Đề tài Nợ nước ngoài của Việt Nam thực trạng và các biện pháp đề xuất

MỤC LỤC Danh mục chữ viết tắt Danh mục bảng biểu Lời mở đầu PHẦN 1: Khái niệm, phân loại và vai trò của nợ nước ngoài Việt Nam 1.1. Khái niệm 1.2. Phân loại nợ nước ngoài 1.3.Vai trò của Nợ nước ngoài 1.4. Phương pháp xác định PHẦN 2: Thực trạng về nợ nước ngoài ở Việt Nam nguyên nhân và hạn chế của công tác quản lý nợ 2.1. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam 2.1.1. Các phương thức vay nợ chủ yếu của Việt Nam 2.1.2. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam 2.1.2.1 Tình hình chung 2.1.2.2 Lãi suất vay nợ của Việt Nam hiện nay 2.1.2.3 Cơ cấu nợ vay của Việt Nam 2.1.2.4 Các khoản nợ nước ngoài của việt nam một số năm gần đây 2.1.2.5. Hiệu quả sử dụng nợ vay 2.2. Tình hình quản lý nợ nước ngoài tại Việt Nam 2.2.1.Những thành tựu nổi bật của công tác quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam 2.2.1.1.Quản lý nợ nước ngoài đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế và thu hút nguồn vốn ODA 2.2.1.2. Khung thể chế quản lý nợ nước ngoài đã được từng bước hoàn thiện 2.2.1.3.Hệ thống tổ chức quản lý nợ nước ngoài đã hoàn thiện và từng bước được cải thiện 2.2.1.4. Nâng lực cán bộ đang từng bước được nâng cao 2.2.2.Một số tồn tại trong vấn đề nợ nước ngoài hiện nay 2.2.2.1.Tồn tại trong vấn đề vĩ mô 2.2.2.2. Tồn tại trong các chính sách về việc quản lý nợ nước ngoài 2.2.2.3. Tồn tại trong việc đánh giá giám sát hiệu quả nợ nước ngoài 2.2.2.4. Tồn tại trong việc thống kê đúng và đủ về việc thực hiện nguồn vốn được cấp từ nợ nước ngoài 2.3. Nguyên nhân 2.3.1. Yếu tố lịch sử 2.3.2. Thiếu hụt kinh nghiệm quản lý nợ 2.3.3. Nhiều văn bản cùng điều chỉnh một đối tượng quản lý. 2.3.4. Thiếu hụt đối ngũ cán bộ chuyên môn 2.3.5. Hệ thống và quy trình kiểm định các dự án đầu tư còn yếu kém 2.3.6. Ứng dụng công nghệ thông tin còn yếu kém PHẦN 3:Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vay và quản lý các khoản vay nợ nước ngoài của Việt Nam 3.1. Các giải pháp đảm bảo khả năng tiếp nhận nợ vay nước ngoài 3.1.1.Đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững 3.1.2.Lựa chọn danh mục vay nợ hợp lý 3.1.3. Gia tăng dự trữ ngoại hối 3.2. Các giải pháp làm giảm chi phí vay nợ 3.2.1.Chính sách tỷ giá hối đoái 3.2.2. Ổn định lạm phát 3.2.3.2. Gia tăng hệ số tín nhiệm quốc gia 3.3. Các biện pháp sử dụng vốn vay hiệu quả 3.3.1.Kiểm soát nợ nước ngoài 3.3.2. Các biện pháp nhằm sử dụng nợ nước ngoài có hiệu quả 3.4. Các biện pháp quản lý nợ vay nước ngoài 3.5. Các biện pháp hỗ trợ 3.5.1. Ổn định môi trường thể chế 3.5.2. Cải thiện môi trường đầu tư DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế SNA Hệ thống thống kê tài khoản quốcgia ODA Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức OECDTổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển WB Ngân hàng Thế giới WTO Tổ chức thương mại thế giới JPY Đông Yên Nhật NIB Ngân hàng đầu tư Bắc Âu IBRD Ngân hàng quốc tế tái thiết và phát triển IDA Hiệp hội phát triển quốc tế IFAD Quỹ phát triển nông nghiệp quốc tế NDF Quỹ phát triển Bắc Âu NIB Ngân hàng đầu tư Bắc Âu OPEC Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ ADB Ngân hàng phát triển Châu Á IFI Tổ chức tài chính quốc tế GNI Tổng sản lượng quốc gia XK Xuất khẩu TC Tài Chính NHNN Ngân hàng Nhà nước ICOR Hệ số sử dụng vốn NHTM Ngân hàng thương mại FII Nguồn vốn đầu tư gián tiếp FDI Nguồn vốn đầu tư trực tiếp DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1.1 Đánh giá theo mức độ nợ của các quốc gia theo % Bảng 2.1 Tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam từ 2003-2010 Bảng 2.2 Các chỉ tiêu về giám sát nợ nước ngoài của Việt Nam Bảng 2.3 Quan hệ giữa thâm hụt thương mại và nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2005-2009 Bảng 2.4 Một số chủ nợ song phương lớn của Việt Nam Bảng 2.5 Nợ vay từ các tổ chức đa phương của Việt Nam Lời mở đầu Đối với Việt Nam, việc vay mượn vốn nước ngoài để đáp ứng yêu cầu tăng mức đầu tư trong nước nhằm nâng cao năng lực sản xuất trong tương lai là một giải pháp hợp lý. Bởi vì Việt Nam cần nguồn lực con người và vốn cao hơn nữa để cạnh tranh trên thị trường thế giới với các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn, ví dụ như sản phẩm điện tử. Mặt khác, Việt Nam vẫn là nền kinh tế đang phát triển nên có thu nhập tương đối thấp cần phải đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng và con người để nâng tỷ lệ giá trị gia tăng trong dài hạn với dự kiến chỉ tiêu tăng trưởng GDP bình quân 7,5%-8,5%/năm trong giai đoạn 2011-2015. Song song với đó, Việt Nam đang cần đầu tư vào các lĩnh vực như bệnh viện, trường học, dạy nghề, phát triển hạ tầng giao thông, giảm bớt chi phí dịch vụ tiện ích và viễn thông, củng cố môi trường kinh doanh và tăng cường trình độ các trung tâm nghiên cứu phát triển, xây dựng các công trình phúc lợi nhằm nâng cao đời sống nhân dân hơn nữa và làm cho bộ mặt kinh tế đất nước ngày càng thay đổi tốt hơn. Do đó nhóm 2 chọn chủ đề : “ Nợ nước ngoài của Việt Nam thực trạng và các biện pháp đề xuất .” Nội dung bài gồm 3 phần chính : Phần 1: Lý luận chung về nợ nước ngoài. Phần 2: Thực trạng nợ nước ngoài và công tác quản lý về vay nợ của Việt Nam. Phần 3: Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả vay nợ và quản lý nợ nước ngoài. Mặc dù cũng rất cố gắng để thực hiện đề tài song do còn là sinh viên nên kiến thức và lý luận vẫn còn yếu do đó bài làm không sao tránh khỏi những lỗi sai và sự thiếu sót. Nhóm 2 rất mong nhận được sự góp ý chân thành của cô giáo hướng dẫn để đề tài đem lại nhiều lợi ích trong thực tế hơn. Nhóm em xin chân thành cảm ơn!

doc29 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5561 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nợ nước ngoài của Việt Nam thực trạng và các biện pháp đề xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế SNA Hệ thống thống kê tài khoản quốcgia ODA Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức OECD Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển WB Ngân hàng Thế giới WTO Tổ chức thương mại thế giới JPY Đông Yên Nhật NIB Ngân hàng đầu tư Bắc Âu IBRD Ngân hàng quốc tế tái thiết và phát triển IDA Hiệp hội phát triển quốc tế IFAD Quỹ phát triển nông nghiệp quốc tế NDF Quỹ phát triển Bắc Âu NIB Ngân hàng đầu tư Bắc Âu OPEC Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ ADB Ngân hàng phát triển Châu Á IFI Tổ chức tài chính quốc tế GNI Tổng sản lượng quốc gia XK Xuất khẩu TC Tài Chính NHNN Ngân hàng Nhà nước ICOR Hệ số sử dụng vốn NHTM Ngân hàng thương mại FII Nguồn vốn đầu tư gián tiếp FDI Nguồn vốn đầu tư trực tiếp DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1.1 Đánh giá theo mức độ nợ của các quốc gia theo % Bảng 2.1 Tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam từ 2003-2010 Bảng 2.2 Các chỉ tiêu về giám sát nợ nước ngoài của Việt Nam Bảng 2.3 Quan hệ giữa thâm hụt thương mại và nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2005-2009 Bảng 2.4 Một số chủ nợ song phương lớn của Việt Nam Bảng 2.5 Nợ vay từ các tổ chức đa phương của Việt Nam Lời mở đầu Đối với Việt Nam, việc vay mượn vốn nước ngoài để đáp