Luật chống bán phá giá là một trong những bộ luật non trẻ nhất của hệ
thống luật thương mại quốc gia cũng như thế giới bởi cho đến đầu thế kỷ XX,
khái niệm chống bán phá giá hầu như vẫn chưa hình thành.
Tuy nhiên, trong bối cảnh tự do hoá thương mại ngày càng phát triển, khi
mà các hàng rào thương mại cổ điển dần được tháo bỏ, thì khái niệm bán phá
giá và chống bán phá giá ngày càng phổ biến và luật chống bán phá giá, do vậy,
ngày càng được chú trọng. Điều này đã được minh chứng qua số lượng ngày
càng tăng các quốc gia có luật chống bán phá giá cũng như các vụ kiện bán phá
giá diễn ra trên phạm vi toàn cầu.
Do vậy một điều hiển nhiên là trong hoạt động thương mại quốc tế trong
tương lai, việc các doanh nghiệp phải đối mặt với luật chống bán phá giá là một
điều tất yếu.
Mỹ, với tư cách là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam và cũng là bạn hàng
khó chơi nhất, là một trong những quốc gia tiên phong trong việc sử dụng luật
chống bán phá giá để điều chỉnh mối quan hệ thương mại với các quốc gia
khác. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã có dịp đối mặt với luật chống bán
phá giá Mỹ. Sự đơn giản về mặt bản chất nhưng phức tạp về các quy định cũng
như cách thức xử lý đòi hỏi các doanh nghiệp, cụ thể là các doanh nghiệp Việt
Nam, phải có được một vốn hiểu biết nhất định về bộ luật này nhằm, ít nhất,
tránh những lúng túng và sai sót không cần thiết trong trường hợp bị kiện bán
phá giá, và cao hơn, giành phần thắng về mình.
Đây chính là lý do em lựa chọn đề tài này để thực hiện bài khoá luận tốt
nghiệp với mong muốn đưa ra được một cái nhìn riêng về bộ luật chống bán
phá giá của Mỹ. Tuy nhiên, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan,
bản khoá luận này mới chỉ đưa ra được một số nét cơ bản của bộ luật chống bán
phá giá Mỹ cũng như việc thực thi bộ luật này trong thực tế nhằm giúp cho
người đọc có một cái nhìn khái quát nhất về bộ luật này.
Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ đạo và sự hỗ trợ về mặt tài liệu của giáo
viên hướng dẫn, thầy Nguyễn Phúc Khanh, Phó giáo sư, Tiến sĩ, Phó hiệu
trưởng trường Đại học Ngoại thương. Dưới sự chỉ đạo và hướng dẫn của thầy,
em đã có thể hoàn thành tốt bản khoá luận tốt nghiệp này.
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU . . 1
CHƯƠNG I. QUY ĐỊNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ
1. Khái niệm về bán phá giá . .3
1.1 Định nghĩa . .3
1.2 Các đạo luật liên quan đến bán phá giá
( Luật doanh thu 1916, Luật thuế quan 1930, ) . .3
2. Quy định của luật pháp Hoa Kỳ về xử lý hành vi bán phá giá . .5
2.1 Cơ quan thẩm quyền điều tra hành vi bán phá giá .5
2.2 Trình tự tiến hành xử lý bán phá giá . .6
2.2.1 Quá trình khởi kiện . 6
2.2.2 Quá trình điều tra . . .10
2.2.3 Các khái niệm pháp lý chính . . .20
2.2.4 Quá trình xem xét lại . . . .34
CHƯƠNG II. THỰC TIỄN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA MỸ
1. Tổng quan thực trạng bán phá giá vào thị trường Mỹ 36
1.1 Thống kê các vụ bán phá giá trong giai đoạn 1980-2001 .37
1.2 Thực trạng xử lý các vụ bán phá giá vào thị trường Mỹ . . . .43
2. Những nhận xét về việc áp dụng luật chống bán phá giá của Mỹ .49
2.1 Phản ứng của các quốc gia đối với luật chống bán phá giá của Mỹ .49
2.2 Những ảnh hưởng tiêu cực của luật chống bán phá giá của Mỹ
đến bản thân nền kinh tế Mỹ . .52
1. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ việc nghiên cứu thực tiễn chống
bán phá giá của Mỹ . .55
2. Giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam trong vấn đề bán phá
giá . . .58
2.1 Nhóm giải pháp nhằm tránh bị liên quan đến các vụ kiện bán phá giá 58
2.2 Nhóm giải pháp cần tiến hành khi bị kiện bán phá giá . .61
2.3 Nhóm giải pháp khác . .76
KẾT LUẬN . . . . .79
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
88 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2329 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những quy định và thực tiễn bán phá giá tại Mỹ và những giải pháp cho doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Griswold dự tính, để giá của mỗi tấn thép tăng thêm một dollar, thì người tiêu
dùng Mỹ đã phải bỏ ra thêm 120 triệu USD.
Rõ ràng, qua một số nét sơ lược trên, chúng ta có thể thấy rằng luật chống
bán phá giá Mỹ đang ẩn chứa trong nó những yếu tố bất cập. Mặc dù, Tổ chức
Thương mại Thế giới WTO đã thừa nhận luật chống bán phá giá như một công
cụ pháp lý hợp lệ, nhưng vẫn cần có những sửa đổi đối với luật chống bán phá
giá Mỹ để công cụ này thực hiện đúng chức năng của mình hơn và cũng là để
tạo ra một hành lang pháp lý bình đẳng cho cả các nhà sản xuất Mỹ lẫn các nhà
xuất khẩu nước ngoài.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Việc các doanh nghiệp Việt Nam bị kiện bán phá giá thực sự là một điều
đáng lo ngại cho bản thân các doanh nghiệp. Nhưng đồng thời đó cũng là một
tín hiệu đáng mừng đối với nền kinh tế Việt Nam bởi lẽ việc bị kiện bán phá giá
chứng tỏ một điều rằng : Các doanh nghiệp Việt Nam đã đủ lớn mạnh, đã tạo
được một sức ép cạnh tranh đủ lớn khiến các đối thủ nội địa Mỹ phải viện đến
sự bảo hộ của chính quyền. Điều cơ bản là các doanh nghiệp và các nhà xuất
khẩu Việt Nam cần xây dựng những hướng đi cụ thể để làm sao luật chống bán
phá giá không gây ảnh hưởng tới sự phát triển của các doanh nghiệp.
1. Bài học kinh nghiệm rút ra từ việc nghiên cứu thực tiễn
chống bán phá giá của Mỹ.
Qua một số nét sơ lược về một số mặt liên quan đến quy định chống bán
phá giá của Mỹ, chúng ta có thể nhận thấy rằng Luật chống bán phá giá của Mỹ
là một hàng rào bảo hộ rất tinh vi và khó có thể vượt qua.
Sự lợi hại của Luật chống bán phá giá thể hiện ở một số điểm như sau:
(1) Khả năng loại trừ cạnh tranh cao thông qua cách thức xử lý các vụ kiện
của Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại Quốc tế
(USITC). Như đã trình bày trong Chương II, với các biện pháp hỗ trợ việc
phát hiện ra hành vi bán phá giá như Giá dự tính, phương pháp làm
tròn,…,luật chống bán phá giá hoàn toàn có thể tạo thành một hàng rào bảo
hộ hiệu quả trong bối cảnh các hàng rào thương mại quen thuộc khác đang
dần được dỡ bỏ theo quy định của WTO.
(2) Mức thuế chống bán phá giá cao kết hợp cùng nỗi lo nợ nần mà quá
trình xem xét lại tạo ra cho các nhà nhập khẩu Mỹ sẽ giúp loại bỏ mặt hàng
có tính cạnh tranh cao ra khỏi thị trường Mỹ.
(3) Ngay cả khi mức thuế thấp nhưng thời gian hiệu lực kéo dài (có thể lên
tới 20 năm) cùng với nguy cơ tăng lên của mức thuế sau mỗi lần xem xét
lại hàng năm cũng sẽ là một trở lực lớn không dễ vượt qua.
