Nội dung cơ bản của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. Phân tích tình hình đầu tư trong hệ thống DNNN.
Nhóm 11
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT:
Chương I: Những vấn đề lí luận chung về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
I.Đầu tư phát triển:
1.1. Các khái niệm cơ bản:
- Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
- Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chỉ dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng thiết bị .) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng .), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển.
- Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn để được hưởng lãi suất định trước.
- Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền mua hàng hóa và bán ra với giá cao hơn để hưởng chênh lệch giá khi mua và khi bán.
1.2.Phân loại đầu tư
-Theo nguồn vốn đầu tư
+ Đầu tư trong nước.
+ Đầu tư nước ngoài.
-Theo hình thức đầu tư.
+ Tự đầu tư.
+ Liên doanh
+ BOT, BT, BTO.
-Theo phương thức thực hiện.
+ Mua
+ Xây dựng
+ Thuê
-Theo luật đầu tư.
+ Đầu tư trong nước.
+ Đầu tư nước ngoài
+ FDI
-Theo thẩm quyền đầu tư.
+ Thủ tướng chính phủ (dự án quan trọng quốc gia)
+ Chủ tịch UBND tỉnh, tp trực thuộc trung ương, bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan trực thuộc chính phủ.
+ Thủ trưởng các cấp được ủy quyền hoặc được phân cấp theo quy định.
-Theo thời gian thực hiện & phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư
I.3. Mục đích của đầu tư phát triển:
- Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích quốc gia, cộng đồng và nhà đầu tư. Trong đó, đầu tư nhà nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập quốc dân, góp phần giải quyết việc làm và nâng cao đời sống của các thành viên trong xã hội. Đầu tư của doanh nghiệp nhằm tối thiểu chi phí, tối đa lợi nhuận, nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân lực .
I.4. Đặc điểm của đầu tư phát triển:
- Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn.
+ Quy mô vốn đầu tư lớn nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Vì thế đòi hỏi phải có giải pháp tạo vốn và huy động vốn hợp lý, xây dựng các chính sách, quy hoạch, kế hoạch đầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư, bố trí vốn theo tiến độ đầu tư, thực hiện đầu tư trọng tâm trọng điểm,đánh giá kiểm tra năng lực thi công công trình,giám sát chặt chẽ trong việc sử dụng vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn,tiết kiệm được vốn và thu hồi vốn.
+ Lao động cần sử dụng cho các dự án lớn đặc biệt đối với các dự án trọng điểm quốc gia. Do đó, công tác tuyển dụng, đào tạo,quản lý, sử dụng và đãi ngộ cần tuân thủ một kế hoạch định trước, sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu từng loại nhân lực theo tiến độ đầu tư, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực do vấn đề “hậu dự án” tạo ra như việc bố trí lại lao động, giải quyết lao động dôi dư cùng các chế độ liên quan.
- Thời kì đầu tư kéo dài.
Thời kỳ đầu tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và dựa vào hoạt động. Nhiều công trình đầu tư phát triển có thời gian đầu tư kéo dài hàng chục năm. Do vốn lớn lại nằm khê động suốt thời gian thực hiện đầu tư nên để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực tập trong hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, quản lý cho chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dụng cơ bản,thực hiện tiết kiệm,chống thất thoát lãng phí,sử dụng một cách có hiệu quả đồng vốn đầu tư.
- Thời kì vận hành kết quả đầu tư kéo dài.
Thời gian vận hành kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình. Trong suốt quá trình vận hành , các thành quả đầu tư chịu tác động hai mặt, cả tích cực và tiêu cực của nhiều yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội . Để thích ứng với đặc điểm này, công tác quản lý hoạt động đầu tư cần chú ý 1 số nội dung sau:
+ Cần xâu dựng cư chế và phương pháp dự báo khoa học cả ở cấp vi mô và vĩ mô về nhu cầu thị trường đối với sản phẩm đầu tư tương lai, dự khiến khả năng cung từng năm và toàn bộ vòng đời dự án.
+ Quản lý tốt quá trình vận hành,quy hoạch kế hoạch hợp lý, nhanh chóng đưa các thành quả đầu tư vào sử dụng, hoạt động tối đa công suất để nhanh chóng thu hồi vốn, tránh hao mòn vô hình.
+ Chú ý đúng mức đến yếu tố độ trễ thời gian đầu tư. Đầu tư trong năm nhưng thành quả đầu tư chưa chắc đã phát huy tác dụng ngay trong năm đó mà từ những năm sau và kéo dài trong nhiều năm. Đây là đặc điểm rất riêng của lĩnh vực đầu tư, ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý hoạt động đầu tư.
- Đại bộ phận các công trình đầu tư thường phát huy tác dụng ngay tại nơi nó được tạo dựng nên do đó chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên,kinh tế, xã hội tại vùng đó.
Không thể dễ dàng di chuyển các công trình đã đầu tư từ nơi này sang nơi khác, nên công tác quản lý hoạt động đầu tư phát triển cần phải quán triệt đặc điểm này trong một số nội dung sau:
+ Trước tiên, cần phải có chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư đúng. Đầu tư cái gì, công suất bao nhiêu là hợp lý . cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, dựa trên căn cứ khoa học.
+ Lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lý. Để làm được điều này cũng cần phải dựa trên căn cứ khoa học, dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, văn hóa . Cần xây dựng một bộ tiêu chí khác nhau và nhiều phương án so sánh để lựa chọn vùng lãnh thổi và địa điểm đầu tư cụ thể và hợp lý nhất, sao cho khai thác được tối đa lợi thế vùng và không gian đầu tư cụ thể, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
- Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao.
Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài . nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư phát triển thường cao. Rủi ro đầu tư do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà đầu tư như quản lý kém, chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu . có nguyên nhân khách quan như giá nguyên liệu tăng, giá bán sản phẩm giảm, công suất sản suất không đạt công suất thiết kế . Vậy để quản lý hoạt động đầu tư phát triển hiệu quả, cần phải thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro bao gồm:
+ Nhận diện rủi ro đầu tư. Có nhiều nguyên nhân rủi ro, do vậy xác định đúng nguyên nhân rủi ro sẽ là khâu quan trọng đầu tiên để tìm ra giải pháp phù hơp để khắc phục.
+ Đánh giá mức độ rủi ro. Rủi ro xảy ra có khi rất nghiêm trọng nhưng có khi chưa đến mức gây nên những thiệt hại về kinh tế. Đánh giá đúng mức độ rủi ro sẽ đưa ra biện pháp phòng và chống phù hợp.
+ Xây dựng các biện pháp phòng và chống rủi ro. Mỗi loại rủi ro và mức độ rủi ro nhiều hay ít sẽ có biện pháp phòng và chồng tưng ứng nhằm hạn chế thấp nhất các thiệt hại có thể có do rủi ro này gây ra.
78 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2404 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nội dung cơ bản của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp - Phân tích tình hình đầu tư trong hệ thống Doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển cũng tương tự, nhưng với mức lãi vay ưu đãi hơn và chỉ hạn chế cho các đối tượng có nhu cầu trong một số lĩnh vực được quy định về tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.
Các nguồn vốn khác chủ yếu đến từ sự tài trợ của các tổ chức quốc tế như ADB, WB… và các hiệp định song phương. Để sử dụng các khoản vay ưu đãi hoặc không hoàn lại này, Việt Nam phải phụ thuộc vào các điều kiện thoả thuận với các nước hoặc các tổ chức quốc tế. Trên thực tế vốn vay từ các tổ chức này chỉ đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu đổi mới công nghệ tại Việt Nam. Bên cạnh đó dòng vốn FDI gia tăng nhanh chóng là yếu tố góp phần thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ tại Việt nam. Tuy nhiên nguồn vốn này chỉ đáp ứng cho các yêu cầu của các chủ đầu tư nước ngoài hơn là nhu cầu đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước.
Thực tế hiện nay cũng có nhiều giải pháp đề xuất nhằm khuyến khích các doanh nghiệp trong một số lĩnh vực được khuyến khích hỗ trợ nguồn vốn cho đầu tư đổi mới công nghệ, thậm chí đã có một số đề nghị chính phủ nên có biện pháp kích cầu cho hoạt động đổi mới công nghệ thông qua lãi suất. Tuy nhiên, xét cho cùng tất cả các giải pháp chúng ta đã làm chỉ mới giải quyết được phần ngọn chứ không giải quyết tận gốc các vấn đề. Phần lớn các doanh nghiệp được nhận hỗ trợ trực tiếp và ưu đãi thường rơi vào một số doanh nghiệp và một số lĩnh vực, do đó sẽ tạo ra một sân chơi không bình đẳng, hoạt động không thực sự coi trọng hiệu quả, không chú ý tái đầu tư và có thể cũng sẽ là cơ hội cho tham nhũng gia tăng…Như vậy đổi mới công nghệ là vấn đề không thể xem nhẹ và cũng không thể chậm hơn nhưng đầu tư đổi mới công nghệ đòi hỏi phải gia tăng những nguồn vốn đầu tư mới.
