Đề tài Những thách thức và những cơ hội của Việt Nam tham gia vào Afta

MỤC LỤC NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN . 2 A. AFTA . I. AFTA và quá trình tham gia của Việt Nam . 3 II. Tác động của AFTA đối với nền kinh tế Việt Nam . 6 B. NHỮNG THÁCH THỨC VÀ NHỮNG CƠ HỘI CỦA VIỆT NAM THAM GIA VÀO AFTA I. AFTA: Thử thách hội nhập đầu tiên của Việt Nam 10 II. Những thách thức và những cơ hội của Việt Nam tham gia vào AFTA 11 C. QUÁ TRÌNH THAM GIA VÀ LỊCH TRÌNH GIẢM THUẾ CỦA VIỆT NAM 14 KẾT LUẬN 15 A. AFTA I. AFTA và quá trình tham gia của Việt Nam 1. Nội dung cơ bản của AFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (viết tắt là AFTA từ các chữ cái đầu của ASEAN Free Trade Area) là một hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương giữa các nước trong khối ASEAN. Theo đó, sẽ thực hiện tiến trình giảm dần thuế quan xuống 0-5%, loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan đối với đa phần các nhóm hàng và hài hòa hóa thủ tục hải quan giữa các nước trong khối. Sáng kiến về AFTA vốn là của Thái Lan. Sau đó hiệp định về AFTA được ký kết tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4, tổ chức vào tháng 1/1992 tại Singapore. Ban đầu chỉ có sáu nước là Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan (gọi chung là ASEAN-6). Các nước Campuchia, Lào, Myanma và Việt Nam (gọi chung là CLMV) được yêu cầu tham gia AFTA khi được kết nạp vào khối này. Theo kế hoạch ban đầu, AFTA được hoàn thành vào năm 2008 với mục đích cơ bản là "tăng cường khả năng cạnh tranh của ASEAN như một cơ sở quốc tế nhằm cung cấp hàng hóa ra thị trường thế giới". Tuy nhiên, trước sự phát triển và cạnh tranh mạnh mẽ của các liên kết kinh tế toàn cầu khác, cũng như do sự tiến bộ của chính các quốc gia ASEAN, năm 1994, khối này quyết định đẩy nhanh thời hạn lên năm 2003. Gia nhập ASEAN năm 1995, Việt Nam cũng tham gia AFTA từ năm 1996 với mục tiêu giảm thuế quan nhập khẩu từ các nước thành viên xuống dưới 5% vào năm 2006 và 0% vào năm 2017. Cơ chế chính để thực hiện AFTA là Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (Common Effective Preferential Tariff - CEPT). Về thực chất, CEPT là một thỏa thuận giữa các nước thành viên ASEAN về việc giảm thuế quan trong nội bộ khối xuống còn 0-5% thông qua những kế hoạch giảm thuế khác nhau. Trong vòng 5 năm sau khi đạt mức thuế ưu đãi cuối cùng, các nước thành viên sẽ tiến hành xóa bỏ các hạn ngạch nhập khẩu và những hàng rào phi quan thuế khác. Thời hạn thực hiện CEPT của các nước có khác nhau. Cụ thể là: Với Brunei, Indonesia, Philippines, Singapore, Thái Lan: từ 1993 đến 2003. Với Việt Nam: từ 1996 đến 2006 Với Lào, Myanmar và Campuchia: từ 1998 đến 2008. Để thực hiện dần dần việc cắt giảm thuế quan, mỗi nước sẽ phải phân loại tất cả hàng hóa của mình vào một trong các danh mục sau: Danh mục giảm thuế (IL) Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) Danh mục nhạy cảm (SL) Danh mục nhạy cảm cao Danh mục giảm thuế (IL) bao gồm những mặt hàng sẽ được cắt giảm thuế quan để đến khi hoàn thành CEPT sẽ có thuế suất 0-5%. Ngay sau khi ký CEPT, mỗi nước ASEAN

doc15 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3648 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Những thách thức và những cơ hội của Việt Nam tham gia vào Afta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN 2 A. AFTA I. AFTA và quá trình tham gia của Việt Nam 3 II. Tác động của AFTA đối với nền kinh tế Việt Nam 6 B. NHỮNG THÁCH THỨC VÀ NHỮNG CƠ HỘI CỦA VIỆT NAM THAM GIA VÀO AFTA I. AFTA: Thử thách hội nhập đầu tiên của Việt Nam 10 II. Những thách thức và những cơ hội của Việt Nam tham gia vào AFTA 11 C. QUÁ TRÌNH THAM GIA VÀ LỊCH TRÌNH GIẢM THUẾ CỦA VIỆT NAM 14 KẾT LUẬN 15 NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN A. AFTA I. AFTA và quá trình tham gia của Việt Nam 1. Nội dung cơ bản của AFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (viết tắt là AFTA từ các chữ cái đầu của ASEAN Free Trade Area) là một hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương giữa các nước trong khối ASEAN. Theo đó, sẽ thực hiện tiến trình giảm dần thuế quan xuống 0-5%, loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan đối với đa phần các nhóm hàng và hài hòa hóa thủ tục hải quan giữa các nước trong khối. Sáng kiến về AFTA vốn là của Thái Lan. Sau đó hiệp định về AFTA được ký kết tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4, tổ chức vào tháng 1/1992 