Hơn thế nữa, tác động của luật chống bán phá giá đối với mặt hàng thuộc
diện điều tra không chỉ do mức thuế của DOC tạo ra mà còn do một số nhân tố
khác. Một trong các nhân tố đó là:
Tác động của quá trình điều tra
Một khi đã hình thành một vụ kiện bán phá giá thì hàng nhập khẩu thuộc
diện điều tra sẽ bị ảnh hưởng ít nhất là trong suốt quá trình điều tra. Trước hết,
quá trình điều tra sẽ tạo ra phản ứng của các nhà nhập khẩu Mỹ và/hoặc các nhà
xuất khẩu nước ngoài trong việc dự đoán mức thuế sẽ được áp dụng sau khi có
phán quyết chính thức, cũng như dự đoán lượng tiền phải ký quỹ một khi có kết
luận sơ bộ của DOC (xem mục C 2.2.2 Chương I). Những dự đoán này vì thế sẽ
làm lượng hàng nhập khẩu giảm mạnh. Việc giảm mạnh của hàng nhập khẩu sẽ
kéo dài trong suốt thời gian còn lại của quá trình điều tra, chừng nào vẫn có lý
do để tin rằng vụ kiện sẽ kết thúc bằng phán quyết chính thức rằng : Có hành vi
bán phá giá và có thiệt hại vật chất. Trên thực tế, ảnh hưởng của quá trình điều
tra đã được báo chí Mỹ nhắc đến rất nhiều. Ví dụ như trong một vụ kiện bán phá
giá mà Hiệp hội Dệt kim và Quần áo Thể thao Mỹ kiện các nhà sản xuất áo len
Hong Kong, Hàn Quốc, và Đài Loan, phán quyết sơ bộ “Có hành vi bán phá
giá” đã được đưa ra ngay vào thời điểm các đại lý bán lẻ ở Mỹ chuẩn bị đặt hàng
nhập khẩu lô quần áo cho mùa thu. Và kết quả là các đại lý Mỹ lập tức dừng
việc nhập khẩu lại và chuyển sang mua hàng của các nhà sản xuất nội địa, do sự
không chắc chắn về mức giá trong tương lai ( Thời báo NewYork, 24/4/2000, Tr.
C1).
Những tác động về mặt tâm lý như trên là rất bất lợi cho bên bị đơn vì chưa
cần biết kết quả chính thức của vụ kiện sẽ như thế nào, mà chỉ cần biết rằng mặt
hàng nhập khẩu trên có nguy cơ phải chịu thuế chống bán phá giá (vì bị kiện bán
phá giá), thì các kênh phân phối vào thị trường Mỹ đã bị đóng lại đối với mặt
hàng đó. Đây là một bài học kinh nghiệm cho các nhà xuất khẩu bởi các nhà
xuất khẩu cần hiểu rằng: Bản thân các đối thủ nội địa Mỹ cũng hiểu được những
tác động mà quá trình điều tra có thể tạo ra đối với hàng hoá nhập khẩu. Nên,
trong những giai đoạn khó khăn khi mà nhu cầu sụt giảm và khả năng tận dụng
năng suất thấp, nhằm tránh những cuộc chiến về giá khốc liệt mà phần thắng
chưa chắc đã thuộc về phía mình, các đối thủ nội địa Mỹ sẽ viện đến luật chống
bán phá như một giải pháp tình thế. Điều này có nghĩa là các đối thủ Mỹ sẽ đệ
đơn kiện bán phá giá mà không cần biết trên thực tế có tồn tại hành vi bán phá
giá hay không và cũng không trông đợi DOC đưa ra một mức thuế chống bán
phá giá. Hành động này chí ít sẽ giúp làm tăng mức giá cũng như làm tăng thị
phần cho các nhà sản xuất nội địa Mỹ trong giai đoạn điều tra bất kể thuế chống
bán phá giá có được áp dụng hay không. Như vậy toàn bộ ảnh hưởng của quá
trình điều tra, hiểu theo cách này, sẽ là “lời đe doạ” trừng phạt đối với các nhà
xuất khẩu nước ngoài nếu họ đưa ra một mức giá quá cạnh tranh. Và lời đe doạ
đó sẽ có hiệu lực bằng cách đệ đơn kiện.
Hơn thế nữa, việc đệ đơn kiện và việc điều tra của DOC và USITC còn có
tác động về mặt tâm lý đến bản thân nhà xuất khẩu. Rõ ràng là với một nhà xuất
khẩu không nắm rõ quy trình tiến hành cũng như các thông tin liên quan đến
việc xử lý bán phá giá, đồng thời thị trường Mỹ là thị trường duy nhất của loại
sản phẩm mà họ sản xuất, thì việc bị kiện bán phá giá quả thực là một điều đáng
lo ngại. Lợi dụng yếu tố tâm lý đó, các nhà sản xuất nội địa Mỹ có thể ràng buộc
nhà xuất khẩu trên vào các thoả ước theo đó nhà xuất khẩu sẽ chỉ xuất hàng của
mình tại một mức giá nhất định. Các thoả ước như vậy được luật pháp Mỹ mà cụ
thể là Học thuyết Noerr-Pennington thuộc bộ luật chống độc quyền cho phép và
do đó được luật pháp Mỹ bảo vệ.
Như vậy, qua việc nghiên cứu quy định và thực tiễn chống bán phá giá của
Mỹ, các nhà xuất khẩu cần phải ý thức được rằng : Luật chống bán phá giá nói
chung và luật chống bán phá giá của Mỹ nói riêng có những ảnh hưởng rất
nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp và do
vậy đòi hỏi các doanh nghiệp, các nhà xuất khẩu cần cẩn trọng khi tham gia vào
thương mại quốc tế trong bối cảnh các hàng rào thương mại cổ điển đang dần
được dỡ bỏ và luật chống bán phá giá nổi lên như một sự thay thế hữu hiệu.
2. Giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam trong vấn đề bán phá giá
2.1 Nhóm giải pháp nhằm tránh bị liên quan đến các vụ kiện bán
phá giá
Một điều hiển nhiên là các nhà xuất khẩu luôn là những người bị động
trong các vụ kiện bán phá giá. Sự bị động đó một phần là do nhà xuất khẩu là
người bị kiện chứ không phải là người đi kiện. Tuy nhiên, chính sự lạ lẫm trước
những quy định phức tạp của luật chống bán phá giá cũng như cách thức tiến
hành của một vụ kiện bán phá giá mới là yếu tố cơ bản tạo nên sự bị động đó.
Chính sự bị động đó đã khiến nhà xuất khẩu đôi khi phải chịu những thiệt thòi
không đáng có, và bỏ qua những cơ hội để giành phần thắng. Nhằm hạn chế tình
trạng bị động trên cũng như hạn chế nguy cơ bị kiện bán phá giá, các nhà xuất
khẩu cần thực hiện một số giải pháp sau.
2.1.1 Nghiên cứu kỹ thị trường
Việc nắm rõ thị trường mục tiêu, nắm rõ các điều kiện cạnh tranh, các đối
thủ, điểm mạnh và điểm yếu của bản thân có lẽ là vấn đề cơ bản đối với tất cả
các doanh nghiệp khi có ý định xuất khẩu sản phẩm của mình sang một thị
trường mới. Và đối với vấn đề bán phá giá, công việc này cũng hết sức cần thiết.
Ngoài các yếu tố, thông số thuộc về thị trường, nhà xuất khẩu cần nắm rõ những
thông tin liên quan đến luật chống bán phá giá như các quy định của luật chống
bán phá giá, cách thức và trình tự tiến hành một vụ kiện bán phá giá, yêu cầu đối
với các bên liên quan,… Việc nắm vững những yếu tố trên sẽ giúp nhà xuất
khẩu hiểu rõ hơn về bản chất của luật chống bán phá giá, từ đó xây dựng những
chính sách cụ thể nhằm hạn chế tầm ảnh hưởng của luật chống bán phá giá đến
hoạt động xuất khẩu và kinh doanh trên thị trường Mỹ. Hơn thế nữa, việc nắm
vững bản chất của luật chống bán phá giá sẽ giúp doanh nghiệp giảm thiểu được
thế bị động một khi bị kiện bán phá giá.
2.1.2 Xây dựng một chính sách giá hợp lý
Trên cơ sở đã nghiên cứu kỹ thị trường Mỹ và các yếu tố liên quan khác,
nhà xuất khẩu cần xây dựng một chính sách giá hợp lý. Đây là một yếu tố hết
sức mấu chốt và cũng hết sức nhạy cảm bởi rõ ràng là việc bị kiện bán phá giá
đều xuất phát từ yếu tố giá cả của sản phẩm nhập khẩu vào thị trường Mỹ. Việc
xây dựng một chính sách hợp lý quả thực không phải một chuyện đơn giản và
còn phải tuỳ thuộc vào tình hình kinh doanh và hoàn cảnh của nhà xuất khẩu,
tuy nhiên, về cơ bản một chính sách giá hợp lý nhằm tránh bị liên quan đến các
vụ kiện bán phá giá phải đáp ứng được một số tiêu chí sau:
(1) Đảm bảo được sự thống nhất về mức giá giữa các thị trường xuất khẩu
khác nhau, giữa thị trường xuất khẩu và thị trường nội địa
(2) Đảm bảo được tính cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu trên cơ sở có
cân nhắc đến mức giá hợp lý-LTFV. Điều này có nghĩa là trước khi hình
thành một mức giá xuất khẩu, nhà xuất khẩu cần cân nhắc mức độ cạnh
tranh của mức giá đó tại thị trường nước nhập khẩu, khả năng thoả mãn thị
trường của mức giá đó (xác định lượng cung – cầu của mức giá đó) và mức
lợi nhuận mà mức giá đó đem lại. Tuy nhiên có một vấn đề khi thực hiện
mục tiêu này : đó là áp lực cạnh tranh giữa các công ty nội địa của nước
xuất khẩu với nhau sẽ đẩy mức giá xuất khẩu xuống thấp. Do đó cần phải
liên kết các công ty trong cùng một mặt hàng lại với nhau để tránh sự cạnh
tranh không cần thiết dẫn đến thiệt hại cho tất cả các bên, một khi bị kiện
bán phá giá.
