Lý thuyết chung về thị trường mở cửa<br>
1.Khái niệm chung về nghiệp vụ thị trường mở<br>
2.Hàng hóa và nghiệp vụ tham gia thị trường mở.<br>
3.Nội dung hoạt động thị trường mở<br>
4.Cơ chế tác động tới lượng tiền cung ứng của NVTTM<br>
5.Ưu điểm của thị trường mở so với các công cụ khác.<br>
6.Thực trạng hoạt động tại một số nước tren thế giới.<br>
II.Thực trạng của hoạt động của mở cửa thị ở Việt Nam hiện nay.<br>
1.Sự cần thiết ra đời thị trường mở ở Việt Nam<br>
2.Thực trạng hoạt động thị trường mở ở Việt nam<br>
III.Ddinhj hướng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam.<br>
1.Định hướng<br>
2.Giải pháp
25 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2727 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những vấn đề về mở cửa thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1: lý thuyết chung về thị trường mở
1. Khái niệm chung về nghiệp vụ thị trường mở
Sau cuộc suy thoáI kinh tế năm 1920-1921, cục dự trữ liên bang Mĩ-NHTW (viết tắt là FED) thiếu vốn nghiêm trọng, nguồn thu nhập trước đó của FED chủ yếu thu từ nghiệp vụ chiết khấu, nhưng do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế đ• làm lượng tiền vay chiết khấu giảm sút, dẫn tới giảm nguồn thu. FED bí tiền đành buôn bán chứng khoán kiếm l•i để tiếp tục hoạt động của mình. Trong khi thực hiện mua chứng khoán, bỗng nhiên các nhà điều hành thị trường tiền tệ phát hiện thấy dự trữ trong các ngân hàng tăng lên còn các khoản cho vay và tiền gửi tăng lên gấp bội. Kết quả này được FED rút ra một bài học bổ ích từ thực tế vô tình là việc mua bán chứng khoán sinh l•i có thể làm thay đổi cơ số tiền tệ nhạy bén nhất. Thuật ngữ “thị trường mở” lần đầu tiên xuất hiện ở Mỹ vào những năm 20 của thế kỷ XX khi nghiệp vụ này bắt đầu được thi hành. Các nghiệp vụ của ngân hàng trung ương Mỹ về thị trường mở so với các công cụ khác có phạm vi rộng nhất vì nước này có thị trường giấy tờ có giá lớn nhất . ở Anh nghiệp vụ TTM đóng vai trò quan trọng từ những năm 30. Ngân hàng Raykh Đức bắt đầu thi hành chính sách tiền tệ từ năm 1933.
Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) là gì ? Mặc dù khái niệm TTM đ• được chúng ta tiếp cận từ thời kỳ đổi mới hoạt động ngân hàng cho đến nay, song để trả lưòi câu hỏi này vẫn không ít người mơ hồ. Để trả lời câu hỏi trên h•y tiếp cận với một số quan điểm vể NVTTM như sau:
Theo quan điểm của nước Anh: “NVTTM là việc NHTW mua bán trái phiếu dài hạn của Chính phủ trên thị trường trái phiếu có bảo đảm để làm tăng hoặc giảm mức cho vay của ngân hàng. Khi mua trên thị trường mở, NHTW sẽ thanh toán cho các cá nhân và tổ chức đ• bán trái phiếu cho nó. NVTTM về chứng khoán ngắn hạn cũng được thực hiện trên thị trường tín phiếu. Nơi mà NHTW bán và mua trái phiếu chính phủ và kỳ phiếu thương mại để tác động đến l•i suất và duy trì sự ổn định của thị trường”.
Theo quan điểm của Mỹ: “ NVTTM là việc mua và bán các loại chứng khoán trên thị trường tài chính được thực hiện bởi FED “
Theo tài liệu ở trường đại học VICTORIA NEWREALAND: “ Một NVTTM xảy ra khi NHTW thay đổi cơ số tiền tệ bằng việc mua hoặc bán chứng khoán trên thị trường mở”
Theo các quan điểm trên thì TTM là thị trường giao dịch các loại chứng khoán ngắn hạn và dài hạn. Tuỳ vào mỗi nước mà các loại chứng khoán được giao dịch là khác nhau về loại hình và thời hạn đồng thời việc quyết định chủ thể tham gia rộng hơn gồm các tổ chức tín dụng, tổ chức phi tín dụng, doanh nghiệp và cả cá nhân… Còn ở các nước NVTTM còn chưa phát triển thì mới chỉ có các NVTTM và các tổ chức tín dụng khác tham gia ( ví dụ ở Việt Nam). Tuỳ thuộc vào điều kiện hiện tại của mỗi nước mà chính phủ sẽ quy định khác nhau về hàng hoá, chủ thể tham gia, quy chế hoạt động của TTM. Chính sự khác nhau này sẽ quyết định khái niệm NVTTM ở mỗi nước.
Ví dụ: Đối với điều kiện hiện tại của Việt Nam
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong điều hành CSTT, TTM ở Việt Nam đ• chính thức đi vào hoạt động từ ngày 12/07/2000, đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong điều hành CSTT của NHTW theo phương pháp gián tiếp phù hợp với thông lệ quốc tế và xu thế phát triển nền kinh tế đất nước. Do vậy đây là công cụ rất mới cả về khái niệm và nội dung hoạt động. Trong điều kiện của Việt Nam , NVTTM được hiểu như sau:
“NVTTM là nghiệp vụ NHTW thực hiện mua và bán ra các loại giấy tờ có giá ngắn hạn nhằm thay đổi cơ số tiền tệ trên cơ sở đó tác động đến lượng tiền cung ứng và l•i suất ngắn hạn” ( “Nghiệp vụ Ngân hàng Trung ưng - Đại học KTQD” )
Theo điều 8, quyết định số 85/200/QĐ -NHNN14 ngày 9/3/2000 của Thống Đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam về ban hành quy chế NVTTM, có quy định giấy tờ có giá được giao dịch gồm:
+ Tín phiếu kho Bạc
+ Tín phiếu NHTW
+ Các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác do Thống Đốc NHNN quy định cụ thể trong từng thời kỳ
Quy định trên cho thấy trong từng thời kỳ cụ thể, các loại giấy tờ có giá được sử dụng trong NVTTM ở nước ta có thể tăng thêm ngoài tín phiếu kho bạc, tín phiếu ngân hàng nhưng vẫn là giấy tờ có giá ngắn hạn.
Tóm lại thì “ NVTTM là nghiệp vụ được thực hiện bởi NHTW mà nội dung cụ thể của nó là mua vào và bán ra các loại chứng khoán – các loại chứng khoán này không bị giới hạn về thời hạn trên TTM, thông qua đó NHTW tác động trực tiếp đến lượng tiền cung ứng và gián tiếp tới l•i suất thị trường”
Do tính chất thời hạn của công cụ sử dụng trong NVTTM nên NVTTM không chỉ được thực hiện trên thị trường tiền tệ ( thị trường của các công cụ tài chính ngắn hạn) mà còn được thực hiện trên cả thị trường vốn (thị trường của các công cụ tài chính dài hạn) hay nói cách khác là được thực hiện thị trường tài chính.
Trong khái niệm này cũng không có thời hạn về chủ thể tham gia TTM là cá nhân hay tổ chức. Vì bất kỳ đối tượng mà NHTW mua hoặc bán là ai thì NHTW vẫn thực hiện được chính sách tiền tệ (CSTT) tác động đến cơ số tiền tệ làm tăng giảm lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế , mà cụ thể hoạt động của nó được hình trình bày ở phần tiếp theo.
2. Hàng hoá và chủ thể tham gia NVTTM
2.1.Hàng hoá
2.1.1.Phạm vi hàng hoá được giao dịch trên TTM
Về nguyên tắc, mọi tài sản có thể mua bán trên TTM vì chúng đều là tài sản thế chấp. Tuy nhiên, khác với tái cấp vốn thông qua hình thức cho vay có đảm bảo ở chỗ tài sản thế chấp trên NVTTM phải là tài sản có khả năng thanh khoản cao (tức khả năng chuyển sang tiền mặt của tài sản) đảm bảo quản lý dễ dàng đồng thời đáp ứng yêu cầu điều hành nghiệp vụ này nhanh nhạy, chính xác và đạt được ý mong muốn. Tài sản hội đủ các điều kiện như vậy chỉ có thể là công cụ tài chính thuật ngữ gọi là giấy tờ có giá được sử dụng trên NVTTM mỗi nước có thời hạn là khác nhau.