tại Singapore. Ban đầu chỉ có sáu nước là Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan (gọi chung là ASEAN-6). Các nước Campuchia, Lào, Myanma và Việt Nam (gọi chung là CLMV) được yêu cầu tham gia AFTA khi được kết nạp vào khối này. Theo kế hoạch ban đầu, AFTA được hoàn thành vào năm 2008 với mục đích cơ bản là "tăng cường khả năng cạnh tranh của ASEAN như một cơ sở quốc tế nhằm cung cấp hàng hóa ra thị trường thế giới". Tuy nhiên, trước sự phát triển và cạnh tranh mạnh mẽ của các liên kết kinh tế toàn cầu khác, cũng như do sự tiến bộ của chính các quốc gia ASEAN, năm 1994, khối này quyết định đẩy nhanh thời hạn lên năm 2003. Gia nhập ASEAN năm 1995, Việt Nam cũng tham gia AFTA từ năm 1996 với mục tiêu giảm thuế quan nhập khẩu từ các nước thành viên xuống dưới 5% vào năm 2006 và 0% vào năm 2017. Cơ chế chính để thực hiện AFTA là Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (Common Effective Preferential Tariff - CEPT). Về thực chất, CEPT là một thỏa thuận giữa các nước thành viên ASEAN về việc giảm thuế quan trong nội bộ khối xuống còn 0-5% thông qua những kế hoạch giảm thuế khác nhau. Trong vòng 5 năm sau khi đạt mức thuế ưu đãi cuối cùng, các nước thành viên sẽ tiến hành xóa bỏ các hạn ngạch nhập khẩu và những hàng rào phi quan thuế khác. Thời hạn thực hiện CEPT của các nước có khác nhau. Cụ thể là: Với Brunei, Indonesia, Philippines, Singapore, Thái Lan: từ 1993 đến 2003. Với Việt Nam: từ 1996 đến 2006 Với Lào, Myanmar và Campuchia: từ 1998 đến 2008. Để thực hiện dần dần việc cắt giảm thuế quan, mỗi nước sẽ phải phân loại tất cả hàng hóa của mình vào một trong các danh mục sau: Danh mục giảm thuế (IL) Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) Danh mục nhạy cảm (SL) Danh mục nhạy cảm cao Danh mục giảm thuế (IL) bao gồm những mặt hàng sẽ được cắt giảm thuế quan để đến khi hoàn thành CEPT sẽ có thuế suất 0-5%. Ngay sau khi ký CEPT, mỗi nước ASEAN phải đưa ra IL của mình để bắt đầu giảm thuế quan từ năm 1993. Trên thực tế, không phải mặt hàng nào trong IL cũng thực sự phải giảm thuế quan, vì có những mặt hàng trước khi đưa vào IL đã có thuế suất dưới 5%, thậm chí bằng 0%. Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) bao gồm những mặt hàng chưa đưa vào giảm thuế quan ngay, do các nước thành viên ASEAN phải dành thêm thời gian để điều chỉnh sản xuất trong nước thích nghi với môi trường cạnh tranh quốc tế gia tăng. Sau ba năm kể từ khi tham gia CEPT, các nước ASEAN phải bắt đầu chuyển dần các mặt hàng từ TEL sang IL, tức là bắt đầu giảm thuế quan đối với những mặt hàng này. Quá trình chuyển từ TEL sang IL được phép kéo dài trong 5 năm, mỗi năm phải chuyển được 20% số mặt hàng. Điều đó có nghĩa là đến hết năm thứ tám thì IL đã mở rộng bao trùm toàn bộ TEL, và TEL không còn tồn tại. Khi đưa mỗi mặt hàng vào IL, các nước đồng thời phải chỉ ra lịch trình giảm thuế quan của mặt hàng đó cho đến khi hoàn thành CEPT. Ví dụ: Khi tham gia CEPT vào năm 1993, IL của nước A bao gồm 50 mặt hàng, TEL của nước này có 100 mặt hàng. Từ năm 1996, nước A phải bắt đầu chuyển TEL sang IL. Nếu mỗi năm chuyển đều 20% thì năm 1996, IL của nước này có 50 + (100*20%) = 70 mặt hàng và TEL giảm đi còn 100 - (100*20%) = 80 mặt hàng. Năm 1997, IL sẽ là 90 và TEL sẽ là 60. Ba năm tiếp sau đó, các con số tương ứng sẽ là 110/40, 130/20 và 150/0. Đến năm 2000, IL của nước A sẽ bao gồm cả 150 mặt hàng và TEL không còn mặt hàng nào nữa. Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) bao gồm những mặt hàng không có nghĩa vụ phải giảm thuế quan. Các nước thành viên ASEAN có quyền đưa ra danh mục các mặt hàng này nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, bảo vệ sức khỏe con người, động thực vật; bảo tồn các giá trị văn hóa, lịch sử, khảo cổ... GEL không phải là Danh mục các mặt hàng Chính phủ cấm nhập khẩu (NK). Một số mặt hàng có trong GEL vẫn được NK bình thường, nhưng không hưởng thuế suất ưu đãi như các mặt hàng trong danh mục giảm thuế. Ngoài cơ chế này, để hiện thức hóa AFTA, các nước ASEAN còn ký kết hàng loạt các thỏa thuận về thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hàng hóa giữa các nước thành viên, công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hóa của nhau, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực hải quan, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, phát triển công nghiệp và xây dựng Khu vực đầu tư ASEAN (ASEAN Investment Area - AIA). 