ứng yêu cầu tăng mức đầu tư trong nước nhằm nâng cao năng lực sản xuất trong tương lai là một giải pháp hợp lý. Bởi vì Việt Nam cần nguồn lực con người và vốn cao hơn nữa để cạnh tranh trên thị trường thế giới với các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn, ví dụ như sản phẩm điện tử. Mặt khác, Việt Nam vẫn là nền kinh tế đang phát triển nên có thu nhập tương đối thấp cần phải đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng và con người để nâng tỷ lệ giá trị gia tăng trong dài hạn với dự kiến chỉ tiêu tăng trưởng GDP bình quân 7,5%-8,5%/năm trong giai đoạn 2011-2015. Song song với đó, Việt Nam đang cần đầu tư vào các lĩnh vực như bệnh viện, trường học, dạy nghề, phát triển hạ tầng giao thông, giảm bớt chi phí dịch vụ tiện ích và viễn thông, củng cố môi trường kinh doanh và tăng cường trình độ các trung tâm nghiên cứu phát triển, xây dựng các công trình phúc lợi nhằm nâng cao đời sống nhân dân hơn nữa và làm cho bộ mặt kinh tế đất nước ngày càng thay đổi tốt hơn. Do đó nhóm 2 chọn chủ đề : “ Nợ nước ngoài của Việt Nam thực trạng và các biện pháp đề xuất .” Nội dung bài gồm 3 phần chính : P Phần 1: Lý luận chung về nợ nước ngoài. P Phần 2: Thực trạng nợ nước ngoài và công tác quản lý về vay nợ của Việt Nam. P Phần 3: Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả vay nợ và quản lý nợ nước ngoài. Mặc dù cũng rất cố gắng để thực hiện đề tài song do còn là sinh viên nên kiến thức và lý luận vẫn còn yếu do đó bài làm không sao tránh khỏi những lỗi sai và sự thiếu sót. Nhóm 2 rất mong nhận được sự góp ý chân thành của cô giáo hướng dẫn để đề tài đem lại nhiều lợi ích trong thực tế hơn. Nhóm em xin chân thành cảm ơn! Nhóm thực hiện : Nhóm 2 PHẦN 1: KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ VAI TRÒ NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM 1.1. Khái niệm:  Nợ nước ngoài là một khái niệm rộng lớn, chứa đựng nhiều yếu tố khác nhau. Do đó để hiểu được khái niệm nợ nước ngoài, chúng ta cần phải tìm hiểu một số khái niệm cơ bản sau: Nợ : là lượng tiền mà một công ty hoặc một cá nhân nợ một tổ chức hoặc một cá nhân khác. Nợ phát sinh từ việc vay tiền để mua hàng hoá, dịch vụ và các tài sản tài chính khác. Một khoản nợ được tạo ra khi người cho vay đồng ý cho người đi vay một lượng tài sản nhất định. Nợ xấu: là một khoản tiền cho vay mà chủ nợ xác định không thể thu hồi lại được và bị xoá sổ khỏi danh sách các khoản nợ phải thu của chủ nợ.Với hai khái niệm cơ bản trên chúng ta có thể đi vào tìm hiểu thế nào là nợ nước ngoài? Vậy thì một câu hỏi đặt ra lúc này là tại sao chúng ta phải tìm hiểu khía cạnh nợ xấu trong nợ nước ngoài. Lịch sử kinh tế thế giới là một minh chứng hùng hồn nhất cho tấm thảm kịch nợ không an toàn, đó là các cuộc khủng hoảng nợ xảy ra ở một số khu vực trên thế giới. Hơn nữa, trong những năm vừa qua thế giới đã chịu ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Theo nhận định của nhiều chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực kinh tế, năm 2009 là một năm đầy những khó khăn và thử thách cho kinh tế thế giới do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, trong đó khủng hoảng nợ là một bộ phận cấu thành khủng hoảng kinh tế. Ta có các quan niệm về nợ nước ngoài cụ thể như sau : Theo khoản 8 điều 2 quy chế vay và trả nợ nước ngoài (Ban hành kèm theo Nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 1 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ) thì: “Nợ nước ngoài của quốc gia là số dư của mọi nghĩa vụ hiện hành (không bao gồm nghĩa vụ nợ dự phòng) về trả nợ gốc và lãi tại một thời điểm của các khoản vay nước ngoài tại Việt Nam. Nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm nợ nước ngoài của khu vực công và nợ nước ngoài của khu vực tư nhân”. Như vậy, theo cách hiểu này nợ nước ngoài là tất cả các khoản vay mượn của tất cả các pháp nhân Việt Nam đối với nước ngoài và không bao gồm nợ của các thể nhân (nợ của cá nhân và hộ gia đình). Trong cuốn Thống kê nợ nước ngoài : Hướng dẫn tập hợp và sử dụng do nhóm công tác liên ngành của IMF thì khái niệm nợ nước ngoài được hiểu như sau: “Tổng nợ nước ngoài tại bất kỳ thời điểm nào là số dư nợ của các công nợ thường xuyên thực tế, không phải công nợ bất thường, đòi hỏi bên nợ phải thanh toán gốc và/hoặc lãi tại một (số) thời điểm trong tương lai, do đối tượng cư trú tại một nền kinh tế nợ và đối tượng không cư trú”. Theo khái niệm này, khái niệm nợ nước ngoài không tách rời khái niệm đối tượng cư trú. Như vậy xét về bản chất không có sự khác biệt đáng kể trong định nghĩa nợ nước ngoài của quốc gia và quốc tế. Tuy nhiên định nghĩa về nợ nước ngoài của quốc tế rõ ràng hơn. Khái niệm nợ nước ngoài của quốc tế về cơ bản mang ý nghĩa thống kê và nhất quán với SNA. Để đảm bảo tính nhất quán trong cách phân loại nợ nước ngoài, trong phần dưới đây chúng tôi sử dụng phần định nghĩa chuẩn quốc tế về nợ nước ngoài. 1.2. Phân loại nợ nước ngoài Việc phân loại nợ nước ngoài có một vai trò quan trọng trong việc công tác theo dõi, đánh giá vàquản lý nợ có hiệu quả. Phân loại theo chủ thể đi vay gồm: nợ công và nợ tư nhân được Chính phủ bảo lãnh và nợ tư nhân.  Nợ công và nợ tư nhân được Chính phủ bảo lãnh Nợ công được định nghĩa là các nghĩa vụ nợ của các khu vực công và bao gồm nợ của khu vực công cùng với nợ của khu vực tư nhân được khu vực công bảo lãnh. Nợ nước ngoài của khu vực tư nhân được công quyền bảo lãnh được xác định là các công nợ nước ngoài của khu vực tư nhân mà dịch vụ trả nợ được bảo lãnh theo hợp đồng bởi một đối tượng thuộc khu vực công cư trú tại cùng một nền kinh tế với bên nợ đó.   Nợ tư nhân Loại nợ này bao gồm nợ nước ngoài của khu vực tư nhân không được khu vực công của nền kinh tế đó bảo lãnh theo hợp đồng. Về bản chất đây là các khoản nợ do khu vực tư nhân tự vay, tự trả. Phân loại theo thời hạn vay gồm: nợ ngắn hạn và nợ dài hạn. Nợ ngắn hạn Nợ ngắn hạn là loại nợ có thời gian đáo hạn từ một năm trở xuống. Vì thời gian đáo hạn ngắn, khối lượng thường không đáng kể, nợ ngắn hạn thường không thuộc đối tượng quản lý một cách chặt chẽ như nợ dài hạn. Tuy nhiên nếu nợ ngắn hạn không trả được sẽ gây mất ổn định cho hệ thống ngân hàng. Đặc biệt khi tỷ trọng nợ ngắn hạn trong tổng nợ có xu hướng tăng phải hết sức thận trọng vì luồng vốn rút ra đột ngột có thể gây bất ổn cho nền tài chính quốc gia. Nợ dài hạn Nợ dài hạn là những công nợ có thời gian đáo hạn gốc theo hợp đồng hoặc đã gia hạn kéo dài trên một năm tính từ ngày ký kết vay nợ cho tới ngày đến hạn khoản thanh toán cuối cùng. Nợ dài hạn là loại nợ được quan tâm quản lý nhiều hơn do khả năng tác động lớn đến nền tài chính quốc gia. Phân loại theo loại hình vay gồm: vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vay thương mại. Vay hỗ trợ phát triển chính thức ODA Theo định nghĩa của OECD, hỗ trợ phát triển chính thức bao gồm các chuyển khoản song phương (giữa các Chính phủ) hoặc đa phương (từ các tổ chức quốc tế cho Chính phủ), trong đó ít nhất 25% tổng giá trị chuyển khoản là cho không. Tính ưu đãi của vay hỗ trợ phát triển chính thức. Vay hỗ trợ phát triển chính thức là loại nợ có nhiều điều kiện ưu đãi, ưu đãi về lãi suất, về