Đề tài Phân tích các chính sách kinh tế vĩ mô của Singapore, giai đoạn từ 2000 – đến nay

Chống tham nhũng, lãng phí quyết liệt và có hiệu lực trên mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội và chi tiêu tùy tiện công quỹ Nhà nước là biện pháp hữu hiệu không thể không đề cập trong việc hiệu quả hóa ngân sách Nhà nước trong điều kiện hiện nay. Tập trung nhiều hơn vào khu vực kinh tế tư nhân thay vì dồn quá nhiều vốn cho doanh nghiệp Nhà nước. Khu vực tư nhân chính là điểm xuất phát cho sự tăng trưởng của quốc gia, là điểm nguồn cho sự sáng tạo, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút lực lượng lao động khổng lồ o Singapore là điển hình cho việc tập trung vào kinh tế tư nhân khi gói kích cầu trị giá 20,5 tỷ SGD, họ đã dành tới 8.4 tỉ (40.9 % - năm 2009) cho khu vực doanh nghiệp này. o Để sử dụng hợp lý nguồn tài sản quốc gia, Singapore đã có một cách hữu hiệu là thành lập công ty đầu tư và kinh doanh vốn Temasek, năm 1974. o Năm 2005, Việt Nam thành lập tập đoàn kinh doanh và đầu tư Nhà nước (SCIC), với vốn điều lệ là 15.000 tỷ đồng có thể coi là một bước ngoặt để chúng ta học hỏi và nhân rộng mô hình này.

doc31 trang | Chia sẻ: tienthan23 | Lượt xem: 8988 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích các chính sách kinh tế vĩ mô của Singapore, giai đoạn từ 2000 – đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ NHÓM 2 - LỚP KẾ TOÁN LIÊN THÔNG CHÍNH QUY 15IK01B ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH CÁC CHÍNH SÁCH KINH TẾ VĨ MÔ CỦA SINGAPORE, GIAI ĐOẠN TỪ 2000 – ĐẾN NAY MỞ ĐẦU Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu 1.1. Lí do chọn đề tài Các nước đang phát triển có đặc điểm chung về kinh tế, đó là mức sống thấp, tỷ lệ tích lũy thấp, trình độ kỹ thuật sản xuất thấp và năng suất lao động thấp. Những đặc điểm này tạo thành một vòng tròn luẩn quẩn, tưởng như khó thoát ra được. Trong quá trình tìm kiếm con đường phát triển, có những nước tiếp tục rơi vào trì trệ, phát triển thụt lùi, xã hội rối ren, như một số nước châu Phi hay Nam Á. Có những nước đã đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, đưa đất nước thoát khỏi vòng luẩn quẩn, rút ngắn khoảng cách, thậm chí đuổi kịp các nước phát triển. Trong đó có Singapore. Từ một nước thuộc địa, nghèo nàn, Singapore đã phát triển trở thành con rồng châu Á và vươn lên hàng các nước phát triển trên thế giới. Để đạt được những thành quả như vậy bên cạnh sự nỗ lực của chính phủ, của người dân là sự đúng đắn kịp thời của các chính sách vĩ mô mà Singapore đã đề ra.Với những lí do trên chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Phân tích các chính sách của nền kinh tế vĩ mô của Singapore từ năm 2000 đến nay” 1.2. Mục đích nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu: dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn để phân tích các chính sách vĩ mô của Singapore. Mục đích nghiên cứu: so sánh những nét tương đồng để rút ra bài học kinh nghiệp cho nền kinh tế Việt Nam. Lịch sử nghiên cứu Giờ đây, ai cũng phải công nhận rằng Singapore là một đất nước rất thành công trong phát triển kinh tế. Ngày nay, thu nhập bình quân đầu người của Singapore vượt trên con số 52.000 đô la Hoa Kỳ, xếp thứ 4 thế giới, với mức tăng bình quân đầu người gần 600 USD mỗi năm. Tốc độ phát triển đó đã đưa một nước Singapore thuộc các quốc gia kém phát triển, chỉ sau ba thập niên, vươn lên đứng trong những nước phát triển nhất. Dù còn đó những lời bình khác nhau từ bên ngoài, thế giới phải công nhận họ là xứ sở trong lành. Theo nghĩa thực, đó là môi trường sạch sẽ và xanh tươi. Theo nghĩa rộng, đó là cuộc sống văn minh, kỹ cương và mức độ tham nhũng xếp loại thấp nhất thế giới. Ở đây, một nước Singapore nhiều dân tộc (Hoa, Ấn, Mã lai), nhiều tôn giáo (Khổng giáo, Thiên chúa giáo, Ấn độ giáo, Hồi giáo), nhưng xã hội ổn định, mọi người cùng tồn tại bên nhau và cùng đưa đất nước phát triển nhanh trở thành con rồng Châu Á, đạt những tiêu chí sống - tuổi thọ và thu nhập - hàng đầu thế giới. Những năm qua đã có những bài báo cáo, nhưng chuyên đề nghiên cứu về Singapore như: TS Lại Lâm Anh, 2014. Phát triển kinh tế biển của Trung Quốc, Malaysia, Singapore. Hà nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội, trang 245-278. Nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc, Malaysia, Singapore và rút ra những kinh nghiệm bài học cho Việt Nam về phát triển kinh tế biển mà trọng tâm là phát triển kinh tế hàng hải, khai thác khoáng sản, dầu mỏ, phát triển du lịch biển đảo... TS Phạm Thanh Tịnh, 2014. Tìm hiểu Lịch sử - Văn hóa Singapore. Hà nội: Nhà xất bản Văn hóa - Thông tin. Giới thiệu những nét nổi bật của đất nuớc Singapore, khái quá lịch sử hình thành phát triển, những văn hoá phong tục, tập quán đặc sắc và đóng góp của Singapore trong cộng đồng Asean. Đối tượng, chủ thể nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Các chính sách kinh tế vĩ mô của các nước Châu Á từ năm 2000 đến nay 3.2. Chủ thể nghiên cứu Các chính sách kinh tế vĩ mô của Singapore từ năm 2000 đến nay. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục tiêu như trên, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu chung: phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp phân tích, tổng hợp, mô hình hóa, so sánh Đóng góp đề tài 5.1. Về mặt khoa học Thông qua nghiên cứu đề tài này phần nào làm sáng tỏ các khái niệm, lý thuyết, phương pháp nghiên cứu Xã hội học, đăc biệt là hệ thống hoá những khái niệm, lý thuyết liên quan các chính sách kinh tế vĩ mô. 5.2. Về mặt thực tiễn Phân tích làm rõ các chính sách vĩ mô của nền kinh tế Sigapore thấy được mặt tiêu cực và mặt tích cực nhằm rút ra bài học kinh nghệm cho Việt Nam. Chương 1; TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH VĨ MÔ Khái niệm chung về các vấn đề trong nền kinh tế vĩ mô 1.1. Sản lượng quốc gia Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) Khái niệm: GDP là tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng của nền kinh tế được sản xuất ra trong một thời kỳ nhất định, trong một phạm vi lãnh thổ nhất định. Phân biệt “hàng hóa và dịch vụ cuối cùng” và “hàng hóa và dịch vụ trung gian”: Hàng hóa và dịch vụ cuối cùng Hàng hóa và dịch vụ trung gian Là những hàng hóa và dịch vụ mà bản thân nó không được dùng để sản xuất ra hàng hóa khác mà chỉ dùng để bán cho NTD cuối cùng. Là những loại hàng hóa và dịch vụ được dùng làm đầu vào để sản xuất ra các loại hàng hóa khác.` GDP danh nghĩa, GDP thực tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế: GDP danh nghĩa: GDP tính theo giá của năm hiện hành được gọi là GDP danh nghĩa. GDP thực: GDP được tính theo giá của một năm nào đó được chọn làm năm gốc được gọi là GDP thực. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) Khái niệm: GDP là chỉ tiêu giá trị của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng do công dân của một nước sản xuất ra trong một thời gian nhất định, thường là một năm. So sánh giữa GDP và GNP Tổng sản phẩm Quốc nội (GDP) Tổng sản phẩm Quốc dân (GNP) *Giống nhau: - Đều là chỉ tiêu giá trị. - Được tính dựa trên sản phẩm cuối cùng. Bao gồm giá trị hàng hóa: Do công dân nước khác tạo ra trên phạm vi nước đó. Do công dân của nước đó tạo ra trên phạm vi lãnh thổ của nước mình Bao gồm các giá trị hàng hóa: Do công dân của nước đó tạo ra trên phạm vi lãnh thổ của nước mình. Do công dân của nước đó tạo ra trên lãnh thổ của nước khác, Lãi suất Lạm phát Khái niệm Lạm phát (inflation) là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên trong một thời gian nhất định. Giảm phát (deflation) là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống. Giảm lạm phát (disinflation) là sự sụt giảm của tỷ lệ lạm phát. Mức giá chung được hiểu là mức giá trung bình của nhiều loại hàng hóa và dịch vụ và được đo bằng chỉ số giá. Chỉ số giá (price index) là chỉ tiêu phản ánh mức giá ở một thời điểm nào đó bằng bao nhiều phần trăm so với thời điểm gốc (trước). Tỷ lệ lạm phát là chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ tăng thêm hay giảm bớt của giá cả ở một thời điểm nào đó so với thời điểm trước. Nguyên nhân Lạm phát do cầu kéo Xảy ra khi tổng cầu tăng trong khi tổng cung không đổi hoặc tăng thấp hơn tổng cầu. Chênh lệch quan hệ Tiền - Hàng Tổng cầu tăng lên, do: Các yếu tố trong tổng cầu tăng Cung tiền tăng Lạm phát do chi phí đẩy Lạm phát do cung còn được gọi là lạm phát do chi phí đẩy. Loại lạm phát này xảy ra khi chi phí sản xuất gia tăng hoặc năng lực sản xuất quốc gia giảm sút. Chi phí sản xuất tăng: do tiền lương tăng, giá nguyên liệu tăng, thuế tăng,dẫn đến doanh nghiệp tăng giá thành Năng lực sản xuất giảm: giảm sút các nguồn lực, thiên tai, Lạm phát dự kiến Lạm phát dự kiến (lạm phát quán tính) là tỷ lệ lạm phát hiện tại mà mọi người dự kiến rằng nó sẽ tiếp tục xảy ra trong tương lai. Hợp đồng về lương, các kế hoạch, chính sách của chính phủ, các thỏa thuận về lãi suất, hợp đồng mua bánđều dựa trên mức lạm phát này. Tác động của lạm phát Sản lượng và việc làm Phân phối lại thu nhập Giữa người cho vay và người vay Giữa người hưởng lương và trả lương Giữa người mua và bán các loại cổ phiếu Giữa chính phủ với dân chúng Thay đổi cơ cấu kinh tế Nền kinh tế kém hiệu quả Lạm phát làm sai lệch tín hiệu giá Mất nhiều thời gian và sức lực đối phó lạm phát Chi phí thực đơn Rối loạn thị trường vốn, biến dạng đầu tư Giảm năng lực cạnh tranh hàng hóa trong nước Biện pháp kiềm chế lạm phát Lạm phát do cầu kéo (tác động lên cầu): Thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ thu hẹp Giảm chi ngân sách Phát hành công trái, tung vàng, ngoại tệ ra bán Lạm phát do chi phí đẩy (tác động lên cung): Khai thông các nguồn lực trong nước Thực hiện chiến lược thị trường cạnh tranh tự do và bình đẳng Ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao năng suất Tỷ giá hối đoái Cán cân xuất nhập khẩu Thất nghiệp 1.6.1. Khái niệm Lao động: là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Việc làm: mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm. Thất nghiệp: là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, không có việc làm và đang tìm kiếm việc làm Lực lượng lao động (hay dân số hoạt động