Điểm mấu chốt để thực hiện được hai tiêu chí này đó là yếu tố thông tin.
Nhưng hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam luôn gặp phải vấn đề thiếu thông
tin khi xúc tiến công việc kinh doanh của mình. Bản thân các doanh nghiệp khó
có thể tự thu thập đủ thông tin mà mình cần. Do đó cần có sự hỗ trợ từ các tổ
chức khác như Cục Xúc tiến Thương mại, Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam, Hội đồng Thương mại Việt – Mỹ,…
2.1.3 Đa dạng hoá sản phẩm
Đây cũng là một biện pháp để hạn chế tầm ảnh hưởng của luật chống bán
phá giá đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Việc đa dạng hoá sản phẩm
không chỉ phù hợp với xu hướng phát triển tất yếu của mỗi doanh nghiệp mà
còn giúp doanh nghiệp tận dụng thị trường và giảm nguy cơ bị kiện bán phá giá.
Điều này thể hiện ở chỗ thay vì dồn tất cả các yếu tố đầu vào vào một chủng loại
sản phẩm nhất định, doanh nghiệp có thể dàn các yếu tố này vào nhiều chủng
loại khác nhau, tạo cho mỗi chủng loại một đặc tính khác nhau, do đó có thể bán
ở các mức giá khác nhau với những thương hiệu khác nhau. Trước hết nếu khối
lượng đầu vào là không đổi (lượng nguyên liệu là không đổi) thì khối lượng đầu
ra trên mỗi chủng loại sản phẩm sẽ giảm đáng kể tỉ lệ theo số lượng các chủng
loại. Ví dụ như trong trường hợp cá Tra và cá Basa của Việt Nam, thay vì chỉ
xuất khẩu sang Mỹ 30 tấn các sản phẩm cá chưa chế biến, nhà xuất khẩu có thể
đa dạng hoá sản phẩm bằng cách xuất 10 tấn cá chưa chế biến, 10 tấn cá bán chế
biến (các sản phẩm như cá tẩm gia vị) và 10 tấn cá đã chế biến (các sản phẩm
như cá hộp). Việc dàn trải ra nhiều chủng loại sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ bị
kiện bán phá giá do khối lượng sản phẩm nhỏ hơn sẽ làm giảm khả năng bị kiện
gây thiệt hại cho nền sản xuất Mỹ và có thể được coi là Hàng nhập khẩu không
gây ảnh hưởng (như đã trình bày trong Chương I, sản phẩm có kim ngạch nhập
khẩu nhỏ hơn 3% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng đó của Mỹ).
2.2 Nhóm giải pháp cần tiến hành khi bị kiện bán phá giá
Sẽ thật phóng đại nếu đưa ra được các giải pháp để chắc chắn giành phần
thắng trong các vụ kiện bán phá giá của Mỹ, bởi như đã trình bày ở trên, luật
chống bán phá giá của Mỹ được xây dựng không phải chỉ như chính quyền Mỹ
tuyên bố là để loại bỏ những gian lận trong thương mại, tạo một môi trường
cạnh tranh bình đẳng mà sâu xa, đây là một công cụ để bảo hộ nền sản xuất Mỹ.
Chính bởi lẽ đó, sẽ rất khó khăn để có thể giành phần thắng một khi đã bị kiện
bán phá giá. Nhưng khó khăn không có nghĩa là không có hy vọng bởi thực tế
đã chứng minh rằng : vẫn có những vụ kiện mà phần thắng thuộc về bên bị đơn,
tức là các nhà xuất khẩu. Điều quan trọng là các nhà xuất khẩu cần phải nắm
được quy trình thủ tục cũng như cách thức theo hầu một vụ kiện bán phá giá. Và
sau đây là một số điều, tạm coi là giải pháp tình thế, mà các nhà xuất khẩu cần
lưu ý khi bị kiện bán phá giá
2.2.1 Tham gia một cách đầy đủ và hợp tác dưới sự cố vấn của các
chuyên gia
Một điều đầu tiên quan trọng khi bị kiện bán phá giá là tham gia vào quá
trình điều tra của DOC bởi theo quy định của luật chống bán phá giá Mỹ: trong
trường hợp nhà xuất khẩu nước ngoài từ chối tham gia vào quá trình điều tra và
không trả lời Bảng câu hỏi mà Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC)
đưa ra, thì Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) không có chọn lựa nào khác là sử
dụng những thông tin sẵn có mà DOC có thể tiếp cận được để tính toán mức bán
phá giá. Và trong phần lớn các trường hợp, những thông tin này là những thông
tin do bên nguyên đơn cung cấp hoặc từ tài liệu của các vụ kiện trước đó. Việc
DOC sử dụng những thông tin này sẽ rất bất lợi cho bên bị đơn bởi những thông
tin này không thể phản ánh đúng tình hình và thường là thiên vị về phía bên
nguyên đơn, do đó khả năng DOC phát hiện ra hành vi bán phá giá càng khả dĩ
hơn.
Cũng do sự không hợp tác hoặc không hợp tác đầy đủ mà USITC cũng sẽ
đưa ra phán quyết rằng : Hành vi bán phá giá trên gây thiệt hại hoặc đe doạ gây
thiệt hại cho một ngành sản xuất của Mỹ.
Ngoài ra cũng có một vấn đề khác cần lưu ý là : Hợp tác với DOC và
USITC như thế nào. Việc trả lời các câu hỏi mà USITC đưa ra, cũng như cung
cấp những thông tin mà DOC yêu cầu không phải là một chuyện đơn giản. Luật
chống bán phá giá của Mỹ được soạn thảo ra là nhằm mục đích bảo vệ nền sản
xuất nội địa của Mỹ nên bất kỳ một sai sót nào trong việc đáp ứng các yêu cầu
mà hai cơ quan trên đưa ra cũng có thể dẫn đến việc phải chịu thuế chống bán
phá giá. Chính vì điều này mà các doanh nghiệp cần có sự cố vấn của các
chuyên gia. Với sự cố vấn của các chuyên gia, các doanh nghiệp sẽ biết cần phải
trả lời các câu hỏi chi tiết đến mức nào và cũng sẽ biết được khả năng thẩm tra
thông tin của DOC ở mức độ nào.
2.2.2 Cố gắng giành phần thắng ngay ở giai đoạn điều tra sơ bộ
Một điểm cũng hết sức quan trọng là cần tận dụng mọi cơ hội để giành
phần thắng ngay từ đầu. Đối với các nhà sản xuất Mỹ, để có thể giành phần
thắng trong một vụ kiện bán phá giá, họ phải đệ trình đơn kiện lên DOC và
USITC, đồng thời phải chứng minh được hai điểm :
Chứng minh sự tồn tại một mức bán phá giá cao với DOC
Chứng minh có thiệt hại vật chất hoặc có đe dọa thiệt hại vật chất với
USITC
Một khi các nhà sản xuất Mỹ chứng minh được hai điều trên và giành được
phần thắng trong giai đoạn điều tra sơ bộ thì phần thắng sẽ chắc chắn thuộc về
họ bởi giai đoạn điều tra chính thức của DOC và USITC gần như chỉ mang tính
chất thủ tục. Trong trường hợp này, nhà xuất khẩu chỉ có thể trông chờ đạt được
một mức thuế thấp trong giai đoạn xem xét lại.
Tuy nhiên, các nhà xuất khẩu có ba cách để giành được phần thắng trong
giai đoạn điều tra sơ bộ. Đó là:
Giành phần thắng tại USITC, tức là USITC tuyên bố rằng: việc bán tại
mức giá thấp hơn mức hợp lý-LTFV không gây thiệt hại hoặc đe doạ
gây thiệt hại đối với ngành sản xuất Mỹ
DOC phát hiện một mức bán phá giá thấp
Đạt được thoả ước đình chỉ đối với chính quyền Mỹ
Việc giành phần thắng đồng nghĩa với việc có thể tiếp tục xuất khẩu sản
phẩm sang Mỹ. Còn việc thua quả thật là một thảm hoạ. Một khi nhà sản xuất
Mỹ giành phần thắng, DOC sẽ áp dụng một mức thuế chống bán phá giá và mức
thuế này có thể kéo dài vô cùng, tức là từ 10 đến 20 năm. Điều này có thể được
minh chứng qua một sản phẩm hoá chất của Trung Quốc, chất Barium Chloride.
Việc nhập khẩu chất này vào Mỹ đã bị kiện bán phá giá vào năm 1983 và kết
quả là chất này đã phải chịu một mức thuế chống bán phá là 62.5% cho đến năm
1999, sau nhiều lần xem xét lại USITC quyết định huỷ bỏ mức thuế cũ nhưng
đồng thời đưa ra một phán quyết khác, đó là tiếp tục áp dụng thuế chống bán phá
giá đối với sản phẩm này cho đến năm 2005. Như vậy là thuế chống bán phá giá
đối với sản phẩm Barium Chloride sẽ tồn tại hơn 20 năm.