II.2.5. Đầu tư cho marketing, khuếch trương thương hiệu.
- Đầu tư vào hoạt động Marketing: Doanh nghiệp muốn cạnh tranh thắng lợi thì marketing được nhiều người cho rằng là chức năng then chốt của thành công của doanh nghiệp: nhờ có marketing dự báo nhu cầu tiêu thụ sản phẩm, dự tính các hành động cho doanh nghiệp, hỗ trợ bán hàng thông qua quảng cáo, khuyến mại,…Muốn vậy đòi hỏi phải:
+ Xác định rõ hướng đi: doanh nghiệp phải suy tính kỹ trước khi quyết định có nên đối đầu trực tiếp với doanh nghiệp lớn hay không, nếu cảm thấy không có đủ nội lực thì chuyển hướng khác.
+ Xác định thời gian đi: nếu doanh nghiệp đã xác định được hướng đi và nếu không phạm sai lầm nào về kế hoạch tiếp thị cộng với một chút may mắn thì doanh nghiệp sẽ có được một mảng thị phần,
+ Phạm vi triển khai: doanh nghiệp nên lựa chọn phương án triển khai trên phạm vi nào thì cần phải cân nhắc rõ ràng.
+ Hiểu người tiêu dùng: Tiến hành nghiên cứu thị trường để am hiểu sâu sắc người tiêu dùng, để thiết kế sản phẩm phù hợp với họ, và khác biệt với đối thủ.
+ Hệ thống phân phối mạnh
+ Bao bì bắt mắt và hoàn hảo
+ Chất lượng sản phẩm hoàn hảo
Một trong những từ xuất hiện nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng trong những năm gần đây là thương hiệu. Thương hiệu đã trở thành mối quan tâm không chỉ của doanh nghiệp mà còn cả của nhà quản lý và dư luận XH.
Hiện nay khái niệm thương hiệu chưa có khái niệm thống nhất nhưng nó được khẳng định là tài sản vô hình của doanh nghiệp. Thương hiệu chắc chắn không chỉ dành cho các nhà kinh doanh hàng hoá tiêu dùng. Một nhà kinh doanh, một doanh nghiệp cho dù đang kinh doanh ở lĩnh vực nào thì cũng cần phải xây dựng thương hiệu cho mình. Hàng trăm tỷ đô la đang đổ ra trên thế giới mỗi năm đầu tư cho thương hiệu có cả những doanh nghiệp sản xuất từ cây kim sợi chỉ cho tới những doanh nghiệp sản xuất máy bay. Một khoản đầu tư cho thương hiệu hiệu quả là điều nên làm cho dù có thể đánh đổi bởi lợi nhuận. Bản chất của thương hiệu là nhãn hiệu được thương mại hoá. Thương hiệu bao gồm: biểu tượng của công ty , biểu tượng, khẩu hiệu, tông màu, địa chỉ liên lạc và kể cả mùi vị đặc trưng…có nhiều loại đầu tư vào thương hiệu như đầu tư vào thương hiệu: doanh nghiệp,gia đình, cá nhân, tập đoàn, và nhà nước
II.2.6. Đầu tư vào tài sản trí tuệ.
- Đầu tư cho các phát minh sáng chế, các giải pháp hữu ích. Đó là hợat động đầu tư trong đó nhà đầu tư bỏ tiền và tri thức để ứng dụng hiệu quả trong thực tế. Sự sáng tạo của sản phẩm thể hiện sự đột phá so với trình độ kỹ thuật chung do đó tạo ra giá trị mới rất lớn, tồn tại lâu dài và tạo ra sức cạnh tranh cap của sản phẩm. Hoạt động đầu tư này được thực hiện dưới 2 phương thức: tự đầu tư nghiên cứu đê tạo ra các sáng chế giải pháp hữu ích hoặc mua lại công nghệ kèm với sáng chế và giải pháp hữu ích.
Nói chung xu hướng của các doanh nghiệp là thường mua công nghệ đi kèm với chuyển giao các sáng chế và giải pháp hữu ích, còn việc tự nghiên cứu chủ yếu được thực hiện ở quy mô quốc gia, trong các viện nghiên cứu, trung tâm khoa học hay các trường đại học. Do đó đối với hoạt động đầu tư này doanh nghiệp chưa có sự đầu tư đúng mức và chủ động.
- Đầu tư vào bản quyền và các quyền cận kề trong lĩnh vực in ấn, giải trí, phát thanh truyền hình. Thực chất của hoạt động này là việc xây dựng và thực hiện và các quyền sở hữu tác phẩm, văn chương, nghệ thuật khoa học. Giá trị của nó được biểu hiện khi bán quyền sở hữu này cho người khác. Nói chung hoạt động đầu tư này đòi hỏi nhiều thời gian và chất xám và nó thường được đề cập đến với tư cách cá nhân hơn là các tổ chức doanh nghiệp.
- Đầu tư nhãn hiệu thương mại, tên gọi xuất xứ hàng hoá. Đây không phải là hoạt động trực tiếp mà nó là kết quả của một loạt các yếu tố được đầu tư từ tài sản hữu hình như chất lượng sản phẩm, đặc tính nổi trội của sản phẩm. Do đó đây là một hoạt động đầu tư tốn rất nhiều thời gian và công sức, kết quả của nó là sự tổng hợp của các yếu tố. Một nhãn hiệu như cocacola, bưởi năm roi…chỉ có thể được công chúng biết đến và tin cậy khi nó tạo được ấn tượng tốt trong lòng khách hàng.
Đánh giá ưu, nhược điểm của hoạt động đầu tư phát triển trong DNNN:
III.1. Ưu điểm:
Đầu tư góp phần cho tăng trưởng và phát triển đất nước. Cùng với quy mô đầu tư huy động được, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta cũng tăng đều qua các năm. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Tỷ trọng vốn đầu tư trong nông nghiệp giảm dần, ngược lại tỷ trọng vốn đầu tư trong công nghiệp và xây dựng tăng lên đáng kể. Hoạt động đầu tư góp phần nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ cho đất nước. Thông qua hoạt động của đầu tư nước ngoài, cho phép Việt Nam tiếp xúc với những thành tựu khoa học tiên tiến trên thế giới. Đồng thời, các ngành mới hình thành như:Công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ gen…và trong quá trinh tiễp xúc và làm việc với nước ngoài chúng ta cũng học hỏi được nhiều kinh nghiệm làm việc và tổ chức quản lý…
Đóng góp đầu tư phát triển của DNNN vào GDP:
Năm
2006
2007
2008
2009
2010
Đóng góp đầu tư phát triển toàn xã hội vào GDP
41%
40,6%
40%
42,2%
41%
Đóng góp của đầu tư phát triển trong DNNN vào GDP
37,39%
35,93%
34,35%
34,8%
40%
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
8,2%
8,5%
7%
5,32%
6,7%
Nguồn tổng cục thống kê_trang web chinhphu.vn
Theo bảng số liệu trên thì ta thấy được rằng đóng góp của DNNN vào sự tăng trưởng giảm dần qua các năm đặc biệt là trong 3 năm 2007, 2008, 2009. Nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng kinh tế cuối năm 2008 đầu năm 2009 đã làm cho đầu tư bị chững lại. DNNN cũng chịu nhiều thiệt hại do khủng hoảng gây ra.
Đóng vào ngân sách nhà nước:
DNNN đóng góp vào thu NSNN khá lớn và tương đối ổn định, thể hiện được vai trò chủ đạo của khu vực doanh nghiệp này. Nếu tính toàn bộ các khoản nộp ngân sách do DNNN thực hiện thì DNNN đã đóng góp cho NSNN khoảng 50% số thu trong nước.
Mặc dù những năm gần đây mức tăng trưởng giảm, nhiều doanh nghiệp thua lỗ và tỷ trọng nộp ngân sách NSNN có chiều hướng giảm nhưng DNNN vẫn là nguồn đóng góp chính cho ngân sách Nhà nước.
Số tiền nộp ngân sách nhà nước của DNNN
Năm
2005
2006
2007
2008
Đơn vị
DNNN
39079
46344
80371
68490
Tỷ đồng
% đóng góp vào NSNN
17,12
16,58
15,94
16,43
(%)
( nguồn tổng cục thống kê)
- Nguồn vốn đầu tư phát triển của DNNN chủ yếu là từ ngân sách nhà nước. Nhà nước là chủ sở hữu các DNNN, cấp phát vốn cho DNNN đầu tư và thu lợi nhuận. : cùng với quá trình cải cách DNNN, tốc độ tăng vốn đầu tư ngày càng tăng, cơ cấu đầu tư đang dần dịch chuyển theo hướng ngày càng hợp lý hơn, phù hợp với nhu cầu thị trường.
