Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc mang nhiều luận điểm sáng tạo,làm phong phú đường lối đấu tranh cách mạng của Đảng góp phần vô cùng to lớn vào giá trị thực tiễn và lý luận
Hồ Chí Minh đã định đoạt con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo khuynh hướng chính trị vô sản.Người đã vận dụng kết hợp khai hóa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp và gắn độc lập dân tộc với định hướng chủ nghĩa xã hội.Vì vậy lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là một hệ thống những luận điếm sáng tạo và lý luận đó luôn đúng đắn.Cũng chính lý luận ấy đã làm phong phú them chủ nghĩa Mác-LêNin về cách mạng thuộc địa.
Hồ Chí Minh đã từng bước tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc một cách hết sức độc đáo,sáng tạo thấm nhuần tính nhân văn.Đó là phương pháp khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân.Người đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết LêNin về cách mạng thuộc địa thành hệ thống luận điểm mới mẽ sáng tạo.Chính Hồ Chí Minh đãlàm chuyển hóa tính cách mạng từ việc tập hợp các thanh niên yêu nước dẫn dắt họ đi theo đất nước.Chúng ta phải biết khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước trên lập trường giai cấp công nhân,cùng nhau xây dựng mối đoàn kết toàn dân,giữa các dân tộc an hem.Góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh dân chủ công bằng xã hội văn minh,sánh vai được với các cường quốc trên thế giới
12 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 14153 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác, con đường cách mạng vô sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
*******
BÀI TẬP MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Giáo viên hướng dẫn:Tiến sĩ:Nguyễn Thị Bích Thủy
Sinh viên:Nguyễn Lê Quỳnh Trâm
Mã sinh viên:CQ513941
Lớp tín chỉ:25
Năm học:2010-1011
Đề ra:
Phân tích câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác,con đường cách mạng vô sản’’
Ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam?
Bài làm:
I.ĐẶT VẤN ĐỀ:
1.Cơ sở khách quan
1.1.Điều kiện lịch sử xã hội
-Bối cảnh xã hội Việt Nam từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX
Người sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước có nhiều biến động.trong nước chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành một số chính sách đối nội đối ngoại bảo thủ phản động:tăng cường đàn áp bóc lột nhân dân.Triều đình nhà Nguyễn bạc nhược đã lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hang thừa nhận nền bảo hộ của Pháp trên đất nước ta.
Đến cuối thế kỉ XIX các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu”Cần Vương”do các sĩ phu văn than lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại.điều này chứng tỏ hệ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời trước hoàn cảnh hiệm vụ của kịch sử.
Sự khai thác bóc lột của thực dân Pháp đã khiến cho xã hội Việt Nam có sư phân hóa và chuyển biến rõ rệt,giai cấp công nhân,tiểu tư sản và tư sản xuất hiện tạo ra tiền đề bên trong phong trào yêu nước giải phóng dân tộc.
Phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc các sĩ phu yêu nước tiên bộ tiêu biểu như Phan Bội Châu ,Phan Châu Trinh đã tổ chức vận đông cuộc đấu tranh yêu nước chống Pháp.Song chủ trương của hai bậc tiền bối đều đã thất bại.Còn con đường của Hoàng Hoa Thám thì mang nặng”cốt cách phong kiến”chưa phải là hương đi đúng đắn.Từ đó,phong trào yêu nước của nhân dân ta muốn thắng lợi thì cần có một con đường mới.
-Hoàn cảnh thế giới bấy giờ:
Lịch sử thế giới trong giai đoạn này cũng đang có nhứng biến đổi hết sức to lớn.Chủ nghĩ tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do chuyển sang độc quyền và thống trị trên phạm vi toàn cầu.Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của nhân dân thuộc địa.
Các cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản chủ nghĩa cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã dẩn đến một cao trào cách mạng thế giới và đỉnh cao là cách mạng tháng Mười Nga 1917.
Cuộc cách mạng này đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết lâp chính quyền Xô Viết-mở ra mọt kỉ nguyên mới cho lịch sử loai người và đã thức tỉnh các dân tộc châu Á cũng như toàn thế giới.Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga đã dẫn đến sự ra đời của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết(1922).Tiếp đó là sự ra đời của quốc tế Cộng sản(3-1919) đã làm cho phong trào công nhân ở các nước có được mối quan hệ mật thiết với nhau cùng đấu tranh chông chủ nghĩa đế quốc.