2.1.2. Một số hàng hoá được giao dịch trên TTM ở Việt Nam
Theo điều 8, quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN14 các loại giấy tờ có giá được giao dịch thông qua TTM gồm:
1. Tín phiếu kho bạc
2. Tín phiếu ngân hàng Nhà nước
3. Các loại giấy tờ có giá ngắn hạn do Thống đốc NHNN quy định cụ thể trong từng thời kì.
Như vậy hiện nay chỉ có giấy tờ có giá ngắn hạn mới được sử dụng để giao dịch trên TTM . Thực tế đó ở Việt Nam và một số nước khác là do thị trường tài chính chưa phát triển nên NVTTM chưa có khả năng sử dụng các giấy tờ có giá dài hạn làm công cụ của mình. Về lâu dài, khi điều kiện pháp lý cho phép phạm vi giấy tờ có giá sẽ được mở rộng không chỉ gồm các loại ngắn hạn mà các loại trung và dài hạn có thể xem xét làm công cụ giao dịch, với điều kiện công cụ đó có khả năng thanh khoản cao.
Vì sao nói giấy tờ có giá trung và dài hạn sẽ được sử dụng trên TTM khi điều kiện cho phép ? Ta biết rằng hành vi mua vào và bán ra giấy tờ có giá là hoạt động thường xuyên trên TTM. Lúc này mua vào thì lúc khác bán ra, thậm chí NHTW có thể thực hiện hành vi mua lại ngay lập tức sau khi hành vi bán được thực hiện nếu phát hiện ra mình đ• mua quá nhiều và vì vậy đ• đưa tiền vào lưu thông quá mức cần thiết. Và ngược lại thay hành vi bán bằng hành vi mua khi cảm thấy sự “ ngột ngạt, nghẽn tắc” của hoạt động kinh tế vì không đủ cần thiết trong lưu thông mà nguyên nhân do NHTW bán ra một số lượng giấy tờ có giá quá lớn. Chính vì hành vi mua bán trao đổi thường xuyên các giấy tờ có giá tạo ra khả năng kết nối nhiều nguồn vốn ngắn hạn thành vốn trung và dài hạn để thoả m•n nhu cầu của chủ thể kinh tế trên thị trường vốn. Một nền kinh tế có thị trường chứng khoán, có thị trường tài chính phát triển thì tính chất dài à hạn của nguồn vốn chỉ tồn tại ở phía người phát hành mà bản chất nguồn vốn dài hạn này là một chuỗi các nguồn ngắn hạn tạo thành. Chúng ta không e ngại khi mua chứng khoán trung và dài hạn thì vốn sẽ bị đọng lại một chỗ. Thời hạn của giấy tờ có giá sẽ không mâu thuẫn với yêu cầu nhanh nhạy của CSTT vì đ• có phương thức giao dịch theo hợp đồng mua lại trên TTM xử lý một cách thích hợp.
Như vậy có thể nói phạm vi hàng hoá trên TTM là không bị giới hạn. ở Việt Nam và các nước khác cũng không nằm ngoài quy luật chung. Khi thị trường tài chính phát triển thì giấy tờ có giá có giá trung và dài hạn sẽ được sử dụng làm công cụ của NVTTM ở Việt Nam.
2.2. Chủ thể tham gia NVTTM
2.2.1. Phạm vi thành viên tham gia NVTTM
Chủ thể tham gia NVTTM rất đa dạng và phong phú. Tuy vậy, cũng tuỳ thuộc vào quy định riêng của mỗi nước mà các thành viên tham gia vào NVTTM là khác nhau. Thông thường chủ thể tham gia bao gồm : NHTW, các tổ chức tín dụng, các tổ chức phi tín dung, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân… nhưng không phải tất cả các chủ thể đều có thể tham gia mà phải có những điều kiện cần thiết. Có 3 điều kiện để xem xét phạm vi thành viên, đó là:
- Thứ nhất : NHTW muốn can thiệp trực tiếp vào lượng tiền cung ứng bao gồm cả tiền mặt và tìên gửi , về mặt lý thuyết thành viên tham gia mua bán trong trường hợp này được mở rộng không những chỉ gồm các tổ chức tín dụng mà còn cả các tổ chức khác, thậm chí có thể cả các cá nhân miễn là họ có tiền mặt và tiền gửi.
- Thứ hai : nếu cơ sở pháp lý cho phép các tổ chức tín dụng hoạt động theo hướng đa năng như hệ thống tổ chức tín dụng của Việt Nam hiện nay thì phạm vi thành viên tham gia mở rộng đến tổ chức tín dụng là đủ .
- Thứ ba: khả năng chuyển tải của hệ thống thanh toán. nếu cá nhân không có séc hoặc tiền trên tài khoản gửi tại NHTW thì không thể tham gia mua bán được trên thị trường mở, nếu tổ chức tín dụng(TCTD) không có mạng kết nối với NHTW trong điều kiện giao dịch trên mạng thì cũng không thể trở thành thành viên.
2.2.2. Điều kiện tham gia thị trường mở ở Việt Nam
Chủ thể tham gia nghiệp vụ TTM ở Việt Nam, được quy định như sau:
+ NHTW tham gia với tư cách vừa là người tổ chức vừa là người điều hành thị trường, vừa là người trực tiếp mua bán trên thị trường .
+ Các thành viên khác là các TCTD được thành lập và hoạt động theo luật các TCTD bao gồm : TCTD Nhà nước, TCTD cổ phần, TCTD hợp tác, TCTD phi ngân hàng, TCTD nước ngoài được phép hoạt động ở Việt Nam.
Theo điều 5, quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN14 ngày 9/3/2000 thì thành viên tham gia TTM phải có các điều kiện sau:
- Có tài khoản tiền gửi tại NHTW
- Có nối mạng máy tính với NHTW
- Có tình hình tài chính lành mạnh, đảm bảo khả năng thanh toán
- Chấp hành quy định NVTTM
- Có đăng kí tham gia NVTTM
Các tổ chức tín dụng khi đượcNHTW công nhận là thành viên tham gia NVTTM sẽ được cấp m• số chữ kí cho những người đại diện qua máy tính, máy Fax và m• số chữ kí cho những người đại diện tổ chức tín dụng cũng như người tham gia giao dịch thực hiện chế độ bảo mật với các giao dịch
3. Nội dung hoạt động thị trường mở
Để hiểu được nội dung hoạt động thị trường mở ta sẽ tìm hiểu nó trên các khía cạnh: phương thức mua bán giấy tờ có giá và phương thức đấu thầu .
3.1.Phương thức mua bán trên thị trường mở
Tuỳ thuộc vào trạng thái khối lượng thị trường, NHTW tiếp cận NVTTM bằng một trong hai hướng :
- Dự báo thấy cung tiền tệ cần được tiếp tục điều chỉnh thì NHTW ngay lập tức mua vào hoặc bán ra chứng khoán theo hình thức mua đứt bán đoạn(mua bán hẳn).
- Nếu dấu hiệu yêu cầu chỉ cần tạm thời thay đổi dự trữ tiền tệ hoặc dự trữ trong thời gian tới là thiếu ổn định thì NHTW thực hiện các giao dịch tác động lên cung tiền tệ bằng các hợp đồng mua lại đối với trường hợp muốn tăng dự trữ tạm thời hoặc bằng các giao dịch mua bán đảo ngược khi muốn giảm dự trữ tam thời.
Như vậy có hai hình thức giao dịch chủ yếu là hình thức mua bán hẳn và hình thức mua bán có thời hạn.
*. Mua - bán hẳn : là việc mua bán và chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá từ bên bán cho bên mua và không kèm theo thoả thuận mua, bán lại. Với phương thức này, chỉ được thực hiện với các loại hàng hoá mà thời hạn còn lại (tức thời gian thanh toán còn lại của giấy tờ có giá ngắn hạn tính từ ngày giấy tờ có giá được mua, bán thông qua nghiệp vụ TTM đến hạn thanh toán ) tối đa theo quy định trong từng thời kỳ(ở Việt Nam hiện nay là 90 ngày).