Chính những yếu tố này là cơ sở để nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển của DNNN trong những năm tiếp theo của quá trình hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Tổng doanh thu toàn khối năm 2010 ước đạt 1.173.489 tỷ đồng, vượt 22% kế hoạch năm và tăng 36% so với năm 2009. Có 20/21 Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước làm ăn có lãi, tổng lợi nhuận trước thuế ước đạt 70.778 tỷ đồng. Tổng nộp ngân sách ước đạt 173.549 tỷ đồng, tăng 31% so với thực hiện năm 2009.
Từ khi cổ phần hóa các DNNN thì nguồn vốn cấp phát từ ngân sách nhà nước đã giảm đi đáng kể, các DNNN tự huy động vốn để đầu tư.
2007
2008
2009
2010
Vốn ngân sách nhà nước
97
100,9
153,8
141,6
Đơn vị: nghìn tỷ đồng _ số liệu từ tổng cục thống kê.
Tỷ trọng vốn ngân sách tăng chậm và ổn định ở mức cao qua các năm, nguồn vốn tự có của DNNN đã chiếm 1 vị trí xứng đáng và vốn vay tiếp tục giảm dần trong tổng vốn đầu tư phát triển của DNNN.
Bảng vốn đầu tư của khu vực nhà nước phân theo nguồn vốn
Tổng số
Vốn ngân sách nhà nước
Vốn vay
Vốn của các DNNN và nguồn vốn khác
Năm
Đơn vị: tỷ đồng
2006
185102
100201
26837
58064
2007
197989
107328
30504
60157
2008
209031
129203
28124
51704
Sơ bộ 2009
287534
184941
40418
62175
( nguồn: tổng cục thống kê)
Không chỉ những nguồn lực trong nước được khơi thông mà chúng ta đã chú ý khai thác cả những nguồn lực bên ngoài. Vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp đáng kể vào công cuộc CNH-HĐH đất nước.Trong những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX tốc độ tăng vốn đầu tư : 28%-29% /năm.Tăng cường hợp tác quốc tế, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế…Bên cạnh đó, năng lực nhiều ngành kinh tế tăng lên đáng kể, nhất là năng lực sản xuất của các ngành công nghiệp, năng lực tưới tiêu thuỷ lợi, năng lực ngành giao thông vận tải.. Tổng số công trình, dự án hoàn thành trong năm 2004 khoảng 3640 dự án, trong đó cá bộ ngành trung ương khoảng 980 công trình, dự án; các tỉnh thành phố khoảng 2660 dự án. Cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng đã có nhiều đổi mới, thực hiện phân cấp, giao quyền và tạo chư động cho các bộ, ngành, địa phương trong việc quyết định chủ trương và phê duyện dự án đầu tư và bố trí vốn đẩu tư cụ thể cho các công trỉnh.
II.2. Nhược điểm và các hạn chế chủ yếu:
Trình độ công nghệ của DNNN còn lạc hậu; một số DN còn sử dụng công nghệ cũ, tiêu hao nhiên liệu, năng lượng cao. Nhiều DNNN năng suất lao động và hiệu quả hoạt động còn thấp, sức cạnh tranh chưa đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế; còn khoảng 15% số DN làm ăn thua lỗ.
Cơ chế quản lý DNNN còn nhiều bất cập:từ quyền tự chủ tuyển chọn nhân sự, điều hành DN, đến tài chính giá cả, tiền lương... Tổ chức quản lý trong DNNN chuyển biến còn chậm. Nhiều DNNN và DN cổ phần hóa chưa có điều kiện thay đổi cơ bản quản trị công ty một phần do Nhà nước vẫn tiếp tục nắm giữ tỷ lệ cổ phần lớn trong các DN cổ phần hóa. Một số tổng công ty nhà nước chưa phát huy được vai trò chi phối trong ngành, lĩnh vực hoạt động. Một số công ty hoạt động còn kém hiệu quả. Ở nhiều tổng công ty giữa Chủ tịch hội đồng quản trị và Tổng giám đốc chưa có sự thống nhất trong quả lý, điều hành DN. Các mô hình tổ chức quản lý mới triển khai còn chậm: ở một số tổng công ty nhà nước chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con vẫn còn duy trì biện pháp quản lý hành chính đối với các công ty con như giao chỉ tiêu kế hoạch, thu phí quản lý...
Hiệu quả kinh doanh thấp,hiệu quả đầu tư không được cải thiện,nhiều khoản đầu tư công sử dụng kém hiệu quả.
Giai đoạn
Mức tăng trưởng
Tổng mức vốn đầu tư/GDP
1996-2000
6,9%
25,6%
2001-2005
7,5%
34,6%
2006-2010
8%
40%
Theo các chuyên gia đến từ ADB, tăng trưởng kinh tế Việt Nam chủ yếu dựa trên tỷ lệ đầu tư cao khoảng 40% so với GDP.Đi cùng với sự tăng lên về nguồn vốn đầu tư nhằm đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng, hiệu quả đầu tư của Việt Nam lại giảm đi. Nếu như giai đoan 1996 - 2000 để có 1 đơn vị GDP cần 3,7 đơn vị đầu vào thì 2001 - 2005 đã lên đến 4,6 đơn vị đầu vào. Và với mức dự kiến gian đoạn 2006 - 2010 thì để có 1 đơn vị GDP cần tới 5,1 đơn vị đầu vào.
Chất lượng của một số dự án quy hoạch chưa cao, chưa có tầm nhìn xa, quy hoạch chưa phù hợp với cơ chế thị trường, chưa theo kịp với quá trình thay đổi của các yếu tố khách quan. Các dự báo tác động của yếu tố bên ngoài như thị trường thế giới, tiến bộ công nghệ, sự cạnh tranh của các quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm… nên tính định hướng cho doanh nghiệp còn hạn chế. Tính cục bộ, xu hướng khép kín trong quy hoạch đã gây nên sự lãng phí các nguồn lực do sự phát triển chồng chéo dư thừa công suất… hoặc tạo ra độc quyền trong ngành, sử dụng quy hoạch để cản trở thành phần kinh tế khác tham gia. Quy hoạch thường xuyên chưa được cập nhập, bổ xung và điều chỉnh kịp thời, do đó có một số quy hoạch tỏ ra lạc hậu với tình hình thực tế, không đáp ứng nhu cầu, không đủ căn cứ để xây dựng kế hoạch.
Tình trạng đầu tư dàn trải chưa được khắc phục có hiêu quả. Trong những năm qua mặc dù đã có nhưng tiến bộ nêu trên nhưng tình trạng trong bố trí kế hoạch đầu tư bằng nguồn ngân sách các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố vẫn chưa được khắc phục triệt để. Tình trạng này được tích tụ từ nhiều năm trước đây, gây lãng phí lớn dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Một số bộ ngành địa phương vẫn chưa chấp hành đúng quy định về quản lý đầu tư và xây dưng, bố trí vốn cho một số công trình, dự án chưa đủ thủ tục về đầu tư.
Tình hình thất thoát lãng phí còn lớn dẫn đến hậu quả đầu tư chưa cao đang là vấn đề bức xúc. Hiện tại vì chưa thể kiểm toán, thanh tra đánh giá toàn bộ các dự án đầu tư xây dựng nên chưa thể khẳng định con số thất thoát mà dư luận xưa nay đề cập tuy nhiên kết quả thanh tra cho thấy số sai phạm về tài chính chiếm 14-19% tổng vốn đầu tư được thanh tra, kiểm tra. Trong tổng số vốn bị phát hiện nói trên số vốn kiến nghị thu hồi chiếm 5-7% tổng số vốn được thanh tra. Qua các kết quả kiểm tra như trên ta thấy việc quản lý vốn, đặc biệt là nguồn vốn ngân sách , còn rất yếu kém, thiếu sót dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả. Mặt khác cũng cho thấy khi thanh tra nhà nước tiến hành thanh tra thì số sai phạm bị phát hiện nhiều hơn khi tự các bộ ngành, tỉnh thành phồ thanh tra chính mình.
Lực lượng lao động trong DNNN có xu hướng giảm đáng kể qua các năm trở lại đây
Tổng số lao động trong các doanh nghiệp tại thời điểm 31/12 hàng năm phân theo loại hình doanh nghiệp
Năm
20
3
2004
005
2006
2007
Tổn
số
5175092
5770671
6237396
6715166
7382160
Khu vực nhà nước
2264942
2250372
20
7660
1899937
1763117
Khu vực ngoài nhà nước
2049891
2475448
2979120
3369855
3933182
Khu vực có vốn nước ngoài
860259
1044851
1
20616
1445574
1688
6
Có sự dịch chuyển nguồn lao động từ phía khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân. Chế độ ưu đãi và tiền lương đối với người lao động vẫn chưa được cải thiện một cách hợp lý. Đồng lương còn thấp khiến họ không đủ trang trải. Nên họ có xu hướng chuyển sang làm ở khu vực ngoài nhà nước.