1.2.Những tiền đề về tư tưởng lý luận
- Giá trị truyền thông của dân tộc.
Những giá trị truyền thông hết sức đặc sắc và cao quý của dân tộc Việt Nam đã được hình thành từ lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời và trở thành tiên đề tư tưởng xuất phát hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.Đó là truyền thông yêu nước kiên cường bất khuất,long nhân nghĩa,là ý chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn thư thách,thông minh ,tài sáng tạo.
Chủ nghĩa yêu nước là truyên thống tư tưởng tình cảm cao quý nhất.Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước đã thúc dục Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước đấu tranh giải phóng dân tộc.Cũng chính từ thực tiển đó Hồ Chí Minh đã đúc kết thành chân lý”dân ta có một làng nồng nàn yêu nước.Đó là truyền thống quý báu của ta.Từ xưa đến nay mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi,nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ ,to lớn,nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn,nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”
- Tinh hoa văn hóa nhân loại
Đó là sư kết hợp giữa các giá trị truyền thống của văn hóa phương Đông với thành tựu văn hóa phương Tây để góp phần hình thành nhân cách văn hóa Hồ Chí Minh.
Văn hóa phương Đông đối với Hồ Chí Minh là sự chắt lọc lấy những gì tinh túy nhất trong các học thuyết triết học,trong tư tưởng của Lảo Tử,Mặc Tử,Quản Tử ...Người còn tiếp thu những mặt tích cực của Nho Giáo.Về Phật Giáo,Hồ Chí Minh tiếp thu va fchiuj ảnh hưởng sâu sắc các tư tưởng vị tha,từ bi bác ái,cứu khổ cứu nạn,thương người...là nếp sống có đạo đức trong sạch,giản dị.Không những thế Người còn tiếp tục tìm hiểu chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn .
Cùng với tư tưởng triết học phương Đông,Hồ Chí Minh còn nghiên cứu tiếp thu ảnh hưởng của nền văn hóa dân chủ và cách mạng phương Tây.Nhìn chung lại,trên hành trình yêu nước Hồ Chí Minh đã tự làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại.Cùng với đó là sự suy nghĩ,lựa chọn ,kế thừa,đổi mới vân dụng và phát triển.
- Chủ nghĩa Mác-Lê Nin
Hồ Chí Minh đã tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lê Nin trên nền tảng của tri thức văn hóa tinh túy được chắt lọc và một vốn chính trị,hiểu biết vô cùng phong phú được Người tích lũy qua thực tiễn hoat động đấu tranh vì mục tiêu giải phóng dân tộc khọi áp bức nô lệ.
Từ những nhân thức ban đầu về chủ nghĩa Lê Nin,Hồ Chí Minh đã tiến dần tới những nhận thức “lý tính”trở lại nghiên cứu Mác sâu sắc hơn đẻ rồi tiếp thu học thuyết của họ một cách có chọn lọc,không sao chép giáo điều.Người tiếp thu bằng cách nắm lấy tinh thần bản chất để vân dụng vào thục tiễn cách mạng Việt Nam.
2.Cơ sở chủ quan
- Khả năng tư duy và trí tuệ thiên tài của Hồ Chí Minh .
Suốt những năm tháng hoạt động bôn ba trên thế giới Người đã không ngừng quan sát,nhận xét thực tiễn,làm phong phú thêm sự hiểu biết của mình để tạo dựng nên những thành công trong lĩnh vực hoạt động lý luận của Người sau này.
Trong quá trình tìm đường cứu nước Hồ Chí Minh đã khám phá ra các quy luật vận động xã hội đời sống văn hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể khái quát thành lý luận và vận dụng vào thực tiễn.Nhờ vậy mà lý luận của Người mang tính khách quan,cách mạng và khoa học.
- Phấm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn
Phẩm chất và tài năng đó được biểu hiện trước hết ở tư duy đối lập,tự chủ sáng tạo với sự sáng suốt tinh tường của Người.Phẩm chất và tài năng ấy cũng được thể hiện ở bản lĩnh kiên định,kiêm tốn,giản dị,ham học hỏi của Người.Hồ Chí Minh vì thế đã trở thành anh hung giải phóng dân tộc,lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.