*. Mua bán có kỳ hạn(giao dịch có thời hạn): là việc bên bán bán và chuyển giao giấy tờ có giá cho bên mua đồng thời cam kết mua lại và nhận lại quyền sở hữu giấy tờ có giá đó sau thời gian nhất định.
Theo cách chia này, thì hình thức mua bán có thời hạn bao gồm hai hình thức là hợp đồng mua lại và bán – mua đảo ngược mà các nước thường hay sử dụng. Trong đó, hợp đồng mua lại được sử dụng trong trường hợp NHTW muốn tăng dự trữ tạm thời còn hình thức bán- mua đảo ngược sử dụng trong trường hợp NHTW muốn giảm dự trữ tạm thời.
+ Hợp đồng mua lại : khi cần bổ sung tăng dự trữ tạm thời NHTW tham gia trực tiếp vào việc ký hợp đồng mua lại chứng khoán của nhà môi giới, tức là NHTW mua chứng khoán của nhà môi giới; còn nhà môi giới đồng ý mua lại chứng khoán đó vào một ngày nhất định với một mức giá nhất định. Vì dự trữ bổ sung này sẽ dừng lại một cách tự động khi hợp đồng mua lại đến hạn nên nghiệp vụ này chỉ là cách bơm thêm dự trữ vào hệ thống tiền gửi tạm thời mà thôi. Thời gian thực hiện hợp đồng mua lại thường là 7 ngày.
+ Bán- mua đảo ngược: khi cần giảm khối lượng tiền tệ NHTW thực hiện giao dịch theo hình thức bán- mua đảo ngược với các nhà môi giới, bằng một hợp đồng bán ngay chứng khoán cho nhà môi giới và một hợp đồng đảo ngược để mua lại tiếp theo các chứng khoán từ nhà môi giới đó. Thời hạn thực hiện hợp đồng thường là 7 ngày.
3.2.Phương thức đấu thầu trên thị trường mở
Các hình thức mua bán trên thị trường mở là mua bán hẳn và mua bán có thời hạn đều được thực hiện trên phòng giao dịch thông qua phương thức đấu thầu. Có hai phương thức mà NHTW áp dụng để đấu thầu là đấu thầu l•i suất và đấu thầu khối lượng .
3.2.1 Phương thức đấu thầu khối lượng
Là việc xác định khối lượng trúng thầu của các tổ chức tín dụng tham gia nghiệp vụ TTM trên cơ sở khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng, khối lượng giấy tờ có giá mua hoặc bán và l•i suất do NHTW thông báo cụ thể như sau :
- NHTW thông báo cho các TCTD mức l•i suất và khối lượng các loại giấy tờ có giá cần mua hoặc cần bán (NHTW có thể không thông báo khối lượng cần mua hoặc cần bán).
- Các đơn vị thành viên tham gia dự thầu khối lượng các loại giấy tờ cần mua hoặc cần bán theo mức l•i suất do NHTW công bố
Sau khi mở thầu, NHTW xác định khối lượng trúng thầu của các đơn vị tham gia dự thầu theo nguyên tắc sau :
+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD bằng hoặc thấp hơn khối lượng NHTW cần mua hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu của đơn vị chính là khồi lượng dự thầu.
+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD lớn hơn khối lượng NHTW cần mua hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu của các TCTD sẽ được phân bổ theo tỷ lệ thuận với khối lượng dự thầu của các TCTD.
3.2.2.Phương thức đấu thầu l•i suất
Là việc xác định l•i suất trúng thầu của các TCTD tham gia NVTTM trên cơ sở khối lượng dự thầu của các TCTD, khối lượng giấy tờ có giá mà NHTW cần mua hoặc cần bán.
- NHTW có thể công bố hoặc không công bố khối lượng giấy tờ có giá cần mua hoặc cần bán.
- Các đơn vị thành viên dự thầu theo mức l•i suất và khối lượng giấy tờ có giá cần mua hoặc cần bán ứng với mức l•i suất đó. L•i suất dự thầu được tính theo tỷ lệ phần trăm và được làm tròn đến hai con số sau dấu phẩy. L•i suất sẽ được sắp xếp theo thứ tự l•i suất dự thầu giảm dần, nếu NHTW là người mua và ngược lại l•i suất sẽ được sắp xếp theo thứ tự tăng dần nếu NHTW là người bán.
- L•i suất trúng thầu là l•i suất dự thầu cao nhất (trường hợp NHTW bán) và l•i suất dự thầu thấp nhất (trường hợp NHTW mua) mà tại đó đạt được khối lượng giấy tờ có giá NHTW cần mua hoặc cần bán.
Có hai phương thức xét thầu theo l•i suất là xét thầu theo l•i suất thống nhất hoặc theo l•i suất riêng lẻ:
+ L•i suất thống nhất : là toàn bộ khối lượng trúng thầu được tính theo một mức l•i suất trúng thầu để tính số tiền phải thanh toán.
+ L•i suất riêng lẻ : khối lượng trúng thầu được tính tương ứng với từng mức l•i suất dự thầu được công bố trúng thầu để tính số tiền thanh toán.
Khối lượng trúng thầu được tính theo nguyên tắc :
+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD nhỏ hơn hoặc bằng khối lượng mà NHTW cần mua hoặc cần bán thì khôí lượng dự thầu chính là khối lượng trúng thầu.
+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD lớn hơn khối lượng mà NHTW cần mua hoặc cần bán thì khôí lượng trúng thầu của các TCTD được tính tỷ lệ thuận với khối lượng dự thầu của các TCTD đó.
4. Cơ chế tác động tới lượng tiền cung ứng của NVTTM
4.1. Khái niệm cơ số tiền tệ và lượng tiền cung ứng
Nghiệp vụ TTM được coi là công cụ chính sách tiền tệ quan trọng nhất, có hiệu quả nhất vì nghiệp vụ này là yếu tố quyết định quan trọng nhất đối với những thay đổi trong cơ số tiền tệ và là nguồn chính gây nên những biến động trong lượng tiền cung ứng. Việc NHTW mua trên TTM làm tăng cơ số tiền tệ và do đó làm tăng lượng tiền cung ứng, còn việc bán trên TTM thì thu hẹp cơ số tiền tệ và làm giảm lượng tiền cung ứng. Vậy để hiểu rõ cơ chế tác động tới lượng tiền cung ứng của NVTTM chúng ta cần lắm chắc các khái niệm về cơ số tiền tệ và lượng tiền cung ứng :
- Cơ số tiền tệ ( hay lượng tiền cơ bản (MB-Money Base) bao gồm lượng tiền trong lưu thông (C) cộng với lượng tiền dự trữ trong hệ thống các ngân hàng (R ) (bao gồm cả tiền dự trữ bắt buộc mà các NHTM gửi tại NHTW (RR) và dự trữ vượt quá nằm trong két của các NHTM(ER)
MB= C +R (1)
R = RR + ER (2)
- Lượng tiền cung ứng( hay mức cung tiền (MS) là tổng số tiền có khả năng thanh toán. Nó bao gồm tiền mặt đang lưu hành và các khoản tiền gửi không kì hạn tại các NHTM(D).
Như vậy, mức cung tiền lớn hơn nhiều so với lượng tiền cơ bản bởi do hoạt động “tạo ra tiền” của các NHTM.
MS = C + D = ( 1+ C/D) D (4)
Để đảm bảo khả năng thanh toán, tránh sự sụp đổ, phá sản của các ngân hàng, NHTW quy định một tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhất định (rr). Đó là số tiền bắt buộc mà mỗi NHTW phải gửi ở NHTW trên tổng số tiền gửi của NHTM
RR = rr * D (3)
Từ (1),(2)và (3) suy ra: MB = rr* D + ER + C
MB = D (rr + ER/D +C/D ) (5)
Từ (4) và (5) suy ra : MS = . . MB
Số nhân tiền tệ :Mm
Như vậy lượng tiền cung ứng ở trên chỉ gồm tiền mặt và tiền gửi không kì hạn (M1). ở các quốc gia phát triển người ta còn có thêm một số thành phần khác vào lượng tiền cung ứng.
Ta có thể biểu diễn MB và MS theo mô hình sau:
4.2. Cơ chế tác động của NVTTM
NVTTM tác động lên cung tiền và l•i suất trên thị trường bằng việc mua bán các giấy tờ có giá trên TTM.