thời gian trả nợ và thời gian ân hạn. Lãi suất của vay hỗ trợ  phát triển chính thức thấp hơn nhiều so với vay thương mại. Thời gian cho vay hỗ trợ phát triển chính thức dài (có thể từ 10, 15 hay 20 năm) và thời gian ân hạn dài, do vậy các nước đang phát triển thường hướng tới và tận dụng tối đa nguồn vốn này cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, vay hỗ trợ phát triển chính thức cũng có những mặt trái của nó. Tính ưu đãi của vay hỗ trợ  phát triển chính thức rất rõ rệt, bên cạnh đó, việc vay nợ hỗ trợ phát triển chính thức đôi khi kèm theo những điều kiện ràng buộc khiến cái giá phải trả tăng lên đáng kể. Vay thương mại Khác với vay hỗ trợ phát triển chính thức, vay thương mại không có ưu đãi cả về lãi suất và thời gian ân hạn, lãi suất vay thương mại là lãi suất thị trường tài chính quốc tế và thường thay đổi theo lãi suất thị trường. Chính vì vậy, vay thương mại thường có giá khá cao và chứa đựng nhiều rủi ro. Việc vay thương mại của Chính phủ phải được cân nhắc hết sức thận trọng và chi quyết định vay khi không còn cách nào khác. Phân loại nợ theo chủ thể cho vay gồm : nợ đa phương và nợ song phương. Nợ đa phương đến chủ yếu từ các cơ quan của Liên hợp quốc, WB, IMF, các ngân hàng phát triển trong khu vực, các cơ quan đa phương như OPEC và liên chính phủ. Nợ song phương đến từ Chính phủ một nước như các nước thuộc tổ chức OECD và các nước khác hoặc đến từ một tổ chức quốc tế nhân danh một Chính phủ duy nhất dưới dạng hỗ trợ tài chính, viện trợ nhân đạo bằng hiện vật. 1.3. Vai trò của Nợ nước ngoài: + Nợ nước ngoài tạo nguồn vốn bổ sung cho quá trình phát triển và tăng trưởng phát triển kinh tế, điều chỉnh cán cân thanh toán quốc gia. + Góp phần hỗ trợ cho các nước vay nợ tiếp thu được công nghệ tiên tiến, học hỏi được kinh nghiệm quản lý của các nhà tài trợ nước ngoài. + Tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước, góp phần thu hút , mở rộng các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế đất nước. + Góp phần chuyển đổi, hoàn thiện cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa. Tuy nhiên có thể gây ra hạn chế nếu như ta không quản lý tốt: có thể gây tình trạng nợ lớn, khó trả, dễ dẫn đến khủng hoảng nợ; dẫn đến sự phụ thuộc vào các chủ nợ vì các khoản nợ thường gắn với các điều kiện; có thể trở thành bãi rác công nghệ của thế giới; dễ xảy ra tình trạng tham nhũng, hối lộ… 1.4. Phương pháp xác định: Các chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá mức nợ nước ngoài là: + Tổng số nợ: tính theo giá trị tuyệt đối của một đồng tiền chuyển đổi tự do nào đó, thường là USD. + Số nợ đã trả: tính theo giá trị tuyệt đối của một đồng tiền chuyển đổi tự do. + Tỷ lệ nợ/xuất khẩu (%): nếu < 160% thì mức nợ chưa đáng lo ngại. + Tỷ lệ nợ/GDP(%): nếu tỉ lệ này từ 50% trở lên là mắc nợ nhiều. + Tỷ lệ trả nợ (%): là tỷ số giũa chi phí trả nợ gốc và ãi chia cho giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ trong năm nhân với 100. + Tỷ lệ trả lãi so với thu nhập xuất khẩu hàng hóa dịch vụ (%) : có nghĩa là khi một số lớn nợ không trả nợ gốc nữa mà chỉ trả nợ một phần. PHẦN 2: THỰC TRẠNG VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM NGUYÊN NHÂN VÀ HẠN CHẾ CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ NỢ 2.1. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam. 2.1.1. Các phương thức vay nợ chủ yếu của Việt Nam Ngoài yếu tố tiết kiệm trong nước, các quốc gia đang phát triển – có thể cho là các quốc gia thiếu vốn - cần sự “giúp đỡ” từ yếu tố “ngoại sinh”, Chính phủ cần phải huy động các nguồn lực từ bên ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Nợ của Chính phủ chủ yếu xuất phát từ ba nguồn chủ yếu sau đây: Nợ ODA (Nguồn vốn vay phát triển chính thức - phần cho vay ưu đãi trong khoản hỗ trợ phát triển chính thức ODA). Vay thương mại qua các hợp đồng song phương và đa phương. Phát hành trái phiếu quốc tế (một hình thức vay nợ nước ngoài vừa mới được Chính phủ áp dụng). 2.1.2. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam. 2.1.2.1 Tình hình chung. Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2010 và nhiệm vụ năm 2011 tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XII, cho biết: “Đến hết năm 2010, dư nợ Chính phủ tương đương khoảng 44,5% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 42,2% GDP tăng so với con số 39% của năm 2009 và cao nhất kể từ năm 2006 tương đương 32,5 tỷ USD tăng 4,6 tỷ USD so với năm trước, và dư nợ công bằng 56,7% GDP ”. Do dư nợ tăng, tổng lượng tiền mà ngân sách phải dành để trả các đối tác nước ngoài trong năm 2010 là 1,67 tỷ USD (riêng tiền lãi và phí là hơn 616 triệu USD), tăng gần 30% so với con số 1,29 tỷ USD của năm 2009. Trong khi đó, theo cảnh báo của Bộ Tài chính, dự trữ ngoại hối của Việt Nam trong năm 2010 chỉ còn tương đương 187% tổng dư nợ ngắn hạn, giảm mạnh so với con số 290% và 2.808% của các năm 2009 và 2008. Bảng 2.1: Tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam từ 2003-2010: Từ bảng số liệu trên có thể thấy rằng các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngoài đang có xu hướng giảm dần qua các năm, năm sau giảm hơn năm trước (ngoại trừ chỉ tiêu nợ dịch vụ). Đặc biệt trong giai đoạn 2008- nay, khi thế giới đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế và xảy ra nhiều biến động trên thế giới thì nợ nước ngoài của Việt Nam không những không tăng mà còn có xu hướng giảm. Về chỉ tiêu nợ dịch vụ có xu hướng tăng theo các năm trong giai đoạn gần đây, điều này thể hiện xu thế tất yếu của tình hình kinh tế trong nước cũng như trên thế giới. Đặc biệt trong năm 2006, năm đánh dấu một sự kiện quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO. Kèm theo đó, các yếu tố thuận lợi từ việc gia nhập WTO đã dần thể hiện rõ nét, đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ. Trong hướng phát triển của nền kinh tế, yếu tố dịch vụ phải ngày càng gia tăng trong tỷ trọng thành phần của nền kinh tế. Nên việc yếu tố nợ dịch vụ ngày càng gia tăng trong nền kinh tế là đều tất nhiên, chúng ta phải “đi trước đón đầu”, phải gia tăng nợ dịch vụ để nền kinh tế tiến kịp với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó cần nâng cao hiệu quả sử dụng tránh “ rước cọp về làng”. 