Người còn là một nhà yêu nước chân chính,một chiến sĩ nhiệt thành với cách mạng,một trái tim yêu nước thương dân,sẵn sang hi sinh vì độc lập tự do của Tổ Quốc.Hồ Chí Minh cùng với tư tưởng của Người đã trở thành tư tưởng Việt Nam hiện đại của mọi thế hệ hôm nay và mai sau.
II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
II.1.Phân tích nội dung:
Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác.con đường cách mạng vô sản”
1.Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc:
1.1.Tính chất,nhiệm vụ của cách mạng giải phóng dân tộc
Sau một quá trình tìm hiểu và phân tích,Hồ Chí Minh đã nhận thấy sự phân hóa giai cấp ở các nước thuộc địa phương Đông không giống như ở các nước tư bản phương Tây.Các giai cấp ở thuộc địa đều có chang một số phận giống nhau là mất nước,chịu làm nô lệ,nếu như mâu thuẫn ở các nước tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản thì mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa phương Đông là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực dân.
Hồ Chí Minh đã phân tích:“xã hội phương Đông ,Ấn Độ hay Trung Quốc xét về mặt cấu trúc kinh tế không giống các xã hội phương Tây thời trung cổ cũng như thời cận đại,và đấu tranh giai cấp không quyết liệ bằng ở đây”.Do mâu thuẫn chủ yếu khác nhau nên tính chất cuộc đấu tranh cách mạng cũng khác nhau,nếu như ở các nước tư bản chủ nghĩa phải tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp thì ở các nước thuộc địa trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu,trên hết,trước hết của cách mạng Việt Nam. Giải phóng dân tộc,xét về thực chất là đánh đổ ách thống trị,áp bức,xâm lược của đế quốc thực dân giành độc lập dân tộc,hình thành nhà nước dân tộc,độc lập và tự do lựa chọn con đường phát triển của dân tộc phù hợp với xu thế phát triển của thời đại,tiến bộ xã hội.Yêu cầu bức thiết của nhân dân các nước thuộc địa là độc lập dân tộc,trong phong trào cộng sản quốc tế có quan điển cho rằng “vấn đề cơ bản của cách mạng thuộc địa là vấn đề nông dân”. Và chủ trương vấn đề ruộng đất,nhấn mạnh đấu tranh giai cấp
Ở các nước thuộc địa nông dân là nạn nhân chính của chính sách khai thác thuộc địa,bóc lột tô thuế và cướp đoạt ruộng đất,vì thế kẻ thù số một của nông dân là bọn đế quốc thực dân.
Mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa là mâu thuẫn dân tộc,quy định tính chất và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc.Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”Nguyễn Áí Quốc đã nhấn mạnh tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc,Người nói rõ: “giai cấp nông dân là số lượng lớn nhất trong dân tộc nên giải phóng dân tộc chủ yếu là giải phóng nông dân,nông dân có yêu cầu về ruộng đất.Khi tiến hành đánh đổ chủ nghĩa đế quốc,yêu cầu đó cũng phần nào được đáp ứng vì ruộng đất của bọn đế quốc và tay sai sẽ thuộc về nông dân.Đế quốc và tay sai là kẻ thù số một của nông dân,lật đổ chế độ thuộc địa là nguyện vọng hàng đầu của nông dân.Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam càng được thể hiện rõ hơn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Áí Quốc soạn thảo.Tại hội nghị lần thư 8 ban chấp hành trung ương Đảng(5-1941) do Hồ Chí Minh chủ trì đã quyết định thành lập mặt trận Việt Minh thực hiện đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công-nông,giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc,nhấn mạnh đó là nhiện vụ bức thiết nhất,chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và chỉ tiến hành nhiêm vụ đó ở một mức độ nhất định,thích hợp nhằm phục vụ cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc.Trong kháng chiến chống thực dân Pháp,Người cũng đã nêu rõ và khẳng định “trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi,thông nhất,độc lập nhất định thành công”.Đó không những là quyết tâm mà còn là nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam bấy giờ.