- Khi NHTW thay mặt chính phủ đưa chứng khoán ra thị trường thứ nhất để phát hành, nhân dân và các tổ chức đem tiền mặt đến mua nck. Đó là nghiệp vụ bán trên TTM của NHTW. Như vậy với nghiệp vụ này NHTW đ• hút bớt một lượng tiền ra khỏi lưu thông hoặc làm cho dự trữ của các TCTD giảm làm giảm khối lượng cho vay tín dụng của các TCTD; qua đó ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ, số nhân tiền tệ làm lượng tiền cung ứng MS giảm và l•i suất trên thị trường tăng
- Dĩ nhiên không phải đợi đến khi chính phủ nhờ phát hành, bản thân NHTW cũng có chứng khoán riêng của nó do tích luỹ hoặc do các đơn vị khắc thế chấp . Khi cần thu hẹp lượng tiền mặt ngoài lơu thông NHTW vẫn trực tiếp thực hiện nghiệp vụ bán như một hoạt động bình thường.
Ngược lại với nghiệp vụ bán là nghiệp vụ mua, nếu NHTW muốn phát hành tiền vào lưu thông quaTTM, nó đơn giản dùng tiền mặt mua chứng khoán trên thị trường thứ cấp hoặc của các TCTD. Khi cá nhân hay tổ chức bán chứng khoán cho NHTW, chứng khoán về tay NHTW ngược lại tiền mặt trong nền kinh tế tăng. Như vậy khi mua chứng khoán trên TTM, NHTW đ• thêm một lượng tiền vào lưu thông làm tăng lượng tiền cung ứng và làm l•i suất thị trường giảm.
Phát hành tiền trên nghiệp vụ TTM cũng được coi là nghiệp vụ phát hành thanh khiết. Bởi vì tiền mặt tăng thêm trong lưu thông đ• được cân đối bởi lượng chứng khoán, một dạng hàng hoá hay sản vật tăng thêm trong taì sản của NHTW. Đây là cách phát hành tiền ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Sơ đồ hoạt động của NHTW trên TTM
Cụ thể thông qua nghiệp vụ ghi chép cuả kế toán
Cách tốt nhất để nắm được các hoạt động TTM tác động thế nào đến việc thực hiện CSTT, hay cụ thể là cơ số tiền tệ là dùng các tài khoản T:
• Mua trên TTM từ một ngân hàng
Khi NHTW mua 100 đô la chứng khoán từ một ngân hàng và thanh toán các chứng khoán ấy bằng một séc 100 đô la. Ngân hàng bán chứng khoán đó sẽ gưỉ tờ séc đó vào tài khoản của nó ở NHTW hoặc sử dụng tờ séc đó để lĩnh tiền mặt từ NHTW. Dù hành động theo cách nào ngân hàng bán chứng khoán sẽ thấy bản thân nó có thêm 100 đô la tiền dự trữ và giảm 100 đô la tài sản chứng khoán. tài khoản T cho hệ thống ngân hàng đó là:
Tài sản Có Hệ thống ngân hàng Tài sản Nợ
Chứng khoán : -100 đô la
Tiền dự trữ : +100 đô la
Tại NHTW, Tài sản Nợ tăng lên 100 đô la tiền dự trữ, đồng thời tài sản Có cũng tăng thêm 100 đô la chứng khoán. Taì khoản T của ngân hàng lúc này là:
Tài sản Có NHTW Tài sản Nợ
Chứng khoán : +100 đô la Tiền dự trữ : +100 đô la
Kết quả mua trên TTM làm tiền dự trữ ngân hàng tăng thêm 100 đô la nhưng không ảnh hưởng đến lượng tiền lưu hành làm cơ số tiền tệ tăng thêm 100 đô la.
• Mua trên TTM từ giới phi ngân hàng
*1) Trường hợp tổ chức, cá nhân bán 100 tỷ đôla chứng khoán cho NHTW rồi gửi tấm séc của NHTW vào một NHTM .
Khi mua chứng khoán, tài khoản T của nó được ghi như sau:
Tài sản Có Giới phi ngân hàng Tài sản Nợ
Chứng khoán : - 100 tỷ đôla
Tiền gửi có : +100 tỷ đôla
thể phát séc
Sau khi ngân hàng này nhận tờ séc ấy, nó ghi Có vào tài khoản tiền gửi của khách hàng 100 tỷ đôla và sau đấy gửi séc ấy vào tài khoản của nó ở NHTW do thế có thêm tiền dự trữ:
Tài sản Có Hệ thống ngân hàng Tài sản Nợ
Tiền dự trữ : +100 đôla Tiền gửi có thểphát séc : +100 đôla
NHTW , tài khoản T của ngân hàng như sau:
Tài sản Có NHTW Tài sản Nợ
Chứng khoán :+100 tỷ đôla Tiền dự trữ : +100 tỷ đôla
Như vậy, ta thấy nghiệp vụ mua từ giới phi ngân hàng trên TTM cũng tương tự như mua từ một ngân hàng trên TTM.
*2) Nếu tổ chức, cá nhân ấy bán chứng khoán cho NHTW lấy séc nhưng đổi séc ấy thành tiền mặt tại một NHTM thì tác động tới tiền dự trữ là khác nhau:
Cá nhân hay tổ chức đó sẽ nhận 100tỷ đôla tiền mặt trong khi tài sản chứng khoán của nó giảm 100 tỷ đô la:
Tài sản Có Giới phi ngân hàng Tài sản Nợ
Chứng khoán :-100 tỷ đôla
Tiền mặt : +100 tỷ đôla
Tại NHTW, tài sản Có là chứng khoán tăng 100 tỷ đô la, trong khi tài sản Nợ là tiền lưu hành tăng 100 tỷ đô la
Tài sản Có NHTW Tài sản Nợ
Chứng khoán : +100 tỷ đôla Đồng tiền lưu hành :+100 tỷ đôla
Kết quả trong trường hợp này là đồng tiền lưu hành tăng 100 tỷ đô la, dự trữ không tăng làm cơ số tiền tệ tăng 100 tỷ đôla .
Vậy tác động việc mua chứng khoán trên TTM đối với cơ số tiền tệ là như nhau dù tiền thu được từ vụ bán đó được giữ lại ở trạng thái tiền dự trữ hay tiền mặt.
* Bán chứng khoán trên TTM
Trường hợp này sẽ ngược với trường hợp mua chứng khoán trên TTM. ậ đây chỉ xin nêu lại vắn tắt như sau:
Khi NHTW bán ra 100 tỷ đôla chứng khoán cho ngân hàng hoặc công chúng thì cơ số tiền tệ lập tức giảm 100 tỷ đô la . Ví dụ : NHTW bán cho cá nhân 100 tỷ đôla chứng khoán .
Tài sản Có Khách hàng- người mua Tài sản Nợ
Chứng khoán :+100 tỷ đôla
Tiền mặt : -100 tỷ đôla
Tại NHTW , giảm đi 100 tỷ đôla chứng khoán đ• bán cho khách hàng, đồng thời cũng giảm 100 tỷ đôla tiền lưu hành do khách hàng rút tiền mặt để thanh toán chứng khoán.
Tài sản Có NHTW Tài sản Nợ
Chứng khoán : -100 tỷ đôla Tiền mặt lưu thông: -100 tỷ đôla
Cách biểu thịbằng ghi chép tài khoản chữ T cho ta thấy rõ hơn giao dịch mua (bán )với giá trị 100 tỷ đôla chứng khoán trên TTM không phân biệt chủ thể giao dịch với NHTW hay giới phi ngân hàng , là cá nhân hay tổ chức; thanh toán chứng khoán bằng séc hay bằng tiền mặt đều cho ta một kết quả là tăng (hay giảm) tương ứng 100 tỷ đôla trong cơ số tiền tệ.
*Phân tích ảnh hưởng của việc mua bán chứng khoán trên TTM qua mô hình MD-MS:
Ta có công thức : MS= Mm * MB
Trong đó : MS : Cung tiền tệ của nền kinh tế
Mm : Số nhân tiền tệ
MB : Cơ số tiền tệ
Việc tăng (giảm) MB làm tăng (giảm) cung tiền tệ. Sự thay đổi MS dẫn đến sự thay đổi tương quan cung cầu trên thị trường tiền; làm tác động đến giá cả của nó là l•i suất.