Như đã trình bày ở trên, có ba cách để có thể giành phần thắng trong các vụ
kiện bán phá giá. Tuy nhiên, việc giành phần thắng, dù là ở DOC hay USITC,
đều rất khó khăn. Nhưng với sự giúp đỡ của các chuyên gia, chúng ta vẫn có thể
hy vọng vào khả năng giành phần thắng
A. Giành được mức bán phá giá thấp tại DOC
Trong hơn 80% số vụ kiện bán phá giá, DOC kết thúc điều tra bằng việc
phát hiện ra hành vi bán phá giá và áp dụng một mức thuế chống bán phá giá
dựa trên mức bán phá giá đó. Vấn đề mấu chốt là ở chỗ liệu mức thuế mà DOC
đưa ra có đủ thấp để nhà xuất khẩu tiếp tục xuất khẩu sản phẩm của mình sang
thị trường Mỹ.
Rõ ràng là việc giành được một mức thuế thấp là rất khó khăn, đặc biệt là
đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Cũng giống như đối với Trung Quốc, DOC
không sử dụng các mức chi phí thực tế của các doanh nghiệp Việt Nam để tính
toán mức bán phá giá bởi DOC coi Việt Nam là một nền kinh tế phi thị trường,
tức là, quốc gia mà tại đó chính phủ, chứ không phải thị trường, xác định mức
giá hàng hoá và kiểm soát nền kinh tế, cũng như các mối quan hệ kinh tế giữa
các công ty. Mặc dù, đã có rất nhiều thay đổi đối với nền kinh tế Việt Nam,
nhưng DOC không nhận biết được những thay đổi này và cũng do có những áp
lực về mặt chính trị từ phía chính quyền Mỹ buộc DOC phải không thừa nhận
Việt Nam là một nền kinh tế thị trường.
Kết quả là, DOC chỉ sử dụng giá bán tại Mỹ của các nhà xuất khẩu, chứ
không sử dụng các dữ liệu về chi phí thực tế của họ. DOC yêu cầu nhà xuất
khẩu cung cấp thông tin về các yếu tố đầu vào, cụ thể là về mức nguyên liệu thô,
mức nhân công và mức năng lượng mà nhà xuất khẩu cần để sản xuất một đơn
vị sản phẩm thuộc diện điều tra. DOC sau đó sẽ sử dụng thông tin về giá của các
yếu tố đầu vào đó được công bố trong các tài liệu chính thức của một nước thứ
ba cùng trình độ phát triển và có nền kinh tế thị trường, chẳng hạn như Ấn Độ
hoặc Indonesia, để xác định giá trị của các yếu tố đầu vào trên (Trong vụ kiện cá
Tra và cá Basa của Việt Nam, DOC đã quyết định chọn Bangladesh làm nước
thay thế).
Phương pháp thay thế như thế này có thể dẫn đến một mức bán phá giá rất
cao. Tuy nhiên, các nhà xuất khẩu vẫn có cơ hội giành được tỉ lệ bán phá giá
thấp. Nếu tỉ lệ đó là 0%, giống như một số sản phẩm của Trung Quốc đã đạt
được (nhựa PVA), thì đây là tình huống khả quan nhất bởi nhà xuất khẩu sẽ
được giải phóng khỏi thuế chống bán phá giá và sẽ không phải đối phó với quá
trình xem xét lại mà DOC và USITC tiến hành hàng năm. Nếu tỉ lệ bán phá giá
là lớn hơn 2% và USITC xác định là có thiệt hại hoặc có đe doạ vật chất, thì rắc
rối chỉ mới bắt đầu bởi kết quả còn nằm ở giai đoạn xem xét lại.
Các nhà xuất khẩu thường không hiểu rằng, giai đoạn điều tra ban đầu của
DOC không quyết định mức thuế chống bán phá giá mà nhà nhập khẩu Mỹ phải
trả. Giai đoạn điều tra ban đầu chỉ đơn giản xác định mức tiền ký quỹ mà nhà
nhập khẩu Mỹ phải nộp cho Cục Hải quan Mỹ khi nhập khẩu sản phẩm vào Mỹ.
Một khi có yêu cầu áp dụng thuế chống bán phá giá của DOC, thì một năm sau
đó, trong quá trình xem xét lại, DOC mới xác định mức thuế chống bán phá giá
mà nhà nhập khẩu phải trả. Nếu Nếu DOC xác định mức thuế chống bán phá giá
thực tế thấp hơn mức tiền ký quỹ, thì nhà nhập khẩu sẽ được nhận lại số tiền
chênh lệch cộng với một khoản tiền lãi từ Cục Hải quan Mỹ. Trong trường hợp
ngược lại, nhà nhập khẩu sẽ phải thanh toán số tiền chênh lệch trên cộng với
một khoản tiền lãi.
Đã có rất nhiều trường hợp nhà nhập khẩu Trung Quốc do đạt được một
mức bán phá giá thấp nên đã không tham gia vào quá trình xem xét lại và để cho
DOC tự thẩm tra các thông tin mà nhà xuất khẩu cung cấp. Kết quả là mức bán
phá giá tăng lên gấp 3-4 lần. Việc tăng đột ngột của mức bán phá giá đồng nghĩa
với việc tăng lên của mức thuế chống bán phá giá và điều này có thể khiến các
nhà nhập khẩu Mỹ phải đối mặt với nguy cơ phá sản. Mức bán phá giá tìm được
trong giai đoạn xem xét lại cũng chính là mức thuế chống bán phá giá đối với
các lô hàng nhập khẩu trong tương lai, vì vậy một mức thuế chống bán phá giá
cao ở giai đoạn xem xét lại sẽ có thể đóng cửa hoàn toàn thị trường Mỹ đối với
nhà xuất khẩu. Do vậy vấn đề mấu chốt không chỉ là giành được một mức bán
phá giá thấp ở DOC trong giai đoạn điều tra ban đầu mà còn phải giành được cả
một mức bán phá giá thấp trong giai đoạn xem xét lại được tiến hành hàng năm.
Điều này có nghĩa là khi nào nhà xuất khẩu vẫn còn ý định xuất hàng sang thị
trường Mỹ thì họ vẫn phải tiếp tục theo đuổi vụ kiện chống bán phá giá và
đương nhiên vẫn phải trả tiền án phí và tiếp tục nguy cơ bị mất thị trường Mỹ.
B. Thoả ước đình chỉ
Tương tự như quá trình xem xét lại, việc đạt được một thoả ước đình chỉ
cũng có cái giá của nó. Như đã trình bày ở trên, rất khó có thể đạt được thỏa ước
đình chỉ. Trong số hơn 80 vụ kiện bán phá giá đối với Trung Quốc, DOC chỉ
thực hiện thoả ước đình chỉ trong 2 trường hợp : Sản phẩm mật ong và thép
Carbon1. Ngay cả trong vụ kiện cá Tra và cá Basa của Việt Nam, mặc dù chính
phủ Việt Nam đã đề xuất một thoả ước đình chỉ với DOC nhưng sau nhiều lần
đàm phán, hai bên vẫn không thể đạt được thoả ước trên. Thỏa ước đình chỉ là
một thoả ước giữa chính quyền Mỹ và chính quyền nước xuất khẩu theo đó,
DOC dừng việc điều tra bán phá giá lại và đưa ra một mức hạn ngạch cùng với
một mức giá sàn cho mặt hàng thuộc diện điều tra.
Trong vụ kiện sản phẩm mật ong của Trung Quốc, lý do để DOC đưa ra
một thoả ước đình chỉ là do tác động từ phía nhà nhập khẩu Mỹ và nhà sản xuất
Mỹ chuyên đóng gói sản phẩm mật ong để bán tại thị trường Mỹ. Nếu sản phẩm
mật ong của Trung Quốc bị loại bỏ hoàn toàn ra khỏi thị trường Mỹ thì các nhà
đóng gói bao bì Mỹ sẽ phải đối mặt với nguy cơ thất nghiệp. Các nhà đóng gói,
do đó, đã tạo được đủ áp lực để buộc chính quyền Mỹ đi đến một thoả ước với
chính quyền Trung Quốc.
Tuy nhiên, thỏa ước đình chỉ cũng có cái giá của nó. Sau khi có được thoả
ước đình chỉ trong vụ kiện sản phẩm mật ong của Trung Quốc, các nhà xuất
khẩu Trung Quốc cảm thấy thực sự mệt mỏi bởi mức giá sàn mà DOC đưa ra là
quá cao và làm giảm đáng kể kim ngạch xuất khẩu sản phẩm mật ong.