1.2.Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là đấu tranh giành độc lập dân tộc đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Từ khi Nguyễn Áí Quốc tìm ra con đường cứu nước,tin tưởng vào chủ nghĩa Mac_Lênin và quốc tế thứ 3 thì mục tiêu giải phóng dân tộc ngày càng được thể hiện rõ hơn.mục tiêu cấp thiết của câchs mạng thuộc địa chưa phải là giành quyền lợi riêng biệt cũa mổi giai cấp mà quyền lợi chung của toàn dân tộc.đó là những mục tiêu của chiến lược đấu tranh dân tộc,phù hợp với xu thế của mỗi thời đại cách mạng chống đế quốc.
Tuy nhiên do những hạn chế trong nhận thức và thực tiễn của cách mạng thuộc đia,lại chịu ảnh hưởng của tư tưởng giáo điều,tả khuynh nhấn mạnh chiều đấu tranh giai cấp.hội nghị lần thứ nhất ban chấp hành trung ương đảng(10/1930) đả phê phán những quan điểm của Nguyển Áí Quốc,nhưng với bản lĩnh cách mạng kiên cường bám sát thực tiễn Viêt Nam,kiên quyết chống giáo điều,tại Hội nghị lần thứ Tám ban chấp hành Trung Ương Đảng chủ trương thay đổi chiến lược từ nhấn mạnh đấu tranh giai cấp sang đấu tranh giải phóng dân tộc,hội nghị khẳng định cuộc cách mạng Đông Dương là hiện tại không phải là cuôc cách mạng tư sản dân quyền,cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề:phản đế và điền địa nữa mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần thiết “dân tộc giải phóng” vậy thì cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiên tại là một cuộc cách mạng giải phóng”.
Cuối cùng thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945 cũng như thắng lợi năm 1975 đã khẳng định dược đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn và tư tưởng độc lập,tư do của Hồ Chí Minh.đem lại kết quả vô cùng ý nghĩa cho cách mạng Việt Nam
2.Con đường cứu nước giải phóng dân tộc-con đường cách mạng vô sản:
2.1.Con đường cứu nước của thế hệ đi trước
Giửa thế kỈ XX,chế độ phong kiến ở Việt Nam,do triều đình nhà Nguyễn đại diện,đang trong quá trình khủng hoảng trầm trọng và suy vong,biểu hiện cụ thể và tập trung là sự bộc phát kịch liệt của chiến tranh nông dân trên phạm vi cả nước.
Sau một quá trình điều tra lâu dài,sáng ngày 1/9/1958 thực dân Pháp đả nổ súng xâm lược Viêt Nam.
Trước sự xâm lược trắng trợn đó,đòi hỏi giai cấp phong kiến cầm quyền phải có trách nhiệm bảo vệ nền độc lập của dân tộc.Nhưng ngay từ đầu giai cấp đó đã trở nên hèn nhát và bất lực,nhanh chóng phân hóa,từng bước nhượng bộ,để cuối cùng đầu hàng toàn bộ.
Đối với thái độ triều đình nhà Nguyễn,nhân dân cả nước đã sôi nổi vùng dậy chống giặc ngay nhửng ngay đầu khi chúng xâm phạm bờ cõi thiêng liêng của Tổ quốc.Phong trào nhân dân kháng chiến ngày một dâng cao trong đó yêu cầu chặt chẽ hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến ngày càng trở nên cần thiết và tất yếu.với bản hiệp ước ô nhục được kí kết ngày 6/6/1884 triều đình nhà Nguyễn vì lợi ích riêng ích kỉ,thiển cận giai cấp sợ mất ngôi hơn là sợ mất nước,đã nhượng bộ và thỏa hiệp với đế quốc,cấu kết với đế quốc chống lại nhân dân đứng lên chống đế quốc đế cưu nước.