+ Khi MB giảm làm cho MS giảm (cung tiền tệ dịch chuỷên sang trái, lên trên tử MSo đến MS1). Giá cả (l•i suất) trên thị trường tăng lên (từ io đến i1).
i
+ Khi MB tăng làm cho MS giảm (cung tiêng dịch chuyển sang phải, xuống dưới từ MSo đến MS1). Giá cả (l•i suất) trên thị trường giảm xuống(từ io đến i1).
5. Ưu điểm của TTM so với các công cụ khác
NHTW điều hành CSTT bằng các công cụ trực tiếp như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, l•i suất chiết khấu và tái chiết khấu, hạn mức tín dụng, tỷ giá hối đoái, tỷ giá ngoại hối… và công cụ trực tiếp quan trọng nhất là NVTTM .
Trong đó NVTTM là công cụ có hiệu quả nhất của NHTW trong việc điều hành CSTT của mình.
5.1. Ưu điểm nổi bật của NVTTM
Sở dĩ NVTTM được coi là quan trọng nhất trong điều hành CSTT của NHTW bởi vì nó là nhân tố quyết định đầu tiên có thể làm thay đổi l•i suất hoặc cơ sở tiền tệ-nguồn gốc chính làm thay đổi việc cung ứng tiền tệ của NHTW . Ngoài lý do trên nghiệp vụ TTM còn 5 ưu điểm nổi bật như sau:
- Nghiệp vụ TTM phát sinh theo ý tưởng chủ đạo của NHTW, trong đó NHTW hoàn toàn kiểm soát được khối lượng giao dịch. Tuy nhiên việc kiểm soát này là gián tiếp không nhận thấy được.Ví dụ trong nghiệp vụ chiết khấu NHTW có thể khuyến khích hoặc không khuyến khích các NHTM, chỉ thông báo l•i suất chiết khấu , mà không kiểm soát trực tiếp khối lượng cho vay chiết khâú.
- Nghiệp vụ TTM vừa linh hoạt nhưng vừa chính xác, có thể sử dụng ở bất kỳ quy mô nào. Khi có yêu cầu thay đổi về dự trữ hoặc cơ sở tiền tệ, dù ở mức nào đi nữa, NVTTM cũng có thể đạt được bằng cách mua hoặc bán một lượng nhỏ chứng khoán. ngược lại, nếu có yêu cầu thay đổi dự trữ với qui mô lớn, NHTW cũng có đủ khả năng thực hiện thông qua việc mua hoặc bán một khối lượng lớn tương ứng các chứng khoán.
- Nghiệp vụ TTM dễ dàng đảo chiều : nếu NHTW có mắc sai sót nào trong quá trình thực hiện nghiệp vụ TTM, thì có thể ngay tức khắc sửa sai sót đó bằng các nghiệp vụ bán(nếu như trước đó mua vào quá nhiều) hay mua (nếu như lúc đó bán ra quá nhiều ).
- Nghiệp vụ TTM có tính an toàn cao: giao dịch trênTTM hầu như không gặp rủi ro, xét trên cả góc độ của NHTW hay NHTM; vì cơ sở bảo đảm cho các giao dịch trên TTM đều là những giấy tờ có gi, có tính thanh khoản cao, không rủi ro tài chính.
- Nghiệp vụ TTM có thể thực hiện một cách nhanh chóng không vấp phải sự chậm trễ của các thủ tục hành chính: khi NHTW muốn thay đổi lượng tiền cungứng thì chỉ cần đưa ra yêu cầu cho các nhà giao dịch chứng khoán và sau đó việc mua bán sẽ được thực hiện ngay.
5.2. hạn chế của công cụ chiết khấu và tái chiết khấu
5.2.1. Cơ chế tác động
Đây là công cụ ảnh hưởng đến khả năng vay nợ của các NHTM, mà bản chất của nó là l•i suất ngân hàng. NHTW cấp tín dụng dưới nhiều hình thức thông qua đó tác động đến cung tiền tệ, thông dụng nhất là tái cấp vốn dưới hình thức chiết khấu và tái chiết khấu các thương phiếu. Khi chấp nhận chiết khấu hay tái chiết khấu các thương phiếu của các NHTM là NHTW đ• làm tăng khối lượng tiền tệ. Đây là hình thức phát hành tiền được đảm bảo bằng các giấy tờ có giá và khi các giấy tờ có giá đáo hạn NHTW sẽ đòi được các món nợ cho vay.
Thông qua l•i suất tái chiết khấu NHTW có thể khuyến khích giảm hay tăng mức cung tín dụng đối với nền kinh tế ; đồng thời giảm hoặc tăng mức cung tiền tệ. Khi thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, NHTW sẽ tăng l•i suất chiết khấu. Khi đó các NHTM sẽ nâng l•i suất cho vay hoặc hạn chế bớt cơ hội cho vayvà ngược lại.
Sơ đồ đơn giản như sau:
Hàng hoá
Thương phiếu
Tiền Chiết khấu
mặt thương phiếu
Tiền Tái chiết khấu
mặt thương phiếu
Đây là công cụ đ• được nhiều ngân hàng áp dụng từ lâu nhưng hiệu quả thấp thậm chí có lúc không có tác dụnghoặc có tác dụng ngược chiều.
5.2.2. Hạn chế của công cụ
- Thứ nhất : Công cụ chiết khấu và tái chiết khấu là công cụ thụ động của NHTW vì yếu tố chủ động vay và không vay nằm ở NHTM tức là NHTW phải chờ NHTM đang cần vốn đưa thương phiếu, kỳ phiếu đến để xin “tái cấp vốn”. Trong khi đó nghiệp vụ TTM là công cụ chủ động của NHTW để điều khiển cung tiền tệ bằng cách tác động vào giá và l•i suất của giấy tờ có giá. Khi mua giấy tờ có giá , người mua cần mua loại có giá thấp ,l•i suất cao; ngược lại người bán muốn bán với gía cao tức l•i suất thấp. Giá của giấy tờ có giá hay l•i suất trên TTM là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mặt bằng l•i suất trên thị trường. Đó là việc NHTW cần quan tâm khi quyết định phương thức đấu thầu trên TTM. Nếu NHTW muốn can thiệp trực tiếp vào l•i suất thì thực hiện đấu thầu khối lượng, ở đó l•i suất là cố định do NHTW chỉ đạo.Khi mục tiêu nghiêng về giác độ bơm rút tiền theo một khối lượng mong muốn thì NHTW thực hiện đấu thầu l•i suất, ơ’đó l•i suất được thả nổi theo cung cầu của thị trường, còn l•i suất trúng thầu sẽ đạt được xác đinh tại điểm đạt được khối lượng tiền cần bơm hoặc rút bớt ra khỏi lưu thông.
- Thứ hai : Trong trường hợp NHTW muốn hạn chế cho vay qua cửa khẩu chiết khấu thì nó sẽ phải tăng l•i suất chiết khấu để hạn chế việc các NHTM đem thương phiếu, kỳ phiếu đến xin chiết khấu và do vậy mà các ngân hàng cũng hạn chế việc cho vay của mình làm số nhân tiền tệ giảm. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế nếu NHTW tăng l•i xuất chiết khấu quá caothì các NHTM có thể tìm đến các nguồn vay khác với l•i suất thấp hơn như tại các ngân hàng khác của nước ngoài.Vì vậy việc tăng l•i suất chiết khấu là không có hiệu quả . NHTW cũng có thể áp dụng mức l•i suất phạt để hạn chế cho vaybằng ‘cánh cửa’ chiết khấu. Một vài quốc gia như ở Đức đ• áp dụng hai đường l•i suất song hành, một là l•i suất cơ bản và một là l•i suất phạt để hạn chế việc lạm dụng cửa sổ chiết khấu ở NHTW. Tuy vậy việc hạn chế sử dụng công cụ chiết khấu cần được thực hiện một cách thận trọng. Nếu l•i suất phạt quá cao so với l•i suất thị trường thì hoạt động ngân hàng sẽ không kịp phản ứng khi có nhu cầu thanh toán. Việc hạn chế mức cho vay và tiếp cận đến cánh cửa chiết khấu nên được điều chỉnh hợp lý khi thiêú hụt dự trữ trong hệ thống.