2. Quá trình tham gia của Việt Nam Ngày 28/7/1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN và cam kết tham gia AFTA. Thời hạn hoàn thành AFTA của Việt Nam năm 2006. Việt Nam bắt đầu thực hiện lộ trình giảm thuế quan tham gia AFTA từ ngày 1/1/1996, khi đưa 875 mặt hàng đầu tiên vào thực hiện CEPT. Tất cả những mặt hàng này đều đã nằm ở khung thuế suất 0-5%. Đầu năm 1998, Việt Nam công bố lịch trình giảm thuế để thực hiện AFTA vào năm 2006. Trên thực tế thì đến cuối năm 2002, 5.500 mặt hàng (chiếm khoảng 86% tổng số mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu) đã được vào chương trình cắt giảm. Toàn bộ các mặt hàng này đã ở thuế suất dưới 20% và có lộ trình cắt giảm trong thời kỳ 2002-2006. Trong số đó, 65% đã ở mức thuế 0-5%. Theo số liệu của tờ Dow Jones, vào những ngày đầu năm 2003, mức thuế suất trung bình của Việt Nam chỉ hơn 2% một chút, và Việt Nam đang là nước có mức thuế suất trung bình thấp thứ 3 ASEAN, sau Singapore và Brunei. Theo đúng lộ trình thì việc cắt giảm thuế tham gia AFTA đã được áp dụng chính thức tại Việt Nam từ ngày 1/1/2003. Tuy nhiên, ngày 10/1/2003, Bộ Tài chính đã thông báo việc cắt giảm đó sẽ được thực hiện lùi lại 7 tháng, vào ngày 1/7. Đến ngày 1/7, 1.416 mặt hàng thuộc TEL được chuyển sang IL. Đa số đó là những mặt hàng hiện đang được bảo hộ với mức thuế suất rất cao (30-100%), hoặc đang được quản lý bằng hạn ngạch như xi măng , giấy , hàng điện tử, điện gia dụng , cơ khí, vật liệu xây dựng... II. Tác động của AFTA đối với nền kinh tế Việt Nam Đối chiếu nội dung của AFTA cũng như những tác động có thể có của nó đối với các nước thành viên nói chung, đối chiếu với tình hình cụ thể và tiến trình thực hiện AFTA của Việt Nam, AFTA có thể có những tác động trên các mặt chính sau: 1. Thương mại 1.1. Nhập khẩu: Trong những năm gần đây, hàng hóa từ ASEAN vào Việt Nam chiếm khoảng 25% kim ngạch nhập khẩu (NK), trong đó nguyên vật liệu dùng cho sản xuất và hàng công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Các mặt hàng này đã có thuế suất dưới 5% trước khi thực hiện CEPT. Vì vậy, AFTA không có tác động trực tiếp tới việc NK những mặt hàng này. Ngoài ra, một số hàng NK có kim ngạch đáng kể ở Việt Nam như xăng dầu, xe máy... chưa được đưa vào danh sách giảm thuế ngay nên trước mắt sẽ nằm ngoài phạm vi tác động của AFTA. Về lâu dài, Việt Nam chắc chắn phải đưa thêm những mặt hàng từ danh mục loại trừ tạm thời có thuế suất trên 20% vào diện cắt giảm ngay, và loại trừ dần các hàng rào phi thuế quan (nhất là những hạn chế về số lượng nhập khẩu). Khi đó, rất có thể NK, nhất là những mặt hàng tiêu dùng từ các nước ASEAN vào Việt Nam sẽ tăng lên nếu những mặt hàng cùng loại sản xuất trong nước không cạnh tranh lại được. 1.2. Xuất khẩu: a. Xuất khẩu sang các nước ASEAN khác: Về lý thuyết và dài hạn, AFTA có tác động làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường ASEAN nhờ giảm thuế quan và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan. Song trong vài năm tới, khả năng AFTA làm tăng kim ngạch xuất khẩu (XK) của Việt Nam sang các nước này không lớn do các nguyên nhân sau: Xét về cơ cấu hàng xuất khẩu (XK): Những năm gần đây, ASEAN thường chiếm khoảng 20-23% kim ngạch xuất khẩu (XK) của Việt Nam. Đây là một con số đáng kể. Nhưng những mặt hàng được hưởng thuế suất CEPT lại chỉ chiếm gần 20% kim ngạch XK sang ASEAN, tương đương với dưới 4% tổng kim ngạch XK của Việt Nam năm 2001. Và mức tăng XK của những mặt hàng này sang các nước ASEAN khác cũng không lớn. Hơn nữa, cơ cấu hàng hóa của Việt Nam và ASEAN khá tương đồng. Với trình độ thua kém hơn, Việt Nam chỉ có thể cạnh tranh trên thị trường ASEAN nhờ tính độc đáo của chủng loại, mẫu mã và do đó, chỉ mang tính bổ sung cho cơ cấu hàng hóa nước đối tác. Xét về bạn hàng: 2/3 doanh số buôn bán của Việt Nam với ASEAN được thực hiện với Singapore. Phần lớn hàng Việt Nam xuất sang Singapore sẽ được tái xuất sang các nước khác. Nhưng ở nước này, hệ thống thuế xuất nhập khẩu trước AFTA vốn đã thấp, gần như bằng 0%. Do vậy, khi thực hiện CEPT trên toàn khối ASEAN, 1/3 kim ngạch xuất nhập khẩu còn lại của Việt Nam với các nước ASEAN khác sẽ chưa làm thay đổi nhiều XK Việt Nam nếu xét theo khía cạnh được hưởng ưu đãi thuế NK thấp. Có thể kết luận rằng: Chỉ khi nào Việt Nam tạo được sự dịch chuyển cơ cấu sản xuất và XK theo hướng tạo ra được nhiều chủng loại hàng hóa có sức cạnh tranh và nằm trong danh mục cắt giảm của CEPT, các doanh nghiệp Việt