Chương III: Giải pháp tăng cường đầu tư và nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
nhà nước
Nhóm nhân tố vĩ mô:
I.1. Đổi mới và hoàn thiện các công tác hoạch định chiến lược:
Khi nói đến sản xuất kinh doanh thì cho dù dưới hình thức nào đi chăng nữa vấn đề được nêu ra đầu tiên đó chính là hiệu quả.Hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là mục tiêu và cũng là động lực của hoạt động sản xuất kinh doanh,của nền sản xuất,là thước đo mọi mặt của nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như từng đơn vị sản xuất nói riêng.
Lợi nhuận kinh doanh trong nền kinh tế thị trường là mục tiêu lớn nhất của mọi doanh nghiệp.Nhưng để làm được điều đó thực không đơn giản.Làm thế nào để có thể vừa đảm bảo chất lượng sản phẩm lại vừa đảm bảo già thành cạnh tranh để doanh nghiệp có thể vững càng trước các đối thủ của mình?Để có thể thực hiện được điều đó doanh nghiệp không thể hoạt động theo kiểu được chăng hay chớ, đến đâu hay đến đó.Tất yếu trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp sẽ phải không ngừng nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên đó không phải là tất cả mà vấn đề quan trọng hơn cả có ý nghĩa quyết định đối với sự sống còn của doanh nghiệp đó là nhất thiết phải hoạch định được một chiến lược kinh doanh lâu dài,làm kim chỉ nam cho hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai được nhất quán và hiệu quả.
Chiến lược chính là một cơ sở quan trọng để lập các quy hoạch và kế hoạch đặc biệt là quy hoạch hóa và kế hoạch đầu tư.Một chiến lược đúng,một chủ trương đúng đắn đôi khi đã đem lại 50% sự thành công của dự án; là điều kiện tối quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của ngành và doanh nghiệp. Một chủ trương đầu tư sai sẽ không đem lại hiệu quả cho đầu tư hoặc hiệu quả là rất thấp trên mọi phương diện cả đối với doanh nghiệp,với ngành,với nền sản xuất. Thậm chị đó còn là một sự lãng phí nguồn lực trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn như hiện nay.Bởi vậy để đảm bảohiệu quả hoạt đông đầu tư ,góp phần giảm bớt thất thoát lãng phí trong hoạt động đầu tư thì yêu cầu đặt ra là cần thiết phải thực hiện tốt các khâu trong công tác quản lý chiến lược đối với nhiều loại chiến lược như: chiến lược phát triển ngành,vùng,chiến lược sản phẩm,thị trường tiêu thụ,thị trường vốn…Bởi lẽ đó chính là những điều kiện thiết yếu để làm tốt công tác quy hoạch và kế hoạch hóa đầu tư.
Lý thuyết thì là như vậy,tuy nhiên trên thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng làm được như vậy,hãy còn tồn tại nhiều bất cập tồn tại xung quanh vấn đề này.Do vậy trong giải pháp này một số kiến nghị được đề ra như sau:
-Nâng cao hơn nữa chất lượng công tác hoạch định chiến lược của ngành,quan tâm hơn nữa đến cả chi tiêu hiện vật và chi tiêu giá trị.Trong khi hoạch định chiến lược tổng hợp cần đặc biệt chú ý đến chỉ tiêu dài hạn vì nó định hướng cho sự phát triển trong tương lại của cả ngành,cả khổi DNNN.
-Đặc biệt cần tính đến những thay đổi có thể xảy ra trong tương lại để có những phương án hỗ trợ kịp thời và chủ động bổ sung các khiếm khuyết và điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới để vẫn thực hiện đúng định hướng của chiến lược.Đó chính là những yêu cầu đặt ra cho khâu tổ chức thực hiện chiến lược.Điều này có ảnh hưởng không nhỏ tới sự thành bại của dự án do đó đây là một khâu cũng hết sức quan trọng cần được quan tâm đúng mức.
-Kiểm tra,giám sát,đánh giá chất lượng là khâu cuối cùng trong công tác hoạch định chiến lược,nhưng nó có vai trò hết sức quan trọng là cung cấp những thông tin phản hồi về tình hình thực hiện và có biện pháp điều chỉnh kịp thời để thực hiện tốt hơn.Tuy nhiên đây lại cũng là một trong những khiếm khuyết của hầu hết các chiến lược,ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển của các DNNN.Nhiều văn bản thiếu vắng các quy định về đánh giá và kiểm tra thực hiện.Do đó,cần điều chỉnh trong công tác kiểm tra và đánh giá kết quả ,bổ sung các quy định vào các văn bản chiến lược mà còn thiếu góp phần nâng cao hiệu quả &chất lượng đầu tư phát triển trong DNNN.
I.2. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch đầu tư:
Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch ngành vùng nhằm đảm bảo sự đồng bột thống nhất giữa quy hoạch ngành của trung ương và quy hoạch lãnh thổ của địa phương.Là một trong những biện pháp vĩ mô quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của DNNN.Quy hoạch phát triển ngành còn phản ánh sự phù hợp giữa ngành và các vùng lãnh thổ có liên quan đến tiềm năng điều kiện và sắp xếp và bố trí các các yếu tố của lực lượng sản xuất để đáp ứng mục tiêu phát triển của ngành.Có không ít dự án lớn do không chú trọng đến khía cạnh này khi nghiên cứu nên trong quá trình thực hiện phải dời đi dời lại gây tổn thất lãng phí ,hiệu quả đầu tư thấp.Hậu quả là nhiều nhà máy xây xong, không có nguyên liệu phải hoạt động cầm chừng,nhiều nhà máy, cảng biển hoạt động với công suất thấp,không đem lại hiệu quả kinh tế,…Hay một bài học đắt giá trong những năm trước do tập trung vốn vào một số ngành nghề cụ thể không theo quy hoạch thống nhất,quá tham vọng vào khả năng hạn chế của thị trường ( đường,than…) đã làm cho những ngành này rơi vào tình trạng khó khăn, khi có khủng hoảng xảy ra….Do vậy việc hoàn thiện quy hoạch các ngành các địa phương và lãnh thổ đảm bảo sự đồng bộ giữa quy hoạch ngành của trung ương và quy hoạch lãnh thổ của địa phương là điều kiện đầu tiên,là căn cứ quan trọng để xác định chủ trương đầu tư và ảnh hưởng đến hiệu quả của các dự án đầu tư,từ đó xây dựng quy hoạch đầu tư,xác định được các dự án cần đầu tư và từng bước cơ cấu lại các khoản chi.Nhìn chung với vai trò quan trọng như vậy thì công tác này cần được ngày một hoàn thiện hơn theo hướng sau:
-Quy hoạch phát triển các ngành cần ưu tiên,chú trọng vào các ngành hướng vào xuất khẩu có hiệu quả và phát huy được lợi thế cạnh tranh trong quá trình hội nhập.Do điều kiện về vốn còn hạn chế do đó cần thận trọng đối với các ngành nhiều vốn và quan tâm,mở rộng đến các ngành sử dụng nhiều lao động và có thì trường rộng lớn( cả trong và ngoài nước)như: chế biến thủy hải sản,nông sản,dệt may…Để đạt được tính khả thi thì sự quan tâm hỗ trợ của cơ quan nhà nước trong các chính sách ưu đãi về thuế,cho thuê đất,xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển chung của các doanh nghiệp trong đó có các DNNN thông qua tín dụng ưu đãi đóng vai trò hết sức quan trọng.
-Quy hoạch phải hướng tới không chỉ phát triển nhanh mà còn phải phát triển bền vững ở các vùng kinh tế trọng điểm chủ yếu xác định;đồng thời hỗ trợ các vùng khác cùng phát triển nhằm rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng miền.Đối với các vùng kinh tế trọng điểm như:Hà Nội-Quảng Ninh-Hải Dương-Hải Phòng; Hồ Chí Minh-Đồng Nai-Bình Dương-Vũng Tàu;Đà Nẵng-Quảng Ngãi cần được đảm bảo phát triển nhanh,bền vững bằng các cơ chế chính sách và phát huy nguồn lực nhằm tạo điều kiện,tích cực tập trung thu hút vốn,tạo ra bước đột phá cho nền kinh tế.Song không vì thế mà bỏ qua khu vực nông thôn,khu vực này cần được từng bước phát triển dựa trên nguồn vốn hỗ trợ đầu tư của ngân sách nhà nước và nguồn lực tại chỗ.Về lâu dài dưới tác động do các khu vực trọng điểm tạo ra sẽ điều tiết ,hỗ trợ các địa phương còn khó khăn từng bước phát triển.