5.3. Dự trữ bắt buộc
5.3.1Cơ chế hoạt động
NHTW sẽ sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để nhằm tăng giảm quy mô tín dụng của các NHTM bằng cách tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc.( Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện thanh toán bị vô hiệu hoá trên tổng số tiền gửi huy động, tức là NHTM phải gửi tại NHTM một phần của tổng số tiền gửi mà NHTM nhận được từ dân cư và các thành phần khác trong nền kinh tế theo một tỷ lệ nhất định). Nếu khả năng thanh toán qúa lớn (NHTM dư thừa tiền) thì NHTW sẽ tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc làm giảm quy mô tín dụng từ đó giảm khối lượng tiền tệ. Ngược lại nếu khả năng thanh toán thấp thì giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm tăng khả năng cho vay của các NHTM (tăng khối lượng tiền tệ)
5.3.2.Hạn chế
Dự trữ bắt buộc là phương pháp truyền thống của các NHTW trong hoạt động kiểm soát tiền tệ . công cụ này đ• được các nước áp dụng từ rất lâu nhưng bản thân nó còn một số hạn chế sau đây:
Thứ nhất : dự trữ bắt buộc là công cụ điều tiết quá mạnh và không ổn định cho nên trong thực tế các NHTW ít thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Và việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần thực hiện một cách thận trọng và muốn có hiệu quả vẫn phải đi kèm những biện pháp khác.
Theo mô hình cung ứng tiền tệ giản đơn
D= 1/rr *R
Giả sử khối lượng dự trữ là 100 với tỷ lệ dự trữ bằng 0,1 thì lượng tiền gửi là 1000.
Khi tỷ lệ dự trữ rr=0,2 thì khối lượng tiền gửi tăng lên là 50000. Như vậy khi tăng tỷ lệ dự trữ lên gấp đôi thì lượng tiền gửi đ•n tăng lên 5 lần và nó còn ảnh hưởng nhiều đến số nhân tiền tệ.
Thứ hai : dự trữ bắt buộc là công cụ không mang tính công bằng vì mọi NHTM đều phải chịu một tỷ lệ dự trữ bắt buộc là như nhau. Do đó nó là công cụ khá cứng nhắc. Việc không ngừng thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ có tác động mạnh tới hoạt độngcủa các NHTM , gây ra tình trạng kém ổn định cho các ngân hàng và làm cho việc quản lý khả năng thanh khoản của các ngân hàng đó khó khăn hơn.
Thứ ba : việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề về khả năng thanh khoản ngay cả với ngân hàng có dự trữ quá mức thấp.
Với nhiều quốc gia công cụ này đ• bị hạ thấp và một vài trường hợp đ• bị loại bỏ, tuy nhiên dự trữ bắt buộc vẫn có vai trò nhất định của mình trong việc điều hành CSTT . Nhưng phải vận dụng nó một cách thận trọng và phải kết hợp với các phương pháp khác.
Như vậy so với các công cụ khác thì NVTTM có ưu thế hơn hẳn. Nhờ các ưu điểm của nó mà tới nay hầu hết các NHTW đều đề cao NVTTM như một công cụ đầu bảng trong hệ thống các công cụ điều hành CSTT .
6. Thực trạng hoạt động tại một số nước trên thế giới
ở Anh , NVTTM đ• được sử dụng từ rất lâu và đ• trở thành một công cụ linh hoạt của CSTT của NHTW Anh. ở đây, các loại hàng hoá giao dịch trên thị trường không bị giới hạn về thời gian và các chủ thể tham gia cũng không phân biệt là cá nhân hay là tổ chức. Các loại trái phiếu dài hạn của chính phủ có đảm bảo và các tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu thương mại được giao dịch.ở Anh các giao dịch về trái phiếu dài hạn được coi là quan trọng hơn trong việc kiểm soát tín dụng, NHTW có thể giảm phát hành tín phiếu kho bạc và tăng phát hành các tín phiếu trung và dài hạn.các tín phiếu có thời hạn dài hơn có khả năng được các cá nhân hay các tổ chức ngoài hệ thống tài chính mua hơn là trái phiếu kho bạc – loại này phần lớn nằm trong các ngân hàng và TCTD vì đây được coi như là một khoản dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán cho ngân hàng và các TCTD. VIệc tăng cường phát hành trái phiếu dài hạn và hạn chế tín phiếu kho bạc có tác động kép.
Trước hết, người mua trái phiếu là các tổ chức phi ngân hàng và các cá nhân làm giảm lượng tiền gửi của các TCTD . Khiến cho các TCTD phải giảm việc cho vay. Thứ hai Tín phiếu kho bạc trở nên khan hiếm , dự trữ của các TCTD giảm, từ đó cũng làm giảm khả năng cho vay và làm giảm lượng tiền cung ứng.
ởMỹ, hoạtđộng mua bán chứng khoán hầu hết là chứng khoán nợ của chính phủ(trái phiếu, tín phiếu) nhằm mục đích điều chỉnh mức l•i suất và mức dự trữ trong ngân hàng theo hướng mong muốn. Vì Mỹ có thị trường tài chính phát triển, thị trường đối với chứng khoán chính phủ thoả m•n các điều kiện đòi hỏi của NVTTM nên doanh số giao dịch bình quân một ngày rất lớn (100 $/ngày). đây là khối lượng giao dịch ở mức rộng và mạnh nhất trên thị trường tài chính nước Mỹ. Nó có thể đảm đương một khối lượng giao dịch rất lớn với tất cả các ngân hàng, doanh nghiệp, cá nhân và các nhà môi giới… bằng điện thoại và các dịch vụ mạng cáp kết nối giữa các giao dịch viên các khách hàng trên toàn nước Mỹ. Các giao dịch mua, bán chứng khoán diễn ra hàng ngày thông qua phòng giao dịch đặt tại ngân hàng dự trữ liên bang Newyork.
Vì NHTW bán chứng khoán có xu hướng giảm tốc độ tăng trưởng của tiền gửi và tín dụng ngân hàng. Vì khi bán chứng khoán chính phủ cho người kinh doanh, giá trị tài khoản tiền gửi dự trữ tại ngân hàng liên bang khu vực của ngân hàng nơi người giao dịch đặt tài khoản sẽ giảm. theo đó khả năng thực hiện cho vay và các hình thức tín dụng khác của ngân hàng sẽ giảm và ngược lại.
Ngày nay, Fed đặt mục tiêu gắn l•i suất quỹ liên bang với l•i suất cho vay dự trữ qua đêm giữa các ngân hàng. Nếu Fed muốn tăng l•i suất quỹ liên bang nhằm hạn chế cho vay và chi tiêu, nó thường bán chứng khoán trên TTM , giảm dự trữ mà ngân hàng có thể sử dụng để cho vay, buộc ngân hàng phải vay thêm dự trữ.
Điều này, có xu hướng nâng cao l•i suất trên thị trường , hạn chế các quan hệ kinh tế. Mặt khác nếu NHTW muốn hạ thấp l•i suất nhằm khuyến khích cho vay và chi tiêu trong nền kinh tế, nó sẽ mua chứng khoán trên TTM mở rộng dự trữ của các ngân hàng, mở rộng khả năng cho vay mới, làm giảm áp lực vay thêm dự trữ trên thị trường vốn liên bang. Điều này có xu hướng hạ thấp l•i suất, đẩy nhanh các quá trình kinh tế.
Phần 2: thực trạng hoạt động thị trường mở ở Việt Nam hiện nay
1. Sự cần thiết phải ra đời hoạt động TTM ở Việt Nam
Với Việt Nam, NVTTM là một công cụ rất quan trọng và cần thiết trong việc điều hành CSTT ở Việt Nam. Sự cần thiết đó thể hiện ở một số điểm sau đây:
• Do hạn chế của công cụ trực tiếp trong việc điều hành CSTT. Qua thực trạng điều hành CSTT ở Việt Nam trong thời gian qua, có thể thấyhạn chế của công cụ trực tiếp là: thiếu chủ động, hiệu quả thấp, sự phối hợp chưa chặt chẽ, chưa thực sự phản ánh tín hiệu thị trường. Do đó cần thiết phải có công cụ gián tiếp- NVTTM để có thể điều hành CSTT một cách linh hoạt và chủ động.
• Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, với xu thế hội nhập quốc tế, Việt Nam phải có thị trường tài chính phát triển mới có thể tham gia vào thị trường quốc tế. Công cụ NVTTM sẽ góp phần phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam.