kinh tế): bao gồm những người đang làm việc và những người thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp: Phản ánh tỷ lệ % số người thất nghiệp so với lực lượng lao động 1.6.2. Các dạng thất nghiệp 1.6.2.1. Thất nghiệp tạm thời Là loại thất nghiệp xảy ra khi có một số người lao động đang trong thời gian tìm kiếm một nơi làm phù hợp hơn hoặc những người mới bước vào thị trường lao động đang chờ việc Loại thất nghiệp này tồn tại ngay cả khi thị trường lao động cân bằng 1.6.2.2. Thất nghiệp chu kỳ Thất nghiệp chu kỳ (thất nghiệp theo lý thuyết Keynes) là loại thất nghiệp được tạo ra trong tình trạng nền kinh tế suy thoái 1.6.3. Tác hại của thất nghiệp Đối với cá nhân người lao động: Giảm thu nhập Kỹ năng, chuyên môn mai một Hạnh phúc gia đình bị đe dọa Đối với xã hội: Sản lượng nền kinh tế giảm sút Chính phủ phải tăng chi tiêu cho trợ cấp Tệ nạn xã hội, tội phạm gia tăng 1.6.4. Các biện pháp giảm thất nghiệp Đối với thất nghiệp chu kỳ: Thực hiện chính sách tài khóa mở rộng Thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng Cuối cùng tăng Tổng cầu Đối với thất nghiệp tự nhiên: Phát triển thị trường lao động Đào tạo Tạo thuận lợi trong việc cư trú Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn Khái niệm chung về các chính sách kinh tế vĩ mô 2.1. Chính sách tài khóa Khái niệm Chính sách tài khóa là các quyết định của Chính phủ về chi tiêu và thuế khóa, giả định P và các yếu tố khác không đổi. Mục tiêu Giảm thất nghiệp Tăng trưởng kinh tế Giảm lạm phát Phân loại Chính sách tài khóa mở rộng Tăng G và T giữ nguyên Giảm T và G giữ nguyên Tăng G và giảm T Tăng tổng cầu AD (áp dụng cho nền kinh tế bị suy thoái) Chính sách tài khóa thắt chặt Tăng T và giữ nguyên G Giảm G và giữ nguyên T Tăng T và giảm G è Giảm tổng cầu AD (áp dụng cho nền kinh tế bị lạm phát) Chính sách tiền tệ 2.2.1. Khái niệm Chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mô do ngân hàng TW hay cơ quan hữu trách về tiền tệ trong nền kinh tế thực hiện việc điều chỉnh lượng cung tiền và lãi suất trong nền kinh tế. 2.2.2. Mục tiêu Điều tiết lượng cung tiền trong nền kinh tế để: Ổn định lạm phát. Giảm tỷ lệ thất nghiệp. Kích thích nền kinh tế phát triển. 2.2.3. Công cụ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Lãi suất chiết khấu: lãi suất mà NH thương mại phải trả khi vay tiền của NH trung ương Nghiệp vụ thị trường mở: mua hay bán trái phiếu CP. 2.2.4. Phân loại Chính sách tiền tệ mở rộng Tăng cung tiền, áp dụng khi nền kinh tế suy thoái. Chính sách tiền tệ thắt chặt Giảm cung tiền, áp dụng khi nền kinh tế có lạm phát cao. Chương 2: PHÂN TÍCH CÁC CHÍNH SÁCH VĨ MÔ CỦA SINGAPORE TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY Tổng quan chung về Singapore Vị trí địa lí, sơ lược lịch sử hình thành Cộng hòa Singapore ( Republic of Singapore) là quốc gia nhỏ nhất ở vùng Đông Nam Á, với diện tích khoảng 697,25 km² . Singapore là một hòn đảo có hình dạng 1 viên kim cương được nhiều đảo nhỏ bao quanh, nằm ở phía Nam của bang Johor của Malaysia và phía Bắc đảo Riau của Indonesia Singapore từng là một làng cá của người Mã Lai khi nó bị chiếm làm thuộc địa của Anh vào thế kỷ 19. Sau đó, quân đội Nhật chiếm đóng Singapore trong Thế chiến thứ hai, và sau nữa nước này là một phần trong sự liên kết tạo thành Liên bang Mã Lai. Khi Singapore giành được độc lập, với rất ít tài nguyên thiên nhiên, đây là một nước không ổn định về chính trị xã hội và không phát triển về kinh tế, đầu tư nước ngoài và sự công nghiệp hóa do nhà nước chỉ đạo đã tạo ra một nền kinh tế dựa chủ yếu trên xuất khẩu hàng điện tử và gia công. Dân số Biểu đồ thống kê dân số mỗi 2 năm, từ 2000 đến 2015 của Singapore như sau (đơn vị tính: người) Từ năm 2000 đến nay, dân số Singapore có dấu hiệu tăng, từ 4,027,887 triệu người (năm 2000) tăng lên đến 5,535,002 triệu người vào năm 2015 (theo cục Thống kê Singapore), với tốc độ tăng bình quân là 0.374%/năm Tuổi trung bình của người Singapore là 82 tuổi và quy mô hộ gia đình trung bình là 3,5 người. Tổng tỷ suất sinh được ước tính là 0,79 trẻ em trên mỗi phụ nữ vào năm 2013, Để khắc phục vấn đề này, chính phủ Singapore khuyến khích người ngoại quốc nhập cư đến Singapore trong vài thập niên gần đây.  Singapore có truyền thống là một trong những quốc gia phát triển có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất, tỷ lệ thất nghiệp tại đây không vượt quá 4% trong thập kỷ qua, chạm mức cao 3% trong khủng hoảng tài chính toàn cầu 2009 và giảm xuống 1,9% vào 2011. Chế độ chính trị Singapore là một nước cộng hòa nghị viện, có chính phủ nghị viện nhất viện theo hệ thống Westminster đại diện cho các khu vực bầu cử.  