-Đối với việc xây dựng và quy hoạch các kế hoạch đầu tư cần được cân đối bố trí hợp lý giữa đầu tư mới,đầu tư mở rộng với đầu tư chiều sâu;giữa đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ,đầu tư vào tài sản vô hình với đầu tư phát triển nguồn ngân lực sao cho tránh gây lãng phí thất thoát không đáng có mà vẫn đem lại hiệu quả cao.
I.3. Tăng quy mô vốn cho DNNN:
Tăng quy mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất nhân tố tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế…
Tại sao lại nói quy mô vốn đầu tư có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả đầu tư hay nói cách khác quy mô vốn đầu tư và hiệu quả vốn đầu tư phát triển luốn có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau?Câu trả lời rất đơn giản: muốn có hiệu quả đầu tư thì trước hết phải đầu tư.
Dù tài giỏi đến mấy doanh nghiệp cũng không thể nào mà biến từ không thành có được.Doanh nghiệp muốn phát triển thì nhất thiết phải tự hoàn thiện mình hơn,tăng năng suất,nâng cao chất lượng sản phẩm,nâng cao sức cạnh tranh.Mà muốn làm được điều này thì doanh nghiệp cần phải xây dựng cho mình một hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại,một đội ngũ công nhân viên có năng lực có trình độ.Những điều này không thể tự nhiên mà có được.Nó cần có một sự đầu tư đúng mực.Do đó tăng quy mô vốn là một yêu cầu cấp thiết.Tuy nhiên không phải cứ đầu tư mạnh là có thể đem lại hiệ quả đầu tư cao mà song song với nó còn cần có một cơ chế quản lý tốt.
Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng quy mố vốn đầu tư vào các trang thiết bị hiện đại nhằm tăng năng suất,tăng chất lượng sản phẩm …qua đó tăng hiệu quả đầu tư thì cần tạo cho doanh nghiệp một cơ chế vốn hợp lý,một số chính sách tín dụng hợp lý.Một số giải pháp được đưa ra như sau:
-Cần kiên quyết xóa bỏ cơ chế xin-cho nhằm làm lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp.Cơ chế xin-cho, một trong những đặc trưng của thời kì bao cấp kế hoạch hóa tập trung, đã tạo ra sự ì trệ,thiếu năng động của nền kinh tế nói chung và của hoạt động sản xuất kinh doanh trong các DNNN nói riêng.Khi cần doanh nghiệp chỉ cần làm đơn lên trên xin,do đó áp lực cũng như ý thức trách nhiệm đối với mỗi nguồn vốn huy động được không cao,không kích thích được tính năng động của doanh nghiệp…gây ra một sự trì trệ.Do đó, việc quản lý vốn và tài sản nhà nước trong các doanh nghiệp, cần được siết chặt hơn với các quy định pháp lý rõ ràng ,về quyền và trách nhiệm đối với các DNNN, cũng như các cá nhân có liên quan;chuyển từ phương thức cấp vốn và quản lý theo kiểu hành chính sang phương thức quản lý vốn,đầu tư vốn nhà nước vào DNNN trong đó nhà nước là một cổ đông của doanh nghiệp,là chủ đầu tư;chuyển dần từ cơ chế xin-cho sang cơ chế vay-trả của nền kinh tế thị trường( tuy nhiên ở Việt Nam với tính chất là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ,do đó, chúng ta không đột ngột chuyển sang cơ chế vay-trả, mà dần dần qua một bước trung gian ,đó là cơ chế vay-trả nhưng có sự hỗ trợ ,ưu đãi đầu tư của nhà nước).
-Các chính sách tín dụng cần được đổi mới cho phù hợp với yêu cầu của thời đại,với đường lối đổi mới của Đảng và chính phủ.Vai trò của tín dụng đối với các hoạt động đầu tư phát triển của doanh nghiệp ngày càng rõ rệt.Do đó cần có những chính sách thông thoáng hơn trong hoạt động tín dụng ,để giúp các DN nói chung và các DNNN nói riêng có điều kiện để tiếp cận với nguồn vốn quan trọng này một cách thuận tiện và dễ dàng cũng như hiệu quả hơn như: tiếp tục duy trì chính sách lãi suất dương và điều chỉnh trong từng thời kì sao cho phù hợp với tỉ lệ lạm phát,phù hợp với tính chất,đặc điểm của nền kinh tế trong mỗi giai đoạn;tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn tăng dần nhằm phục vụ tốt hơn cho đổi mới công nghệ,thiết bị đáp ứng nhu cầu CNH-HĐH đất nước.Có được như vậy,tín dụng mới thực sự góp phần giải quyết khó khăn về vốn của hệ thống doanh nghiệp, cũng như thúc đẩy doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh,nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
-Đặc biệt là tín dụng đầu tư phát triển-một công cụ tài chính quan trọng giúp nhà nước quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế,có bản chất là quan hệ cho vay có bảo đảm hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn.Tín dụng đầu tư đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.Tuy nhiên để nâng cao hơn nữa chất lượng của tín dụng đầu tư phát triển thì những tác động như sau là không thể thiếu:
+ Thay đổi nhận thức cơ bản về tín dụng đầu tư phát triển trong hệ thống DNNN.Đầu tư vào san xuất kinh doanh phải đem lại hiệu quả,đảm bảo khả năng bảo toàn vốn cũng như chi trả cả gốc và lãi đầy đủ;tránh tâm lý ỉ lại,chuyển từ vốn vay thành vốn cấp phát khi DN không có khả năng chi trả.
+Tập trung vốn vào các dự án để kết thúc các dự án một cách dứt điểm đưa vào khai thác nhằm phát huy hiệu quả đầu tư,tránh tình trạng để vốn nằm chết một chỗ gây lãng phí kém hiệu quả.
+Cần tăng quy mô vốn vay cho các dự án,đối với nguồn vốn tín dụng đầu tư,cần mở rộng khung cho vay đến 100% vốn đầu t nếu xét thấy có hiệu quả kinh tế.
+ Cần có những cải tiến đối với hình thức bảo lãnh tín dụng đầu tư.Hiện nay để được bảo lãnh thì nhà đầu tư phải thông qua 2 đầu mối :tổ chức tín dụng cho vay và quỹ hỗ trợ phát triển thẩm định.Do đó DN vừa phải chịu lãi suất thương mại lại vừa phải chịu thêm chi phí bảo lãnh.Điều này đã gây nên những khó khăn cho DN trong quá trình tiếp cận nguồn vốn.Chính vì vậy cần có những cơ chế chính sách,những thủ tục hành chính trong quá trình thực hiện vốn tín dụng đầu tư phát triển thông thoáng,tiến bộ,tích cực và hiệu quả hơn.
I.4. Tăng cường đẩy nhanh công tác sắp xếp,đổi mởi doanh nghiệp nhà nước:
Suốt thời gian dài trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp đã gây nên những tác động không nhỏ trong cơ chế hoạt động của các DNNN.Để các DNNN có thể ngày càng phát triển,và thực hiện sứ mệnh hỗ trợ điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô của nhà nước thì việc thay đổi là không thể tránh khỏi.Tuy nhiên đây thực sự không phải là một công việc đơn giản và dễ dàng mà nó khá là phức tạp và liên quan tới nhiều vấn đề,nhiều khía cạnh.Do đó để thực hiện được công tác này cần có một hướng đi cụ thể rõ ràng và nhất quán:
-Đổi mới phương thức quản lý DNNN hoạt động công ích.Trong cung ứng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế quốc dân thì các DNNN hoạt động công ích có vai trò đặc biệt quan trọng.Nhưng DN nào hoạt động ở lĩnh vực nào?tổ chức ra sao?thì lại cần được tính toán,sắp xếp cẩn thận sao cho đạt hiệu quả cao nhất giúp cung cấp kịp thời những hàng hóa xã hội cần thiết.Đồng thời vừa thúc đẩy xã hội ngày càng phát triển vừa không trở thành gành nặng của ngân sách nhà nước.Như vậy cần:
+ Làm rõ tiêu chí xác định doanh nghiệp công ích,công ích trong lĩnh vực nào?áp dụng tiêu chí này thống nhất trong cả nước.
+Lãi lỗ của DNNN hoạt động công ích chủ yếu phụ thuộc và các chính sách giá và phí của nhà nước.Nếu chính sách sát với thực tế thì DN có lãi và ngược lại.Do đó cần có cơ chế xác định mức giá và phí,mức trợ cấp và bù lỗ cho sản phầm một cách phù hợp để doanh nghiệp có thể hoạt động tốt hơn.