Nam mới có thêm thuận lợi về yếu tố giá cả khi muốn XK sang ASEAN. b. Về phần XK sang các nước ngoài ASEAN: Về dài hạn, AFTA có tác động gián tiếp làm tăng kim ngạch XK của Việt Nam sang các thị trường ngoài ASEAN do nhập được đầu vào cho sản xuất XK với giá rẻ hơn từ các nước ASEAN. Mặt khác, với tư cách một thành viên của AFTA, Việt Nam có điều kiện để khai thác những lợi thế mới trong quan hệ thương mại với nước lớn. Ví dụ, Việt Nam sẽ được hưởng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập của Mỹ (General System of Preference - GSP). Bởi GSP quy định "giá trị một sản phẩm được sản xuất tại một nước thành viên của một hiệp hội kinh tế, khu vực thương mại tự do (như AFTA) thì được coi là sản phẩm của một nước" và một sản phẩm NK vào Mỹ được hưởng GSP nếu "giá trị nguyên liệu NK để sản xuất ra nó chiếm dưới 65% giá trị sản phẩm sau khi hoàn thành thủ tục hải quan vào Mỹ". Điều đó có nghĩa là các nước ASEAN có thể nhập nguyên liệu từ các nước thành viên khác để sản xuất hàng XK sang Mỹ, và hàng XK sẽ được hưởng GSP nếu giá trị nguyên liệu dưới 65% giá trị sản phẩm. Và do đó, AFTA giúp Việt Nam tăng cường tiếp cận và thâm nhập thị trường Mỹ - đất nước có kim ngạch NK vượt 1000 tỷ USD mỗi năm. Tuy vậy, như trên đã nói, cơ cấu sản phẩm của các nước ASEAN xuất ra thị trường thế giới lại khá tương đồng với Việt Nam. Và họ cũng được hưởng những lợi ích tương tự. Do đó, tham gia AFTA, Việt Nam tiếp tục phải chấp nhận cạnh tranh rất quyết liệt với các thành viên khác trong hiệp hội không chỉ trên thị trường khu vực. Cũng cần nói thêm rằng, việc Việt Nam tham gia AFTA và tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương ( APEC ) tháng 11/1998 là những sự chứng minh, là bước chuẩn bị, tập dượt để gia nhập WTO. 2. Đầu tư nước ngoài 2.1. Đầu tư từ các nước ASEAN khác: AFTA có tác động phân công lại các nguồn lực trong khu vực theo hướng hợp lý hóa. Khi không còn bảo hộ, một số ngành công nghiệp của một số nước sẽ bộc lộ sự thua kém về khả năng cạnh tranh, để tồn tại, hoặc để thu được nhiều lợi nhuận hơn, các nhà kinh doanh trong những ngành này sẽ đầu tư sang các nước ASEAN khác có các yếu tố thuận lợi hơn, trong đó có Việt Nam. Ngoài ra, với tiến trình hiện thức hóa Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), các nhà đầu tư ASEAN nói riêng và các nhà đầu tư nước ngoài nói chung sẽ có nhiều thuận lợi về thủ tục hành chính và tâm lý khi đầu tư vào Việt Nam. 2.2. Đầu tư nước ngoài từ các nước khác: Về lý thuyết, một khu vực thương mại tự do sẽ làm tăng đầu tư từ ngoài khu vực. Đó là bởi các nhà đầu tư có thể sản xuất hàng hóa tại một hay một số nước và đưa ra tiêu thụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế thấp và hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ. Khi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào một nước, họ sẽ có một thị trường tiềm năng rộng lớn hơn nhiều lần nước đó. Áp dụng lý thuyết đó vào AFTA và Việt Nam, thì các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam, họ sẽ không chỉ nghĩ đến một thị trường với 80 triệu dân, mà còn tính đến cả thị trường ASEAN với trên 500 triệu người. Nhưng trên thực tế, thuế chỉ là một trong rất nhiều yếu tố được xem xét để đi đến quyết định đầu tư. Thuế thấp sẽ mất đi ý nghĩa thu hút đầu tư nước ngoài nếu không đi kèm với sự ổn định chính trị, xã hội, luật đầu tư nước ngoài thông thoáng, nguồn lao động giá rẻ và có tay nghề cao... Có thể lấy ví dụ đơn cử là Indonesia hiện nay. Mặc dù Indonesia đã hoàn thành AFTA, nhưng rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài như Sony , Matsushita... đã và đang rời bỏ nước này sang Trung Quốc, Malaysia hay Việt Nam vì lo ngại và thất vọng trước nạn khủng bố, mâu thuẫn sắc tộc, bất ổn quyền lực và tham nhũng... Đó cũng thách thức chung cho tất cả các thành viên của AFTA. Vì nếu như trước đây, Indonesia hay Việt Nam không phải là thành viên của AFTA, để vượt qua hàng rào thuế quan và các hạn chế NK vào thị trường Indonesia hay Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài buộc phải đầu tư tại nước sở tại. Nhưng nay Việt Nam đã là thành viên AFTA, nếu môi trường đầu tư vào Việt Nam không hấp dẫn, thì thay vì đầu tư Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài có thể sẽ đầu tư vào các nước ASEAN khác, hoặc đơn giản hơn, chỉ cần mở rộng hoặc tăng thêm công suất của các nhà máy sẵn có tại các nước AFTA, đặc biệt là đối với các dây chuyền sản xuất đã gần hết