Phi dự báo sẽ giảm từ 7,1 triệu tấn năm 2001 xuống 6,3 triệu tấn năm 2002, một phần do tồn kho cao su sau khi đã nhập khẩu mạnh năm 2001, một phần là do giá gạo có khả năng tăng lên.
Tại khu vực Mỹ La Tinh và Caribe, nhập khẩu của Nicaragua dự báo sẽ tăng lên gấp đôi trong khi nhập khẩu của Colômbia giảm từ 100.000 tấn năm2001 xuống còn 15.000 tấn năm 2002. Nhập khẩu của Cuba dự báo sẽ tăng mạnh sau hai năm bị mất mùa liên tiếp. Nhập khẩu của Mêhicô sẽ tăng trong khi nhập khẩu của Braxin giảm.
Mức thuế nhập khẩu gạo của liên bang Nga tăng từ 5% lên 10% cũng sẽ ảnh hưởng đến nhập khẩu gạo của nước này trong khi nhập khẩu gạo của Nhật Bản và EU ít thay đổi.
Ngoài ra, trên một số thị trường xuất khẩu gạo lớn cả thế giới đều có sự chuyển biến trong năm 2002. Tại thị trường Thái Lan, hiện tại giá gạo của Thai Lan vẫn đứng ở mức cao và nhu cầu về gạo của họ trên thị trường thế giới đang tăng. Nhưng vào tháng 3, 4/2002 thì giá gạo của Thái Lan sẽ giảm do bước vào vụ thu hoạch. Qua thống kê của bộ thương mại Thai Lan trong 3 tháng đầu năm 2002 Thai Lan đã xuất khẩu tổng cộng 1.355.136 tấn gạo, tăng 26% so với 1.073.072 tấn xuất khẩu cùng kỳ năm ngoái.
Tại thị trường Mỹ, riêng trong tuần tính đến ngày 5/3/2002 Mỹ đã xuất khẩu thực tế 95.000 tấn gạo, gấp bốn lần so với tuần trước đó. Các nước mua gạo nhiều của Mỹ là: Nhật Bản, Mêhicô, Nicaragua, Cộng hoà Nam Phi.
Tại thị trường Pakistan, nhu cầu đối với gạo của Pakistan ít đã làm cho giá gạo của nước này có phần giảm xuống. Thị trường Ấn Độ, thì lại có được lợi thế vì có nhu cầu gạo tăng của các nước: Châu Phi, Inđônêsia, Iran, Iraq. Các thương nhân nhận định răng giá gạo của nước này sẽ không thay đổi, vẫn ở mức giá cũ.
Dự báo thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam:
Tiềm năng sản xuất lúa gạo của Việt Nam:
Về sản xuất lúa gạo Việt Nam có tiềm năng khá lớn, nếu được quan tâm đầu tư hơn nữa sẽ hứa hẹ thành một trung tâm trồng và chế biến lúa gạo lớn. Tiềm năng này thể hiện ở các mặt sau:
Về đất đai: đất nông nghiệp ở nước ta chiếm hơn 75% diện tích lãnh thổ. Chất lượng đất của Việt Nam có tầng dầy, tơi xốp, chất dinh dưỡng cho cây trồng khá cao, nhất là đất phù xa ở hai đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long.
Về khí hậu: Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, thêm vào đó là hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, nhiệt độ trung bình từ 22 đến 27độ C, lượng mưa hàng năm lớn ( 1.500mm ) và độ ẩm không khí luôn trên 80% nên quanh năm cây cối phát triển tốt, mùa màng có thể thu hoạch từ 2 đến 4 vụ.
Về nhân lực: với dân số là gần 80 triệu người, 70 % là sản xuất nông nghiệp, có thể nói nguồn nhân lực Việt Nam là rất rồi rào. Người Việt Nam có đặc điểm cần cù,thông minh, sáng tạo, có khả năng nắm bắt công nghệ, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp.
Các chính sách của nhà nước: quan điểm của Đảng và Nhà Nước đều khuyến khích và tạo điều kiện để phát triển hoạt động sản xuất nông nghiệp, nâng cao đời sống cho nông dân.
Hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam:
Năm 1999 Việt Nam xuất khẩu đạt mức kỷ lục 4,508 triệu tấn gạo với mức bình quân 299USD/tấn, thế nhưng năm 2001 con số tương ứng chỉ là 3,55 triệu tấn và mức giá là 171 USD/ tấn.
Đối với Việt Nam dự kiến xuất khẩu 4 triệu tấn gạo trong năm 2002 là hoàn toàn có cơ sở và có khả năng đạt được. Chỉ tính hai tháng đầu năm 2002, lượng gạo xuất khẩu đạt tới 138.000 tấn đạt trị giá 30 triệu USD và nếu so với cùng kỳ năm ngoái bằng 32,6% về lượng và 42% về giá trị. Thêm vào đó , một số nước nhập khẩu gạo lớn đã quan tâm đến gạo của Việt Nam và sẽ tiến tới đặt hàng như: Trung Quốc, Châu Phi.
Giá mặt hàng gạo của Việt Nam biến động và thay đổi rất thất thường do phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nhưng theo dự báo năm 2002 sẽ tăng lên 10% so với năm 2001 nghĩa là đạt khoảng 190 đến 192 USD/ tấn do sản lượng và dự trữ gạo toàn cầu đã giảm trong hai năm liên tiếp.
PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH NĂM 2002 CỦA TỔNG CÔNG TY LƯƠNG THỰC MIỀN BẮC
NHỮNG CHỈ TIÊU KINH TẾ CƠ BẢN:
Mua vào:
Mua trong nước: 2.132 ngàn tấn lương thực (quy thóc)
Nhập khẩu: 110 ngàn tấn lúa mì, 30 ngàn tấn phân bón.
Bán ra: 2.091 ngàn tấn lương thực (quy thóc).
Trong đó:
Bán nội địa: 775 ngàn tấn (quy gạo).
Xuất khẩu: 450 ngàn tấn gạo.
Sản xuất chế biến:
Trong đó:
Xay, xoa xát 410 ngàn tấn (gồm thóc, gạo, bột mì).
Sản xuất và tiêu thụ 2.000 tấn mì ăn liền.
Sản xuất và tiêu thụ 4 triệu lít bia, nước giải khát.
Doanh thu: 3.849.480 triệu đồng.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu: 107.310 ngàn USD
Trong đó:
Kim ngạch xuất khẩu : 91.360 triệu USD
Kim ngạch nhập khẩu : 15.950 ngàn USD
Lợi nhuận (trước thuế) : 55.443 triệu đồng
Nộp Ngân sách: 140 tỷ đồng.
NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU TRONG NĂM TỚI CỦA TỔNG CÔNG TY LƯƠNG THỰC MIỀN BẮC :
Làm tốt công tác thị trường, tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại: Từ Văn phòng Tcty đến các Cty thành viên, thực hiện thường xuyên việc theo dõi, nắm bắt thông tin kinh tế. Thông qua các Bộ chức năng, các cơ quan Tham tán thương mại, các hiệp hội ngân hàng, các bản tin thông tấn, báo chí, INTERNET, AGRUNET… để hình thành “kênh” thông tin. Nâng cao năng lực tiếp cận, xử lý thông tin, năng lực dự đoán, dự báo về tình hình sản xuất, thị trường, khả năng tiêu thụ…của cán bộ quản lý và đội ngũ trực tiếp kinh doanh. Tăng cường công tác giao dịch, tiếp thị, triển lãm, quảng cáo và các hoạt động khảo sát…tìm cơ hội tiếp cận thị trường trong và ngoài nước. Tiếp tục giải quyết tốt những trắc trở đã và có thể phát sinh từ phía đối tác để duy trì lâu dài quan hệ với những bạn hàng cũ…
Coi trọng thị trường nội địa, mở rộng hoạt động SXKD, nâng cao khả năng cạnh tranh bằng chất lượng và giá cả: Tcty tiếp tục củng cố, nâng cao chất lượng kinh doanh của hệ thống các công ty. Mở rộng hơn nữa các hoạt động sản xuất, chế biến, dịch vụ để tăng nhanh doanh thu, tạo điều kiện giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, phấn đấu chấm dứt dần tình trạng bù lỗ, tiến tới có lãi đối với các hoạt động kinh doanh nội địa, bảo đảm khả năng bảo toàn vốn và tự cân đối về tài chính ngay từ cửa hàng, quầy hàng đến Cty. Để nâng cao chất lượng sản phẩm,Tcty kiên trì chủ trương phối hợp với các vùng sản xuất, đầu tư, thực hiện bằng được mục tiêu thay đổi giống lúa, đưa vào đồng bằng sông Hồng những giống đạt tiêu chuẩn chất lượng cao, phù hợp thị hiếu của thị trường trong và ngoài nước.
Thực hiện các dự án đầu tư đã triển khai trong năm 2001, đồng thời tiếp tục đầu tư thêm một số dự án mới trong năm 2002 để hoàn thiện cơ sở vật chất của ngành. Tập trung chỉ đạo để đưa nhanh các dự án sản xuất bao PP (ở TP Hồ Chí Minh), xay bột mì (ở Nghệ An), Trường mẫu giáo (ở 1c Ngô Quyền), khu Dịch vụ giải trí (ở công ty Lương Yên), chế biến hoa quả (ở Lao Cai), sản xuất mì ăn liền (ở Cty Hà Nội)… vào hoạt động sớm. Đồng thời thúc đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án đầu tư xây dựng mở rộng nhà máy bột mì Cái Lân (giai đoạn hai), xây dựng nhà máy chế biến gạo xuất khẩu (liên doanh với Irag), xây dựng các vùng chuyên canh trồng, chế biến vừng và sắn, nuôi và chế biến thịt lợn xuất khẩu … Đẩy mạnh việc chuyển đổi, đa dạng ngành nghề hoạt động của Tcty.
Củng cố và tổ chức lại những công ty yếu kém, sáp nhập để hình thành một số công ty khu vực để bảo đảm năng lực hoạt động SXKD, đủ khả năng điều tiết nhu cầu, giá cả ở những thị trường trọng điểm và nhạy cảm. Có kế hoạch và từng bước triển khai thực hiện Nghị quyết TW 3 và các Nghị định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc sắp xếp, đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp, chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước sang Cty TNHH một thành viên, lựa chọn để cổ phần hóa hoặc áp dụng thí điểm các hình thức “giao, bán, khoán, cho thuê”…Trên cơ sở đó hình thành dần cơ chế quản lýTCty theo hướng của mô hình “Cty me – Cty con”. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ trong các doanh nghiệp thành viên, tăng cường công tác thi đua khen thưởng, đào tạo cán bộ quản lý, bồi dưỡng nghiệp vụ, giải quyết lao động dôi dư…tạo khí thế mới trong việc thực hiện kế hoạch SXKD năm 2002.
NHỮNG ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN CHIẾN LƯỢC XUẤT KHẨU MẶT HÀNG GẠO CỦA TỔNG CÔNG TY LƯƠNG THỰC MIỀN BẮC .
Trên cơ sở phân tích những thuận lợi, khó khăn, những mặt làm được, chưa làm được của Tổng công ty Lương thực Miền Bắc , tôi xin đưa ra một số giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả hơn chiến lược Marketing xuất khẩu mặt hàng gạo của Tổng công ty trong thời gian tới.
ĐỀ XUẤT NHẰM TĂNG CƯỜNG NGHIÊN CỨU VÀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
Theo Kemchionmae – một chuyên gia kinh tế xuất sắc của Nhật Bản thì “ Bí quyết đảm bảo kinh doanh của một công ty là thông tin ”. Thông tin chính sác, đầy đủ về thị trường về đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp đó chính là tiền đề cho sự phát triển, cho khả năng chi phối thị trường và thành công.
Thật vậy, từ những thông tin chính xác thu được qua công tác nghiên cứu thị trường sẽ cho thấy dễ dàng hơn về tình hình mặt hàng gạo trên thị trường thế giới. Đối với Tổng công ty Lương thực Miền Bắc việc nghiên cứu và mở rộng thị trường theo một số hướng sau:
Thứ nhất, tăng cường công tác nghiên cứu thị trường đảm bảo nắm bắt kịp thời nhu cầu về gạo, đồng thời không bị khách hàng ép giá cũng như các điều kiện khác. Đồng thời việc nghiên cứu thị trường cần phải đánh giá được quy mô và tiềm năng của thị trường xuất khẩu thông qua việc nghiên cứu khách hàng và các yếu tố khác của môi trường như: văn hóa, luật pháp, chính trị .v.v.
Thứ hai, là một Tổng công ty lớn ở thị trường phía Bắc nên Tổng công ty có thể cử các đại diện có thẩm quyền của mình tham dự các cuộc hội nghị, các cuộc viếng thăm giữa Chính phủ nước ta với các nước khác trên thế giới từ đó có điều kiện trong việc trao đổi kinh nghiệp trong hoạt động thương mại cũng như việc ký kết các hợp đồng mới.
Thứ ba, trong năm tới Tổng công ty cần tập trung vào các thị trường :
Thị trường Iraq, Cuba là hai thị trường mục tiêu, thị trường chính của Tổng công ty và đã là bạn hàng lâu nên cần phải đảm bảo giữ vững được uy tín của mình thông qua các chính sách ưu tiên trong giao nhận gạo và thực hiện tốt nhất các hợp đồng xuất khẩu với hai thị trường này.
Thị trường Jordan, đây là thị trường mới và cũng là thị trường mục tiêu của Tổng công ty nên Tổng công ty cần phải liên tục theo dõi đánh giá các biến động của nó để có những chính sách xuất khẩu phù hợp. Ngoài ra, phải luôn đảm bảo và phát huy uy tín của mình.