Vượt lên tình hình bất lợi đó,nhân dân ta vân anh dũng đứng lên đẩu tranh,phong trào Cần Vương(1885-1896) dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước chống thực dân Pháp trở nên rầm rộ trong cả nước kéo dài gần trọn 20 năm cuối thế kỉ XIX nói về phong trào cần vương,đồng chí Lê Duẩn đả vạch rõ”một bộ phận của phong kiến,một số sỉ phu trí thức thấy rõ quyền lợi của phong kiến chỉ là quyền lợi làm tay sai cho đế quốc,nên đã đứng lên chống đế quốc pháp,nhưng tinh thần phản đế cứu nước mạnh mẽ trong tầng lớp này không phải căn bản dưa trên sinh lực một phần nào đó của chế độ phong kiến còn sót lại,mà chính là tinh thần độc lập của dân tộc,cơ sở văn hóa ngàn năm của dân tộc,đang sinh sống trong những người trí thức dân tộc,trong quần chúng lao động bôt phát dưới ngọn cờ Cần Vương”.
Nhưng các sĩ phu cuối thế kỉ XIX như Phan Đình Phùng,Ngô Xuân Ôn, Nguyễn Thiện Thuật, Ngô Quang Bích....tuy giàu lòng yêu nước căm thù sâu sắc bọn Pháp xâm lược, đều xuất than tứ giai cấp phong kiến đả mất vai trò lịch sử nên không có thời gian thống nhất toàn bộ đấu tranh dân tộc về một mối.cũng trong các thời kì đó bên cạnh các phong trào do họ cầm đầu vẩn có các cuộc đấu tranh tự giác của nông dân,với đỉnh cao là của nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo(1885-1913).
Cuối cùng phong trào đấu tranh vũ trang cuối thế kỉ XIX của nhân dân ta đã bị dập tắt trong biển máu.kẻ thù trên đà thăng thê nhưng vẫn kinh hoàng,nhìn nhận mọt thực tế vô cùng nguy hiểm đối với chúng: “chúng ta không biết rằng việt nam là một dân tộc kiên cường ,gắn bó với lịch sử riêng của mình,với những thể chế riêng và thiết tha với nền độc lập của mình.chúng ta không biết rằng trong các thế kỉ trước việt nam chưa bao giờ chịu khuất phục trước kẻ xâm lược,tình trạng của chúng ta là rất đổi khủng khiếp,vì chúng ta phải đương đầu với một dân tộc thống nhất mà ý thức dân tộc của họ không hề bị suy yếu”.
Sự thất bại đau thương của các phong trào trên bộc lộ một tình trạng khủng hoảng trầm trọng về sự lãnh đạo,những sỉ phu yêu nước chống thực dân pháp cuối thế kỉ XIX bị điều kiện giai cấp và giai cấp hạn chế,nên trong khi dựng cơ khởi nghĩa cứu nước,họ vẩn mang ngọn cờ phong kiến đả suy đồi,không còn tiêu biểu cho dân tộc,một chế độ phong kiến dù độc lập,với những điều kiện lịch sử của Việt Nam lúc đó thì không còn thích hợp nữa.Vì vậy chỉ sau một thời kì phát triển bồng bột buổi đầu,phong trào đã dần dần trở nên rời rạc,lẻ tẻ và cuối cùng tan rã.Nó tuyệt nhiên không có điều kiện mở rộng để phát triển thành một cao trào cách mạng sôi nổi,khả dĩ đánh đổ được bọn đế quốc xâm lược,lật đổ được bạn phong kiến tay sai để khôi phục được nền độc lập của dân tộc và mang lại ruộng đất cho nông dân.Phong trào đấu tranh vũ trang cuối thế kỉ XIX thất bại đã kết thúc thời kì xâm lược và “bình định” của giăc Pháp tại Việt Nam.
Thế kỉ XX mở màn chà đạp lên gót dày còn rỉ máu của phong trào kháng chiến của nhân dân ta vừa thất bại,bọn tư bản Pháp bắt tay ngay vào việc khai thác bóc lột để biến Việt Nam thành thuộc địa bảo đảm lợi nhuận cao nhất cho chúng.Đợt khai thác bóc lột thuộc địa Việt Nam lần thứ nhất bắt đầu trên quy mô cả nước,với một tốc độ nhanh,có tính hệ thống,đã gây nhiều biến đổi cho cách mạng Việt Nam về các mặt.Một phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dưới hình thái thực dân đã được du nhập vào nước ta,đồng thời quan hệ bóc lột phong kiến vẫn được duy trì ở nông thôn,cơ cấu xã hội bắt đầu thay đổi nhưng lực lượng xã hội mới hình thành và phát triển cùng với sự phân hóa giai cấp cũ,bộ mặt các thành thị cũng đổi khác,kéo theo luôn sự thay đổi của ý thức xã hội,của đời sống con người.