khấu hao nhưng vẫn vận hành tốt, rồi từ đó bán hàng sang Việt Nam. Như vậy, để tận dụng được những cơ hội thu hút đầu tư từ các nước khác mà AFTA đem lại, Việt Nam cần phải tiếp tục cải thiện một cách đồng bộ và toàn diện môi trường đầu tư. 3. Công nghiệp: Về lâu dài, khi các ngành công nghiệp của những nước thành viên không còn được bảo hộ, AFTA sẽ làm thay đổi cơ cấu công nghiệp khu vực theo hướng chuyên môn hóa và phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý hơn. Nhưng đây là sự thay đổi và phân bổ mang tính động và phụ thuộc chủ yếu vào sự lựa chọn và nỗ lực chủ quan của từng nước. Singapore sẽ đẩy mạnh phát triển các ngành hóa chất, trang thiết bị vận tải và linh kiện điện tử, trong khi đó sẽ bỏ ngỏ các ngành cần nhiều lao động và khoáng sản. Malaysia thì có sự sắp xếp ngược lại. Các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu như công nghiệp giấy, chế biến gỗ, may mặc và dệt sẽ tăng nhanh. Trong khi đó, các ngành thiết bị vận tải, hóa chất, đồ gỗ, thực phẩm đã qua chế biến sẽ giảm mạnh. Cũng giống như tại các nước ASEAN, ở một mức độ nào đó, AFTA sẽ làm thay đổi cơ cấu công nghiệp của Việt Nam. Trong đó, một số ngành sẽ phát triển, một số ngành sẽ bị thu hẹp. Tuy vậy, AFTA cũng tạo cho chúng ta điều kiện và thời gian để chuẩn bị và vươn lên để có thể đứng vững và phát triển vì: Thứ nhất, mọi thời hạn thực hiện và hoàn thành AFTA/CEPT đối với Việt Nam được cộng thêm 3 năm; Thứ hai, cũng như các nước ASEAN khác, Việt Nam không cần phải đưa ngay một lúc tất cả các danh mục hàng hóa vào chương trình giảm thuế. Những mặt hàng nào có tỷ trọng NK cao và có khối lượng giá trị tiêu thụ lớn trên thị trường nội địa có thể sẽ đưa vào giảm thuế chậm hơn; Thứ ba, sau khi một mặt hàng được giảm thuế, các hàng rào phi thuế quan (nếu có đối với mặt hàng đó) sau đó 5 năm mới phải xóa bỏ; Thứ tư, việc cắt giảm thuế NK đối với một số nguyên liệu, sản phẩm đầu vào sẽ làm giảm chi phí sản xuất và do vậy, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cho một số sản phẩm công nghiệp. Vấn đề đặt ra đối với các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà kinh doanh là làm thế nào để tận dụng được những cơ hội và thời gian một cách có hiệu quả, định hướng cơ cấu công nghiệp và mặt hàng kinh doanh như thế nào để có thể phát huy được lợi thế so sánh của Việt Nam trong phân công lao động khu vực. Trên cơ sở định hướng phát triển công nghiệp theo cơ chế kinh tế mở, Nhà nước cần tạo môi trường thuận lợi và đầu tư thích đáng, đồng thời áp dụng các biện pháp bảo hộ hợp lý trong thời gian cho phép để các ngành có tiềm năng phát triển có thể cạnh tranh không những trên thị trường trong nước mà còn trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, mọi sự bảo hộ của Nhà nước đều có giới hạn. Để đứng vững và phát triển, các doanh nghiệp cần phải khẩn trương nghiên cứu nhu cầu thị trường trong nước và khu vực, khả năng cạnh tranh của các nước ASEAN trong cùng lĩnh vực để kịp thời điều chỉnh cơ cấu sản xuất, đổi mới trang thiết bị và công nghệ, nâng cao năng lực quản lý khi sự bảo hộ không còn nữa, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi Việt Nam về cơ bản sẽ hoàn thành AFTA vào năm 2005. 4. Ngân sách nhà nước Tham gia AFTA và thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan theo CEPT chắc chắn sẽ tác động tới nguồn thu cho ngân sách, ít nhất là trong giai đoạn đầu khi Việt Nam thực sự cắt giảm thuế quan, tức là từ 1/7 năm nay. Theo số liệu những năm gần đây, NK từ các nước ASEAN chiếm khoảng 20-23% kim ngạch NK của Việt Nam, trong khi đó, thuế NK (trừ dầu thô) đóng góp khoảng 25% tổng số thu ngân sách. Như vậy, về mặt số học đơn thuần, khi cắt giảm thuế quan, rõ ràng nguồn thu ngân sách sẽ bị giảm. Về dài hạn, AFTA sẽ làm tăng hiệu quả sản xuất trong nước. Như vậy, cơ sở để tính toán rằng, về dài hạn, phần giảm của thuế NK do thực hiện CEPT sẽ được bù lại bằng tăng thu do kim ngạch buôn bán tăng và tăng thu từ các loại thuế khác như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập công ty... Tuy nhiên, đây cũng chỉ là lý thuyết, thực tế còn phụ thuộc vào sự phát triển của sản xuất trong nước, hiệu quả của hệ thống thuế và bộ máy thu thuế. B. NHỮNG THÁCH THỨC VÀ NHỮNG CƠ HỘI CỦA VIỆT NAM THAM GIA VÀO AFTA: I. AFTA: Thử thách hội nhập đầu tiên của Việt Nam Các cam kết của Việt Nam được tiến hành nhanh từ giữa năm 2003. Vào giữa năm 2004, Việt Nam đã đưa hơn 10.000 dòng thuế (chiếm khoảng 