Thị trường Trung Quốc, với tiềm năng kinh tế lớn, tính theo GDP hiện Trung Quốc đang đứng thứ 6 trên thế giới và là thị trường rộng lớn với dân số trên 1 tỷ người. Giá cả ở thị trường này luôn biến động thất thường, phương thức giao dịch và thực hiện hợp đồng rất đa dạng.Hiện tại, Tổng công ty chưa xuất gạo sang thị trường này nên cần có sự quan tâm, tạo lập mối quan hệ nhưng phương châm kinh doanh đối với thị trường này nên thực hiện theo kiểu cuốn gói.
Tóm lại, công tác tìm kiếm thông tin, nghiên cứu thị trường và để từng bước tiến hành mở rộng thị trường là cực kỳ quan trọng và không thể bỏ qua. Trong hoạt động kinh doanh quốc tế không cho phép các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới mà không trang bị cho mình đầy đủ các thông tin, không xác định cho mình được những cơ hội. Và nếu Tổng công ty không thực hiện tốt công tác này mà vẫn tham gia vào các thị trường mới thì những rủi ro là không thể tránh khỏi.
ĐỀ XUẤT PHƯƠNG PHÁP NHẰM NÂNG CAO VÀ HOÀN THIỆN CÁC YẾU TỐ MARKETING – MIX TRONG CHIẾN LƯỢC XUẤT KHẨU MẶT HÀNG GẠO CỦA TỔNG CÔNG TY LƯƠNG THỰC MIỀN BẮC.
Nâng cao và hoàn thiện mặt hàng gạo của Tổng công ty Lương thực Miền Bắc
Về tổ chức tốt thu mua và chế biến gạo.
Khác với những sản phẩm công nghiệp, sản xuất lúa diễn ra trên diện tích rộng, công tác thu mua diễn ra trong khoảng thời gian ngắn và khối lượng lớn. Vì vậy, đòi hỏi Tổng công ty phải có mạng lưới thu mua rộng và tận gốc. Tổng công ty cần phải có dự tính trước số lượng gạo xuất khẩu trong tương lai thông qua các bản hợp đồng đã ký. Điều đó sẽ giúp cho Tổng công ty không phải chuẩn bị gấp rút khi có một hợp đồng mới. Điều đó tránh bị ép giá và quá trình chế biến gạo được chuẩn bị kỹ đảm bảo chất lượng yêu cầu.
Trong khâu thu mua, Tổng công ty cần phải ký kết hợp đồng trực tiếp với từng hộ dân tại ruộng, về lâu dài, thì cần phải nhân rộng hình thức này trên toàn bộ các khu vực trồng lúa xuất khẩu, khi thu mua thực hiện giám định chất lượng hàng ngay từ đầu. Vì đây là yếu tố quyết định đến chất lượng gạo xuất khẩu của Tổng công ty.
Để nâng cao hơn nữa chất lượng gạo Tổng công ty cần phải tham gia đầu tư cùng với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hỗ trợ cho nông dân về giống lúa mới có chất lượng cao, quy tụ tập trung riêng những vùng trồng lúa chuyên xuất khẩu.
Bên cạnh đó, Tổng công ty cần phải phân phối hợp lý lượng lúa thu mua vào các cơ sở chế biến tránh tình trạng quá tải ở nơi này nhưng lại chưa hết công suất ở nơi khác. Đầu tư nâng cao trang thiết bị cho chế biến như các máy xay xát, máy đánh bóng… Tổng công ty có thể liên doanh liên kết với các công ty nước ngoài để có những dây truyền chế biến hiện đại ngang tầm thế giới bằng các đầu tư hay vay vốn Nhà nước, đồng thời tiến hành thanh lý loại bỏ các công nghệ lạc hậu không cần thiết.
Hiện tại một thực trạng diễn ra là khâu bao bì của Tổng công ty vẫn còn phải đặt các công ty khác. Tổng công ty cần phải có riêng một nhà máy sản xuất và in bao bì vừa đảm bảo theo đúng yêu cầu của khách hàng vì mỗi một thị trường khác nhau có in nhãn mác khác nhau, lại tạo thêm công ăn việc làm cho các công ty trực thuộc và điều này cũng kinh tế hơn sẽ làm cho giá cả mang tính cạnh tranh hơn, tạo thêm nguồn lợi cho Tổng công ty.
Quy hoạch những vùng lúa cao sản dành cho xuất khẩu :
Xây dựng chiến lược sản xuất và chế biến, gắn với thị trường tiêu thụ. Xác lập mô hình thích hợp giải quyết mối quan hệ đầu vào và đầu ra trong sản xuất và xuất khẩu. Có thể quy hoạch vùng sản xuất lúa chất lượng cao để phục vụ xuất khẩu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng. Đồng bằng sông Hồng quy hoạch 300.000 ha cấy giống lúa phù hợp nhu cầu tiêu dùng của người Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan trồng ở ba tỉnh: Hải Dương, Thái Bình, Nam Định. Đồng bằng sông Cửu Long quy hoạch những vùng sản xuất lúa chất lượng cao khoảng 1 triệu ha để xuất khẩu đáp ứng các thị trường Châu Âu, Trung Đông, Bắc Mỹ và một số thị trường Châu Á.
Hoàn thiện quyết định giá của Tổng công ty Lương Thực Miền Bắc.
Xác định tổng mức chi phí
Xem xét nhu cầu của khách hàng
Xác định mục tiêu định giá
Xác định chiến lược định giá
Phương pháp định giá
Ấn định giá xuất khẩu
BIỂU HÌNH 15 : QUY TRÌNH ĐỊNH GIÁ XUẤT KHẨU
Trong bốn biến số Marketing – Mix (sản phẩm, giá cả, phân phối, giao tiếp, khuyếch chương) thì giá cả là biến số duy nhất tạo ra thu nhập cho Tổng công ty, còn ba biến số còn lại thì cấu thành nên giá thành của hàng hoá. Hơn thế, giá cả là một biến số rất linh hoạt, nó thay đổi rất nhanh và sự thay đổi của giá cả tác động trực tiếp tới tâm lý, thị hiếu của khách hàng. Do vậy, Tổng công ty cần có một chính sách giá hợp lý với chiến lược và phương pháp định giá phù hợp.
Bước 1: Xác định tổng chi phí
Mức tổng chi phí của hàng hoá chính là mức giá thấp nhất mà Tổng công ty có thể cung ứng cho thị trường xuất khẩu. Nó bao gồm:
Các giá mua hàng hoá ở trong nước.
Các loại chi phí.
Chi phí xuất khẩu hàng hoá: chính là lệ phí hải quan, cước phí chuyên trở, chi phí bảo hiểm, hoa hồng và các khoản chi phí khác đánh vào việc xuất khẩu của Tổng công ty. Các loại chi phí nào được tính vào giá xuất khẩu thấp nhất của Tổng công ty còn tuỳ thuộc điều kiện thương mại quốc tế mà Tổng công ty áp dụng để xuất khẩu.