Hiến pháp của quốc gia thiết lập hệ thống chính trị dân chủ đại diện Quyền hành pháp thuộc về Nội các Singapore, do Thủ tướng lãnh đạo, và ở một mức độ thấp hơn rất nhiều là Tổng thống. Tình hình kinh tế Singapore từ năm 2000 đến nay Sản lượng quốc gia 2.1.1. Tổng sản phẩm quốc dân (GDP) từ năm 2000 đến nay Theo số liệu từ cục thống kê Singapore, tổng GDP danh nghĩa và GDP thực từ năm 2000 tính đến 2014 như sau (đơn vị tính:triệu đô la Singapore và %) Từ năm 2000 đến năm 2014, GDP của Singapore tăng 224,871.4 triệu đô la Singapore, gần bằng 136.106 % so với giá trị của năm 2000, trong đó khu vực công nghiệp đóng góp 25% và dịch vụ là 75%. Qua biểu đồ trên, có thể thấy được, GDP thực của Singapore có sự biến động Trong giai đoạn 2000-2004, GDP thực có cao hơn so với GDP danh nghĩa, tuy nhiên không nhiều. Điều nay cho thấy mức giá chung của Singapore trong những năm này ít có biến động, giá cả ổn định. Từ năm 2006 đến 2011, GDP của Singapore tăng mạnh và sự khác biệt giữa GDP danh nghĩa, GDP thực ngày càng lớn è Cho thấy hiện tượng lạm phát ở Singapore ngày càng gia tăng. 2.1.2. Tổng sản phẩm quốc dân trên đầu người (GNP/ người) từ năm 2000 đến nay: Trong giai đoạn 2000 đến năm 2014 GDP bình quân đầu người tăng, tuy nhiên có nhiều sự biến động, do GDP chịu sự tác động sâu sắc của tình hình nền kinh tế. Nhìn chung, từ năm 2000 trở về sau, mức sống người dân Singapore có sự nâng cao rõ rệt. Từ những năm 2006, ảnh hưởng nhiều bởi lạm phát tăng cao, giá cả leo thang, mặc dù GDP bình quân đầu người có tăng mạnh nhưng khoảng cách ngày càng cao. Theo báo cáo của Fnight Frank và Citi Private Bank công bố năm 2010, Đảo quốc Sư tử Singapore là nước có GDP bình quân đầu người đứng đầu trên Thế giới vượt qua cả Nauy (thứ hai), Mỹ (thứ ba) và Thụy Sỹ (thứ tư). Theo dự kiến đến năm 2050, Singapore với chính sách mở cửa rộng rãi, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tập trung đào tạo lao động tay nghề cao sẽ giữ vững được vị trí số 1 của mình. 2.1.3. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 TĐTT 9.04 -1.12 4.2 4.5 9.5 7.3 8.6 9.02 1.74 -0.8 14.7 Tốc độ tăng trưởng của Singapore năm 2000 là 9.04%, nền kinh tế phục hồi nhanh chóng sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997 bắt nguồn từ Thái Lan. Nhưng đến năm 2001, sau sự kiện ngày 11-09 ở Mỹ và đại dịch SARS lan rộng toàn cầu, nền kinh tế Singapore cũng chịu tác động nặng nề, tốc độ tăng trưởng chỉ đạt -1.12%, và từng bước có dấu hiệu hồi phục vào năm 2002, 2003 với tốc độ tăng trưởng lần lượt là 4.2% và 4.5%. Giai đoạn từ năm 2004-2008, tốc độ tăng trưởng của Singapore có dấu hiệu tăng trưởng mạnh mẽ và ổn định hơn khi đạt 9.5%/năm 2004, 7.3%/năm 2005, 8.6%/năm 2006 và 8.6%/năm 2007. Giai năm 2008 - 2009, một lần nữa, nền kinh tế Singapore đứng trước giai đoạn khó khăn khi bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng giá dầu Thế giới năm 2008, giá nhiên liệu tăng làm giá cả hàng hóa tăng vọt, nền kinh tế bị trì trể, bất ổn. Tốc độ tăng trưởng rất thấp trong 2 năm này, chỉ đạt 1.74%/năm 2008 và -0.8%/năm 2009 Từ năm 2010 đến nay, tốc độ tăng trưởng của Singapore ổn định, năm 2010 đạt 14.7%, vượt qua cả Trung Quốc để trở thành nước có tốc độ phát triển kinh tế cao nhất trên Thế giới, và cũng chính trong năm 2010, Singapore đã vượt qua Na Uy, Hoa Kỳ, Thụy Sỹ để trở thành nước có GDP đầu người cao nhất trên Thế giới. Từ năm 2011 đến nay, mặc dù có bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu, nhưng ở một mức độ rất ít, nền kinh tế vẫn trên đà tăng trưởng và phát triển ổn định. Lãi suất Tình hình lãi suất từ năm 2000 đến nay Nhận xét Lạm phát 2.3.1 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) từ năm 2000 đến nay (lấy năm 2014 làm gốc) (theo số liệu thống kê của cục thống kê Singapore) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 1.3 1 -0.4 0.5 1.7 0.5 1 2.1 6.6 0.6 2.8 5.2 4.6 2.4 1 2.3.2. Nhận xét Dựa theo bảng số liệu thống kê trên, chúng ta có thể thấy được Singapore là một đất nước có chỉ số giá cả (CPI) có nhiều biến động nhưng đã được chính phủ khắc phục một cách hiệu quả, tỷ lệ lạm phát được giữ ở mức độ vừa phải, tức là dưới 10%: Chỉ số CPI cao nhất là năm 2008, lên đến 6.6%, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng giá dầu trên Thế giới, khiến giá cả có chiều hướng tăng vọt. Nhưng đến năm 2009, chỉ số CPI giảm sâu, xuống còn 0.6%, điều này chứng tỏ, sau cuộc khủng hoảng giá dầu mỏ, mặc dù tình trạng nền kinh tế bị ảnh hưởng vẫn còn, nền kinh tế chưa kịp hồi phục nhưng chính phủ Singapore đã có một chính sách vận hành nền kinh tế tốt, khả quan, vượt qua được tình trạng ảnh hưởng do khủng hoảng kéo dài nhanh hơn nhiều quốc gia khác. Từ năm 2000 đến năm 2002, chỉ số CPI luôn giảm, trong đó năm 2002, chỉ số CPI < 0%, điều này chứng tỏ, tại Singapore trong khoảng thời gian này, đã xảy ra hiện tượng “giảm phát”. Đây là hệ quả của những cú sốc kinh tế khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm mạnh, dòng vốn không được luân chuyển, nền kinh tế suy thoái và trì trệ. Từ năm 2009 trở đi, chỉ số CPI ngày càng biến động nhiều hơn, tình trạng lạm phát xảy ra ngày càng nhiều hơn, nhưng nhìn chung vẫn còn trong mức độ hợp lý và có thể kiểm soát được. Chính phủ Singapore đã có nhiều biện pháp và chính sách điều chỉnh nhằm đưa đát nước vượt qua khỏi các giai đoạn khó khăn của nền kinh tế, điển hình là việc tăng giá đồng đôla Sing để giảm bớt áp lực lạm phát do giá nhà cửa, giá lương thực thực phẩm, cước vận tải – bưu chính viễn thông