95% tổng số các dòng thuế) vào danh mục các mặt hàng sẽ được cắt giảm thuế (gọi là Inclusion List, IL) theo Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (Common Effective Preferential Tariffs, CEPT) của AFTA, trong đó gần 7.500 dòng thuế đã được cắt giảm xuống dưới 5%. Tư liệu mới hơn cho thấy vào năm 2005 số dòng thuế được cắt giảm sẽ tăng lên 8.459 và vào năm 2006 sẽ tăng lên 10.443. Con số này lớn hơn sau tháng 6-2004 vì một số danh mục mới được đưa vào IL. Về tư liệu trước năm 2003, xem Bộ Tài chính (2000) và Bộ Thương mại (2001). Thông tin mới hơn lấy từ tư liệu của Viện Quản lý kinh tế trung ương. . Cho đến giữa năm 2003, các hàng công nghiệp được đưa vào danh mục giảm thuế trên nguyên tắc được chọn theo tiêu chuẩn không hoặc ít ảnh hưởng đến các ngành mới bắt đầu phát triển trong nước và đang được bảo hộ. Những ngành này được nằm trong danh mục loại trừ tạm thời (Temporary Exclusion List, TEL) ra khỏi khuôn khổ CEPT. Tuy nhiên, từ năm 2004, trừ một vài ngoại lệ, tất cả các mặt hàng công nghiệp đều được đưa vào chương trình giảm thuế xuống dưới 5% chậm nhất là năm 2006. Những mặt hàng tiêu biểu được chuyển sang danh mục giảm thuế IL từ năm 2001 là thép xây dựng, chế phẩm kính, bộ phận và linh kiện tivi, máy phát điện, v.v.. Những ngành chuyển từ TEL sang IL vào năm 2002 là máy giặt, tủ lạnh, đồng hồ, linh kiện đồng hồ, rượu vang, nước hoa, v.v.. Năm 2003, những ngành chuyển từ TEL sang IL là bia, rượu, xăng dầu, xe hơi, xe máy, phân bón, hoá chất, v.v.. Hầu hết đây là những mặt hàng hiện được sản xuất ở trong nước, trong đó một số do công ty có vốn nước ngoài sản xuất như xe hơi, xe máy và các loại đồ điện gia dụng. Thuế suất nhập khẩu của các mặt hàng này cho đến năm 2003 là khá cao, trên dưới 50%, đủ để bảo hộ với hàng nhập khẩu cùng loại. Dù vậy, chênh lệch giá giữa hàng nhập và hàng sản xuất trong nước không lớn. Điều này cho thấy sau khi các cam kết AFTA được thực hiện hoàn toàn (năm 2006), các mặt hàng này khó giữ vững vị trí hiện nay trên thị trường trong nước. Chẳng hạn, vào đầu năm 2001, với máy giặt cỡ 4KG giá bán của hàng sản xuất trong nước là 3,7 triệu đồng, trong khi hàng nhập kể cả thuế là 3,8 triệu. Tủ lạnh 150 lít giá hàng nội là 4,31 triệu và hàng nhập là 4,85 triệu đồng11. Theo Market & Prices, ngày 2-1-2001. . Dù thông tin này tương đối cũ, nhưng như Chương 9 phân tích, tình hình sau đó về căn bản không thay đổi lớn (quy mô sản xuất nhỏ, thuế nhập linh kiện quá cao, v.v.) nên có thể nói giữa Việt Nam và Thái Lan vẫn còn một sự cách biệt lớn về năng lực cạnh tranh. Trong phần sau đây, ta thử đưa ra một đánh giá tổng hợp hơn về khả năng đối phó với thách thức hiện nay của Việt Nam. II. Những thách thức và những cơ hội của Việt Nam tham gia vào AFTA 1. Thuận lợi : - Khi gia nhập AFTA , hàng hoá của Việt nam sẽ được hưởng thúê suất ưu đãi thấp hơn cả thuế suất tối huệ quốc mà các nước ASEAN dành cho các nước thành viên WTO, từ đó có điều kiện thuận lợi hơn để hàng hoá Việt nam có thể thâm nhập thị trường của tất cả các nước thành viên ASEAN. - Bên cạnh những thuận lợi thu được từ hoạt động thương mại trong nội bộ khối , khi gia nhập AFTA, VN sẽ có thế hơn trong đàm phán thương mại song phương và đa biên với các cường quốc kinh tế, cũng như các tổ chức thương mại quốc tế lớn như Mỹ, nhật, EU hay WTO.. - Tuy có những trùng lặp giữa VN và các nước ASEAN, nhưng có nhiều lĩnh vực mà VN có thể khai thác từ thị trường các nước ASEAN như VN có thế mạnh trong xuất khẩu nông sản, hàng dệt và may mặc, và ta cũng có nhu cầu nhập nhiều mặt hàng từ các nước ASEAN với giá thấp hơn từ các khu vực khác trên thế giới. - Một mặt Doanh nghiệp được lợi do tăng được khả năng cạnh tranh so với các nước ngoài ASEAN về giá cả, mặt khác người tiêu dùng được hưởng lợi do giá cả rẻ hơn và chủng loại hàng hoá phong phú hơn. - Thu hút vốn đầu tư, tiếp thu công nghệ, tận dụng nhân công, sử dụng vốn và kỹ thuật cao trong khu vực 2. Khó khăn : - Lợi ích trực tiếp của nhà nước là nguồn thu ngân sách về thuế xuất nhập khẩu giảm. - Việc tham gia dẫn tới sự xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi quan thuế, nghĩa là xoá bỏ sự bảo hộ của chính phủ đối với các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải tham gia thật sự vào cuộc chới cạnh tranh khốc liệt trên thị trường khu vực : cạnh tranh thúc đẩy sản cuất phát triển, nhưng đồng thời có thể làm điêu đứng và phá sản hàng loạt các doanh nghiệp, thậm chí hàng loạt