2.1.2.2 Lãi suất vay nợ của Việt Nam hiện nay. Theo báo cáo của Bộ Tài chính, lãi suất vay nợ của Việt Nam đang có xu hướng tăng lên. Điều này có thể là hệ quả của việc Việt Nam đã gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình cũng như việc uy tín nợ quốc gia bị ảnh hưởng do một số bất ổn của kinh tế vĩ mô và sự kiện Vinashin. Hiện nay Việt Nam được vay nợ với lãi suất thấp 1 - 2,99% /năm (chiếm 65,5% tổng dư nợ). Khoản vay có lãi suất cao từ 6 - 10% một năm trong năm 2010 cũng đã lên tới 1,89 tỷ USD, gấp hơn 2 lần năm 2009. Theo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, lãi suất trung bình nợ nước ngoài của Chính phủ đã tăng từ 1,54%/năm vào năm 2006 lên 1,9%/năm trong năm 2009 và năm 2010 đạt tới 2,1%/năm. Theo quan điểm của IMF thì tiêu chí đánh giá an toàn nợ nước ngoài đối với các quốc gia có thu nhập thấp dựa vào hiện giá thuần của nợ và dịch vụ nợ, một chính sách nợ yếu đồng nghĩa an toàn về nợ và một chính sách nợ mạnh đồng nghĩa với kém an toàn về nợ. 2.1.2.3 Cơ cấu nợ vay của Việt Nam. Nợ nước ngoài của Việt Nam khá đa dạng về cơ cấu tiền vay. Trên lý thuyết, điều này được cho là có thể hạn chế rủi ro về tỷ giá, giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ. Tuy nhiên, trên thực tế cơ cấu này cũng tiềm ẩn những rủi ro khi có biến động trên thị trường tài chính thế giới. Tỷ trọng cao của các khoản vay bằng USD (22,95%) và JPY (38,25%)  gây nguy cơ gia tăng khoản chi gốc và lãi khi tỷ giá USD/VND luôn có xu hướng tăng; và JPY đang lên giá so với USD. Bảng 2.2 : Các chỉ tiêu về giám sát nợ nước ngoài của Việt Nam. (Nguồn: IMF & Bản tin nợ nước ngoài số 5 ) Đề tài: Nếu quan sát diễn biến nợ nước ngoài trong một thời gian dài sẽ dễ dàng nhận thấy xu hướng gia tăng nợ đã diễn ra trong những năm gần đây, từ mức 14,208 tỷ USD năm 2005 lên 27,928 tỷ USD năm 2010. Nếu tiếp tục xu hướng này và không có các biện pháp kiểm soát và quản lý nợ có thể khiến nợ nướcngoài trở nên không an toàn. Nếu đặt nợ nước ngoài trong quan hệ đầu tư và tiết kiệm, ta thấy nợ nước ngoài là nguồn bổ sung cho khoảng chênh lệch tiết kiệm trong nước thấp và mức đầu tư tăng cao. Như vậy, để nợ nước ngoài không mất an toàn thì cần phải nâng cao hiệu quả đầu tư trong nước, khuyến khích tiết kiệm toàn dân. Nếu xem xét nợ nước ngoài trong quan hệ cán cán cân thương mại dưới góc độ xuất nhập khẩu thì đây là một khoản vay mà các nhà đầu tư nước ngoài cho Chính phủ và người tiêu dùng trong nước vay để thanh toán cho việc tiêu dùng quá mức, khi đó để giảm nợ nước ngoài cần cải thiện cán cân thương mại, thực hiện các giải pháp gia tăng xuất khẩu và kiểm soát nhập khẩu. Bảng 2.3: Quan hệ giữa thâm hụt thương mại và nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2005-2009 (Nguồn: Thống kê tài chính của IMF và Bộ Tài Chính) Tóm lại, nợ nước ngoài của Việt Nam hiện nay vẫn còn trong giới hạn an toàn nhưng xu hướng nợ nước ngoài đang gia tăng cho thấy, nếu không có những giải pháp hợp lý kèm theo, thì nợ nước ngoài có thể mất an toàn và gây ra các bất ổn kinh tế vĩ mô. 2.1.2.4 Các khoản nợ nước ngoài của việt nam một số năm gần đây. Phân theo chủ nợ của khoản nợ chính thức ta có các chủ nợ song phương và đa phương. Gồm có các nước chủ nợ sau : Angeri, Trung Quốc, Nga, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Pháp, Nhật Bản… và các tổ chức sau EIB, IBRD, IDA, IFAD, IMF, NDF, NIB, OPEC, ADB… Nợ song phương : Mức nợ song phương lớn nhất của Việt Nam hiện nay là Nhật Bản với mức nợ hằng năm đều > 50% tổng nợ vay của các chủ nợ lớn. Tiếp đến là Pháp và Nga. Sau đây là số liệu cụ thể: Bảng 2.4 : Một số chủ nợ song phương lớn của Việt Nam Đơn vị tính :Triệu USD 2005 2006 2007 2008 2009 Angeri 158.3 127.82 96.71 42.6 66.6 Trung Quốc 128.25 141.53 169.94 186.41 359.08 Nhật Bản 3,945.55 4,526.02 5,449.99 6,773.66 8,290.94 Hàn Quốc 123.38 136.03 133.28 113.55 186.48 Hoa Kỳ 103.68 100.46 97.24 94.02 92.06 Pháp 676.05 784.03 1,009.36 911.72 1,112.52 Nga 641.21 636.54 626.3 607.45 589.09 Tổng 5776.42 6452.43 7582.82 8729.41 10696.77 Ngoài ra Việt Nam còn vay nợ từ các tổ chức đa phương chức trên thế giới được tổng hợp từ nguồn của Tổng cục thống kê như sau Bảng 2.5 : Nợ vay từ các tổ chức đa phương của Việt Nam Đơn vị tính: Triệu USD 2006 2007 2008 2009 2010 ADB 2009.66 2421.22 2623.58 3860.99 4174.44 IBRD 700 IDA 3593.14 4608.97 4863.11 6441.29 6930.41 IFAD 77.04 90.94 95.49 115.96 128.38 IMF 188.54 170.58 135.58 92.78 50.01 NDF 14.07 16.63 17.22 31.97 30.77 NIB 184.12 204.79 231.88 241.15 223.16 OPEC 33.55 37.69 40.15 46.12 52.71 EIB 48.09 68.62 131.33 Tổng 6100.11 7550.82 8048.07 10898.98 12421.25 Qua bảng trên ta thấy nợ song phương và đa phương của Việt Nam qua các năm đều tăng lên đáng kể. Nhật Bản và IDA là hai chủ nợ lớn nhất của Việt Nam. 2.1.2.5. Hiệu quả sử dụng nợ vay. Trong những năm qua, nhiều dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA đã hoàn thành và được đưa vào sử dụng góp phần nâng cao, phát triển cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế. Về mặt xã hội các dự án góp phần xóa đói, giảm nghèo, gia tăng công ăn việc làm cho xã hội, cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân. Các dự án điển hình: Nhà máy Nhiệt điện Phú Mỹ, Nhà máy Thủy điện sông Hinh, một số dự án giao thông quan trọng như Quốc lộ 5, Quốc lộ 1A, cầu Mỹ Thuận… nhiều trường tiểu học đã được xây mới, cải tạo tại hầu hết các tỉnh, một số bệnh viện ở các thành phố, thị xã như bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Chợ Rẫy, nhiều trạm y tế đã được cải tạo hoặc xây mới, các hệ thống cấp nước sinh hoạt ở nhiều tỉnh, thành phố cũng như ở nông thôn, vùng núi.Các chương trình dân số và phát triển,chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, tiêm chủng mở rộng được thực hiện một cách có hiệu quả. Trong vấn đề sử dụng nợ, một điều đáng quan tâm là mục đích sử dụng nợ lại là yếu tố dẫn đến nợ vay không được sử dụng một cách có hiệu quả. Vấn đề đặt ra là trên thực tế khi tiến hành huy động vốn cần phải xây dựng các kế hoạch chi tiết về vay, sử dụng và trả nợ nhưng sử dụng vốn vay như thế nào lại liên quan đến tình hình thực tế. Điều đó dẫn đến nguồn vốn khi huy động thì rất nhanh, trong một thời gian ngắn có thể đáp ứng nhu cầu về vốn, nhưng tốc độ giải ngân thì chậm, ảnh hướng đến việc sử dụng vốn sao cho vừa đúng mục đích vừa thoả mãn nhu cầu cầu về vốn vừa làm cho đồng vốn sinh lời để trả nợ. Với đồng vốn giải ngân chậm mà không được đưa đồng vốn giải ngân vào sử dụng cho mục đích khác đã làm cho hiệu quả của nợ vay giảm rất nhiều. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), hiện nay tốc độ giải ngân của Việt Nam chỉ đạt khoảng 50%/năm. Thanh toán nợ của Việt Nam chỉ chiếm 28% GDP. Đây chính là một trong những vấn đề mà các nhà tài trợ mong muốn Việt Nam cần quan tâm cải thiện. Việc chậm giải ngân đồng nghĩa với tiến trình thực hiện chậm, vì thế lợi ích thu được hạn chế, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. 2.2. Tình hình quản lý nợ nước ngoài tại Việt Nam. Ở Việt Nam hiện nay có 3 cơ quan tham gia quản lý nợ nước ngoài là Bộ tài chính, Bộ kế hoạch và đầu tư, Ngân hàng nhà nước. Bộ Tài chính mà cụ thể là Vụ Tài chính đối ngoại và Quỹ Hỗ trợ phát triển. Thực hiện các chức năng như đàm phán các hiệp định vay nợ, ký kết hiệp định, theo dõi giải ngân và chuyển các đề nghị thanh toán chi trả nợ cho Kho bạc nhà nước... và chuẩn bị các báo cáo nợ trên cơ sở các thông tin được đăng ký khác và các báo cáo này về các khoản vay nợ trực tiếp, được bảo lãnh và cho vay lại... Ngân hàng nhà nước : thay mặt Chính phủ, đàm phán các khoản nợ đa phương với 3 tổ chức tài chính quốc tế (IFI) là ADB, IMF, WB và chuyển các hiệp định chính thức đã ký sang Bộ Tài chính; quản lý vay, trả nợ của các doanh nghiệp. Bộ Kế hoạch và Đầu tư : sẽ lập dự thảo nhu cầu hàng năm về vay ODA, xây dựng danh mục các dự án chương trình được phê duyệt, đàm phán và ký kết các hiệp định khung về ODA và chuyển cho Bộ Tài chính để dàn xếp các hiệp định vay nợ cụ thể. Theo dõi đánh giá việc sử dụng ODA và tiến hành báo cáo về ODA. Hiện tại nợ nước ngoài của Việt Nam chủ yếu vẫn là vay ODA và vay từ IDA theo điều kiện ưu đãi. Tới đây, Việt Nam vẫn có thể còn được tiếp tục vay ưu đãi thêm một số năm nữa. Do vậy, trong thời gian tình hình vay, trả nợ của Việt Nam còn chưa thực sự diễn ra phức tạp, nhưng không có nghĩa là Việt Nam không cần có các hệ thống quản lý nợ hữu hiệu. Bởi các khoản dự nợ song phương hiện hành có thể không hẳn đã là ưu đãi vì lãi suất trên thế giới cũng đã giảm nhiều. Ngay bây giờ, cần phải đánh giá các rủi ro về đồng tiền vay và lãi suất của các khoản vay hiện tại và các khoản vay mới trong tương lai từ nguồn ODA. Việc tìm ra các phương pháp mới về tài trợ thâm hụt là một nhu cầu cấp bách. Hiện tại cần xây dựng hệ thống quản lý nợ để có thể đáp ứng được các thách thức trong tương lai gần. 2.2.1.Những thành tựu nổi bật của công tác quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam. 2.2.1.1.Quản lý nợ nước ngoài đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế và thu hút nguồn vốn ODA.  