• NVTTM giúp chính phủ thực thi CSTT quốc gia có hiệu quả. Điều này được thể hiện ở sự chủ động và linh hoạt trong các hoạt động của NHTW về thời gian và mức độ tác động theo mục đích của mình.
• Ngoài ra NVTTM còn có tác động đối với các tổ chức tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn khả dụng, thực hiện các mục tiêu của CSTT.
• Việc xuất hiện TTM là một bước tiến quan trọng trong tiến trình tự do hoá l•i suất ở nước ta. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đ• có thêm một công cụ mới- công cụ quan trọng nhất trong điều hành CSTT ở nước ta.
2. Thực trạng hoạt động TTM ở Việt Nam
2.1. Thuận lợi
Qua hơn hai năm thực hiện, NVTTM ở nước ta đ• vận hành một cách nhịp nhàng và đạt được một số mục tiêu đ• đề ra . NHNN bước đầu đ• sử dụng thành công một công cụ mới để điều hành chính sách tiền tệ. Về cơ bản, các quy định hiện hành về hoạt động nghiệp vụ thị trường mở là phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Công tác điều hành, tổ chức thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thực hiện an toàn; việc giao dịch thông qua nối mạng giữa trung tâm giao dịch của thị trường với các thành viên được thực hiện trôi chảy. Nghiệp vụ TTM đ• có tác dụng nhất định tới vốn khả dụng của các TCTD tham gia thị trường, đa dạng hoá kênh huy động và luân chuyển vốn, tạo ra khả năng phối hợp giữa thị trường liên ngân hàng - thị trường mở - thị trường chứng khoán trong các thị trường tài chính Việt Nam hiện nay.
ở nước ta đ• có những điều kiện thuận lợi nhất định cho thị trường mở phát triển như:
• Sự ổn định về chính trị. Không phải quốc gia nào cũng có điều kiện chính trị ổn định như ở Việt Nam. Đây không chỉ là điều kiện lý tưởng cho nghiệp vụ thị trường mở mà còn của bất kỳ một nghiệp vụ nào trong chính sách tiền tệ.
• Sự thuận tiện của kinh tế vĩ mô. Tính chất hàng hoá của công cụ ngắn hạn đ• và đang có hiện nay, thực trạng về luân chuyển vốn giữa các ngân hàng, khả năng quản lý vốn khả dụng của NHNN rất thích hợp để triển khai và thúc đẩy nghiệp vụ này.
• Sự khá hoàn chỉnh của khuôn khổ pháp lý: Hàng loạt các văn bản về các vấn đề liên quan đến thị trường mở đ• được ban hành như quy chế nghiệp vụ thị trường mở, quy trình nghiệp vụ mở, quy định đăng ký giấy tờ có giá, quy chế quản lý vốn khả dụng, quy trình nghiệp vụ đấu thầu tín phiếu NHNN.
2. Khó khăn.
Nghiệp vụ thị trường của NHNN Việt Nam là hoạt động hoàn toàn mới cả về lý luận và nội dung hoạt động đối với nước ta mà điều kiện vận hành và phát huy hiệu quả của nó không phải là dễ dàng. Nghiệp vụ thị trường mở là một trong các công cụ tái cấp vốn của NHTW, có thể nói là công cụ tái cấp vốn có hiệu quả nhất của chính sách tiền tệ.
Tuy đ• đạt được một số kết quả trông thấy nhưng với thời gian ngắn ngủi hơn một năm, chúng ta chưa thể có đủ kinh nghiệm để vận hành trơn tru cỗ máy nghiệp vụ TTM mà không vấp phải những sai lầm, tồn tại không thể tránh khỏi hay phát huy tối đa những thuộc tính ưu việt của nó.
2.1. Số lượng thành viên tham gia còn ít.
Đến nay, NHTW mới chỉ cấp giấy phép hoạt động cho 21 TCTD tham gia thị trường bao gồm 4 NHTM Nhà nước (NH Ngoại thương, NH nông nghiệp và phát triển nông thôn, NH Công thương, NH đầu tư và phát triển); 10 Ngân hàng thương mại cổ phần, một ngân liên doanh, 4 chí nhánh Ngân hàng nước ngoài, một công ty tài chính và QTDND Trung ương. Qua các phiên giao dịch, số thành viên tham gia dự thầu thường là nhỏ. Các NHTM quốc doanh tham gia dự thầu và trúng thầu là chủ yếu, còn các TCTD khác hầu như chưa tham gia dự thầu.
2.2. Loại hình hàng hoá giao dịch còn hạn chế.
Điều 8 Quyết định 85/2000/QĐ - NHNN14 (ngày 9/3/2000) của thống đốc NHNN (về việc ban hành Quy chế nghiệp vụ thị trường mở) quy định các loại giấy tờ có giá được giao dịch thông qua thị trường mở bao gồm: Tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN, các loại giấy tờư có giá ngắn hạn khác do Thống đốc NHNN quy định cụ thể trong từng thời kỳ.
Quy định trên cho thấy dù trong từng thời kỳ cụ thể, các loại giấy tờ có giá được sử dụng trong nghiệp vụ TTM của nước ta vẫn có thể tăng thêm ngoài tín phiếu NHNN, nhưng về bản chất đó vẫn là “giấy tờ ngắn hạn”. Quan niệm thiếu cập nhật này tạo nên sự đơn điệu về hình thức hàng hoá giao dịch trên thị trường mở.
Qua hơn một năm hoạt động, hàng hoá được giao dịch trên TTM chủ yếu là tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN. Tổng khối lượng của hai loại tín phiếu đang được NHNN nắm giữ là 3000 tỷ đồng trong đó có 1000 tỷ là tín phiếu của NHNN. Trong phiên đấu thầu đầu tiên chỉ có 300 tỷ đồng tín phiếu được mua bán.
2.3. Phương thức giao dịch còn đơn điệu.
Các phiên giao dịch vừa qua chỉ áp dụng phương thức mua bán hẳn với tín phiếu NHTW, phương thức mua có kỳ hạn đối với tín phiếu kho bạc nhà nước, còn phương thức bán hẳn ít được thực hiện. Phương thức đấu thầu thường là đấu thầu l•i suất. Các TCTD chưa tham gia thường xuyên vào các phiên giao dịch, quang cảnh khá buồn tẻ ở từng phiên chợ, hàng hoá giao ở thị trường mở chỉ dừng lại ở giấy tờ có giá ngắn hạn và tập trung vào hai loại là: tín phiếu NHNN và tín phiếu kho bạc. Đây là khó khăn lớn nhất của nghiệp vụ thị trường mở hiện nay. Các phiên đấu thầu l•i suất có tính cạnh tranh cao nên các NHTM và TCTD nhỏ không đủ điều kiện tham gia, tạo ra tình trạng chưa sôi động của thị trường, thị trường thứ cấp của thị trường mở chưa phát triển, các thị trường liên Ngân hàng chưa hoàn thiện gây ảnh hưởng lớn đến nghiệp vụ thị trường mở. Vì vậy, những tác động và hiệu quả của nghiệp vụ thị trường mở tới chính sách tiền tệ chưa sâu rộng và thiết thực.
2.4. Thiếu nguồn thông tin đáng tin cậy.
Rõ ràng là muốn hoạt động có hiệu quả cao, phải có một thị trường minh bạch về thông tin và hoạt động mua bán diễn ra một cách liên tục. Trong thị trường đó, các bên tham gia được biết những thôngtin và mục đích hoạt động của NHTW.
Hệ thống ngân hàng nước ta hiện nay tuy đ• được trang bị những trang thiết bị khá hiện đại như điện thoại, fax, máy vi tính kết nối Internet... song không vì thế mà có đủ thông tin về các NHTW và TCTD nước ngaòi có quan hệ giao dịch với NHNN Việt Nam. Ngoài ra, nước ta còn thiếu những nhà kinh tế học với khả năng phân tích, dự đoán chính xác những công ty chuyên nghiên cứu thị trường nói chung và TTM nói riêng. Trong khi đó, ở Mỹ hay các nước EU có hẳn những h•ng “thám tử kinh tế”, những chuyên gia kinh tế chuyên nghiên cứu về vấn đề rủi ro, tình hình tài chính những thành viên tham gia thị trường mở, nhu cầu về chứng khoán và xu hướng phát triển của kinh tế toàn cầu. Đó là cơ sở cho NHTW của họ đưa ra mức l•i suất chiết khấu và lượng chứng khoán phát hành.