Chi phí cho hoạt động Marketing: bao gồm các chi phí cho các hoạt động nghiên cứu Marketing và thực thi các quyết định Marketing - Mix và cũng bao gồm cả chi phí phát sinh khác.
Các loại chi phí khác: bao gồm các chi phí cho lao động như tiền lương cho cán bộ công nhân viên, thuế lao động, đào tạo, ... chi phí khấu hao tài sản cố định và tài sản lưu động, trượt giá.
Khi xuất khẩu ở mức giá này, Tổng công ty không hề có lợi nhuận, do vậy, nếu mục tiêu xuất khẩu là lợi nhuận thì Tổng công ty không nên thực hiện hoạt động xuất khẩu. Ngược lại nếu mục tiêu là thế vị, xâm nhập thị trường thì Tổng công ty nên tính tới các yếu tố khác có liên quan.
Bước 2: Xem xét nhu cầu khách hàng.
Như dự báo ở phần trước, thị trường mặt hàng nông sản nói chung và thị trường mặt hàng gạo nói riêng sẽ ngày càng được mở rộng do mặt hàng này là mặt hàng thiết yếu và các hoạt động của Chính phủ như tích cực tham gia hoạt động của ASEAN, APEC, chuẩn bị tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO. Điều này bảo đảm một điều rằng Tổng công ty có thể áp dụng những bước tiếp theo của quy trình định giá. Bởi vì nếu thị trường mà không có nhu cầu thì Tổng công ty cũng không nên cung ứng và xây dựng kế hoạch cung ứng nữa.
Bước 3: Xác định mục tiêu định giá.
Với mục tiêu chiến lược kinh doanh của Tổng công ty là lợi nhuận và vị thế trong đó mục tiêu lợi nhuận là trước mắt còn mục tiêu vị thế là lâu dài thì Tổng công ty nên chọn mục tiêu định giá là: giành vị thế dẫn đầu về chất lượng để thông qua đó có một lợi nhuận và uy tín trên thị trường. Chất lượng cao cần đi đôi với một mức giá thích hợp bởi lẽ khách hàng thường có thói quen dựa vào giá cả để đánh giá chất lượng.
Đã đến lúc Tổng công ty cần phải có một chiến lược định giá để đạt được mục tiêu của chính mình. Bởi vì, mặt hàng gạo là hàng hoá được sử dụng chủ yếu trong đời sống hàng ngày, nó trực tiếp ảnh hưởng đến sức khoẻ của người tiêu dùng. Trong khi đó, con người ngày nay đòi hỏi rất cao về chất lượng của thực phẩm, về vệ sinh an toàn thực phẩm. Cho nên, về lâu dài, công ty nên định giá trên cơ sở chất lượng hàng hoá.
Bước 4: Xác định chiến lược giá.
Giá cao
Giá trung bình
Giá thấp
Chất lượng cao
Chiến lược siêu giá
Chiến lược giá trị cao
Chiến lược giá trị siêu hạng
Sản phẩm trung bình
Chiến lược lấy giá quá cao.
Chiến lược lấy giá trung bình
Chiến lược giá trị tốt
Chất lượng thấp
Chiến lược lừa đảo
Chiến lược tiết kiệm gian dối
Chiến lược tiết kiệm
BIỂU HÌNH 16: CHIẾN LƯỢC ĐỊNH GIÁ/ CHẤT LƯỢNG
Để đạt được mục tiêu của định giá và cao hơn thế là đạt được mục tiêu của chiến lược kinh doanh, Tổng công ty nên chọn chiến lược số 2: chiến lược giá trị cao. Chiến lược này mang hàm ý: hàng của Tổng công ty Lương Thực Miền Bắc có chất lượng rất cao như sản phẩm A nào đó trên thị trường nhưng khách hàng chỉ phả trả một lượng tiền ít hơn.
Bước 5: Phương pháp định giá.
Sau khi xác định một chiến lược giá để theo đuổi, Tổng công ty tiến hành xác định phương pháp định giá theo giá trị. Đây là phương pháp “Công ty tính giá thấp” (thấp hơn đối thủ cạnh tranh sử dụng giá cao) cho sản phẩm có chất lượng cao với mong muốn cho khách hàng hiểu được chủ trương của Tổng công ty: đảm bảo có lợi cho khách hàng khi mua sản phẩm và tiêu dùng những sản phẩm này. Đây là một phương pháp cũng rất hấp dẫn đối với các khách hàng.
Bước 6: Ấn định giá.
Bước cuối cùng của quy trình định giá chính là ấn định giá. Đây là giá cụ thể cho từng loại sản phẩm. Nói một cách khác, bước này sẽ trả lời câu hỏi: “sản phẩm này giá bao nhiêu?”.
Tuy nhiên có một vấn đề mà Tổng công ty Lương Thực Miền Bắc nên cân nhắc đó là: có nên định giá cứng hay giá mềm đối với từng loại hàng hoá hay không? Giá cứng ở đây được hiểu là là giá cố định cho sản phẩm, còn giá mềm chính là những mức giá thay đổi tuỳ từng thời kỳ, thời điểm bán hàng xác định.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay, thì tình hình cạnh tranh là tương đối khó khăn. Vì vậy, VINAFOOD I nên sử dụng mức giá linh hoạt để thích ứng với tình hình cạnh tranh, kinh doanh trên thị trường. Tuy nhiên, việc ấn định mức giá là bao nhiêu đều nhằm mục tiêu của định giá và mục tiêu chiến lược kinh doanh của Tổng công ty.
Đề xuất hoàn thiện kênh phân phối của Tổng công ty Lương Thực Miền Bắc.
Hiện tại, Tổng công ty Lương Thực Miền Bắc đang có hai kênh phân phối: một kênh phân phối trực tiếp đến các quốc gia nhập khẩu thông qua các hiệp định giữa hai Chính phủ, một kênh phân phối tới các trung gian thương mại ở châu Âu, và các trung gian này sẽ phân phối tới tận tay người tiêu dùng. Qua đó tôi thấy rằng với loại kênh phân phối đầu tiên, tức là dựa vào hợp đồng được ký kết giữa hai Chính phủ có rất nhiều ưu điểm, đảm bảo một thị trường ổn định và lâu dài cho Tổng công ty, nhưng với loại kênh phân phối thứ hai, Tổng công ty sẽ dễ dàng bị mất các thị trường hiện hữu nếu không ký tiếp được hợp đồng với các trung gian phân phối nữa, bởi hiện tại, Tổng công ty không hề có đại lý, chi nhánh hay văn phòng đại diện tại các thị trường này. Trong tương lai, để hoạt động xuất khẩu được tự chủ và ổn định, Tổng công ty nên cố gắng xây dựng các chi nhánh, đại lý của riêng mình, một mặt tìm hiểu, nghiên cứu, phát triển thị trường, một mặt phân phối trực tiếp sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng. Với mục tiêu như vậy, sơ đồ kênh phân phối của Tổng công ty sẽ như sau:
Tổng công ty Lương Thực Miền Bắc
Nhà nhập khẩu nước ngoài
Người
tiêu dùng cuối cùng
Đại lý, chi nhánh tại nước ngoài
Cửa hàng,
siêu thị
Người
tiêu dùng cuối cùng
BIỂU HÌNH 17 : SƠ ĐỒ KÊNH PHÂN PHỐI.