tăng vọt. Tỷ giá hối đoái 2.4.1. Tỷ giá hối đoái của đồng đôla Singapore Đô la Singapore (SGD) là tiền tệ của Singapore, hay thường được viêt dưới dang S$ để phân biệt nó với những đồng tiền có tên gọi là Đô la khác. Đồng đô la Singapore được chia thành 100 cents, là một đồng tiền tự do chuyển đổi và điều này cho phép nó được thả nổi theo cung cầu của thị trường ngoại hối, nhưng nó cũng được Cục Tiền Tệ Singapore (Monetary Authority of Singapore – MAS) giám sát dựa vào rổ tiền tệ theo tỷ trọng thương mại. Năm 1997, cuộc khủng hoảng tiền tệ bắt đầu từ Thái Lan và sau đó lan rộng ra khắp các nước Đông Nam Á không chỉ khiến đồng bath (Thái Lan) mà cả đồng Peso (Philippines), đồng Ringit (Malaysia), đồng đô la (Singapore) và đồng Rupiah (Indonesia) cũng đều bị sức ép giảm giá so với USD. 2.4.2. Nhận xét Giai đoạn từ năm 2000 – 2002, tỷ giá giữa đồng đô la Singapore so với đồng đô la Mỹ liên tục tăng (năm 2002 là 1.79). Điều này chứng tỏ trong thời gian này, đồng đô la Sing bị mất giá so với đô la Mỹ. Từ giai đoạn 2003 đến nay, với những chính sách tiền tệ của chính phủ Singapore, giá trị của đô Sing so với đô Mỹ đã phục hồi như trước. Nhìn chung, đồng đô Sing ít bị mất giá hơn, tỷ giá hối đoái tuy có biến động nhưng mức chênh lệch không cao và khá ổn định. Tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động ngoại thương của một đất nước, nó tác động mạnh mẽ đến cán cân thanh toán của đất nước thông qua việc xuất nhập khẩu hàng hóa. Việc đồng đô Sing liên tục tăng giá hay tỷ giá hối đoái liên tục giảm khiến cho hàng hóa nhập khẩu rẻ hơn, trong khi hàng hóa xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn với người nước ngoài làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa với người nước ngoài kém. Điều này gây bất lợi cho xuất khẩu, đặc biệt là một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào xuất nhập khẩu như Singapore. Cán cân xuất nhập khẩu Singapore là một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào các hoạt động xuất nhập khẩu. Do đó, Singapore được xem là trung tâm xuất nhập khẩu hoạt động theo phương thức: mua sản phẩm thô, tinh luyện và xuất khẩu trở lại. Theo tổng cục thống kê Singapore, từ năm 1964 đến năm 2013, nhập khẩu của Singapore trung bình là 11.945.996,5 nghìn SGD, đạt mức cao nhất là 43.135.700 nghìn SGD vào tháng 07/2013 và mức thấp nhất là 266.381,0 SGD vào tháng 07/1964. Tỷ trọng các mặt hàng nhập khẩu chính của Singapore được thể hiện như sau: Tỷ trọng của các đối tác nhập khẩu nhập khẩu của Singapore bao gồm (%) Năm 2000, kim ngạch nhập khẩu của Singapore với các bạn hàng lớn như sau (triệu đô la): T.Trường Năm Trung Quốc Nhật Châu Âu Mỹ ASEAN 2000 651.9 2,100.6 4,294.5 12,733.2 2,612.6 Nhìn chung, kim ngạch nhập khẩu của Singapore sang các thị trường bạn hàng trọng yếu qua các năm đều tăng. Trong đó, tăng mạnh nhất phải kể đến thị trường ASEAN tăng lên đến 27,801.5 triệu đô la, tiếp đến là thị trường Hoa Kỳ và Trung Quốc. Bên cạnh hoạt động nhập khẩu, Singapore là quốc gia xuất siêu mới mức xuất khẩu trung bình là 12.368.298,8 nghìn SGD (từ năm 1964 đến năm 2013) , giá trị xuất cao nhất là vào tháng 03/2011 với mức 46.051.500 ngàn SGD và thấp nhất là vào tháng 07/1964 là 197.677,0 nghìn SGD. Tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu được thể hiện như sau: Tỷ trọng của các thị trường xuất khẩu được xác định như sau: Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu của Singapore với các bạn hàng lớn như sau (triệu đô la): T.Trường Năm Trung Quốc Nhật Châu Âu Hoa Kỳ ASEAN 2000 1,042.5 3,243.9 6,561.4 6,898.2 4,966 Chiếm giá trị cao nhất là 3 thị trường: Hoa Kỳ, Châu Âu và ASEAN. Từ năm 2001-2002, do ảnh hưởng của đại dịch SARS toàn cầu, kim ngạch xuất khẩu của Singapore nhìn chung có giảm ở một số thị trường như Mỹ và Nhật Bản (thị trường Mỹ giảm : 6,764.3 triệu đô, Nhật Bản giảm còn 3,129 triệu đô). Các thị trường trọng điểm khác có tăng, nhưng tốc độ tăng không cao, Trung Quốc tăng 21.42%, Châu Âu tăng 7.12% và ASEAN tăng 9.96%. Kế từ năm 2003 – 2007, kim ngạch xuất khẩu của Singapore ổn định, đến năm 2007, xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 5,127.2 triệu đô, Nhật Bản đạt 7,724 triệu, Liên minh Châu Âu EU đạt 21,520.7 triệu, Hoa Kỳ đạt 14,403 triệu và các nước Đông Nam Á ASEAN đạt 10,958.4 triệu. Đến năm 2008 trở đi, kim ngạch xuất khẩu của Singapore sang các thị trường trọng yếu đa phần đều có dấu hiệu sụt giảm hoặc có tăng, nhưng mức tăng không đáng kể do sự ảnh hưởng lẫn nhau của các thị trường trên Thế giới, như Trung Quốc – Hoa Kỳ - Nhật Bản – EU, giảm mạnh nhất phải kể đến thị trường Hoa Kỳ giảm 1,843.4 triệu đô – nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ năm 2008 và nợ công tại Hy Lạp năm 2010. Cán cân thương mại (hay xuất khẩu ròng) biến động liên tục theo tình hình xuất nhập khẩu. Và cán cân thương mại cả Singapore luôn thặng dư, nghĩa là Singapore có kim ngạch xuất khẩu luôn cao hơn so với kim ngạch nhập khẩu. Tuy nhiên, thương mại Singapore phụ thuộc chặt chẽ vào nền kinh tế khu vực và nền kinh tế thế giới; đặc