Nền kinh tế tăng trưởng nhanh, trong đó nổi bật là các ngành xuất khẩu, đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho Việt Nam trong việc thu hút nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) từ các nước công nghiệp phát triển. Cùng với chiến lược tăng trưởng và chủ động hội nhập, Chính phủ đã có những chính sách có hiệu quả trong việc thu hút nguồn vốn ưu đãi, mà kết quả là những cam kết hỗ trợ ngày càng tăng củacác nhà tài trợ. Những hoạt động của Chính phủ trong việc thực hiện cải cách hành chính, đặc biệt là những nỗ lực trong việc xây dựng chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo, đã khẳng định năng lực làm chủ sở hữu và sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả của Việt Nam. 2.2.1.2. Khung thể chế quản lý nợ nước ngoài đã được từng bước hoàn thiện Trong vài năm gần đây, khung thể chế về quản lý nợ nước ngoài đã liên tục được đổi mới nhằm đáp ứng nhu cầu tốt hơn về quản lý nợ nước ngoài của quốc gia và phù hợp hơn với thực tiễn quốc tế. Năm 2002, Quốc hội ban hành Luật Ngân sách Nhà nước, đây là lần đầu tiên quản lý nợ được đề cập trong một văn bản có tính pháp quy dưới hình thức luật. Nghị định 134/2005 ban hành Quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài đã tạo ra một khuôn khổ pháp lý toàn diện và rõ ràng hơn về quản lý nợ nước ngoài. Tiếp đó, một loạt các Quy chế và Quyết định mới được ban hành trong năm 2006 chứng tỏ quyết tâm thể chế hoá các lĩnh vực quản lý nợ nước ngoài để tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước toàn diện trong lĩnh vực này. 2.2.1.3.Hệ thống tổ chức quản lý nợ nước ngoài đã hoàn thiện và từng bước được cải thiện. Việc xác định Bộ Tài chính là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm về tổng thể nợ nước ngoài là một sựchuyển dịch quan trọng để đi tới hoàn thiện hệ thống quản lý nợ quốc gia. Đây cũng là một hướng chuyển đổi chức năng quản lý nợ phù hợp với thực tiễn quốc tế. Việc gắn khâu hoạch định chiến lược, kế hoạch vay vốn nước ngoài với trách nhiệm trả nợ vào một đơn vị là Bộ Tài chính, giúp tăng cường sự điều phối sử dụng vốn vay nước ngoài và các hoạt động giám sát nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng nguồn vốn này. 2.2.1.4. Nâng lực cán bộ đang từng bước được nâng cao. Lực lượng cán bộ quản lý nợ nước ngoài, đặc biệt là các cán bộ Vụ Tài chính Đối ngoại (Bộ Tài chính) cũng đã được đào tạo nâng cao năng lực thông qua các khoá bồi dưỡng, các hoạt động của các dự án xây dựng năng lực quản lý nợ nước ngoài. Nâng lực cán bộ được nâng cao thể hiện rất rõ trong việc ban hành các văn bản pháp quy có chất lượng hơn, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế và thực tiễn hoạtđộng của nền kinh tế, tạo thuận lợi cho những đối tượng phải tuân thủ và những người thực thi, giám sát. 2.2.2.Một số tồn tại trong vấn đề nợ nước ngoài hiện nay 2.2.2.1.Tồn tại trong vấn đề vĩ mô Về mặt kinh tế vĩ mô, nền tài chính chưa hoàn toàn thoát khỏi tình trạng ức chế, thể hiện ở việc tín dụng vẫn chủ yếu “rót” vào các doanh nghiệp nhà nước theo các điều kiện ưu đãi, trong khi các doanh nghiệp tư nhân chỉ được tiếp cận một cách hạn chế; lãi suất thực bị giữ ở mức quá thấp. Nền tài khoá thâm hụt thường xuyên và phần nào phụ thuộc vào phần thu từ dầu mỏ. Cơ chế cấp bảo lãnh và cho vay lại nguồn vốn ODA của Chính phủ nói chung vẫn có xu hướng tập trung tín dụng ưu đãi vào các doanh nghiệp nhà nước, trong khi chưa có những dấu hiệu đáng kể cho thấy rằng hiệu quả của các dự án tài trợ đã được thẩm định một cách nghiêm ngặt, với chất lượng cao và do các cơ quan thẩm định. Việc phân bổ các nguồn tín dụng như vậy có khả năng gây tác động cản trở quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả hoạt động. Thêm vào đó, việc ưu đãi cho các doanh nghiệp nhà nước như vậy vi phạm các quy định của WTO mà nay nước ta đã là thành viên chính thức. Một tác động tiêu cực nữa của chính sách này, đó là hạn chế khả năng tiếp cận với nguồn vốn vay nước ngoài của các doanh nghiệp tư nhân nói chung, qua đó làm hạn chế tiềm năng phát triển kinh tế đất nước. 2.2.2.2. Tồn tại trong các chính sách về việc quản lý nợ nước ngoài Mặc dù đã có nhiều biện pháp cải cách và hoàn thiện, song khung thể chế quản lý nợ nước ngoài vẫn đang trong quá trình chuyển đổi và xây dựng.Hiện nay có quá nhiều quy định, quy chế, thông tư khác nhau quy định các nội dung về quản lý nợ nước ngoài: Luật Ngân sách (2002) có những quy định về quản lý nợ nước ngoài; Quy chế Quản lý vay trả nợ nước ngoài (2005) đưa ra những quy định chi tiết về việc quản lý vay, trả nợ nước ngoài; Quy chế Xây dựng và Quản lý hệ thống chỉ tiêu đánh giá, giám sát tình trạng nợ nước ngoài của Quốc gia (2006) đưa ra hệ thống chỉ tiêu đánh giá, giám sát tình trạng nợ nước ngoài và quy định trách nhiệm của các bộ, ngành trong việc đánh giá nợ nước ngoài ; Quy chế Cấp và Quản lý bảo lãnh Chính phủ đối với các khoản vay nước ngoài (2006) đưa ra các quy định về cấp bảo lãnh đối với các khoản vay nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước, Thông tư số 94/2004/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn việc vay và trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp… Đây là một bất cập lớn, nó làm khung pháp lý quản lý nợ nước ngoài trở nên rườm rà, khó theo dõi và thực hiện. Tình trạng này làm tăng chi phí của các tổ chức, doanh nghiệp - đối tượng phải tuân thủ, cũng như chi phí của các cơ quan chịu trách nhiệm quản lý, giám sát và tuân thủ. 2.2.2.3. Tồn tại trong việc đánh giá giám sát hiệu quả nợ nước ngoài Phân công trách nhiệm quản lý nợ còn nhiều điểm bất hợp lý Việt Nam hiện nay do chưa có một cơ quan chuyên biệt về quản lý nợ. Nhiệm vụ quản lý nợ được giao cho nhiều cơ quan khác nhau tùy theo chuyên môn chức năng của họ như Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước, Quỹ Hỗ trợ Phát triển - nay là Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Tuy nhiên sự phân công trách nhiệm còn phân tán và còn nhiều điểm bất hợp lý. Cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành chưa được quy định rõ ràng. Do đó dẫn đến còn khá nhiều sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của