Hoàn thiện quyết định xúc tiến thương mại.
Trong kinh doanh thương mại, chính sách kích thích tiêu thụ hàng hoá có vai trò yểm trợ và tăng cường cho các chính sách sản phẩm và giá cả phân phối. Với mục tiêu nâng cao khả năng bán hàng và tiêu thụ sản phẩm, chính sách giao tiếp – khuyếch trương của Tổng công ty bao gồm hai khía cạnh chủ yếu đó là quảng cáo và xúc tiến bán.
Đối với hoạt động quảng cáo:
Trong thực tế, Tổng công ty Lương Thực Miền Bắc chưa có một ngân quỹ nhất định giành cho quảng cáo và xúc tiến bán. Vì vậy Tổng công ty cần chú trọng hơn về vấn đề này. Muốn vậy, VINFOOD I phải xây dựng cho mình một chiến lược quảng cáo hợp lý, đồng thời lập ra cho mình một nội dung quảng cáo, hình thức quảng cáo và ngân quỹ giành cho quảng cáo. Bên cạnh đó, Tổng công ty cần phải chú ý đến hình thức quảng cáo và phương tiện quảng cáo. Tức là, Tổng công ty lựa chọn phương tiện quảng cáo nào và hình thức quảng cáo ra sao? Hiện nay hình thức chào hàng trực tiếp được Tổng công ty sử dụng nhiều nhất. Hình thức này được tiến hành qua thư, điện thoại, fax, hội chợ triển lãm. Nhưng để tăng cường quá trình lưu thông hàng hoá, Tổng công ty còn sử dụng Internet và các mối quan hệ thân quen để tìm kiếm đối tác. Khi tiến hành quảng cáo thì Tổng công ty không nên chỉ quảng cáo về mặt hàng kinh doanh mà còn phải quảng cáo về ưu thế của Tổng công ty trên thị trường như: được phép xuất khẩu trực tiếp, có mối quan hệ tốt với bạn hàng, có nhiều nguồn cung ứng dồi dào, giữ được chữ tín với khách hàng, đặc biệt là sự am hiểu về nhóm hàng kinh doanh để ngày càng nâng cao vị thế của Tổng công ty trên thị trường thế giới. Tổng công ty có thể quảng cáo trên cataloge, bìa lịch. VINAFOOD I cần phải xác định được khán giả mục tiêu của Tổng công ty là các công ty thương mại nước ngoài, người tiêu dùng cuối cùng là những người nội trợ.
Xúc tiến bán hàng:
Bên cạnh việc quảng cáo, trong chính sách giao tiếp khuyếch trương còn có xúc tiến bán hàng và yểm trợ bán hàng. Xúc tiến bán hàng là tập hợp các kỹ thuật nhằm đem lại các kết quả bán hàng mang tính tạm thời không ổn định. Xúc tiến bán hàng bao gồm xúc tiến nhu cầu của người tiêu dùng, xúc tiến khu vực thương mại và kích thích nhân viên bán hàng của Tổng công ty. Công nghệ xúc tiến bán hàng có thể là khi mua một số lô hàng hoá, khuyến khích mua sẽ được tặng thêm một sản phẩm nhất định, tuỳ theo từng danh mục sản phẩm mà sử dụng phương pháp này, và thường tặng các sản phẩm mới của Tổng công ty để quảng cáo hoặc tặng chính sản phẩm đó. Bên cạnh đó có những khoản chiết khấu hợp lý thoả đáng như: giảm giá do trả tiền sớm, giảm giá cho những khách hàng mua đúng thời vụ thu hoạch, giảm giá do mua số lượng lớn, giảm giá tăng thưởng… Đồng thời có các hoạt động giảm giá trong những thời điểm đặc biệt như ngày lễ, tết, ngày thành lập Tổng công ty... Các hình thức này cần được áp dụng có tính thường xuyên.
Khi áp dụng các kỹ thuật này, Tổng công ty cần phải chú ý đặc điểm và tình trạng các mặt hàng, đối tượng mua, mục tiêu để lựa chọn kỹ thuật xúc tiến phù hợp. Việc sử dụng các kỹ thuật mà cần phải được phối hợp kỹ nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Trong công tác xác định về xúc tiến bán giúp cho xây dựng vững chắc hình ảnh của Tổng công ty ở trong tâm trí khách hàng.
VỀ ĐÀO TẠO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
Đội ngũ cán bộ là nguồn nhân lực quan trọng đối với sự thành công của một công ty trong tất cả mọi hoạt động. Có một đội ngũ cán bộ đầy kinh nghiệm, năng động và năng lực sẽ đem về cho Tổng công ty những bản hợp đồng mới, các quá trình thực hiện hợp đồng được thuận lợi và rủi ro ít hơn.
Vì vậy, Tổng công ty cần tổ chức các lớp bồi dưỡng cán bộ về nghiệp vụ xuất nhập khẩu nhằm nâng cao trình độ chuyên môn. Cử các cán bộ có năng lực đi dào tạo tại các nước có kinh nghiệm trong công tác quản lý cũng như các hoạt động kinh doanh cua một công ty.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VĨ MÔ CỦA NHÀ NƯỚC NHẰM TẠO ĐIỀU KIỆN THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU NÓI CHUNG VÀ XUẤT KHẨU MẶT HÀNG GẠO NÓI RIÊNG.
VỀ CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG:
Vốn là yếu tố then chốt trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và Tổng công ty Lương Thực Miền Bắc nói riêng. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, để tăng lượng vốn kinh doanh là rất khó khăn. Vì vậy, nếu Nhà nước cấp tín dụng sẽ giúp các doanh nghiệp ổn định được nguồn hàng. Nhà nước có thể tạo nguồn vốn cho các doanh nghiệp bằng các biện pháp sau:
Nới lỏng các quy định về bảo lãnh trong việc doanh nghiệp vay vốn nước ngoài để đầu tư cho sản xuất mà tổ chức nước ngoài cho vay này sẽ thanh toán bằng sản phẩm sản xuất từ tiền vay đó.
Cấp giấy sở hữu tài sản cho các doanh nghiệp Nhà nước.
Phát huy tối đa tác dụng của hình thức thuê mua thiết bị.
Đề nghị Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu phương án chỉ áp dụng quy định về mức chênh lệch tối đa giưã lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay, không quy định mức lãi suất tiền như hiện nay để tạo điều kiện có lợi cho người đầu tư và người vay vốn. Ngân hàng Nhà nước nên nghiên cứu bạn hàng, các quy định về việc chiết khấu ngay các L/C mở cho hàng xuất khẩu khi có đủ chứng từ theo quy định của thủ tục mở L/C.