Ngoài ra, các ngân hàng còn thiếu cán bộ thông tin giỏi về công nghệ thông tin trong khi đặc trưng của thị trường mở rất cần sự hỗ trợ của công nghệ thông tin.
Trên thực tế hoạt động của các ngân hàng Việt Nam vẫn chưa thoát ra khỏi nghiệp vụ kinh doanh truyền thống, đó là hoạt động tín dụng. Dự nợ cho vay ở hầu hết các ngân hàng vẫn chiếm 70% tổng số sử dụng vốn.
Phần 3: Định hướng và giải pháp phát triển nghiệp vụ mở thị trường ở Việt Nam..
1. Định hướng cho NVTM ở Việt Nam.
- Cở sở pháp lý cho hoạt động của thị trường cần được rà soát lại để kịp thời điều chỉnh theo hướng tạo điều kiện để thu hút thành viên tham gia thị trường mở.
- NHTW cần tiếp tục nghiên cứu để mở rộng thêm nhiều loại hàng hoá (như các loại trái phiếu, các chứng khoán do tổ chức tín dụng Nhà nước phát hành...) có thể sử dụng trong các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở.
- Chất lượng công tác dự báo, điều hành thị trường cần từng bước hoàn thiện trên cơ sở nâng cao trình độ cán bộ dự báo, cải tiến chế độ cung cấp thông tin trong và ngoài ngành với sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị NHNN, các tổ chức tín dụng, các bộ ngành liên quan (Bộ tài chính, Kho bạc Nhà nước).
- Đẩy mạnh tiến độ hiện đại hoá hệ thống thanh toán liên Ngân hàng. Đây cũng chính là cơ sở để nâng cao hiệu quả của hoạt động nghiệp vụ thị trường mở.
2. Giải pháp cho hoạt động thị trường mở ở Việt Nam.
2.1. Tăng cường vai trò chỉ đạo của NHTW trên TTM.
Trên TTM để tác động đến lượng tiền cung ứng trên từng thời kỳ. ở giai đoạn đầu, thành viên thị trường mở là các TCTD là phù hợp, tuy nhiên các tổ chức này hiện nay chưa thực sự cần đến thị trường mở để điều tiết vốn khả dụng của mình và Ngân hàng nhà nước cũng chưa có “cây đũa thần” chỉ huy nghiệp vụ này. Một trong những điều kiện tham gia nghiệp vụ TTM là các thành viên phải có giấy tờ có giá để bán và chủ động được vốn khả dụng của mình. Nhưng các TCTD chưa đầu tư nhiều vào giấy tờ có giá ngắn hạn do nhiều nguyên nhân, và thực ra họ vẫn chịu sự thiếu bình đẳng trong kinh doanh. Các NHTM quốc doanh được vay theo chỉ định, nên có nhiều lợi thế trong giao dịch trên thị trường mở nhờ được vay với giá rẻ để mua giấy tờ có giá có l•i suất lợi hơn. Các NHTM cổ phần, Ngân hàng liên doanh, quỹ tín dụng ít có được ưu thế này. Điều này không kích cầu tín dụng, tạo ra sự phân biệt đáng kể trên thị trường mở một cách thực sự thì NHNN phải tạo cho họ một sân chơi bình đẳng, tức là giảm cho vay theo chỉ định, phân biệt rõ ràng tín dụng chính sách và tín dụng thương mại. Ngoài ra cần phải tuyên truyền thường xuyên, sâu rộng cho các TCTD về nghề vụ này.
2.2. Đa dạng hoá hàng hoá trên thị trường mở.
Cần cụ thể hoá việc này bằng cách bổ sung vào cơ cấu hàng hoá này các tín phiếu Kho bạc có thời hạn dưới một năm (như trái phiếu Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, trải phiếu chính quyền địa phương), các loại chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, chấp phiếu ngân hàng...)
Ngoài ra, trong dài hạn, phạm vi giấy tờ có giá cần được mở rộng ra không chỉ các l oại ngắn hạn mà còn trung, dài hạn có thể xem xét làm công cụ giao dịch miễn là chúng có độ thanh khoản cao. Sở dĩ như vậy vì thời hạn của giấy tờ có giá không mâu thuẫn với yêu cầu nhanh nhạy của chính sách tiền tệ bởi đ• có phương thức mua lại trên thị trường mở.
2.3 Lựa chọn phương thức giao dịch thích hợp.
Phương thức giao dịch phù hợp nhất với thị trường mở là mua bán có kỳ hạn, mà NHNN là người chủ động quyết định mua bán với số lượng bao nhiêu, vào thời gian nào, theo phương thức gì tuỳ theo yêu cầu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Việc thực hiện nghiệp vụ TTM dưới hình thức mua hẳn sẽ làm tăng tỷ lệ cung ứng tiền NHTW qua quan hệ tín dụng, làm yếu khả năng điều tiết của NHTW, gây biến động lớn đến thị giá chứng khoán theo chiều không tốt.
Theo quy chế nghiệp vụ thị trường mở, NHTW có thể thực hiện đấu thấu khối lượng hoặc đấu thầu l•i suất. Việc đấu thầu khối lượng xẩy ra khi l•i suất cố định được tính toán và chỉ đạo, còn đấu thầu l •i suất sẽ xác định l•i suất trúng thầu tại điểm mà khối lượng tiền cần bơm vào hay hút khỏi lưu thông đạt được. Chính các mức l•i suất này sẽ quyết định giá của giấy tờ có giá trên thị trường mở. Để khuyến khích các tổ chức tín dụng tham gia nghiệp vụ TTM, trong giai đoạn đầu, NHNN Việt Nam cần kết hợp cả hai hình thức đấu thầu l•i suất và đấu thầu khối lượng.
2.4. Các biện liên quan khác.
Thứ nhất: Hoàn thiện thị trường liên Ngân hàng.
NVTM chỉ thực sự hữu hiệu trên cơ sở thị trường liên NH phát triển.
Thứ hai: Hiện đại hoá công nghệ hệ thống thông tin và công nghệ Ngân hàng.
Mục lục
Phần 1. Lý thuyết chung về thị trường mở
1. Khái niệm chung về thị trường mở
2. Hàng hoá và chủ thể tham gia NVTTM
2.1. Hàng hoá
2.1.1 Phạm vi hàng hoá được giao dịch trên thị trường mở.
2.1.2. Một số hàng hoá được giao dịch trên TTM ở Việt Nam.
2.2. Chủ thể tham gia NVTM
2.2.1. Phạm vi thành viên tham gia NVTM
2.2.2. Điều kiện tham gia TTM ở Việt Nam
3. Nội dung hoạt động TTM
3.1. Phương thức mua bán trên thị trường mở
3.1.1. Phương thức mua bán hẳn
3.1.2 Phương thức mua bán lại
3.2. Phương thức đấu thầu trên TTM
3.2.1. Phương thức đấu thầu khối lượng
3.2.2. Phương thức đấu thầu l•i suất
4. Cơ chế tác động tới lượng tiền cung ứng của NVTTM
4.1. Khái niệm cơ số tiền tệ và lượng tiên cung ứng
4.2. Cơ chế tác động của NVTTM
5. Ưu điểm của NVTTM so với các công cụ khác
5.1.Ưu điểm nổi bật của NVTTM
5.2.Hạn chế của công cụ chiết khấu và tái chiết khấu
5.2.1. Cơ chế hoạt động
5.2.2. Hạn chế
5.3. Dự trữ bắt buộc
5.3.1. Cơ chế hoạt động
5.3.2. Hạn ch6. Thực trạng hoạt động của một số nước trên thế giới.
Phần 2. Thực trạng hoạt động TTM ở Việt Nam hiện nay
1. Sự cần thiết ra đời hoạt động TTM ở Việt Nam
2. Thực trạng hoạt động TTM ở Việt Nam
2.1. Thuận lợi
2.2. Khó khăn
Phần 3: Định hướng và giải pháp phát triển NVTTM ở Việt Nam
1. Các định hướng cơ bản
2. Giải pháp
2.2. Đa dạng hoá hàng hoá trên TTM
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Những vấn đề về mở cửa thị trường ở Việt Nam.docx