C. Giành phần thắng tại USITC
Nếu nhà xuất khẩu không thể giành phần thắng tại DOC, thì nên tận dụng
cơ hội để có thể giành phần thắng tại USITC. Giành phần thắng tại USITC cũng
rất khó nhưng vẫn còn dễ dàng hơn là giành phần thắng tại DOC bởi nếu có
được sự hợp tác hiệu quả giữa nhà xuất khẩu nước ngoài với nhà nhập khẩu Mỹ
thì có thể gây đủ áp lực để USITC đưa ra phán quyết rằng : Hành vi bán hàng ở
mức giá thấp hơn mức hợp lý LTFV không gây thiệt hại vật chất hoặc đe doạ
gây thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất Mỹ.
2.2.3 Chiến lược để giành phần thắng trong giai đoạn điều tra ban đầu.
Dưới đây là một vài biện pháp để các nhà xuất khẩu vận dụng vào ba cơ hội
trên nhằm tăng khả năng giành phần thắng trong giai đoạn điều tra sơ bộ và
chính thức của DOC và USITC
A. Kết hợp với nhà nhập khẩu.
Chiến lược quan trọng nhất mà các nhà xuất khẩu cần áp dụng để tăng cơ
hội giành phần thắng là kết hợp với nhà nhập khẩu Mỹ. Trong rất nhiều vụ kiện,
các nhà xuất khẩu đã quyết định đơn độc đối chọi lại bên nguyên đơn và cuối
cùng kết quả đã không được tốt đẹp. Mặc dù, nhà xuất khẩu nước ngoài có thể
nắm rõ các số liệu của họ, nhưng họ không nắm vững tình hình thực tế tại thị
trường Mỹ. Do đó, tại USITC, nhà nhập khẩu Mỹ là bên duy nhất có thể biện hộ
một cách hiệu quả chống lại sự tố cáo của bên nguyên đơn rằng : Hành vi bán
dưới mức hợp lý-LTFV gây thiệt hại cho ngành sản xuất Mỹ.
Trong một số vụ kiện sản phẩm của Trung Quốc như chất Antimony
Trioxide, thuốc nhuộm Sulfur, chất Silicon Carbide và đường Saccharin, các nhà
xuất khẩu Trung Quốc đã giành được phần thắng tại USITC bởi sự xuất hiện và
lời làm chứng của các nhà nhập khẩu Mỹ. Trong vụ kiện đường Saccharin,
chính do lời khai của nhà nhập khẩu mà USITC đưa ra phán quyết xử thắng cho
nhà xuất khẩu. Cụ thể, nhà nhập khẩu Mỹ đã biện hộ rằng : nếu sản phẩm đường
Saccharin của Trung Quốc bị loại ra khỏi thị trường Mỹ do thuế chống bán phá
giá, thì các nhà nhập khẩu Mỹ sẽ nhập đường Saccharin của Hàn Quốc để thay
cho sản phẩm của Trung Quốc. Sản phẩm của Hàn Quốc tuy có chất lượng kém
hơn nhưng giá lại thấp hơn sản phẩm của Trung Quốc. Sau khi xem xét kỹ,
USITC thấy rằng việc áp dụng một mức thuế chống bán phá giá chẳng đem lại
lợi ích gì cho các nhà sản xuất Mỹ mà chỉ đem lại lợi ích cho các nhà xuất khẩu
Hàn Quốc, do đó quyết định xử thắng cho các nhà xuất khẩu Trung Quốc.
Ngoài ra, các nhà nhập khẩu Mỹ còn có thể thuyết phục các khách hàng của
họ, tức là người tiêu dùng hoặc các nhà sản xuất khác, biện hộ cho nhà xuất
khẩu tại DOC và USITC. Như trong trường hợp chất Silicon Carbide, nhà nhập
khẩu đã thuyết phục General Motors, nhà sản xuất xe hơi lớn nhất nước Mỹ và
cũng là một khách hàng lớn của sản phẩm Silicon Carbide, biện hộ cho nhà xuất
khẩu Trung Quốc. Lời biện hộ từ phía General Motors là một trong những lý do
chính khiến USITC xử thắng cho nhà xuất khẩu Trung Quốc.
Một lý do quan trọng khác để hợp tác với nhà nhập khẩu là yếu tố Chính trị.
Các nhà sản xuất Mỹ nhập khẩu nguyên liệu thô của nhà xuất khẩu có thể tạo ra
một số áp lực về chính trị đối với DOC và USITC bởi một phần việc làm của
nước Mỹ có thể phải phụ thuộc vào việc nhập khẩu nguyên liệu thô của nhà xuất
khẩu. Như đã đề cập ở trên, trong vụ kiện sản phẩm mật ong của Trung Quốc,
chính các công ty sản xuất bao bì đóng gói đã tạo ra một số áp lực chính trị đáng
kể đối với DOC để đạt được thoả ước đình chỉ.
Trong vụ kiện thuốc nhuộm Sulfur của Trung Quốc, các nhà sản xuất Mỹ
đã nhập khẩu thuốc nhuộm từ Anh, Ấn Độ, và Trung Quốc, rồi trộn các loại
thuốc nhuộm này lại với nhau tại cơ sở của họ ở Nam Carolina. Do cơ sở này
thuê một số lượng nhân công đáng kể ở Nam Carolina, các nhà nhập khẩu và sản
xuất nói trên đã có thể thuyết phục hai thượng nghị sĩ đại diện cho bang này viết
một bức thư biện hộ cho nhà xuất khẩu Trung Quốc. Do tình hình việc làm tại
Mỹ vào thời điểm đó đang lâm vào thời kỳ khủng hoảng nên hai thượng nghị sĩ
này đã ủng hộ các nhà sản xuất nhập khẩu thuốc nhuộm của Trung Quốc. Những
áp lực chính trị đã khiến USITC dễ dàng hơn trong việc xử thắng cho nhà xuất
khẩu Trung Quốc.
Áp lực về chính trị biện hộ cho nhà nhập khẩu Mỹ và nhà xuất khẩu không
thể đảm bảo phần thắng cho nhà xuất khẩu nhưng nó giúp củng cố sự bình đẳng
trong “sân chơi”. Cụ thể, DOC sẽ không thể nặng tay với bên bị đơn nếu DOC
biết rằng có áp lực chính trị từ phía mình. Tuy nhiên, nếu thiếu đi nhà nhập
khẩu, nhà xuất khẩu sẽ không thể tạo được áp lực về chính trị và DOC sẽ dễ
dàng hơn khi đưa ra phán quyết có lợi cho ngành sản xuất nội địa Mỹ. Nếu
không có sự hợp tác của các nhà nhập khẩu Mỹ, thì rõ ràng nhà xuất khẩu sẽ
không thể có được những hỗ trợ như vậy.
Nhà nhập khẩu cũng có thể giúp nhà xuất khẩu tìm được những giá trị thay
thế thấp nhất, giúp làm giảm mức bán phá giá. Như đã trình bày trong Chương I,
trong các vụ kiện bán phá giá đối với các quốc gia có nền kinh tế được coi là phi
thị trường như Việt Nam, bên nguyên đơn sẽ tìm một quốc gia khác có nền kinh
tế thị trường để thay thế cho Việt Nam ( như đã đề cập, khi đệ đơn kiện, bên
nguyên đơn phải chứng minh được rằng có tồn tại hành vi bán phá giá, do đó
bên nguyên đơn cũng phải thu thập thông tin để xác định “giá trị thông thường”
giống như các bước mà DOC và USITC phải tiến hành). Hiển nhiên, để đảm bảo
phần thắng cho mình, bên nguyên đơn sẽ cố gắng tìm những giá trị thay thế cao
nhất có thể và sẽ thuyết phục DOC và USITC sử dụng những gì mà họ tìm thấy.
Điều này rõ ràng bất lợi cho nhà xuất khẩu. Với sự tham gia của nhà nhập khẩu,
bên bị đơn sẽ có thêm cơ hội thuyết phục DOC và USITC không sử dụng những
giá trị quá cao mà bên nguyên đơn tìm được. Điều này đã được minh chứng qua
một số vụ kiện đối với các sản phẩm của Trung Quốc. Đơn cử như vụ kiện chất
Sulfanilic Acid5. Trong vụ kiện này, công ty của Mỹ là Nation Ford đã yêu cầu
DOC sử dụng giá nội địa của chất Aniline tại Ấn Độ. Nếu DOC sử dụng mức
giá này thì mức bán phá giá sẽ tăng gấp ba. Tuy nhiên, công ty Clariant
Chemicals, một nhà nhập khẩu chất Sulfanilic Acid của Trung Quốc đã đưa ra
bằng chứng chứng minh được rằng các nhà sản xuất Ấn Độ cũng nhập khẩu chất
Aniline để sản xuất chất Sulfanilic Acid chứ không dùng chất Aniline nội địa.
Chính nhờ bằng chứng đó mà DOC đã quyết định sử dụng mức giá nhập khẩu
chất Aniline vào Ấn Độ chứ không sử dụng mức giá nội địa.