biệt là các bạn hàng lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, , điều này đồng nghĩa với việc Singapore phải chịu chung số phận, chịu chung bước thăng trầm của những nền kinh tế này. Thất nghiệp Tỷ lệ thất nghiệp qua từng năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015 (2 quý đầu năm) 2.175 2.025 1.95 1.9 1.95 1.075 Nhận xét: Nhìn chung, chính phủ Singapore đã kiểm soát được tình trạng thất nghiệp có hiệu quả. Tỷ lệ thất nghiệp thấp, tuy nhiên chỉ số có việc làm tăng lên không đáng kể., chỉ 2.9%/Nguyên nhân là do nhu cầu làm việc vẫn cao hơn nhu cầu tuyển dụng Đây là dấu hiệu ban đầu cho sự phát triển chậm lại của lực lượng lao động địa phương khi mà một thế hệ bắt đầu bước vào độ tuổi nghỉ hưu và một phần lực lượng lao động trẻ bắt đầu tham gia thị trường. Bên cạnh đó, tăng trưởng lao động nước ngoài chậm lại cũng đồng nghĩa với việc các công ty sẽ phải hoạt động với ít nhân viên hơn và phải thiết kế lại công việc để tăng hiệu suất lao động, đầu tư vào kỹ năng, công nghệ và tìm ra mô hình nhân lực mới để phát triển bền vững. Phân tích các chính sách kinh tế vĩ mô tác động đến nền kinh tế Nhìn chung tốc độ tăng cung tiền của Singapore không cao và khá ổn định. Nguyên nhân là do tỷ lệ lạm phát của Singapore luôn được duy trì ở mức thấp (<10%).Trong đó giai đoạn 1999 – 2005, là giai đoạn nền kinh tế của Singapore có dấu hiệu suy thoái (giảm phát) nhưng tốc độ cung tiền lại khá thấp và hầu như không thay đổi. Giai đoạn 2005- 2011, nền kinh tế Singapore hồi phục, tốc độ tăng cung tiền đều đặn. Singapore đang thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng làm đầu tư và sản lượng tăng, tình trạng thất nghiệp cũng giảm đáng kể. Tuy nhiên, nếu trong tương lai, chính phủ Singapore tiếp tục thực hiện chính sách này sẽ có nguy cơ dẫn đến lạm phát tăng cao. Hiện nay Singapore đang sử dụng chính sách tài khoá mở rộng cụ thể là việc tăng chi tiêu chính phủ lên. Đẩy mạnh việc đầu tư cơ sơ hạ tầng, công trình công cộng, chú trọng phúc lợi xã hội. Điều này làm cho tổng cầu tăng, lãi suất tăng khiến dòng vốn từ nước ngoài sẽ chảy vào trong nước. Điều này làm kích thích tăng trưởng kinh tế, tạo thêm nhiều công ăn việc làm hơn. Tuy nhiên, việc tăng chi tiêu chính phủ trong dài hạn sẽ khiến ngân sách chính phủ thâm hụt, có thể phải đi vay để bù vào hoặc nếu in tiền sẽ dễ gây ra lạm phát. Giai đoạn 2005-2011, tài vãng lai của Singapore luôn thặng dư. Mặc dù trong giai đoạn này, nền kinh tế thế giới cũng như nên kinh tế Singapore có nhiều biến động nhưng tài khoản vãng lai của Singapore vẫn thặng dư. Điều nay có nghĩa là thu nhập từ nước ngoài của Singapore lớn hơn mức chi tiêu trả cho phía nước ngoài. Năm 2005 cán cân vãng lai thặng dư ở mức là: 26.869.422.719 USD. Đến năm 2007, tăng lên mức 46.347.570.005 USD. Năm 2008, cả thế giới chao đảo vì cuộc khủng hoảng tài chính xuất phát từ Mỹ và lan rộng khắp thế giới, Singapore cũng vì thế mà bị ảnh hưởng theo. Năm 2008, cán cân vãng lai giảm xuống ở mức: 28.838.313.309 USD, giảm 37,7% so với năm trước đó nhưng vẫn có mức thặng dư cao hơn năm 2005. Sau năm 2008, khi nền kinh tế Singapore dần hồi phục, mức thặng dư đã tăng dần, năm 2009 thặng dư đạt: 33.482.026.376 USD, năm 2010 đạt 620.255.100.173 USD và năm 2011, tăng lên mức là 653.323.005.068 USD. Nhìn chung tài khoản vốn của Singapore có nhiều biến động do cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 nhưng cán cân vốn của Singapore vẫn luôn ở mức thặng dư, điều này chứng tỏ đầu tư nước ngoài cao hơn đầu tư trong nước, dòng tiền đầu tư có xu hướng đổ vào Singapore. Trước năm 2008, tài khoản vốn tăng cao. Năm 2005 tài khoản vốn chỉ đạt mức là 67812374.26 USD. Đến năm 2007, tài khoản vốn đã đạt mức: 634.192.080,4 USD; tăng 9,35 lần so với năm 2005 và tăng 2,45 lần so với năm 2006. Tuy nhiên, năm 2008 tài khoản vốn tụt xuống chỉ còn 66.383.044,23 USD. Thấp hơn năm 2005 và bằng 0,11 lần so với năm 2008. Nguyên nhân là do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008. Sau năm 2008 tài khoản vốn của Singapore hồi phục dần nhưng rất chậm. Năm 2009 đạt mức là: 149,935,083 USD, năm 2010 là: 131,002,737.4 USD và năm 2011 là: 157,096,084.4. Tuy tài khoản vốn tăng khá chậm nhưng Singapore vẫn là một nước thu hút đầu tư với môi trường phát triển thuận lợi, chế độ kinh tế hàng đầu thế giới. Chính sách thương mại của Singapore phù hợp, thông thoáng, tạo điều kiện phát triển thương mại của đất nước. Nhờ thực hiện tự do hoá thương mại, cùng với những ưu đãi cụ thể mà hàng năm Singapore đã thu hút được một nguồn vốn đầu tư rất lớn từ nước ngoài. Giai đoạn 2005-2011, cũng là một giai đoạn đầy biến động về lĩnh vực đầu tư của Singapore. Xuất phát từ năm 2005, đầu tư nước ngoài của Singapore đạt 18,090,329,984 USD đến năm 2007, mức đầu tư nước ngoài đã đạt 46,972,279,021 USD. Tăng 2,6 lần so với năm 2005 và tăng 1,27 lần so với năm 2006. Năm 2008, đầu tư nước ngoài nhanh chóng giảm xuống còn: 12,199,998,469 USD, giảm 3,8 lần so với năm trước đó. Từ sau năm 2008, Singapore thực hiện nhưng chính sách ưu tiên đầu tư làm thu hút lượng