Để khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu những hàng hoá chưa cần thiết, có thể áp dụng lãi suất đối với nguồn cho vay xuất khẩu bằng 50 % mức lãi suất cho vay để nhập khẩu. Trong chính sách lãi suất ưu đãi đối với vốn vay phục vụ xuất khẩu có thể chia ra nhiều mức lãi suất khác nhau để áp dụng cho những ngành hàng, nhóm hàng hay mặt hàng khác nhau nhằm khuyến khích những sản phẩm được sản xuất chế biến từ nguồn nguyên liệu trong nước hay thu hút được nhiều lao động.
BẢO LÃNH TÍN DỤNG.
Để chiếm lĩnh và giữ khách hàng, các doanh nghiệp không tránh khỏi việc phải chấp nhận trả chậm. Với loại hình thanh toán này sẽ có rất nhiều rủi ro cho doanh nghiệp xuất khẩu. Để các nhà xuất khẩu yên tâm, Nhà nước nên phát huy hiệu quả dịch vụ bảo hiểm để bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp. Nhà nước nên thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng như bảo lãnh chứng từ thương mại.
KIẾN NGHỊ VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO TRONG THỜI GIAN TỚI.
Cải tiến phương thức đầu mối và hạn ngạch xuất khẩu gạo.
Hiện nay, Chính phủ đang áp dụng cơ chế quản lý xuất khẩu gạo bằng hạn ngạch với 33 đơn vị đầu mối xuất khẩu gạo trực tiếp trong cả nước. Nhưng cơ chế này có rất nhiều điểm hạn chế, nó làm cho các doanh nghiệp đầu mối hay bị động trong việc giao dịch xuất khẩu. Các doanh nghiệp chỉ mới chủ yếu ký kết và thực hiện các hợp đồng xuất khẩu từng chuyến theo mùa vụ với điều kiện giá cả bấp bênh và nhiều rủi ro khác chứ chưa đạt tới những hợp đồng xuất khẩu ổn định cả năm hoặc dài hạn hơn. Vì vậy, Chính phủ nên bỏ cơ chế quản lý xuất khẩu gạo bằng hạn ngạch, chuyển sang điều tiết bằng thuế xuất khẩu.
Điều tiết xuất khẩu gạo bằng công cụ thuế.
Thuế xuất khẩu là công cụ quan trọng hàng đầu để điều tiết hoạt động xuất khẩu gạo. Tham khảo thị trường Thái Lan, thuế xuất khẩu của nước này bao gồm 3 thành tố:
Thuế đánh theo tỷ lệ phần trăm trên giá trị gạo xuất khẩu.
Thuế đánh theo định mức trên đầu tấn gạo xuất khẩu. Định mức này thay đổi theo phẩm cấp gạo và được điều chỉnh lên, xuống tuỳ theo thời giá gạo trong cũng như ngoài nước để tác động ổn định giá gạo nội địa và điều tiết sản lượng gạo xuất khẩu.
Khoản điều động gạo dự trữ bắt buộc có tính chất thuế. Những lúc thị trường gạo có biến động, Chính phủ áp khoản này để bắt buộc các doanh nghiệp phải bán cho Chính phủ một lượng gạo nhất định với giá rẻ hơn thị trường để có thể thiệp bình ổn thị trường lương thực nội địa.
Hiện nay, ở Việt Nam, Chính phủ chỉ áp dụng một khoản thuế xuất khẩu gạo với thuế suất được điều chỉnh từ 0 – 3 %. Để tăng cường mức độ điều tiết của công cụ thuế đối với hoạt động xuất khẩu gạo cho phù hợp với cơ chế thị trường, nước ta cũng nên áp dụng thuế xuất khẩu có nhiều thành phần với công dụng khác nhau.
Điều tiết hoạt động xuất khẩu gạo bằng đòn bẩy giá cả.
Nhà nước nên cải tiến phương thức giá cả cho đồng bộ, góp phần điều tiết hoạt động xuất khẩu gạo hữu hiệu hơn, dựa trên các nguyên tắc sau:
Lúc không có biến động, Chính phủ chỉ thông báo khung gía sàn, giá trần mua lúa và hệ thống giá xuất khẩu gạo mang tính chất hướng dẫn. Nhà xuất khẩu được quyền chủ động quyết định giá mua nguyên liệu và giá xuất khẩu gạo thành phẩm trên căn bản phù hợp với giá thị trường nội địa, thị trường thế giới và bảo đảm hiệu quả của doanh nghiệp.
Những lúc có biến động trên thị trường: Chính phủ sẽ tác động để bình ổn giá trên thị trường nội địa nhằm ổn định sản xuất thông qua công cụ thuế.
Kiểm tra chất lượng gạo xuất khẩu.
Muốn nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu phải giải quyết nhiều vấn đề căn bản từ các khâu sản xuất, xử lý sau thu hoạch và xay xát chế biến. Riêng trong khâu kiểm tra chất lượng gạo xuất khẩu cần phải chú trọng loại trừ tình trạng gian lận, giao hàng không đúng phẩm chất so với hàng mẫu của hợp đồng. Để đảm bảo uy tín chất lượng gạo Việt Nam trên thị trường thế giới, Chính phủ cần có văn bản pháp lý cụ thể về việc kiểm tra chất lượng gạo xuất khẩu ban hành kèm theo bảng tiêu chuẩn gạo Việt Nam quy định rõ những hình thức chế tài, xử lý nghiêm khắc các trường hợp cố ý gian lận làm giảm uy tín chất lượng gạo xuất khẩu Việt Nam ảnh hưởng tới các doanh nghiệp khác. Còn các đơn vị làm nhiệm vụ kiểm phẩm nếu thông đồng, bao che cho sự gian lận về chất lượng gạo xuất khẩu của các doanh nghiệp cũng phải bị xử lý nghiêm khắc như các doanh nghiệp vi phạm.
Tạo điều kiện cấp giấy chứng nhân xuất xứ và đơn giản hoá thủ tục quản lý xuất khẩu gạo.
Để nâng cao chất lượng gạo, Chính phủ và Bộ thương mại cần khảo sát và quy định những công nghệ chế biến nào được sử dụng trong chế biến gạo. Giao cho cục thuế và Bộ NN và Phát Triển Nông Thôn kiểm định, đánh giá toàn bộ dây chuyền công nghệ chế biến. Cho phép đơn vị chế biến đạt tiêu chuẩn đạt chất lượng Việt Nam, cấp giấy chứng nhận cho các lô hàng chế biến để làm căn cứ cho cơ quan giám định chất lượng kiểm định và cho phép xuất.Điều đó giảm bớt việc phải giám định từng lô hàng khi cơ quan giám định được khách hàng uỷ quyền kiểm định có như vậy mới nâng cao được chữ tín của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới.
Chính phủ cấp hạn ngạch thẳng cho các doanh nghiệp đầu mối và các đơn vị trúng thầu. Việc nhận uỷ thác xuất khẩu gạo để cho doanh nghiệp đầu mối tự quyết định.