Hơn nữa ngay cả khi nhà nhập khẩu Mỹ không thể giúp tạo ra những hậu
thuẫn để nhà xuất khẩu có thể giành phần thắng tại USITC, thì họ vẫn có thể
giúp nhà xuất khẩu giảm được thuế chống bán phá giá trong giai đoạn xem xét
lại. Nhà nhập khẩu Mỹ sẽ giúp đỡ bằng cách : sau khi DOC đã chính thức ban
hành yêu cầu áp dụng thuế chống bán phá giá, nhà nhập khẩu sẽ đồng ý nhập
khẩu một vài chuyến hàng để làm cơ sở cho việc giảm mức bán phá giá trong
giai đoạn xem xét lại.
Bởi nhà nhập khẩu Mỹ là một nhân tố quan trọng đối với khả năng giành
thắng lợi trong các vụ kiện bán phá giá, nên các nhà xuất khẩu không nên tách
mình ra khỏi các nhà nhập khẩu. Thay vào đó, các nhà xuất khẩu nên kết hợp
5 Bài học rút ra từ những vụ kiện bán phá giá của Mỹ đối với Trung Quốc-William.E.Perry
với các nhà nhập khẩu Mỹ để tạo thành một liên minh cùng tham gia vào vụ
kiện. Nhà nhập khẩu Mỹ sẽ giữ vai trò chủ đạo tại USITC, còn nhà xuất khẩu
giữ vai trò chủ đạo tại DOC. Trong rất nhiều trường hợp, các nhà nhập khẩu Mỹ
còn đồng ý chia sẻ tiền án phí đối với các nhà xuất khẩu, giúp các nhà xuất khẩu
giảm bớt gánh nặng về mặt tài chính. Sự thiện chí của các nhà nhập khẩu không
chỉ đơn thuần xuất phát từ “tấm lòng” của họ mà thực ra là xuất phát từ chính
bản thân quyền lợi của họ. Các nhà xuất khẩu cần hiểu rõ rằng không phải ai
khác mà chính nhà nhập khẩu Mỹ là người phải gánh vác bất kỳ một sự tăng lên
nào của mức bán phá giá tìm được trong giai đoạn xem xét lại. Sự tăng lên của
mức bán phá giá trong giai đoạn xem xét lại đồng nghĩa với sự tăng lên trong
mức thuế chống bán phá giá chính thức và điều đó có nghĩa là nhà nhập khẩu
Mỹ đang nợ Cục Hải quan Mỹ một khoản tiền tương đương với mức tăng lên đó
(cộng với một khoản lãi). Chính bởi lý do này mà sẽ không khó khăn gì cho nhà
xuất khẩu để có được sự hợp tác của nhà nhập khẩu Mỹ.
B. Xác định rõ các yếu tố đầu vào
Khi trả lời bảng câu hỏi của DOC, một vấn đề quan trọng là phải xác định
rõ những yếu tố đầu vào cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Như đã
trình bày ở trên, đối với các nền kinh tế phi thị trường, Bộ Thương mại Hoa Kỳ
(DOC) không sử dụng các mức chi phí thực tế của nhà xuất khẩu mà chỉ sử
dụng các yếu tố đầu vào phục vụ sản xuất, tức là DOC chỉ cần biết để sản xuất
ra một đơn vị sản phẩm, nhà xuất khẩu cần sử dụng bao nhiêu nguyên liệu thô,
bao nhiêu nhân công, bao nhiêu năng lượng,…Việc kê khai cả những yếu tố đầu
vào không cần thiết có thể làm tăng mức giá trị thông thường mà DOC xác định
được, tạo thêm khả năng phát hiện ra hành vi bán phá giá. Do vậy, nhà xuất
khẩu cần xác định rõ những yếu tố đầu vào trực tiếp liên quan đến quá trình sản
xuất để tránh những ảnh hưởng không có lợi đối với bản thân nhà xuất khẩu khi
DOC xác định mức bán phá giá.
C. Chuẩn bị sẵn sàng
Sau khi DOC đưa ra phán quyết sơ bộ trong giai đoạn điều tra ban đầu hoặc
trước khi đưa ra phán quyết sơ bộ trong giai đoạn xem xét lại, DOC sẽ trực tiếp
đến khảo sát cơ sở của nhà xuất khẩu để thẩm tra các mức doanh số và các chi
phí mà nhà xuất khẩu đệ trình lên DOC. Trong giai đoạn này, các nhà xuất khẩu
cần hết sức nghiêm túc bởi nó có ảnh hưởng đến tính xác thực của các thông tin
mà nhà xuất khẩu cung cấp cũng như ảnh hưởng tới quan điểm của các điều tra
viên.
D. Thái độ đối với các điều tra viên
Một vấn đề chính khác là nhà xuất khẩu nên đối xử như thế nào đối với các
điều tra viên. Trong quá trình thẩm tra, các điều tra viên đương nhiên không
phải là bạn của các nhà xuất khẩu, nhưng cũng không phải kẻ thù. Các điều tra
viên được DOC tuyển dụng để thẩm tra độ chính xác của các thông tin mà nhà
xuất khẩu cung cấp cho DOC, tức là họ được trả lương để chứng thực sự hoài
nghi của DOC. Do đó, nhiệm vụ của các điều tra viên là phát hiện ra các sai sót,
nhưng chừng nào các sai sót đó là không đáng kể và nhà xuất khẩu tỏ ra có thiện
chí hợp tác thì các điều tra viên cũng sẽ có thể bỏ qua.
Mặt khác, cũng sẽ là một sai lầm nếu nhà xuất khẩu tỏ ra quá thân thiện với
các điều tra viên bởi sự thân thiện quá mức sẽ dễ dàng dẫn đến những sai lầm
trong việc tiết lộ các thông tin không có lợi cho nhà xuất khẩu.
E. Biện hộ tại USITC
Một sai lầm mà các nhà xuất khẩu Trung Quốc đã mắc phải đó là không
tham dự buổi họp báo do USITC tổ chức. Một khi đã bị kiện bán phá giá, rất
nhiều nhà xuất khẩu và sản xuất của Trung Quốc muốn tới Mỹ nhưng họ thường
tới không đúng thời điểm.
Buổi họp báo của DOC thường không quan trọng. Vào thời điểm họp báo,
ban điều tra của DOC đã có được quyết định của mình và việc xuất hiện tại buổi
họp báo của DOC chẳng có một chút ảnh hưởng nào tới kết quả của vụ kiện.
Hoàn toàn ngược lại với buổi họp báo của DOC, buổi họp báo mà USITC
tổ chức là hết sức quan trọng và lời biện hộ của nhà xuất khẩu tại buổi họp báo
này có thể tạo ra sự khác biệt giữa việc thắng và thua kiện. Trong buổi họp báo
này, đại diện của USITC sẽ nghe lời biện hộ của bên nguyên đơn và bên bị đơn.
Điều mà USITC quan tâm trong buổi họp báo này là khả năng đe doạ gây ra các
thiệt hại vật chất. Trong phán quyết của mình, Uỷ ban Thương mại Quốc tế
(USITC) phải xác định xem liệu sản phẩm của nhà xuất khẩu có đe doạ gây thiệt
hại vật chất đối với ngành sản xuất Mỹ trong tương lai gần hay không và một
phần phán quyết này dựa vào thái độ của nhà xuất khẩu. Nếu các nhà xuất khẩu
tham dự buổi họp báo, thì sự xuất hiện và lời biện hộ của họ sẽ giúp USITC
khẳng định vững chắc hơn rằng : Hoạt động xuất khẩu của họ sẽ không đe doạ
ngành sản xuất Mỹ trong tương lai. Còn nếu các nhà xuất khẩu không tham dự
buổi họp báo, thì đối với USITC, hành động đó có thể coi là biểu hiện của
những mối đe doạ thiệt hại vật chất trong tương lai.
Đơn cử như vụ kiện chất Antimony Trioxide6, chính nhờ vào lời biện hộ
mạnh mẽ của một quan chức thuộc Bộ Thương mại Trung Quốc rằng : Chính
phủ Trung Quốc sẽ ban hành giấy phép xuất khẩu để bảo tồn nguồn dự trữ tự
nhiên, nên USITC đã thừa nhận rằng kim ngạch xuất khẩu chất Antimony
Trioxide của Trung Quốc sẽ không tăng cao và do đó không đe doạ tới ngành
sản xuất của Trung Quốc. Tóm lại, trong mỗi vụ kiện, việc tham gia và nỗ lực
tìm ra bằng chứng để chứng minh rằng sản phẩm của nhà xuất khẩu sẽ không đe
doạ ngành sản xuất Mỹ trong tương lai sẽ giúp nhà xuất khẩu có thêm cơ hội
giành phần thắng tại USITC và do đó giành phần thắng chung cuộc.