ngành. Dẫn tới việc thay đổi cơ cấu kinh tế. Đây là vấn đề nan giải đối với các doanh nghiệp Việt nam. Tóm lại gia nhập AFTA là bước tập duyệt đầu tiên cho nền kinh tế và các doanh nghiệp VN để chuẩn bị cho sự gia nhập thị trường thế giới rộng lớn và đầy sự cạnh tranh hơn. Thách thức nào Việt Nam phải đương đầu khi gia nhập AFTA? Trước mắt, cùng với quan hệ với Trung Quốc, Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) là thách thức trực tiếp đối với công nghiệp hoá Việt Nam. Về AFTA, các cam kết của VN đương được tiến hành. Cho đến giữa năm 2001, VN đã đưa gần 5000 dòng thuế (chiếm độ 80% tổng số các dòng thuế) vào danh mục các hàng sẽ được cắt giảm thuế (gọi là Inclusion List, IL) theo Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) của AFTA. Khoảng 65% trong số 5000 dòng thuế đó đã được cắt giảm xuống dưới 5% (khoảng 40% trong số 5000 dòng thuế đã giảm xuống 0%). Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ vào tháng 12 năm 2000, vào năm 2002 sẽ đưa thêm 510 dòng thuế và năm 2003 đưa thêm 716 dòng thuế vào IL. Mục tiêu là đến năm 2006, tất cả 6210 dòng thuế trong danh mục cắt giảm thuế sẽ có mức thuế dưới 5%. Cho đến nay, các hàng công nghiệp đuợc đưa vào danh mục giảm thuế trên nguyên tắc được chọn theo tiêu chuẩn không hoặc ít ảnh hưởng đến các ngành mới bắt đầu phát triển trong nước và đương được bảo hộ. Nhiều ngành đương được bảo hộ nầy hiện nay vẫn nằm trong danh mục loại trừ tạm thời (Temporary Exclusion List, TEL) ra khỏi khuôn khổ CEPT. Tuy nhiên trong danh mục IL cũng có nhiều ngành hiện đuơng được bảo hộ với thuế suất cao nhưng sẽ phải giảm xuống dưới 5% chậm nhất là năm 2006. Những mặt hàng trong TEL cũng sẽ phải được đưa vào IL để cắt giảm thuế từ năm 2003. Như vậy cho đến thời điểm hiện nay, những mặt hàng được tự do nhập khẩu trong khuôn khổ AFTA không ảnh hưởng gì đến các ngành công nghiệp trong nước. Tuy nhiên trong 3,4 năm tới, chậm nhất là năm 2006, việc tiếp tục thực hiện các cam kết với AFTA sẽ có tác động lớn đến các ngành công nghiệp đương trên đường phát triển của VN. Ta thử bàn về sức cạnh tranh của một số mặt hàng tiêu biểu. Những mặt hàng nguyên ở trong TEL nhưng đuợc chuyển sang Il năm 2001 là thép xây dựng, chế phẩm kính, bộ phận và linh kiện TV, máy phát điện, v.v... Những ngành dự định chuyển từ TEL sang IL vào năm 2002 là máy giặt, tủ lạnh, đồng hồ, linh kiện đồng hồ, rượu vang, nước hoa, v.v...Năm 2003, những ngành chuyển từ TEL sang IL dự kiến sẽ là bia, rượu, xăng dầu, xe hơi, xe máy, phân bón, hoá chất, v.v... Hầu hết đây là những mặt hàng hiện đuơng sản xuất ở trong nước, trong đó một số do công ty có vốn nước ngoài sản xuất như xe hơi, xe máy và các loại đồ điện gia dụng. Thuế suất nhập khẩu của các mặt hàng nầy hiện nay khá cao, trên dưới 50%, đủ để bảo hộ với hàng nhập khẩu cùng loại. Dù vậy chênh lệch giá giữa hàng nhập và hàng sản xuất trong nước không lớn. Điều nầy cho thấy sau khi các cam kết AFTA được thực hiện hoàn toàn (năm 2006), các mặt hàng nầy khó giữ vững vị trí hiện nay trên thị trường quốc nội. Chẳng hạn vào đầu năm 2001, máy giặt cỡ 4KG giá bán của hàng sản xuất trong nước là 3,7 triệu đồng trong khi hàng nhập kể cả thuế là 3,8 triệu. Tủ lạnh cỡ 150 L giá hàng quốc nội là 4,31 triệu và hàng nhập là 4,85 triệu đồng (theo Market & price, 2/1/2001). Những mặt hàng vừa kể, đặc biệt là đồ điện gia dụng, bộ phận xe hơi, linh kiện điện tử, hầu hết là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực hiện nay của Thái Lan, Malaysia,... Do đó, từ năm 2006, nhập khẩu của VN từ các nước nầy sẽ tăng đáng kể. Mặt khác, nhìn cơ cấu xuất khẩu hiện nay của VN sang các nước ASEAN ta thấy khả năng thâm nhập thị trường ASEAN của hàng công nghiệp VN quá yếu. Vào năm 2000, hàng nông lâm thuỷ sản và các nguyên liệu thô chiếm tới 70% tổng xuất khẩu của VN sang các nước nầy (riêng dầu thô chiếm tới 45%). Hàng công nghiệp xuất khẩu sang ASEAN chủ yếu là bộ phận, linh kiện điện tử mà phần lớn là nhờ công ty Fujitsu xuất khẩu sang công ty con của họ ở Philippines, còn lại là quần áo, giầy dép và hàng thủ công mỹ nghệ. Từ những phân tích trên đây, ta có thể thấy những thách thức mà VN sẽ đương đầu sau khi thực hiện hoàn toàn các cam kết với AFTA như sau: Thứ nhất là ảnh hưởng từ chiến lược tái cấu trúc của các công ty đa quốc gia. Như đã nói ở trên, nhiều mặt hàng công nghiệp hiện nay do các công ty có vốn nước ngoài sản xuất và được bảo hộ bằng thuế nhập khẩu. Khi hàng