Đơn giản hoá hơn nữa các nghiệp vụ kê khai hải quan trong thủ tục quản lý xuất khẩu gạo để các doanh nghiệp nhanh chóng triển khai giao hàng và Hải quan cần tập trung hơn vào việc giải quyết thu thuế xuất khẩu đầy đủ, không để tồn đọng nhiều trường hợp nợ thuế.
Phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu gạo.
Nhà nước nên phát triển hệ thống cảng biển, đầu tư nâng công suất bốc dỡ hàng hóa, xây dựng các cảng biển để tầu lớn có thể cập bến dễ dàng, nạo vét luồng lạch.
Phát triển dịch vụ bảo hiểm và vận tải hàng hải phục vụ xuất khẩu gạo.
Công ty Bảo Việt nên tiến hành liên doanh với các hãng bảo hiểm danh tiếng trên thế giới để tạo sự tín nhiệm tốt hơn của khách hàng nước ngoài, nhờ vậy, các nhà xuất khẩu gạo có thể chủ động hơn trong việc chào bán hàng theo điều kiện CIF.
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TIẾP THỊ ĐỂ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU GẠO.
Xét trên bình diện rộng thì quan hệ Việt Nam chưa vững chắc vì chưa đứng vững trên các thị trường cơ bản. Phần lớn nguyên nhân của tình trạng này là do công tác tiếp thị để mở rộng thị trường xuất khẩu gạo chưa được chú trọng đúng mức trong thời gian qua.
Mặt khác, đối với việc theo dõi thông tin giá cả thị trường, hiện nay, trong nước, có nhiều đơn vị thu thập thông tin, theo dõi diễn biến sản xuất, xuất khẩu và giá cả thị trường lúa gạo. Nhưng chất lượng thông tin kém, manh mún, thiếu chính xác, thông tin về giá thường không rõ là giá của loại lúa gạo gì, phẩm cấp nào, giá bán buôn hay bán lẻ? Thiếu thông tin về lượng tồn kho, còn thông tin về thị trường gạo thế giới thì rất thiếu và những tin có được thường đã mất tính thời sự. Việc công bố thường xuyên hệ thống giá tham khảo về các mặt hàng gạo xuất khẩu Việt Nam với thị trường thế giới cũng chưa được thực hiện tốt.
Để nâng cao chất lượng công tác tiếp thị, mở rộng thị trường xuất khẩu gạo nói chung, Chính phủ nên giao cho Uỷ ban Quốc gia Điều hành xuất khẩu gạo , thống nhất tổ chức hoàn thiện công tác này. Trong đó cần chú trọng nhiều hơn vào các mặt sau:
Thiết lập mạng lưới thông tin hiện đại, sử dụng máy vi tính nối mạng từ trung tâm Uỷ ban Quốc gia điều hành xuất khẩu gạo đến các điểm thu thập tin cần thiết trên toàn quốc để thường xuyên nắm chắc thông tin về sản xuất, sản lượng thu hoạch, tồn kho lúa gạo, biến động giá cả, tình hình tiêu thụ gạo nội địa và xuất khẩu. Đồng thời, tổ chức một số điểm thu thập tin trực tiếp ở nước ngoài và trao đổi thông tin với các tổ chức quốc tế liên quan đến mậu dịch gạo để theo dõi kịp thời các diễn biến về cung – cầu, giá cả và các giao dịch đáng chú ý của thị trường gạo thế giới, nhất là thông tin về hoạt động xuất khẩu gạo của những đối thủ cạnh tranh lớn như: Thái Lan, Ấn Độ, Hoa Kỳ…Thông tin về nhập khẩu gạo của các khu vực thị trường như Trung Quốc, Đông Bắc Á, Srilanka, và Tây Á, Indonexia và Đông Nam Á, Iran và Trung Đông, Pháp, và Tây Âu, Nga và Đông Âu, Châu Phi, Brazil và Châu Mỹ Latin… Trên cơ sở đó, Uỷ ban Quốc gia Điều hành xuất khẩu gạo đưa ra quy định cụ thể về khai thác nguồn thông tin phục vụ hoạt động xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp sao cho có hiệu quả nhất.
Tổ chức một Trung tâm giao dịch xuất khẩu gạo trực thuộc Uỷ ban Quốc gia Điều hành xuất khẩu gạo đặt tại thành phố Hồ Chí Minh. Trung tâm này có nhiệm vụ riêng biệt như: làm địa điểm yết giá gạo xuất khẩu của Việt Nam, tổ chức đấu thầu hạn ngạch xuất khẩu gạo, đấu thầu thực hiện hợp đồng xuất khẩu gạo theo hiệp định của Chính phủ, điều phối các giao dịch cung ứng và xuất khẩu gạo có thanh toán bù trừ để hỗ trợ các doanh nghiệp có khả năng tăng thêm sản lượng giao dịch.
Tổ chức nghiên cứu tiếp cận thị trường gạo thế giới một cách bài bản hơn, thường xuyên thông báo cho các doanh nghiệp về nhu cầu, thị hiếu đối với sản phẩm gạo của khách hàng và những diễn biến giá cả, hướng dẫn các doanh nghiệp trực tiếp đi nghiên cứu tiếp thị ở những thị trường chủ yếu, đi tham gia đấu thầu quốc tế ở các nước nhập khẩu gạo để giành hợp đồng cung cấp gạo ổn định và dài hạn.
Ngoài ra, Hiệp hội xuất nhập khẩu lương thực Việt Nam cũng cần phải đẩy mạnh hoạt động về mặt đối ngoại để trợ giúp tích cực hơn cho hội viên như: thiết lập chi nhánh ở nước ngoài, ký kết các thoả ước trao đổi thông tin với Hiệp hội tương tự ở các nước khác, đại diện hội viên tham dự các hội chợ đấu thầu gạo quốc tế.
NHỮNG KIẾN NGHỊ ĐỂ ĐẢM BẢO TỐT NGUỒN CUNG ỨNG :
Sản xuất chính là khâu tạo ra hàng cho xuất khẩu. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, cơ cấu và chất lượng hàng xuất khẩu. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu nông sản thì cần đầu tư mạnh cho phát triển sản xuất hàng nông sản theo chiều sâu, từng bước nâng cao chất lượng hàng nông sản. Các biện pháp tiến hành bao gồm:
Đảm bảo tiêu thụ lúa gạo cho nông dân:
Công tác đảm bảo đầu ra cho nông dân là rất cần thiết để làm được như vậy đòi hỏi phải có sự quan tâm đặc biệt của nhà nước. Có 5 giải pháp tiêu thụ lúa và đẩy mạnh xuất khẩu gạo:
Thứ nhất, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu, gắn sản xuất nông nghiệp với chế biến công nghiệp ( công nghệ sau thu hoạch để đạt được chất lượng gạo tốt nhất.