6 Bài học rút ra từ những vụ kiện bán phá giá của Mỹ đối với Trung Quốc-William.E.Perry
F. Hợp tác toàn diện và tận dụng mọi cơ hội để giành thắng lợi.
Sau khi quyết định tham gia vào vụ kiện, một số nhà xuất khẩu thường mắc
sai lầm trong việc không đáp ứng đầy đủ các yêu cầu mà DOC đưa ra trong
Bảng câu hỏi, mà chỉ đưa ra những thông tin mà họ sẵn sàng trả lời. Điều này sẽ
có thể dẫn đến những bất lợi đối với nhà xuất khẩu. Trong vụ kiện cá Tra và cá
Basa của Việt Nam, các doanh nghiệp xuất khẩu không đáp ứng đầy đủ thông
tin mà DOC yêu cầu đã phải chịu một tỉ lệ bán phá giá chung là 63.88%, mức
cao nhất mà DOC phát hiện được ( mức bán phá giá của các doanh nghiệp Việt
Nam là từ 36.84% đến 63.88%). Trong khi đó, các doanh nghiệp như Công ty
Cổ phần Xuất nhập khẩu Thuỷ sản An Giang (Agifish), Công ty TNHH Vĩnh
Hoàn, Công ty TNHH Nam Việt, Công ty XNK Nông sản Cần Thơ
(CATACO),…, những công ty đã đáp ứng được các yêu cầu trả lời của DOC, đã
được hưởng mức bán phá giá riêng dựa trên các thông tin mà công ty đó cung
cấp. Hơn thế nữa, mức bán phá giá mà các doanh nghiệp này được hưởng thấp
hơn đáng kể so với mức bán phá giá chung.
Tỉ lệ bán phá giá áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu
sản phẩm cá Tra và cá Basa sang thị trường Mỹ
Nhà sản xuất / Nhà xuất khẩu Tỉ lệ bán phá giá
(%)
Agifish 44.76
Vĩnh Hoàn 36.84
Nam Việt 52.90
CATACO 45.55
Afiex 44.66
Cafatex 44.66
Đà Nẵng 44.66
Mekonimex 44.66
QVD 44.66
Việt Hải 44.66
Vĩnh Long 44.66
Tỉ lệ chung áp dụng cho các doanh
nghiệp khác
63.88
Trích từ bản thông báo về phán quyết chính thức của DOC (Ký hiệu : 3510-DS-P)
Ngoài ra, một sai lầm mà các nhà xuất khẩu thường hay mắc phải là không
tận dụng hết mọi cơ hội. Như đã trình bày ở trên, việc giành thắng lợi đồng
nghĩa với việc các nhà xuất khẩu có thể tiếp tục xuất khẩu sản phẩm của họ sang
thị trường Mỹ.
Nhưng các nhà xuất khẩu thường tin rằng cách tốt nhất để giành thắng lợi
một vụ kiện bán phá giá là giành được một mức bán phá giá thấp tại DOC. Nếu
nhà xuất khẩu giành được mức bán phá giá thấp nhất, họ có thể trở thành nhà
xuất khẩu duy nhất của chủng loại sản phẩm thuộc diện điều tra. Tuy nhiên,
chiến lược như vậy có thể tạo thêm khó khăn trong quá trình xem xét lại bởi đối
với các doanh nghiệp Việt Nam, DOC không sử dụng các mức chi phí thực tế để
tính mức bán phá giá mà sử dụng mức giá của nước thay thế. Việc dồn hết hy
vọng vào việc giành thắng lợi tại DOC sẽ khiến nhà xuất khẩu phải thất vọng
bởi chiến thắng ở DOC luôn rất khó khăn trong khi đó lại bỏ qua cơ hội chiến
thắng dễ dàng hơn ở USITC.
2.2.4. Chiến lược trong giai đoạn xem xét lại.
Một khi nhà xuất khẩu không thể giành phần thắng trong giai đoạn điều tra
ban đầu của Bộ Thương mại Hoa Kỳ và Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ,
thì DOC sẽ áp dụng một mức thuế chống bán phá giá đối với nhà xuất khẩu đó.
Và các nhà xuất khẩu thường bỏ cuộc khi nhận được kết quả trên. Tuy nhiên,
như đã trình bày ở các phần trước, mức thuế chống bán phá giá mà DOC áp
dụng trong giai đoạn này chưa phải là mức thuế chính thức. Do vậy, các nhà
xuất khẩu vẫn còn có “tia hy vọng” trong giai đoạn xem xét lại.
A. Các chuyến hàng mẫu và quá trình xem xét định kỳ
Các nhà xuất khẩu có thể hạ mức bán phá giá xuống bằng cách xuất những
lô hàng mẫu. Những lô hàng này có thể chỉ có khối lượng đến một tấn, với mục
đích tạo cơ sở cho quá trình xem xét lại. Đây là một trong những lý do để hợp
tác với nhà nhập khẩu Mỹ. Nếu như các nhà xuất khẩu có thể tạo thành một liên
minh với các nhà nhập khẩu Mỹ, thì nhà nhập khẩu Mỹ sẽ có thể sẵn sàng tiếp
tục nhập hàng với số lượng thấp. Mặc dù, nhà nhập khẩu sẽ phải cân nhắc vấn
đề thuế chống bán phá giá nhưng cũng sẽ tương đối dễ dàng để thực hiện việc
này bởi thông thường, sau khi DOC áp dụng một mức thuế chống bán phá giá,
thì mức giá trên thị trường Mỹ sẽ tăng lên đáng kể. Đây là một xu hướng hoàn
toàn tất yếu do tác động từ thực tế khách quan lẫn yếu tố tâm lý. Do vậy, nhà
xuất khẩu sẽ có cơ hội tăng mức giá của mình và làm giảm mức bán phá giá.
Tuy nhiên chuyến hàng mẫu cần phải được tính toán về mọi mặt sao cho có
thể tạo ra một mức bán phá giá thấp nhất. Trước khi thực hiện chuyến hàng này,
các luật sư cần thảo luận với các nhà sản xuất để tìm cách giảm các yếu tố sản
xuất đầu vào. Thời gian của chuyến hàng này cũng phải được tính toán sao cho
chuyến hàng “vào” thị trường Mỹ trước thời điểm tròn một năm áp dụng thuế
chống bán phá giá. Ví dụ, nếu yêu cầu áp dụng thuế chống bán phá giá của DOC
có hiệu lực từ ngày 1/10/2001, thì chuyến hàng mẫu phải qua được Cục Hải
quan Mỹ trước ngày 1/10/2002. Nếu chuyến hàng mẫu đến muộn hơn thời điểm
này, thì nó sẽ không được sủ dụng làm cơ sở cho quá trình xem xét lại.
B. Nhà xuất khẩu mới
Nếu một nhà xuất khẩu thuộc quốc gia và thuộc mặt hàng chịu thuế chống
bán phá giá nhưng không tham dự vào quá trình điều tra ban đầu và không có
liên hệ gì với các nhà xuất khẩu thuộc giai đoạn điều tra ban đầu, thì nhà xuất
khẩu đó có thể yêu cầu tiến hành quá trình xem xét lại áp dụng cho các nhà xuất
khẩu mới. Quá trình xem xét lại áp dụng cho các nhà xuất khẩu mới có vẻ dễ
dàng hơn quá trình xem xét lại áp dụng cho các nhà xuất khẩu đã tham gia vào
quá trình điều tra ban đầu. Sự dễ dàng hơn thể hiện ở chỗ : Trước hết, thay vì
phải đợi một năm, các nhà xuất khẩu mới có thể yêu cầu tiến hành xem xét lại 6
tháng một lần. Hơn thế nữa, chuyến hàng mẫu không cần phải “vào” Mỹ trước
thời điểm tròn một năm áp dụng thuế chống bán phá giá. Để có thể yêu cầu tiến
hành xem xét lại, nhà xuất khẩu cần đệ trình bằng chứng về việc giao dịch, như
hoá đơn hoặc hợp đồng, cùng với lời yêu cầu. Quá trình xem xét lại áp dụng cho
nhà xuất khẩu mới thường ngắn hơn quá trình xem xét lại thông thường và nhà
nhập khẩu những lô hàng của nhà xuất khẩu mới cũng chỉ phải ký quỹ một
khoản tiền thấp hơn mức thông thường (mức áp dụng cho các nhà nhập khẩu
nhập hàng của các nhà xuất khẩu đã tham gia vào quá trình điều tra ban đầu).
Do đó, rõ ràng có lợi thế đối với các nhà xuất khẩu mới.
2.2.5. Rẻ hơn không có nghĩa là tốt hơn
Một vấn đề của các nhà xuất khẩu đặc biệt là các nhà xuất khẩu Việt Nam,
đó là do sự eo hẹp về tài chính nên các nhà xuất khẩu thường thuê các luật sư
với mức thù lao thấp. Các nhà xuất khẩu đôi khi quên rằng các công ty luật cũng
là một loại hình kinh doanh, và đối với luật sư, thời gian là tiền bạc. Nếu mức
thù lao quá thấp, thì luật sư sẽ không thể quá chú tâm vào một vụ kiện mà phải
quan tâm đến các vụ kiện khác có mức thù lao cao hơn. Việc trả một mức thù
lao hợp lý có thể tạo điều kiện để các luật sư có cơ hội tìm kiếm được những
bằng chứng có lợi và khả năng thắng kiện sẽ cao hơn.