hai bộ kinh tế chủ chốt này, đặc biệt là trong các lĩnh vực lập kế hoạch tập trung, chính sách, thu thập thông tin, giám sát và đánh giá hiệu quả vốn vay nước ngoài. Việc này gây lãng phí nguồn lực không cần thiết và phức tạp trong quản lý nợ. 2.2.2.4. Tồn tại trong việc thống kê đúng và đủ về việc thực hiện nguồn vốn được cấp từ nợ nước ngoài. Cơ sở dữ liệu về nợ nước ngoài hiện còn đang trong quá trình hình thành. Mặc dù Chính phủ đã có Quy chế về thu thập, tổng hợp, báo cáo và công bố thông tin về nợ nước ngoài (ban hành năm 2006), song việc xây dựng một cơ sở dữ liệu về nợ nước ngoài và quy trình thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp và báo cáo còn đòi hỏi thời gian. Để đảm bảo hoàn thành được công tác này, đòi hỏi phải đầu tư nhiều vào việc nâng cao năng lực cán bộ, nguồn lực tổ chức, xây dựng phương tiện và các quy trình thực hiện. Cảnh báo và quản lý rủi ro còn hạn chế: Cũng theo Quy chế Quản lý vay và Trả nợ nước ngoài (2005), NHNN sẽ phải thiết lập được hệ thống cảnh báo sớm về rủi ro từ nợ của khu vực doanh nghiệp. Cho đến nay, quy định này mới chỉ là mong muốn của Chính phủ. Sự cần thiết phải đánh giá rủi ro tự việc vay nợ thương mại sẽ tăng lên nhanh chóng khi Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu về sự hiện diện của các tổ chức tín dụng quốc tế trên thị trường trong nước. 2.3. Nguyên nhân 2.3.1. Yếu tố lịch sử . Quản lý nợ nước ngoài trong nền kinh tế thị trường chỉ mới được triển khai ở nước ta từ những năm 1995, khi mà các dự án vay nợ ODA của các ngân hàng đa phương lớn bắt đầu giải ngân đáng kể. Kinh nghiệm và thực tiễn quản lý nợ nước ngoài trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam chưa có nhiều và hệ thống quản lý nợ nước ngoài còn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện. Thêm vào đó, về nhận thức vẫn còn tồn tại cách hiểu chưa đúng thực chất về nợ ODA. Quan niệm ODA như các khoản viện trợ không hoàn lại nên không tính toán kỹ khả năng hoàn vốn, dẫn đến lãng phí và tham nhũng. 2.3.2. Thiếu hụt kinh nghiệm quản lý nợ . Cho đến nay, vay nợ thương mại nước ngoài của Việt Nam cũng còn rất ít ỏi, do vậy kinh nghiệm quản lý và kiểm soát nợ thương mại còn khá hạn chế. Nhiều phương pháp phân tích, các chỉ số, các mô hình nợ, quy trình thu thập số liệu và báo cáo, hệ thống tổ chức… đều là mới. Quá trình học hỏi, tiếp thu kiến thức và kinh nghiệm cũng như xây dựng thể chế và cơ chế quản lý đòi hỏi thời gian và kinh nghiệm. Một số biểu hiện kém thích ứng với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong cách thức quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam có thể nói là tất yếu. 2.3.3. Nhiều văn bản cùng điều chỉnh một đối tượng quản lý. Phân tích về tồn tại trong khuôn khổ tổ chức quản lý nợ cho thấy việc phân công trách nhiệm quản lý còn nhiều trùng lặp và mâu thuẫn trong các văn bản pháp quy cũng như trong thực tiễn thực hành các quy định. Nguyên nhân của các sự việc trên là do có nhiều văn bản cùng điều chỉnh một đối tượng quản lý. Một nguyên nhân sâu xa hơn nằm trong phân chia quyền lực của các cơ quan Chính phủ, trong đó có những “tồn tại lịch sử” rất khó thay đổi nếu không có những quyết định chính trị mạnh mẽ ở cấp trên. 2.3.4. Thiếu hụt đối ngũ cán bộ chuyên môn. Sự thiếu hụt về đội ngũ cán bộ chuyên môn là một trong những nguyên nhân đáng kể dẫn đến những hạn chế của hệ thống quản lý nợ quốc gia. Trước đây ngành giáo dục Việt Nam chưa đào tạo chuyên ngành quản lý nợ nước ngoài và các chuyên ngành tài chính quốc tế dù đã được tổ chức đào tạo nhưng trên thực tế chưa đủ cập nhật về kiến thức và kỹ năng quản lý nợ nước ngoài. Đội ngũ cán bộ của các cơ quan quản lý nợ nước ngoài chủ yếu vừa làm vừa học. Các khoá đào tạo và tập huấn ngắn hạn chủ yếudo các dự án ODA cung cấp, không thể đủ để giúp hình thành một lực lượng chuyên gia đảm bảo thu thập thông tin, phân tích và dự báo cũng như tổ chức các hoạt động nghiệp vụ một cách thích đáng. 2.3.5. Hệ thống và quy trình kiểm định các dự án đầu tư còn yếu kém. Quản lý nợ nước ngoài bền vững có liên quan rất chặt chẽ với việc thẩm định và đảm bảo hiệu quả đầu tư. Từ phương diện này, những điểm yếu của hệ thống và quy trình thẩm định, quản lý các dự án đầu tư, vốn đã là thực tiễn nhiều năm của nước ta, đã có tác động đến công tác quản lý nợ nước ngoài. Nguồn vốn vay nước ngoài trên thực tế cũng được phân bổ cho các chương trình, dự án ưu tiên nhưnguồn vốn ngân sách. Bởi vậy, để nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài trong dài hạn thì cái gốc vẫn là phải nâng cao hiệu quả đầu tư công cộng nói chung. 2.3.6. Ứng dụng công nghệ thông tin còn yếu kém. Phần mềm quản lý nợ nước ngoài đang sử dụng tại Bộ TC và NHNN chưa được hỗ trợ đầy đủ các ứng dụng như chuẩn tiếng Việt Unicode, chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử… Việc ứng dụng công nghệ thông tin ở cấp địa phương còn yếu hơn nhiều, yếu cả về trang bị hệ thống máy tính, phần mềm quản lý và năng lực chuyên môn của cán bộ. PHẦN 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VAY VÀ QUẢN LÝ CÁC KHOẢN VAY NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM 3.1. Các giải pháp đảm bảo khả năng tiếp nhận nợ vay nước ngoài. 3.1.1.Đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững Để có thể đảm bảo an toàn tín dụng, nền kinh tế phải có tăng trưởng kinh tế cao để đảm bảo lãi vay nợ không vượt quá khả năng sinh lời của nó. Ở nước ta trong những năm gần đây, mặc dù mức GDP vẫn tăng, nhưng hệ số ICOR lại tăng liên tục cho thấy hiệu quả sử dụng vốn thấp. Để có thể đạt được hệ số ICOR = 4 thì trong tương lai ta phải nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế trong khi vẩn giảm được tỷ lệ đầu tư/GDP. Điều này có nghĩa là vẫn gia tăng mức đầu tư trong đó mức gia tăng của GDP phải nhanh hơn. Hay nói cách khác, ta phải mở rộng quy mô của nền kinh tế một cách có hiệu quả. Nếu trong giai đoạn 2000 - 2010, kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng là 7,5 - 8%/năm thì đòi hỏi đầu tư/GDP là 30 - 32%. Nhu cầu vốn đầu tư giai đoạn này là 135 - 140 tỷ USD giai đoạn 2000 - 2010 và 250 - 280 tỷ USD trong giai đoạn 2010 - 2020 thì quy mô nền kinh tế trong hai giai đoạn trên phải đạt được là 450 - 534 tỷ USD và 782 - 934 tỷ USD. Để đạt được quy mô như vậy, Việt Nam phải nổ lực rất nhiều. Xuất khẩu là nguồn cung duy nhất cho trả nợ vay nước ngoài, vì vậy muốn nâng cao năng lực trả nợ và hạn chế những rủi ro tác động từ bên ngoài đòi hỏi xuất khẩu phải tăng trưởng cao, đa dạng hoá về cơ cấu và chủng loại. 3.1.2.Lựa chọn danh mục vay nợ hợp lý Nhằm đảm bảo cơ cấu nợ bền vững, cần đánh giá cẩn thận từng món vay mới, đặc biệt quan tâm đến việc duy trì cơ cấu nợ theo thời gian hợp lý. Nếu không có cơ chế kiểm soát kịp thời và thích hợp thì luồng vốn ngắn hạn này sẽ trở thành một trong những rủi ro trong quản lý nợ tại Việt Nam trong thời gian sắp tới. Để hạn chế tác động tiêu cực của luồng vốn ngắn hạn đối với nền kinh tế và với an ninh tài chính quốc gia, trước hết tự do giao dịch vốn cần: ***Tăng cường kiểm soát các luồng vốn ngắn hạn thông qua yêu cầu báo cáo đầy đủ và kịp thời các giao dịch vốn ngắn hạn. ***Xây