Thứ hai, tăng cường mở rộng thị trường xuất khẩu. Đi đôi với việc tăng cường ký kết các hợp đồng Chính phủ, khuyến khích các doanh nghiệp tự tịm kiếm thị trường xuất khẩu.
Thứ ba, thực hiện cơ chế hợp đồng hai chiều giữa doanh nghiệp thương mại với nông dân đảm bảo hai bên cùng có lợi.
Thứ tư, khi giá lúa xuống tới dưới mức 1.300 đ/1kg, Chính phủ giao cho Bộ thương mại tổ chức mua tạm trữ. Cơ chế tạm trữ này do Bộ thương mại xây dựng và báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Cuối cùng, Chính phủ sẽ xây dựng mô hình thí điểm cho nông dân gửi thóc vào kho của Nhà nước chờ giá lên và có thể lấy đó làm cơ sở thế chấp cho nông vay vốn để phục vụ kịp thời sản xuất và bán lúa vào thời điểm có lợi nhất cho nông dân. Đây là chính sách rất khả thi và mong rằng nó sớm được thực hiện để đem lại khả năng đảm bảo nguồn hàng xuất khẩu ổn định cho các doanh nghiệp và đời sống tốt hơn cho người nông dân.
Tạo nguồn vốn ban đầu cho nông dân.
Đây là việc làm hết sức cần thiết vì để mở rộng được diện tích gieo trồng, thay đổi cơ cấu giống cây trồng, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đòi hỏi phải có những chi phí không nhỏ mà nhiều khi người nông dân không tự trang trải được. Trong thời gian qua, các chương trình trợ giúp vốn cho người dân đã được thực hiện song kết quả thu được còn rất hạn chế. Nguyên nhân của nó là do việc người dân vay vốn với lãi suất ưu đãi diễn ra dàn trải, thiếu tập trung. Điều đó dẫn tới mỗi hộ nông dân chỉ có thể vay được vài trăm nghìn đồng, không đủ đầu tư cho sản xuất. Các hộ nông dân năng động muốn làm ăn lớn đã phải đi vay với lãi suất tín dụng thông thường nhưng lại gặp khó khăn trong vấn đề tài sản thế chấp. Trong khi đó, ngân hàng lại có hiện tượng ứ đọng tiền mặt. Để khắc phục hạn chế này, trong thời gian tới, Nhà nước cần đưa ra những chính sách ưu đãi đối với Ngân hàng phục vụ người sản xuất nông sản, khuyến khích các cơ sở chế biến, các nhà kinh doanh nông sản ứng trước vốn để mua nông sản. Bên cạnh đó cũng cần khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực này.
Tiến hành nghiên cứu, cải tạo giống cây trồng
Nhằm nâng cao chất lượng hàng nông sản. Ở Việt Nam thời gian qua, năng suất và sản lượng nông sản đã tăng lên đáng kể, song nó cũng nảy sinh ra một vấn đề là người sản xuất chạy theo những giống cây trồng có năng suất cao mà không chú ý đến chất lượng nông sản. Trong sản xuất lúa gạo, tỷ lệ diện tích lúa đặc sản như tám thơm, nàng hương, nếp cái hoa vàng.. ngày càng thấp. Điều này đã ảnh hưởng đến chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam, làm cho giá hàng nông sản của ta luôn ở mức thấp hơn so với giá cả trung bình của thế giới. Trong xu hướng chung của xuất khẩu hàng nông sản hiện nay đang chuyển từ cạnh tranh bằng giá cả sang cạnh tranh bằng chất lượng hàng hoá thì đây là bất lợi lớn đối với Việt Nam. Để hạn chế được vấn đề này, Việt Nam không còn con đường nào khác là gieo trồng các giống cây cho sản phẩm chất lượng cao, từng bước hạn chế và dần loại bỏ các giống cây có chất lượng thấp.
Nhà nước cần có chính sách đầu tư hỗ trợ cho công tác nhân giống và hỗ trợ nông dân chăn nuôi và gieo trồng giống mới. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần xây dựng kế hoạch và tổ chức nhân giống cây nông sản cho từng vùng.
Giành cho công tác khuyến khích nông kinh phí thích đáng để xây dựng mô hình trình diễn những loại giống mới, giống chọn lọc, đào tạo huấn luyện kỹ thuật viên, tổ chức thăm quan những mô hình tốt để mở rộng diện tích nông nghiệp, áp dụng những tiến bộ kỹ thuật.
Nhà nước cấp kinh phí thoả đáng cho các Viện, Trường, Trung tâm để làm công tác nghiên cứu thí nghiệm, trồng và chăn nuôi thử nghiệm giống mới, nhằm đáp ứng cho nông dân cung cấp sản phẩm nông sản cho xuất khẩu.
Nhà nước phải đầu tư vốn để cải tạo, mở mang giao thông, thuỷ lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp. Ngăn chặn triệt để nạn phá rừng, cháy rừng. Sản phẩm nông nghiệp tính theo đầu người của chúng ta còn thấp, do đó chúng ta phải tăng cường đầu tư nhân lực, vốn vào sản xuất và từng bước nâng cao chất lượng. Muốn vậy, ta phải quy vùng sản xuất, phải có những vùng chuyên canh.
Tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp chế biến hàng nông sản, từng bước nâng cao tỷ lệ hàng nông sản chế biến trong cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu. Trong thời gian qua, hàng nông sản xuất khẩu của chúng ta chủ yếu xuất khẩu dưới dạng thô nên vừa hạn chế mở rộng thị trường xuất khẩu vừa ảnh hưởng tới kim ngạch xuất khẩu. Vì thế, trong thời gian tới, Nhà nước cần đẩy mạnh việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và công nghiệp chế biến, tăng cường đầu tư cho công nghiệp chế biến, bao bì, mẫu mã, tạo ra loại sản phẩm nông sản có hàm lượng công nghiệp cao. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng nên khuyến khích xuất khẩu nông sản chế biến thông qua tăng hạn ngạch cho các loại sản phẩm này, giảm thuế xuất khẩu.
Khuyến khích đầu tư liên doanh vào sản xuất và chế biến nông sản. Thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động này sẽ đem đến cho Việt Nam nhiều lợi ích mà trước hết là vốn và công nghệ thích hợp. Bên cạnh đó còn giúp Việt Nam giải quyết các vấn đề khó khăn về giống cây trồng chất lượng cao, kỹ thuật thâm canh, bí quyết trong chế biến sản phẩm, thâm nhập vào thị trường mới. Song song với vấn đề này, Nhà nước cũng cần chú ý nâng cao hiệu quả công tác quản lý, giám định nhằm khắc phục tình trạng liên doanh thì lỗ nhưng bên nước ngoài vẫn lãi do việc tính đội giá trong góp vốn liên doanh, biến Việt Nam thành bãi rác công nghiệp do việc nhập các thiết bị máy móc đã cũ kỹ lạc hậu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Những giải pháp nâng cao hiệu quả Marketing Xuất khẩu mặt hàng Gạo tại công ty lương thực Miền Bắc.docx