Như vậy là, vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Từ đó, Người quyết tâm đưa dân tộc Việt Nam đi theo con đường đó.
2.2.Con đường giải phóng dân tộc-con đường cách mạng vô sản
Thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam cuối thế ki XIX đầu thế kỷ XX chứng tỏ rằng, những con đường giải phóng dân tộc phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là không đáp ứng được yêu cầu khách quan là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. Hồ Chí Minh rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Người không tán thành các con đường cứu nước ấy, mà quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu nước mới.
Tháng 7-1920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, Người thấy "tin tưởng, sáng tỏ và cảm động". Người khẳng định: "Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta"1. Người đã tìm thấy trong lý luận của V.I. Lênin một con đường cứu nước mới: con đường cách mạng vô sản.
Đầu năm 1923, trong Truyền đơn cổ động mua báo Người cùng khổ (Le Paria), Người viết: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc..."
Như vậy là, vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Từ đó, Người quyết tâm đưa dân tộc Việt Nam đi theo con đường đó.
Con đường cách mạng vô sản, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, bao hàm những nội dung chủ yếu sau:
- Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và dần dần từng bước "đi tới xã hội cộng sản".
- Lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân mà đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản.
- Lực lượng cách mạng là khối đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và lao động trí óc.
- Sự nghiệp cách mạng của Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, cho nên phải đoàn kết quốc tế dưới ngọn cờ tư tưởng
II.2.Vận dụng vào quá trình đổi mới đất nước:
Hưởng ứng lệnh Tổng khởi nghĩa, khắp nơi quần chúng đã đồng loạt nổi dậy giành chính quyền. Với khí thế sục sôi, quyết liệt và nhanh chóng, chỉ trong vòng hai tuần lễ, cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn. Chế độ thuộc địa và chế độ quân chủ ngự trị trên đất nước ta đã bị lật nhào. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới trong sự phát triển lịch sử dân tộc, kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã để lại nhiều bài học quý báu, trong đó có bài học Đảng ta đã kịp thời nắm bắt và tận dụng được thời cơ lịch sử, với phương pháp cách mạng và tài tổ chức đầy mưu lược, vượt qua thách thức, chạy đua với thời gian, lãnh đạo toàn dân nổi dậy giành lấy chính quyền; đồng thời, đứng ở địa vị là chủ nhân của đất nước Việt Nam mà tiếp đón quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật. Với việc tiên đoán đúng thời cơ, chớp lấy thời cơ một cách tài tình, khôn khéo, đã chứng minh sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự quyết tâm, sẵn sàng của toàn dân, với lực lượng vũ trang làm nòng cốt, có vai trò quyết định đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám.
Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc, thể hiện cụ thể trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3/1945: “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi lúc 23 giờ 30 ngày 13/8/1945, hiệu triệu toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Chọn thời điểm 13/8 để phát động Tổng khởi nghĩa là vô cùng sáng suốt, bởi vì vào thời điểm đó, cách mạng đã lên đến cao trào, lực lượng cách mạng đã lôi kéo được các tầng lớp trung lưu, lưng chừng.
Lúc đó quân Nhật bại trận, mất tinh thần cao độ, chỉ ngồi chờ quân đồng minh tới tước vũ khí, ngụy quyền tay sai tan rã và đã tỏ thái độ đầu hàng lực lượng cách mạng. Thời cơ khởi nghĩa ngàn năm có một đó đã được lựa chọn một cách chính xác trong khoảng 15 ngày trước khi quân Tưởng và quân Anh đổ bộ vào Đông Dương. Nếu phát động Tổng khởi nghĩa sớm hơn, nhân dân ta sẽ tổn hại nhiều xương máu. Nếu phát động Tổng khởi nghĩa muộn hơn, khi quân đồng minh đã vào Đông Dương thì cách mạng Việt Nam sẽ mất đi thế chủ động của mình và sẽ gặp nhiều khó khăn khác.
Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám đã được nhân lên gấp bội, đã tiến hành Tổng khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước trong thời gian ngắn. Thành công của cuộc Tổng khởi nghĩa thể hiện sâu sắc sự nhạy bén, mẫn cảm cách mạng của Đảng; biểu hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong quá trình chuẩn bị và tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
Bài học về dự đoán chính xác thời cơ và nắm đúng thời cơ trong những bước ngoặt lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Ngày nay, xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa kinh tế ngày càng tăng mạnh. Đồng thời, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển cũng diễn ra mạnh mẽ trên thế giới.
Đó là những thời cơ mới tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Ở nước ta, đường lối, chính sách gần hai mươi lăm năm đổi mới của Đảng và Nhà nước đã mang lại những thành tựu to lớn, tạo điều kiện cho đất nước tiến lên theo xu thế phát triển chung của thời đại. Đất nước ta đang bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vững bước đi lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện đường lối phát triển kinh tế đất nước trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương tích cực và chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Việc nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đó là kết quả của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Bước vào “sân chơi” WTO đã mở ra cho đất nước ta những cơ hội, thuận lợi mới để phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từng bước củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phòng, quân sự để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tất yếu nảy sinh không ít khó khăn, thách thức mới cả trực tiếp và gián tiếp, tác động tiêu cực đến việc bảo vệ độc lập chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở nước ta, cơ hội và thách thức luôn đan xen. Ngày nay, tuy đất nước đã đạt được nhiều thành tựu mới trong quá trình chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới, nhưng vẫn đang phải đối mặt với không ít nguy cơ và thách thức, đặc biệt là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, và nguy cơ chệch định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng nước ta. Vì vậy, đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta và đối với mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên là phải tích cực nghiên cứu, vận dụng tốt những bài học lịch sử trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vào thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ. Thực hiện phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, biết phân tích, dự đoán và biết chớp lấy thời cơ, nắm chắc và tận dụng có hiệu quả thời cơ để mang lại lợi ích cho quốc gia, cộng đồng, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó là thước đo bản lĩnh cách mạng, sự mẫn cảm và nguyên tắc lãnh đạo của Đảng ta trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Kể từ Cách mạng Tháng Tám thành công đến nay đã tròn 65 năm, cách mạng Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn, nhiều bước ngoặt lớn với những thử thách vô cùng to lớn. Nhưng dù ở giai đoạn nào, dù thử thách có to lớn đến đâu Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn biết dựa vào nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân mà phục vụ, vượt qua mọi khó khăn thách thức để giành thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng. Với tinh thần và ý chí được khơi nguồn từ Cách mạng Tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân, toàn quân ta quyết tâm vượt qua thử thách, phấn đấu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
III.KẾT LUẬN:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc mang nhiều luận điểm sáng tạo,làm phong phú đường lối đấu tranh cách mạng của Đảng góp phần vô cùng to lớn vào giá trị thực tiễn và lý luận
Hồ Chí Minh đã định đoạt con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo khuynh hướng chính trị vô sản.Người đã vận dụng kết hợp khai hóa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp và gắn độc lập dân tộc với định hướng chủ nghĩa xã hội.Vì vậy lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là một hệ thống những luận điếm sáng tạo và lý luận đó luôn đúng đắn.Cũng chính lý luận ấy đã làm phong phú them chủ nghĩa Mác-LêNin về cách mạng thuộc địa.
Hồ Chí Minh đã từng bước tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc một cách hết sức độc đáo,sáng tạo thấm nhuần tính nhân văn.Đó là phương pháp khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân.Người đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết LêNin về cách mạng thuộc địa thành hệ thống luận điểm mới mẽ sáng tạo.Chính Hồ Chí Minh đãlàm chuyển hóa tính cách mạng từ việc tập hợp các thanh niên yêu nước dẫn dắt họ đi theo đất nước.Chúng ta phải biết khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước trên lập trường giai cấp công nhân,cùng nhau xây dựng mối đoàn kết toàn dân,giữa các dân tộc an hem.Góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh dân chủ công bằng xã hội văn minh,sánh vai được với các cường quốc trên thế giới
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh- Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác,con đường cách mạng vô sản’’ Ý nghĩa đối với .docx