+Cần phân biệt sản phẩm, dịch vụ công ích với doanh nghiệp công ích.Từ đó có thể xác định lại được xem đối với những ngành hàng ,sản phẩm,dịch vụ nào cần duy trì 100% vốn nhà nước cấp;dịch vụ nào có thể giảm bớt vai trò của vốn nhà nước.Như vật sẽ góp phần nâng cao chất lượng đầu tư,đồng thời giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước.Bởi nguồn kinh phí còn hạn chế,do đó đối với nhiều DNNN hoạt động công ích, nhà nước cho phép DN chủ động trong huy động vốn ,để sản xuất cung ứng dịch vụ công ích mà không phải báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước,được thực hiện các hoạt động cầm cố và thế chấp,cho thuê,quản lý thu chi….như doanh nghiệp hoạt đông kinh doanh bình thường.Cần thực hiện cơ chế đấu thầu các sản phẩm dịch vụ công ích,kể cả việc đấu thầu hoặc khoán định mức bù lỗ.
-Đẩy mạnh cổ phần hóa một bộ phận DNNN.Đây là một trong những giải pháp tương đối quan trọng giúp huy động vốn đầu tư tạo điều kiện để doanh nghiệp chủ động trong kinh doanh và kinh doanh có lãi,nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh và hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp này.
-Tiếp tục kiện toàn nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước.
+Sắp xếp kiện toàn theo hướng tập trung nguồn lực chi phối các ngành,các lĩnh vực then chốt,làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Mặt khác ,với các ngành không cần thiết thì có thể thu hẹp,chuyển hướng…nhằm làm giảm gánh nặng cho các tổng công ty.Xây dựng các tổng công ty vững mạnh về tài chính với nguồn vốn hùng mạnh,kinh doanh có hiệu quả tạo các nguồn thu cho ngân sách nhà nước;phát triển công nghệ tiên tiến ,hiện đại đủ khả năng cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước.Từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của các DNNN,thực hiện các trọng trách được giao phó của mình.
+Đa dạng hóa các loại hình kinh doanh trong tổng công ty ,trên cơ sở chuyên sâu theo các ngành kinh tế kĩ thuật tiêu biểu.Mở rộng các hình thức đầu tư góp vốn vào các công ty thành viên dưới dạng công ty mẹ-con.
I.5. Xây dựng hoàn thiện thể chế, pháp lý thông thoáng và cải cách thủ tục hành chính.
Khung thể chế pháp luật là một trong những nhân tố tác động không nhỏ đến việc huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN.Tạo được một hành lang pháp lý thông thoáng,một sân chơi bình đẳng với mọi DN sẽ kích thích được các DN tham gia hoạt động đầu tư cũng như nâng cao hơn nữa hiệu quả đầu tư của các DNNN tham gia hoạt động kinh tế.Để xây dựng được điều này,một số giải pháp được đặt ra như sau:
-Trước hết là về quy chế đấu thầu.Để đạt được mục đích của đấu thầu là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì hoạt động này cần phải được tuân thủ theo các nguyên tắc: cạnh tranh,công bằng,công khai,minh bạch.Do đó cần có những pháp lệnh.những quy định, chế tài xử phạt các hành vi vi phạm quy chế đấu thầu,tạo sân chơi bình đẳng cho các DN,nhằm lựa chọn được nhà thầu có năng lực nhất,đáp ứng được tốt nhất yêu cầu của công trình.Trong các công trình xây dựng, thất thoát là tình trạng xảy ra khá phổ biển ,do nhiều nguyên nhân khách quan cũng có mà chủ quan cũng có và đặc biệt rất khó phát hiện cho đến khi xảy ra sự cố.Do đó cần quy định đâu là hành vi vi phạm và có các chế tài xử lý nghiêm các hành vi vi phạm có tính răn đe các đối tượng có khả năng vi phạm.Ngoài ra, việc lạm dụng đấu thầu đã làm giảm tính cạnh tranh trong đấu thầu và là nguyên nhân của các tiêu cực.Về lý thuyết,quy chế đấu thầu khuyến khích đấu thầu rộng rãi, nhưng trên thực tế số gói thầu thực hiện đấu thầu hạn chế và chỉ định thầu vẫn chiếm tỷ lệ cao.Do vậy cần có sự sửa đổi các quy định trong công tác đấu thầu,cũng như các quy chế xử phạt rõ ràng ,hợp lý với các cá nhân,đơn vị làm trái quy định.
-Phải sửa đổi bổ sung luật phá sản,tạo điều kiện thuận lợi cho phép phá sản DN nhằm làm cho tài chính DN lành mạnh hơn,hoạt động đầu tư phát triển được hiệu quả hơn.
-Cần có những định chế tài chính thích hợp để hạn chế tình trạng nợ nần trong thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản.Một trong những nguyên nhân của vấn đề này chính là do đầu tư dàn trải khiến hiệu quả đầu tư giảm sút gây nên tình trạng nợ đọng.Để khắc phục tình trạng này thì cần phải có một giải pháp đồng bộ cũng như các chế tài rõ ràng từ các cơ quan chức năng:
+Cần có những quy định cụ thể về trách nhiệm,quyền lợi cũng như nghĩa vụ của các bên có liên quan,cũng như trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước có liên quan.
+Phải có giải pháp tích cực hạn chế hiện tượng lách luật diễn ra khá phổ biến trong nhiều DNNN hiện nay.
Thủ tục hành chính cũng là một rào cản tạo ra không ít khó khăn cho các DN bởi nhiều thủ tục rờm rà,vướng mắc.Nếu cải cách hành chính được làm tốt hơn thì chắc chắn hiệu quả đầu tư sẽ được nâng lên đáng kể.Các DN có thể giảm được không ít thời gian cũng như chi phí chờ đợi để nhanh chóng tiến hành hoạt động đầu tư thu về kết quả.Cơ chế một cửa trong hoạt động của các cơ quan hành chính của ta hiện nay đã được tiến hành tuy nhiên hãy còn nhiều bất cập.Do đó trong thời gian tới,các bộ các ngành các cơ quan chức năng từ trung ương đến địa phương cần tăng cường hơn nữa cải cách thủ tục hành chính tạo ra nhiều cơ hội hơn cho các nhà đầu tư.Và cơ chế một cửa sẽ thực sự được thực hiện đúng như tên gọi của nó chứ không chỉ dừng lại ở mặt hình thức.Tạo ra một hệ thống hành chính thông thoáng,cởi mở mà vẫn chặt chẽ.
I.6. Ban hành chính sách thu hút và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu đầu tư.
Kinh nghiệm của nhiều nước công nghiệp hóa trước đây đã chỉ ra rằng phần lớn thành quả phát triển không phải nhờ tăng vốn mà là nhờ những hoàn thiện trong năng lực của con người,sự tinh thông,bí quyết nghề nghiệp và quản lý.Chính vì vậy phát triển nguồn nhân lực được coi là một trong những nhân tố cực kì quan trọng tác động tới sự thành bại của DN.Do vậy sau khi cổ phần hóa các DNNN cần ưu tiên đầu tư vào nguồn vốn nhân lực,tuyển chọn đội ngũ quản lý,nhân viên giỏi vào làm việc,sẵn sang trả mức lương cao cho người biết làm việc đúng nghĩa.Đội ngũ này với năng suất lao động cao sẽ góp phần làm gia tăng lợi nhuận gấp nhiều lần cho DN.
Hiện nay đã có nhiều DNNN khởi động kế hoạch thu hút nhân tài vào làm việc để chạy đua với các DN nước ngoài đặc biệt từ sau khi Việt Nam ra nhập WTO.Đặc biệt là nhu cầu thu hút được nguồn nhân lực cao cấp có khả năng đảm đương các chức vụ quan trọng trong ban quản trị,lao động có trình độ chuyên môn,kĩ thuật tăng vọt.Điều này cho thấy ta hiện nay đang thiếu một cách trầm trọng nguồn lao động chất lượng cao có trình độ.Nhiều DN đã phải mời các chuyên gia nước ngoài đến làm việc với mức lương gấp nhiều lần so với các cán bộ nhân viên trong nước.Nếu chúng ta có thể đào tạo được nguồn nhân lực trong nước thay thế thì vừa tiết kiệm được chi phí mà lại không gây lãng phí nguồn nhân lực vốn dồi dào về số lượng nhưng lại yếu về chất lượng trong nước.Hiện nay chúng ta cần có một chiến lược đầu tư đào tạo từ gần đến xa cho chương trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực trung,cao cấp và đạt chuẩn quốc tế.Và quá trình đào tạo này phải đạt được sự đồng bộ giữa ba bên: bên đào tạo,ngời sử dụng lao động và người lao động.Các bên này phải có liên hệ chặt chẽ với nhau cùng hướng tới mục tiêu tạo nguồn nhân lực cao cấp,đạt chuẩn,đáp ứng xu hướng toàn cầu hóa của thị trường lao động.Theo đó,nhà đào tạo sẽ phải cung ứng cho xã hội nguồn nhân lực đạt chuẩn;còn DN thì phải chủ động đặt hàng nhà đạo tạo,tạo điều kiện hỗ trợ người lao động thực hành,nâng cao kỹ năng tay nghề.Còn về phía người lao động phải thay đổi tư duy vươn tới đạt chuẩn bằng cách nâng cao kỹ năng kiến thức nghề nghiệp tác phong lao động…
Để thu hút nhân tài,ngoài việc tạo mọi điều kiện ưu đãi,thuận lợi để thu hút nhân tài thì các DN còn cần có các chiến lược giữ chân nhân viên của mình lại.Bởi nguồn nhân lực là tài sản của DN nhưng lại là tài sản rất di động.Do vậy,duy trì và thu hút nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chủ chốt là nhiệm vụ sống còn đặt ra cho các DN hiện nay.Và để giải quyết vấn đề này có thể đặt ra một số các giải pháp như sau:
-DN phải gây dựng được một thương hiệu tốt,có uy tín trên thị trường( là niềm tự hào của lao động khi được làm việc trong DN ấy).