đầu tư trở lại. Năm 2009, mức đầu tư đạt: 24,939,245,829 USD, năm 2010 đạt 53,622,774,583 USD và năm 2011 là 55,922,840,687 USD. Điều này chứng tỏ Singapore vẫn luôn là thị trường tiềm năng và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Bài học kinh nghiệm cho nền kinh tế Việt Nam Một số điểm tương đồng giữa Singapore và Việt Nam Singapore và Việt Nam là 2 quốc gia có thời gian tương đối dài bị đô hộ và trải qua nhiều cuộc chiến trong suốt giai đoạn Thế chiến lần 2: Singapore: thực dân Anh và phát xít Nhật làm chủ đất nước này về mặt kinh tế, chính trị, xã hội cho đến tận năm 1959 mới giành được độc lập. Việt Nam: là quãng thời gian nắm chính quyền của thực dân Pháp, phát xít Nhật và cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ cho đến tận năm 1975 mới có sự thống nhất chung. Về chế độ chính trị do một đảng cầm quyền: Cả Việt Nam và Singapore hiện nay gần như đều đang tồn tại một hình thái chính trị chung đó là do một đảng lãnh đạo Việt Nam: do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sau khi giành độc lập dân tộc năm 1975. Singapore: tuy có tồn tại chế độ đa đảng, song từ ngày đầu độc lập, Đảng Nhân dân Hành động (PAP) đã nắm toàn bộ chính quyền với 3 đời thủ tướng liên tiếp. Tiềm năng phát triển kinh tế biển: Việt Nam và Singapore là hai trong số các quốc gia có nhiều lợi thể về biển nhất trên Thể giới: Cảng biển Singapre là một cảng biển vô cùng nhộn nhịp với lượng hàng hóa giao thương rất lớn. Chính vì có lợi thế này, hàng năm Singapore đã có một nguồn thu đáng kể Về Việt Nam, có hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cũng là hai khu vực có tiềm năng kinh tế không nhỏ. Vì vậy, nếu kết hợp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ với việc phát triển hợp lý khu vực đặc quyền kinh tế của mình, Việt Nam hoàn toàn có thể coi đây là một nguồn lực quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế ngoại thương của quốc gia. Vị trí đều nằm trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam và Singapore chắc chắn sẽ có những chính sách tương đồng trong việc phát triển ngoại thương trong khu vực, khi cả hai đều tham gia tích cực vào các vấn đề chung của ASEAN và cũng là những thành viên năng động trong việc đóng góp thành công của khối thương mại tự do AFTA. Đi theo nền kinh tế thị trường: Cả Việt Nam và Singapore đều nhìn nhận ra được những điểm mạnh mà nền kinh tế thị trường mang lại. Đó là những lợi thế về ngoại thương, phát triển năng lực sản xuất từ gia tăng cạnh tranh, tự do chu chuyển vốn và lao động, kích thích các nguồn lực đầu tư nước ngoài. Cùng tham gia nhiều tổ chức kinh tế trên Thế giới như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tổ chức hợp tác Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) Đây là những tổ chức kinh tế quan trọng trên khu vực và trên Thế giới, góp phần đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế giữa Việt Nam và Singapore. Công ty kinh doanh vốn Nhà nước: Việt Nam và Singapore là một trong ít các quốc gia trên Thế giới đang duy trì công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC của Việt Nam thành lập năm 2005, còn tập đoàn Temasek của Singapore thành lập năm 1974). Về cơ bản, hai tập đoàn này là sử dụng vốn Nhà nước để đầu tư vào các hoạt động kinh tế, xã hội nhằm thu lại lợi nhuận cho quốc gia. Với một nguồn thu tương đối lớn từ thuế và các khoản tiết kiệm quốc dân, các công ty này đóng vai trò điểm tựa vững chắc cho việc nâng cao mức sống người dân trong dài hạn ở cả 2 quốc gia. Gắn sự phát triển của quốc gia với chính sách phát triển thương mại: cả Việt Nam và Singapore đều là các quốc gia có tỷ trọng thương mại trong tổng sản phẩm quốc nội tương đối lớn. Tổng kim ngạch thương mại Việt Nam năm 2009 lớn hơn 1.5 lần, trong khi con số này ở Singapore lên tới 3.63 lần. Tỷ lệ tiết kiệm cao: Singapore có thể nói là một trong các quốc gia có tỷ lệ tiết kiệm cao nhất trên Thế giới. Tỷ lệ tiết kiệm bắt buộc ở Đảo quốc Sư tử là 20 – 25% thu nhập của mỗi người dân. Từ năm 1955 tới 1984, tỷ lệ tiền gửi tiết kiệm đã tăng từ 10% lên đến 50%, tiền gửi được Nhà nước bảo hiểm. Còn người dân Việt Nam từ lâu đời đã có ý thức tiết kiệm nhằm mục đích tiêu dùng trong tương lai. Bài học cho Việt Nam 4.2.1. Phát triển tài chính Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc phân phối vốn, trước hết để thực hiện thành công công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, Chính phủ nên sớm có một khung pháp lý lành mạnh cho tài chính, một hành lang pháp lý và cơ chế giám sát hữu hiệu cho hệ thống ngân hàng nội địa như Singapore, đồng thời, việc sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô cũng như hạn chế những mục tiêu thời kì đầu là cần thiết để kiềm chế sự bùng nổ cho vay, cho vay quá nhiều mà ngân hàng khó kiểm soát được chất lượng tín dụng, hoặc đẩy mạnh phát triển tín dụng theo “kiểu bong bóng” là nguy cơ gây tổn hại cao cho hệ thống ngân hàng. Xây dựng hệ thống ngân hàng có tiềm lực vững mạnh, nhanh chóng đa dạng hóa các hình thức huy động vốn song song với phát triển thị trường tài chính