dựng và củng cố năng lực phân tích, quản trị vấn đề tài chính của các doanh nghiệp, xây dựng cơ chế pháp lý chặt chẽ. 3.1.3. Gia tăng dự trữ ngoại hối Dự trữ ngoại tệ là phương tiện đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế nhằm thoả mãn nhu cầu nhập khẩu, mở rộng đầu tư, hợp tác kinh tế với nước ngoài. Để gia tăng dự trữ ngoại hối, cân có một số giải pháp cần thiết sau: - Cải thiện cán cân tài khoản vãng lai : Muốn cải thiện cán cân tài khoản vãng lai chúng ta phải đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, thậm chí là xuất khẩu dịch v, để đẩy mạnh xuất khẩu phải có sự nỗ lực từ phía Chính phủ lẫn doanh nghiệp. - Gia tăng cán cân tài khoản vốn : Muốn gia tăng tài khoản vốn, chúng ta cần thu hút và quản lý hiệu quả các dòng vốn quốc tế gồm nguồn vốn FDI và FII. Dòng vốn này rất là quan trọng đối với nền kinh tế, nó không chỉ góp phần cung cấp cho phát triển kinh tế - xã hội mà còn đem lại nguồn ngoại tệ làm gia tăng quỹ dự trữ quốc gia, đặc biệt là nguốn vốn FII. - Khuyến khích kiều hối chảy về nước : Cần có chính sách khuyến khích thu hút hơn nữa lượng kiều hối từ nước ngoài. Hiện nay, nước ta có hơn 3 triệu kiều bào đang sinh sống ở nước ngoài và tổng số người về thăm hoặc gửi tiền cho người thân trong nước hàng năm tăng lên nhanh chóng. Gần đây, Nhà nước cũng đã có chính sách ưu đãi nhằm kiều bào về đóng góp xây dựng quê hương. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần có chính sách thông thoáng hơn nữa như đối xử bình đẳng với Việt kiều như người dân trong nước, tạo niềm tin cho kiều bào về sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội trong nước để họ yên tâm chuyển tiền về nước. Có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với các thành phần tri thức Việt kiều về đóng cho quê hương. Thực hiện nghiêm cấm trao đổi mua bán hàng hoá bằng ngoại tệ trên thị trường nội địa. Tổ chức hữu hiệu mạng lưới thu đổi ngoại tệ cho các khách hàng vào Việt Nam, trước hết là các sân bay, bến cảng, cửa khẩu, nhà ga trung tâm, sau đến là các thành phố, thị xã, các trung tâm kinh doanh, dịch vụ tập trung ở các địa phương. 3.2. Các giải pháp làm giảm chi phí vay nợ 3.2.1.Chính sách tỷ giá hối đoái Trước hết VND cần phải được đưa về đúng giá trị của nó vì theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước, VND hiện định giá quá cao so với sức mua thực tế của nó. Theo quy luật cung cầu, đến một lúc nào đó VND sẽ trở về giá trị thực của nó thì tỷ giá sẽ tăng lên rất nhanh, lúc đó chúng ta sẽ không kịp trở tay và mất khả năng thanh toán nợ, số nợ đó đã tăng lên quá nhanh. Như vậy đưa VND về giá trị thực của nó được coi là sự chuẩn bị trước. Sau đó đưa VND về đúng giá trị thực của nó rồi, những biện pháp làm tăng giá trị của nó thông qua hiệu quả của nền kinh tế sẽ làm chi phí vay nợ giảm đi. Thúc đẩy phát triển thị trường mở và mở rộng hoạt động của các nghiệp vụ thị trường tiền tệ như hoán đổi (Swap), kỳ hạn (Forward), quyền chọn (Option)… để điều tiết cung cầu ngoại tệ hợp lý hơn và hạn chế rủi ro hối đoái giúp cho ngân hàng tự bảo vệ mình. 3.2.2. Ổn định lạm phát Ổn định lạm phát là một vấn đề cực kỳ quan trọng trong tình hình kinh tế thế giới và kinh tế Việt Nam có nhiều biến động như hiện nay, bởi lẽ nó không chỉ làm gia tăng nợ nước ngoài mà nó còn là một chỉ tiêu vĩ mô đánh giá sức khỏe của nền kinh tế quốc gia. Muốn bình ổn lạm phát có hiệu quả thì điều quan quan trọng là phải tìm ra nguyên nhân của nó và từ đó có những giải pháp thích hợp. Lạm phát ở Việt Nam trong mấy năm gần đây là lạm phát do chi phí đẩy, do đó phải giảm bớt việc phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu từ nước ngoài vào như việc nhập khẩu xăng dầu. Việt Nam cũng cần phải có giải pháp ổn định giá cả sinh hoạt hiện nay, tăng giá đồng tiền nội địa, bằng việc kiểm soát ngăn chặn tình trạng đôla hoá ở mức cao độ bởi vì một nền kinh tế bị đôla hoá cao thì việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô trong đó có chính sách tiền tệ bị giảm hiệu quả do tình trạng đôla hoá gây khó khăn, trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, đồng nội tệ bị thay đổi nhạy cảm hơn từ các thay đổi bên ngoài, việc hoạch định và thực thi chính sách mất hiệu quả… Chính phủ phải thực hiện kiểm soát cung tiền để kiểm soát lạm phát. Khi gia nhập Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO), NHNN cần phải tích cực tham gia trên thị trường ngoại hối để mua đồng đôla từ hệ thống NHTM, bên cạnh đó thì Chính phủ cũng phải triển khai phát hành trái phiếu trên thị trường mở để giảm áp lực lên cung tiền tệ. Tăng cường phối hợp hiệu quả giữa chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ. Ở Việt Nam, “Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân” (Điều 2, Luật Ngân sách Nhà nước). Như vậy, Chính phủ cũng như NHNN cần phải công khai hoá các thông tin có liên quan đến lạm phát, đừng vì lạm phát lên cao vượt quá mức kế hoạch đề ra mà che dấu, phải công bố và hướng đến cơ chế lạm phát mục tiêu. Trong tình hình lạm phát xảy ra có phần do chi phí đẩy, để chống lại lực đẩy của chi phí, lực tác dụng ngược trở lại là giảm chi phí. Các doanh nghiệp cần rà soát lại các khâu, các bộ phận triệt để cắt giảm chi phí, song cắt giảm chi phí cũng có giới hạn của nó, vấn đề là doanh nghiệp phải có biện pháp phòng ngừa rủi ro, tăng giảm thất thường của các mặt hàng không chứ không riêng gì giá xăng dầu, đôla, vàng, sắt, thép, phân bón… Đến một lúc nào chi phí đầu vào sẽ tăng cao thì làm sao? Và còn rất nhiều thay đổi khác nữa khi chúng ta bước ra “đại dương”. 3.2.3.2. Gia tăng hệ số tín nhiệm quốc gia. Khi quyết định đầu tư hay cho vay, các nhà đầu thường đánh giá tương quan giữa rủi ro và thu nhập. Thông tin đáng tin cậy mà các nhà đầu tư thường tham khảo là hệ số tín nhiệm do các công ty quốc tế hàng đầu đánh giá. Nếu hệ số tín nhiệm của một quốc gia được đánh giá cao, quốc gia đó dễ dàng tiếp cận các nguồn tài chính trên thị trường quốc tế, giảm được chi phí huy động vốn, đặc biệt cho những đợt phát hành mới. Một quốc gia có tăng trưởng cao và uy tín khi đi vay sẽ được vay với chi phí thấp và đàm phán được giá cao hơn khi giao dịch trên thị trường nợ thứ cấp, do người đi vay cân đối giữa rủi ro và thu nhập có được từ khoản cho vay và sẵn sang chấp nhận chứng khoán có mực sinh lợi thấp hơn nhưng độ an toàn cao. 3.3. Các biện pháp sử dụng vốn vay hiệu quả. Nợ nước ngoài có hai mặt đối lập, một mặt nó là nguồn lực cho phát triển kinh tế -xã hội, mặt khác nếu quản lý không tốt, hiệu quả sử dụng vốn thấp, không hợp lý, nó sẽ dẫn tới khủng hoảng nợ và gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho đất nước. Do đó, việc hoàn thiện quản lý nợ vay và sử dụng nợ có hiệu quả sẽ mang lại nhiều lợi ích cho phát triển kinh tế - xã hội và tránh được khủng hoảng nợ. 3.3.1.Kiểm soát nợ nước ngoài Trong thực tế đã có nhiều quốc gia phải trả giá cho vấn đề vay nợ nước ngoài nhưng đã đánh mất khả năng kiểm soát nó như Hy Lạp, Ai Cập,…. Thông thường khi đã không kiểm soát được nợ sẽ kéo theo khủng hoảng nợ, vỡ nợ dẫn đến khủng hoảng của nền kinh tế và có khi nghiêm trọng hơn là khủng hoảng về chính trị. Nhằm tránh vết xe đổ của các quốc gia đi trước, chúng ta cần phải: - Có thời gian kiểm soát, rút kinh nghiệm trong vấn đề vay nợ, chuyển khoản tiền vay nợ này cho các doanh nghiệp vay lại, từ đó có thể điều chính các cách kiểm soát cũng như việc cấp vốn cho phù hợp và mang lại lợi ích cao nhất cho quốc gia. - Cần so sánh mức tăng trưởng của GDP với mức tăng trưởng của nợ nước ngoài. Không nên để các nguồn thu ngoại tệ vượt quá, tránh tình trạng vay mượn tràn lan vì nếu xảy ra sự chênh lệch quá lớn hoặc có sự cắt giảm nguồn ngoại tệ này đột ngột, nó sẽ làm thay đổi tỷ giá hối đoái. - Cần quan tâm đến khả năng chịu đựng nợ nước ngoài của Việt Nam, không nên chủ quan khi dựa vào ngưỡng an toàn cho nợ nước ngoài theo thông lệ quốc tế là 40% GDP. Các cơ quan chức năng có liên quan cần phải phát triển nhân viên có năng lực nhằm gia tăng quản lý nợ và cá rủi ro quốc gia. Có sự phân công rõ ràng về trách nhiệm quản lý và theo dõi các nguồn thu từ vay nợ, phân bổ nguồn vốn vay, kế hoạch và thực trả các khoản nợ, tránh tình trạng chồng chéo hoặc không rõ ràng. 3.3.2. Các biện pháp nhằm sử dụng nợ nước ngoài có hiệu quả. Xem xét một cách độc lập, khách quan và đánh giá cẩn trọng các phương án kinh doanh, năng lực và tiềm năng của các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn, cần định giá được lợi nhuận ròng trong phương án này phải cao hơn lãi suất đi vay. Công bố công khai định kỳ (ngắn hạn) và thường xuyên các số liệu về tình hình sản xuất kinh doanh, tiến độ của các dự án tại các đơn vị được vay lại nguồn tiền phát hành này. Nhằm phân chia rủi ro cho việc phân bổ các khoản vay vào các dự án đầu tư nên phần vốn vay này vào các dự án đầu tư trong các lĩnh vực, ngành nghể khác nhau nhưng chủ yếu tập trung vào các ngành kinh tế đang là mũi nhọn. Có các biện pháp chế tài mạnh không chỉ dành riêng cho doanh nghiệp được vay lại nguồn vốn từ trái phiếu mà cả với các vị trí lãnh đạo liên quan từ khâu đề nghị, xét duyệt dự án, điều hành và thực hiện dự án, có như vậy mới ràng buộc được tránh nhiệm tài chính. Với Quy chế kiểm soát trái phiếu quốc tế năm 2005, Bộ Tài chính nên nhận báo cáo tài chính của Vinashin theo định kỳ của quý, không phải đợi đến 15 ngày sau khi có biên bản kiểm toán đã kết thúc năm tài chính. Bộ Tài chính cần quan tâm và kiểm soát có bắt buộc đối với Quỹ hoàn trái 11 điển hình là Quỹ hoàn trái của Vinashin. Với Quỹ hoàn trái này, Vinashin phải có trách nhiệm trích quỹ định kỳ hàng thàng dành cho việc thanh toán lãi. Riêng việc trích Quỹ để hoàn trả vốn gốc cần được tiến hành trích định kỳ hàng năm. Đa dạng hoá và khai thác triệt để các nguồn vốn vay nước ngoài. Coi trọng vốn vay dài hạn dưới hình thức ưu đãi của các tổ chức tài chính - tiền tệ, đặc biệt là nguồn vốn ODA. Hạn chế vay thương mại với lãi suất cao, thời gian ngắn, cần cân nhắc vay nợ như thế nào cho lợi. 3.4. Các biện pháp quản lý nợ vay nước ngoài. Thành lập hội đồng tư vấn nợ. Tổ chức này có trách nhiệm giúp Thủ tướng Chính phủ về chính sách vay, trả nợ nước ngoài, về kế hoạch vay và trả nợ hàng năm. Thiết lập cơ quan chuyên trách trực thuộc Chính phủ về quản lý nợ nước ngoài. Hiện nay các cơ quan quản lý nợ nước ngoài như: Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước đang từng bước hoàn chỉnh chương trình quản lý nợ nước ngoài hiện đại, tuân thủ pháp luật của Nhà nước. Nhiệm vụ của tổ chức này là theo dõi, tổng hợp báo cáo tình hình huy động và sử dụng vốn vay nước ngoài, tình hình nợ quốc gia tồn đọng để báo cáo với Thủ tướng Chính phủ. Đổi mới, hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý nợ nước ngoài, gạt bỏ sự chồng chéo hoặc mâu thuẫn trong phân công, phân nhiệm. Việc gắn trách nhiệm sử dụng vốn vay với việc trả nợ là hết sức cần thiết, tạo cho doanh nghiệp ý thức sử dụng nguốn vốn vay có hiệu quả. Cần tổ chức lại hệ thống thông tin về nợ nước ngoài. Hệ thống thông tin về nợ nước ngoài ở Việt Nam cho đến nay vẫn còn nghèo nàn, chưa đầy đủ và liên tục, chất lượng thông tin về nợ thiếu tin cậy. Bên cạnh đó, sự không công khai thông tin giữa các bộ, ngành dẫn đến hiện tượng bưng bít thông tin gây hậu quả xấu đối với công tác quản lý nợ. Các tác giả thực hiện dự án về quản lý nợ vay nước ngoài (dự án VIE 01/010) cũng đã từng khuyến cáo Việt Nam cần đảm bảo rằng các số liệu nợ được kiểm chứng thống nhất và cập nhật một cách nhất quán, thông tin từ các khoản vay cần được hoàn chỉnh để có thể có được các đầu ra và báo cáo cần thiết. Do đó, cần lập mạng thông tin trao đổi công khai giữa các cơ quan được giao chuyên trách về quản lý nợ. Tìm kiếm khả năng giảm được nợ hơn nữa thông qua việc chủ động cơ cấu lại nợ, chuyển đổi nợ. Thu hút các luồng tài chính không mang tính chất nợ như đầu tư trực tiếp nước ngoài… Cần có cơ chế giám sát mang tính thị trường đối với DNNN vay vốn từ nguồn vốn phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ để đảm bảo khả năng trả nợ. 3.5. Các biện pháp hỗ trợ 3.5.1. Ổn định môi trường thể chế Ổn định môi trường thể chế là điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng kinh tế. Theo hướng này trong những năm qua Việt Nam đã tiến bộ rất nhiều, một loạt các luật và văn bản pháp quy đã ban hành hoặc sửa đổi nhằm cải thiện môi trường kinh tế và tạo những điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, việc thay đổi liên tục luật lệ và chính sách kinh tế đã gây trở ngại cho đầu tư dài hạn. Những việc cấp thiết nhất phải làm ngay hiện thời là cải cách kinh tế một cách sâu rộng, bao gồm đổi mới và phát triển các thể chế. Chỉ khi xu hướng cải cách dài hạn được thực thi thì những đổi mới và việc phát triển các thể chế mới có tác dụng. Ổn định và tăng trưỏng là hai mặt của tiến trình phát triển. Ổn định là cần thiết để tăng trưởng nhưng ổn định chỉ có ý nghĩa khi nó đảm bảo cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Ngược lại, tăng trưởng cao được duy trì trong thời gian dài sẽ đảm bảo ổn định. 3.5.2. Cải thiện môi trường đầu tư - Cải cách mạnh mẽ hành chính công, đặc biệt là các quy định về công chứng, thủ tục hành chính, thủ tục đầu tư; cải thiện tính minh bạch của luật lệ và chính sách đảm bảo tính nhất quán của văn bản luật ở mọi cấp, tăng cường xây dựng chính sách kinh tế dựa theo thị trường. - Hợp lý hoá thuế thu nhập cá nhân, đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tạo điều kiện cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài dễ dàng tìm kiếm hơn trong việc tìm kiếm nhân lực ở các vị trí chủ chốt. - Đầu tư hơn nữa vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật để đầu tư ngoài quốc doanh diễn ra thuận lợi hơn. - Các doanh nghiệp phải được đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt trong các lĩnh vực đất đai, vay vốn ngân hàng, minh bạch về quyền và lợi. - Đổi mới cơ chế, giảm bớt thủ tục hành chính phiền hà trong việc cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, thủ tục xuất nhập khẩu, thủ tục về thuế. - Có những kênh thông tin rõ ràng, chi tiết về các dự án đầu tư, chính sách đầu tư trong nước, mở rộng lĩnh vực đầu tư, đặc biệt tham gia vào lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNợ nước ngoài của Việt Nam thực trạng và các biện pháp đề xuất.doc