2.3 Nhóm các giải pháp khác
Ngoài hai nhóm giải pháp trên, nhà xuất khẩu còn có thể áp dụng một số
biện pháp khác nhằm đối phó với luật chống bán phá giá nói chung và luật
chống bán phá giá của Mỹ nói riêng.
2.3.1 Đa dạng hoá thị trường
Giải pháp này cần được các nhà xuất khẩu áp dụng nhằm hạn chế những
thiệt hại mà thuế chống bán phá giá tạo ra. Các nhà xuất khẩu cũng hiểu rằng
một khi DOC đã áp dụng một mức thuế chống bán phá giá cho sản phẩm của họ
thì điều đó có nghĩa là thị trường Mỹ đã gần như đóng cửa đối với sản phẩm của
họ đặc biệt là trong trường hợp nhà xuất khẩu nhận được một mức bán phá giá
cao. Và nếu như thị trường Mỹ là thị trường duy nhất cho sản phẩm của nhà xuất
khẩu thì tức là công việc kinh doanh của nhà xuất khẩu coi như đã chấm dứt.
Chúng ta có thể cảm nhận được điều này trong vụ cá Tra và cá Basa của Việt
Nam và cũng thấy được sự khó khăn đến nhường nào mà các bà con nông dân
phải đối mặt trong tình trạng khủng hoảng đầu ra cho sản phẩm cá Tra và cá
Basa của Việt Nam.
Dĩ nhiên, việc đa dạng hoá thị trường không phải là một công việc đơn giản
mà có thể muốn là muốn được ngay. Để đạt được điều này không chỉ có sự nỗ
lực của các doanh nghiệp trong việc đa dạng hoá sản phẩm để phù hợp với các
đặc điểm của từng thị trường khác nhau, mà còn cần có sự phối hợp nhịp nhàng
với Bộ chủ quản, với các cơ quan chức năng, có như vậy mới mong có được một
hiệu quả như mong muốn.
2.3.2 Xây dựng một thương hiệu riêng
Vấn đề thương hiệu giờ đây đã là một vấn đề chiến lược đối với các doanh
nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, đối với các sản phẩm nông nghiệp, vấn đề này
chưa nhận được sự quan tâm đúng mức.
Trong kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh ra thị trường nước ngoài, thương
hiệu không chỉ có tác dụng làm tăng giá trị của sản phẩm, tạo lòng tin cho người
tiêu dùng mà còn, đối với vấn đề bán phá giá, giảm bớt ảnh hưởng của mức thuế
chống bán phá giá. Cụ thể, khi sản phẩm có một thương hiệu riêng, nó sẽ được
dễ dàng phân biệt với các sản phẩm đồng loại có cùng xuất xứ. Điều đó, sẽ dễ
dàng hơn cho DOC trong việc xác định mức bán phá giá của nhà xuất khẩu đó
và cũng dễ dàng hơn cho USITC trong việc xác định mức độ thiệt hại vật chất
mà nhà xuất khẩu đó gây ra. Và nếu nhà xuất khẩu có thái độ hợp tác với hai cơ
quan trên thì hy vọng nhận được một mức bán phá giá thấp không phải là một
điều xa vời.
2.3.3 Luôn sẵn sàng với nguy cơ bị kiện bán phá giá
Như đã nói ở trên, với tình hình phát triển của việc sử dụng luật chống bán
phá giá hiện nay, thì việc các doanh nghiệp Việt Nam với các lợi thế về chi phí
đầu vào trở thành đối tượng thường xuyên của luật chống bán phá giá sẽ sớm trở
thành hiện thực, đặc biệt là khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của
WTO. Do đó, việc các doanh nghiệp, các nhà xuất khẩu sẵn sàng chuẩn bị theo
hầu các vụ kiện bán phá giá sẽ không hề thừa chút nào.
Để có thể ở trong tư thế sẵn sàng, các nhà xuất khẩu cần chuẩn bị đầy đủ
các tài liệu liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh đơn cử như số liệu về
các chi phí về nguyên vật liệu trực tiếp phục vụ cho hoạt động sản xuất, các chi
phí về quản lý, chi phí tài chính và các khoản chi phí chung khác, số liệu về giá
cả các yếu tố đầu vào trên thế giới cũng như ở một số quốc gia có khả năng
được sử dụng làm thị trường thay thế cho Việt Nam,….
Việc chuẩn bị sẵn sàng sẽ hạn chế sự bỡ ngỡ cũng như những sai sót không
đáng có như trong vụ kiện cá Tra và cá Basa. Trong vụ kiện này, do không
chuẩn bị sẵn sàng, một số doanh nghiệp như công ty Nam Việt đã luôn chậm trễ
trong việc cung cấp các thông tin mà DOC và USITC yêu cầu, dẫn đến việc luôn
phải xin ra hạn. Hơn thế, các thông tin này là không đầy đủ và luôn phải bổ sung
trong suốt quá trình điều tra (trong trường hợp của công ty Nam Việt, công ty
này đã quên không khai báo một số yếu tố đầu vào như than dùng trong quá
trình chế biến thức ăn, trấu dùng trong quá trình sản xuất sản phẩm phụ,…).
Chính những sai sót này đã khiến bên nguyên đơn có cớ để công kích, tạo sự bất
lợi cho chúng ta.
Do đó, để tránh những bất lợi không đáng có, các doanh nghiệp và các nhà
xuất khẩu cần có sự chuẩn bị sẵn sàng với nguy cơ bị kiện bán phá giá.
KẾT LUẬN
Qua những nét sơ lược về một số khía cạnh liên quan đến bộ luật chống bán
phá giá của Mỹ được trình bày trong ba chương của bản khoá luận này, chúng
ta có thể kết luận rằng :
Luật chống bán phá giá của Mỹ là một bộ luật không hề đơn giản như khái
niệm bán phá giá và chống bán phá giá. Sự không đơn giản không chỉ thể hiện
trong các quy định và quy trình thủ tục xử lý một vụ kiện bán phá giá, mà còn
thể hiện trong bản chất của bộ luật này. Rõ ràng, bộ luật chống bán phá giá của
Mỹ không chỉ đơn thuần là một công cụ loại bỏ những hành vi cạnh tranh
không bình đẳng mà, sâu xa hơn, còn là một công cụ bảo hộ nền sản xuất của
Mỹ.
Đây sẽ là một trở lực lớn cho thương mại thế giới nói chung và đặc biệt là
cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình buôn bán với các bạn hàng Mỹ.
Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam, những doanh nghiệp hướng tới thị trường
ngoại quốc, cần có những đối sách thích hợp để đối phó với bộ luật chống bán
phá giá của Mỹ cũng như bộ luật chống bán phá giá của các quốc gia khác bởi
trong tương lai, khi các hàng rào thương mại cổ điển được dõ bỏ dần theo yêu
cầu của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, luật chống bán phá giá sẽ là một
công cụ đắc lực trong việc đối phó với hàng nhập khẩu, và do vậy, sẽ được sử
dụng rộng rãi trên phạm vi toàn cầu.
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
DOC Bộ Thương mại Hoa Kỳ (Department of Commerce)
LTFV Mức giá thấp hơn mức hợp lý (Less than fair value)
NBER Cục nghiên cứu kinh tế quốc gia
USITC Uỷ ban Thương mại Hoa Kỳ (US International Trade Council)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu hướng dẫn về chống bán phá giá - UNCTAD - 4/2001
2. Các qui định về chống bán phá giá của Hoa Kỳ – Hội đồng
Thương mại quốc tế Hoa Kỳ ( USITC ) – 12/2002
1. Luật chống bán phá giá của Mỹ : Bộ lụât thương mại có quyền
lực nhất – Willliam E.Perry, Williams, Mullen, Christian&Dobbins
– 3/2003
2. Luật chống bán phá giá của Mỹ : Đối mặt với thực tế
Brink Lindsey – Trung tâm nghiên cứu chính sách thương mại
thuộc Viện CATO Hoa Kỳ – 1/2000
3. Những thiệt hại mà luật chống bán phá giá dành cho người Mỹ
– Dan Ikenson - Trung tâm nghiên cứu chính sách thương mại
thuộc Viện CATO Hoa Kỳ – 1/2000
4. Chống bán phá giá : Kinh nghiệm của Mỹ – Bài học cho
Indonesia –Gary C.Hufbauer – Viện kinh tế quốc tế – Bộ Công
nghiệp và Thương mại Indonesia
5. Bài học rút ra từ những vụ kiện chống bán phá giá của Mỹ đối
với Trung Quốc- William E.Perry
6. Bằng cách nào các công ty Indonesia có thể giành phần thắng
trong các vụ kiện bán phá giá của Mỹ – William E.Perry - 5/2000
7. Những tranh chấp giữa các qui định về chống bán phá giá của
Mỹ với các qui định của WTO – Báo cáo của WTO - 9/2000
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Những Quy Định Và Thực Tiễn Bán Phá Giá Tại Mỹ Và Những Giải Pháp Cho Doanh Nghiệp Việt Nam.pdf