-Quy trình sử dụng lao động minh bạch,thưởng phạt phân minh.Dựa vào năng lực thật sự của các ứng viên để có sự bố trí ,đãi ngộ hợp lý.
-DN cần xây dựng một chiến lược dài hạn về nhân lực,có chiến lược đào tạo kỹ năng nghề nghiệp,chủ động tạo nhân lực cao cấp từ chính các nguồn hiện có của DN.Trong quá trình đào tạo,DN sẽ lọc ra những cá nhân có tố chất phù hợp với hoạt động và chính sách phát triển của DN mình.Sau đó sẽ đưa nguồn nhân lực tiềm năng này tham gia các khóa đào tạo ngắn hạn.Nguồn nhân lực cấp cao cần được đào tạo một cách toàn diện,bài bản.Qua đó mặt băng chung về trình độ nhân lực cao cấp của các DN sẽ được nâng lên mà không làm gián đoạn quá trình kinh doanh trong doanh nghiệp.
-Tạo được một chính sách lương bổng,đãi ngộ hợp lý và có tính cạnh tranh;môi trường làm việc năng động với trách nhiệm cao đối với từng cá nhân. Một trong các đặc điểm đáng chú ý là, số đông công nhân tại các khu công nghiệp của các DNNN nói chung chủ yếu từ nông thôn đến làm việc; vấn đề “an cư” đối với họ là hết sức quan trọng. Nhận rõ đặc điểm này, một số doanh nghiệp đã hướng đến thực hiện trách nhiệm xã hội của mình bằng việc xây nhà ở để giúp công nhân ổn định nơi ở, tạo mối quan hệ gắn bó giữa người lao động và doanh nghiệp. Các DNNN muốn đứng vững và phát triển thì cần phải có cơ chế để thu hút lao động giỏi. Cơ chế ràng buộc về mặt bằng thu nhập cần phải có hướng giải quyết để các DNNN cũng có quyền và đủ điều kiện thu hút người giỏi đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của hội nhập và phát triển.
-Đối với nguồn nhân lực đã có thì các DNNN phải tiến hành rà soát định mức, định biên lao động để xác định số lượng lao động hợp lý theo nguyên tắc "có việc - có người", đảm bảo giờ công, ngày công, thu nhập theo luật định. Chấm dứt việc tiếp nhận lao động, thuê mướn nhân công thời vụ một cách tuỳ tiện làm cho năng suất lao động thấp, tỷ lệ thiếu việc, chờ việc cao. Tăng cường giám sát việc thực hiện quỹ tiền lương và tuyển dụng lao động của DNNN. Khi thực hiện sắp xếp lại DNNN cần hết sức chú ý phương án đầu tư và phát triển sản xuất - kinh doanh để có thể thu hút tối đa người lao động có việc làm ở doanh nghiệp chuyển thể. Trường hợp người lao động tự nguyện thôi việc hoặc mất việc thực hiện giải quyết theo chế độ hiện hành và sử dụng Quỹ hỗ trợ sắp xếp, cổ phần hóa DNNN để bổ sung. Đồng thời phải dành một phần ngân sách để hỗ trợ giải quyết việc làm cho số lao động mất việc qua sắp xếp lại, giải thể, phá sản DNNN, gắn việc cấp tiền với tạo việc làm, không cấp tiền "chay" như khi thực hiện Quyết định 176 trước đây, tuy có tác dụng tích cực, song không ít trường hợp Nhà nước cấp tiền nhưng người lao động vẫn không có việc làm mới. Gắn việc giải quyết lao động dôi dư với các chương trình quốc gia tạo việc làm.
I.7. Tăng cường vận động xúc tiến, kêu gọi thu hút đầu tư trong và ngoài nước.
Vốn được hình thành từ hai nguồn chủ yếu là nguồn trong nước và nguồn nước ngoài, trong đó nguồn trong nước (hay còn gọi là vốn nội địa) được coi là nguồn đầu tư phát triển bền vững nhất.Tuy nhiên, trong Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII đã chỉ rõ “Vốn trong nước đóng vai trò quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng”.Với tầm quan trọng như vậy thì nguồn vốn nước ngoài cần được quan tâm đúng ;cần đặt ra những chiến lược cụ thể để tăng cường thu hút nguồn vốn này.Do đó,yêu cầu đặt ra là phải cân đối nội lực và ngoại lực sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta trong từng thời kì.
-Những dự án nào vốn trong nước khó có thể đáp ứng đủ thì cần khuyến khích nước ngoài đầu tư.Do đó cần xem xét thống kê những dự án cần huy động nguồn lực bên ngoài,hoàn chỉnh báo cáo nghiên cứu khả thi với các thông số kỹ thuật cần thiết để tạo điều kiện tuyên truyền,vận động đầu tư.
-Cần sớm ban hành các tiêu chuẩn,điều kiện cấp phép cho các dự án đầu tư nước ngoài.Xóa bỏ dần sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
-Đối với các dự án đã được cấp phép,tập trung tháo gỡ khó khăn vướng mắc,nhằm thúc đẩy triển khai dự án,hỗ trợ các DN có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động kinh doanh có hiệu quả,nâng cao uy tín môi trường đầu tư nước ta.
-Cần tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm quảng bá môi trường đầu tư trong nước đến với thế giới.Đổi mới căn bản xúc tiến đầu tư theo hướng chủ động,có hướng đích,có trọng tâm trọng điểm.Chính sách vận động xúc tiến đầu tư cũng phải có độ linh hoạt và mềm dẻo nhất định,có phương thức vận động riêng đối với các nước,các tập đoàn đa quốc gia sao cho đối tượng có thể tiếp nhận được thông tin một cách tốt nhất.Với các DNNN,kêu gọi đầu tư nước ngoài vào các DN này với một tỷ lệ phù hợp.
-Phải lập ra một cơ quan giám sát hoạt động đầu tư của các quỹ đầu tư nhà nước của các quốc gia khác tại Việt Nam (cơ quan này sẽ giúp chúng ta nắm bắt được hiện này ở Việt Nam,các nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ bao nhiêu phần trăm trong các công ty cổ phần nói chung và trong cácDNNN nói riêng).
Nhóm nhân tố vi mô:
II.1. Nâng cao chất lượng công tác lập và thẩm định dự án đầu tư của DNNN.
* Công tác lập dự án:
Lập dự án đầu tư có vai trò rất quan trọng tác động trực tiếp tới hiệu quả của dự án.Có nghiên cứu kỹ thị trường,tài chính,kỹ thuật,tổ chức quản lý,lợi ích xã hội của dự án thì các nhà đầu tư mới có thể đưa ra các quyết định chính xác,dự án mới đem lại hiệu quả cao.Nếu công tác này không được thực hiện tốt thì việc đầu tư kéo dài,thậm chí là không thể thực hiện được phê duyệt dự án,tổng mức đầu tư thay đổi khiến dự án phải đăng kí lại gây chậm trễ lãng phí,thay đổi phạm vi dự án…là rất dễ xảy ra.Đây chính là một trong những nguyên nhân chính gây nên tình trạng chậm trễ trong triển khai,thực hiện các dự án đầu tư của DNNN trong thời gian qua.Để tăng chất lượng công tác lập dự án thì một số giải pháp được đưa ra như sau:
-Đổi mới cả về nhận thực và hoạt động đối với cách lập dự án đang tồn tại ở một bộ phận các DNNN hiện nay.Nhiều DNNN coi việc lập dự án chỉ là hình thức nhằm hợp thức hóa thủ tục còn việc thực hiện lại là một vấn đề khác.Điều này đã gây ra sự kém hiệu quả trong hoạt động đầu tư của DN.