nhằm khai thông vốn trong nước, đồng thời thu hút thêm các nguồn lực nước ngoài để đáp ứng thêm nhu cầu về vốn và kỹ thuật cho quá trình công nghiệp hóa. Bên cạnh đó, Chính phủ cần có biện pháp mở cửa đồng bộ cắt giảm thuế quan, chính sách ưu đãi tín dụng để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. Khi các định chế tài chính trong nước còn yếu kém và tồn tại các sơ hở, nhất là khi hệ thống các ngân hàng chưa đủ khả năng phân phối tín dụng một cách hữu hiệu, việc tự do hóa thị trường vốn ngắn hạn rất nguy hiểm. Dòng vốn ngắn hạn ồ ạt này gây nên hiện tượng “thừa vốn”, dẫn đến tình trạng lãng phí, hâm nóng thị trường bất động sản, và sự đảo ngược dòng vốn này gây ra bất ổn trong thị trường tài chính. Cần phải có sự can thiệp kịp thời của Chính phủ đối với hệ thống ngân hàng, mở rộng tín dụng và thực hiện các chính sách ưu đãi lãi suất đối với những mặt hàng, ngành công nghiệp ưu tiên hướng đến xuất khẩu, nhằm tạo động lực chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vấn đề hỗ trợ lãi suất cho tín dụng cần phải có lộ trình thích hợp với những chỉ tiêu cụ thể, cần phải có chế độ kiểm soát chặt chẽ các khoản tín dụng để tránh nguy cơ thất thoát vốn. Tuy nhiên, sự can thiệp của Chính phủ cũng phải phù hợp với xu thế chung đủ để hoạt động của các ngân hàng không bị gò bó, thiếu linh động, khó khan trong quá trình hội nhập quốc tế. Kết hợp đồng bộ việc sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật về chính sách môi trường kinh tế, cải cách hành chính để mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài đầu tư, cởi bỏ quyền hạn về quyền sư hữu, hình thức hoạt động, kể cả huy động và giao dịch với các đối tác tiền gửi bằng VND và thiết lập các chi nhánh ngân hàng tại các địa phương; mở rộng cung cấp dịch vụ cao cấp, dịch vụ chăm sóc hàng, mở rộng các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt Trong đó, cần nghiên cứu tỷ lệ sở hữu của các cổ đông nước ngoài tham gia đầu tư vào các ngân hàng thương mại Việt Nam (trên 30%) nhằm thu hút vốn gián tiếp từ nước ngoài vào thị trường tài chính Việt Nam. Để nâng cao sức cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam khi mở rộng cửa cho các ngân hàng nước ngoài đầu tư, Việt Nam cần tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng theo hướng hiện đại hóa; tăng vốn điều lệ tối thiểu của các ngân hàng để đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài, đồng thời, củng cố hệ thống các ngân hàng thương mại trên địa bàn các địa phương nhằm hạn chế sự thâm nhập và lan tỏa của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại đây. 4.2.2. Chính sách tài chính công Đối với nền tài chính công, Việt Nam có thể học ở Singapore một số bài học sau: Chống tham nhũng, lãng phí quyết liệt và có hiệu lực trên mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội và chi tiêu tùy tiện công quỹ Nhà nước là biện pháp hữu hiệu không thể không đề cập trong việc hiệu quả hóa ngân sách Nhà nước trong điều kiện hiện nay. Tập trung nhiều hơn vào khu vực kinh tế tư nhân thay vì dồn quá nhiều vốn cho doanh nghiệp Nhà nước. Khu vực tư nhân chính là điểm xuất phát cho sự tăng trưởng của quốc gia, là điểm nguồn cho sự sáng tạo, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút lực lượng lao động khổng lồ Singapore là điển hình cho việc tập trung vào kinh tế tư nhân khi gói kích cầu trị giá 20,5 tỷ SGD, họ đã dành tới 8.4 tỉ (40.9 % - năm 2009) cho khu vực doanh nghiệp này. Để sử dụng hợp lý nguồn tài sản quốc gia, Singapore đã có một cách hữu hiệu là thành lập công ty đầu tư và kinh doanh vốn Temasek, năm 1974. Năm 2005, Việt Nam thành lập tập đoàn kinh doanh và đầu tư Nhà nước (SCIC), với vốn điều lệ là 15.000 tỷ đồng có thể coi là một bước ngoặt để chúng ta học hỏi và nhân rộng mô hình này. KẾT LUẬN Qua quá trình nghiên cứu tình hình kinh tế vĩ mô của Singapore, chúng ta đã có những hiểu biết về tình hình kinh tế và những chính sách kinh tế vĩ mô của Singapore. Là một đất nước không được thiên nhiên ưu ái các điều kiện về tự nhiên nhưng chính phủ Singapore luôn đưa ra những chính sách phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện của mình bằng việc chuyển sang nền kinh tế tri thức, chú trọng việc buôn bán giao thương với các nước trên Thế giới; áp dụng các chính sách mậu dịch thương mại mở rộng. Điều này đã tạo ra cho Singapore một môi trường kinh doanh lành mạnh và thuận lợi cho các nguồn đầu tư trong và ngoài nước, là một điểm sáng về kinh tế vô cùng hấp dẫn của khu vực Châu Á nói chung và vùng Đông Nam Á nói riêng. Singapore đã, đang và sẽ là một thành phố phát triển năng động, một trong các đầu mối giao nhau của các mạng lưới giao thương mua bán và dịch vụ không chỉ của khu vực Châu Á mà còn mở rộng ra toàn thế giới Một lần nữa, Singapore đã khẳng định được với bạn bè khắp năm châu rằng “Chúng tôi phải cho Thế giới biết đến sự tồn tại của chúng tôi trên bản đồ chứ không phải là một dấu chấm mờ nhạt khó tìm”.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docdan_bai_tieu_luan_tai_mon_kinh_te_vi_mo_sua_copy_4875.doc
Luận văn liên quan