rào quan thuế bị triệt hạ, các công ty đa quốc gia sẽ tập trung sản xuất tại những nước có phí tổn thấp nhất trong khu vực AFTA. Do đó, từ nay đến năm 2006, thách thức của VN là làm sao giữ chân các cơ sở sản xuất hiện có của các công ty đa quốc gia đồng thời tạo cơ hội để các công ty nầy đầu tư mới hoặc chuyển những cơ sở sản xuất ở các nước ASEAN khác sang VN. Thứ hai, trong số các xí nghiệp quốc doanh và công ty tư nhân trong nước cho đến nay hoạt động được chủ yếu là nhờ chính sách bảo hộ, sau năm 2006, nhiều doanh nghiệp có khả năng bị đẩy ra khỏi thị truờng. Nhà nước và xí nghiệp cần có đối sách gì từ bây giờ? Thứ ba, gia nhập AFTA chủ yếu là để mở rộng thị trường xuất khẩu, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, nhưng như đã thấy, hiện nay khả năng thâm nhập thị trường ASEAN của hàng công nghiệp VN quá yếu. Làm sao để mở rộng phân công hàng ngang (xuất và nhập đồng thời hàng công nghiệp) với các nướic ASEAN khác trong quá trình hội nhập? Trước khi bàn đến các đối sách của VN trước những thử thách nầy, ta thử đánh giá những thách thức từ phía Trung Quốc đối với chiến lược công nghiệp hoá của VN trong những năm tới. C. QUÁ TRÌNH THAM GIA VÀ LỊCH TRÌNH GIẢM THUẾ CỦA VIỆT NAM : 1. Những yêu cầu của CEPT -AFTA đối với Việt Nam: Căn cứ theo quy định của Hiệp định CEPT và thoả thuận giữa Việt nam và các nước thành viên khác của ASEAN, chương trình giảm thuế nhập khẩu theo CEPT của Việt Nam bắt đầu được thực hiện từ 1/1/1996 và hoàn thành vào 1/1/2006 để đạt được mức thuế suất cuối cùng là 0-5%, chậm hơn các nước thành viên khác 3 năm. Các bước cụ thể để thực hiện mục tiêu này bao gồm: • Xác định danh mục các mặt hàng thực hiện giảm thuế theo CEPT gồm: danh mục giảm thuế ngay (IL), danh mục loại trừ tạm thời (TEL), danh mục hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SL), danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL). • Các mặt hàng thuộc danh mục IL sẽ bắt đầu giảm thuế từ 1/1/1996 và kết thúc với thuế suất 0-5% vào 1/1/2006. Các mặt hàng có thuế suất trên 20% phải giảm xuống 20% vào 1/1/2001. Các mặt hàng có thuế suất nhỏ hơn hoặc bằng 20% sẽ giảm xuống 0-5% vào 1/1/2003. • Các mặt hàng thuộc danh mục TEL sẽ được chuyển sang danh mục IL trong vòng 5 năm, từ 1/1/1999 đến 1/1/2003, mỗi năm chuyển 20%, để thực hiện giảm thuế với thuế suất cuối cùng là 0-5% vào năm 2006. Đồng thời, các bước giảm sau khi đưa vào IL phải được thực hiện chậm nhất là 2-3 năm một lần và mỗi lần giảm không ít hơn 5%. • Các mặt hàng thuộc danh mục SL sẽ bắt đầu giảm thuế từ 1/1/2004 và kết thúc vào 1/1/2013 với thuế suất cuối cùng là 0-5%. Riêng mặt hàng đường vào năm 2010 :0-5%. • Các mặt hàng đã đưa vào chương trình giảm thuế và được hưởng nhượng bộ thì phải bỏ ngay các quy định về hạn chế số lượng (QRs) và bỏ dần các biện pháp hạn chế phi quan thuế khác (NTBs) 5 năm sau đó. 2. Tình hình thực hiện của ta cho đến nay : Năm 1996 Việt nam đã công bố cho ASEAN các loại Danh mục: Danh mục cắt giảm thuế IL; Danh mục loại trừ tạm thời TEL; Danh mục hàng nông sản chưa chế biến nhậy cảm SL và Danh mục loại trừ hoàn toàn GEL; Nguyên tắc xây dựng phương án tham gia của Việt nam : - Không gây ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách - Bảo hộ hợp lý cho nền sản xuất trong nước - Tạo điều kiện khuyến khích việc chuyển giao kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho nền sản xuất trong nước - Hợp tác với các nước ASEAN trên cơ sở các qui định của Hiệp định CEPT để tranh thủ ưu đãi, mở rộng thị trường cho xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. KẾT LUẬN Tóm lại, tham gia ASEAN và AFTA là bước đi tất yếu đầu tiên của Việt Nam trên con đường hội nhập với khu vực và thế giới. Sự kiện này mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội mới cũng như nhiều thách thức to lớn. Cơ hội và thách thức đan xen lẫn nhau, đòi hỏi sự nỗ lực cả tầm vĩ mô và vi mô để khai thác triệt để các cơ hội và hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng tiêu cực do các thách thức đưa đến. Không nên coi việc thực hiện AFTA như một quá trình hay hành động riêng biệt, mà phải đặt nó trong lộ trình hội nhập và tự do hóa thương mại tổng thể, trong đó, mục tiêu nhất quán được xác định bởi khuôn khổ WTO. Thách thức của AFTA rất lớn. Việt Nam cần khẩn trương hơn nữa.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhững thách thức và những cơ hội của việt nam tham gia vào afta.doc
Luận văn liên quan