-Các DN cần tuyển dụng,đào tạo được một đội ngũ cán bộ chuyên viên lập dự án có trình độ chuyên môn cao,giàu kinh nghiệm,có tinh thần trách nhiệm cao.
-Cơ quan quản lý cấp trên của từng loại hình DNNN nên có những hướng dẫn cụ thể đối với từng loại dự án mà DN cần lập,đối với những vấn đề trọng tâm trong từng loại dự án cụ thể ,để tránh cho DN phải làm đi làm lại nhiều lần,tiết kiệm thời gian và chi phí.Cũng qua đó dự án sẽ nhanh đi vào hoạt động,sớm thu thành quả,nâng cao hiệu quả đầu tư.
Công tác thẩm định dự án đầu tư:
Thẩm định dự án tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động đầu tư có hiệu quả,là cơ sở quan trọng để ra quyết định chấp thuận hay bác bỏ dự án.Tuy quan trọng vậy nhưng hiện nay ở khâu này vẫn còn tồn tại một số thiếu sót như: văn bản thẩm định thường chỉ tập trung vào đối tượng,phạm vi điều chỉnh,tính hợp hiến,hợp pháp…tức những yếu tố luật pháp,hành chính mà chưa quan tâm đúng mực đến tính khả thi,tính thực tế cũng như sự phù hợp vởi chủ trương, đường lối,chính sách của Đảng của dự án.Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án qua đó nâng cao hiệu quả đầu tư,ta có một số giải pháp cụ thể như sau:
-Phải làm rõ quy trình thẩm định,thiết lập cơ chế để thành viện hội đồng thẩm định( tránh tình trạng phân công cho đủ số lượng gậy ra hiện tượng lợi ích cục bộ…).Hội đồng thẩm định phải nắm chắc được đường lối,quan điểm chỉ đạo,nội dung cơ bản của dự án, dự thảo cần trình duyệt.
-Phải quy định rõ trách nhiệm thuộc về ai,xác định rõ trách nhiệm của từng thành viên đối với ý kiến thẩm định của mình.Như vậy sẽ gắn được trách nhiệm cũng như quyền lợi của từng thành viên,họ sẽ có điều kiện để dành thời gian,công sức nghiên cứu,chuẩn bị ý kiến thẩm định.Nhưng trước hết,phải lựa chọn được các thành viên có trình độ,có sự am hiểu trong lĩnh vực này cũng như có tinh thần trách nhiệm cao để tham gia hội đồng thẩm định.
-Phải quy định rõ thời gian.Quy định thời hạn thẩm định tùy theo độ phức tạp cảu từng loại văn bản sẽ giúp cho các cán bộ thẩm định có thời gian nghiên cứu hồ sơ và đánh giá kỹ dự thảo.
II.2. Tăng cường công tác quản lý hoạt động đầu tư trong từng DNNN.
Quản lý đầu tư là một công tác phức tạp nhưng là yêu cầu khách quan,nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư.Chất lượng công trình tốt hay xấu,tình hình lãng phí vốn hay tiết kiệm,thời gian đầu tư nhanh chóng hay kéo dài…đều do quản lý đầu tư trong giai đoạn này quyết định.Do đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động đầu tư theo dự án cũng như hiệu quả hoạt động đầu tư trong DNNN.Do đó,cần thiết phải nâng cao hơn nữa chất lượng của công tác quản lý đầu tư ở giai đoạn thực hiện.Và một số giải pháp được đưa ra như sau:
-Chấm dứt tình trạng đầu tư phân tán,dàn trải,không đồng bộ.Phải có kế hoạch phân bổ nguồn vốn đầu tư tránh đầu tư dàn trải gây loãng. Khi quy mô vốn nhỏ lại bị xé lẻ chia cho nhiều dự án một lúc,các công trình thi công đều dở dang,tiến độ thi công càng kéo dài thì đồng vốn bị khô đọng lâu,không sinh lời và tất yếu hiệu quả đầu tư của dự án cũng như của doanh nghiệp bị giảm sút đáng kể.Do vậy,để nâng cao hiệu quả đầu tư thì nhất thiết phải đẩy nhanh tiến độ thi công,tập trung nguồn vốn đủ đáp ứng yêu cầu và tiến độ đầu tư nhanh chóng đưa công trình vào hoạt động.
-Nghiêm chỉnh thực hiện đúng quy chế đấu thầu.Đấu thầu là một giải pháp quan trọng tiết kiệm chi phí cho xã hội.Thông qua đấu thầu chủ đầu tư xem tìm được nhà thầu phù hợp nhất đối với dự án.Còn đối với bên dự thầu thì việc tham gia dự thầu, trúng thầu và thực hiện đúng tiến độ,sẽ làm cho nhà thầu không ngừng nâng cao trình độ, có trách nhiệm hơn trong công việc…Tuy nhiên hãy còn nhiều bất cập trong vấn đề này như: hiện tượng vây thầu,bán thầu,…Để đấu thầu phát huy đúng thế mạnh của mình thì cần :
+Hoạt động đầu tư xây lắp,mua sắm thiết bị máy móc và tư vấn ở các DNNN cần tuân thủ nghiêm túc các quy định về quản lý đầu tư,xây dựng nhà nước và đặc biệt là công tác đấu thầu.
+Cần quy trách nhiệm rõ ràng hơn cho chủ đầu tư trong thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục đấu thầu,nhất là công tác bảo mật trong đấu thầu;chịu trách nhiệm về lập hồ sơ mời thầu,xét thầu và chất lượng công trình.
+Công tác đánh giá năng lực nhà thầu của chủ đầu tư về mặt pháp lý,kỹ thuật,kinh tế và tài chính.Tùy theo tính chất,quy mô của gói thầu mà lựa chọn nhà thầu phù hợp nhất.
+Cần tuân thủ đấu thầu theo bản vẽ thiết kế.
+Công tác thẩm định giá trúng thầu phải kỹ hơn,kiên quyết loại bỏ những chi phí bất hợp lý,hạn chế đến mức thấp nhất các sai sót dẫn đến phải bổ sung khối lượng,điều chỉnh đơn giá.
+Tăng cường chức năng quản lý nhà nước về đấu thầu bằng cách ban hành các văn bản pháp lý: thông tư,chỉ thị thủ tục đấu thầu,hình thức đấu thầu…
-Nâng cao hiệu quả hoạt động mua sắm máy móc thiết bị.Do máy móc thiết bị thường chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của dự án,tiết kiệm trong chi phí mua sắm thiết bị là giải pháp quan trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của DN.DN có thể tiết kiệm được chi phí này thông qua:
+DN mạnh dạn điều chỉnh hợp đồng mua sắm thiết bị khi cần thiết.
+Mua máy móc thiết bị cần gắn với việc chuyển giao công nghệ.
+Cần tổ chức và nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường công nghệ,nhằm lựa chọn được công nghệ thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư.
II.3. Tăng cường công tác nghiên cứu ứng dụng triển khai khoa học công nghệ vào sản xuất.
Trong điều kiện hiện nay,DN để có thể phát triển bền vững thì không thể chỉ đầu tư theo chiều rộng mà còn cần phải kết hợp chặt chẽ với đầu tư theo chiều sâu,gắn liền việc nâng cao hiệu quả với đầu tư theo chiều sâu,đổi mới máy móc thiết bị,công nghệ.Đổi mới máy móc thiết bị công nghệ trước hết sẽ làm giảm chi phí sản xuất thông qua giảm mức hao phí năng lượng,nhiên liệu…sau là tăng năng suất lao động.
Nghiên cứu,ứng dụng khoa học công nghệ,hay là mua máy móc thiết bị phải gắn liền với phương hướng kinh doanh,phù hợp với xu hướng thị trường,đặc biệt DN cần xem xét tính đồng bộ giữa công nghệ ngoại nhập với các máy móc thiết bị hiện có,tránh gây lãng phí khi mua công nghệ về không sử dụng được.Tuyệt đối không được chuyển giao công nghệ lạc hậu,không phù hợp,gây ô nhiễm môi trường và mọi hành vi xâm phạm bản quyền.
Mỗi DN phải tạo môi trường thuận lợi đối với các hoạt động nghiên cứu ứng dụng,đầu tư,chuyển giao công nghệ tiên tiến hiện đại vào sản xuất và đời sống của đơn vị mình,hỗ trợ việc ứng dụng khoa học công nghệ,đầu tư trang thiết bị tiên tiến,hiện đại vào sản xuất kinh doanh.
-NGUỒN TÀI LIÊU THAM KHẢO:
+ Giaó trình kinh tế đầu tư của NXB KTQD
+ Bài giảng.
+web: kilobooks.com,blog khoa đầu tư,wattpad.com,bộ KH-ĐT,tailieu.vn….
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 162.kilobooks.com.docx