Phân tích làm sáng tỏ vai trò của BHXH trong đời sống kinh tế xã hội,những thành tựu và hạn chế trong việc thực thi vai trò của BHXH và giải pháp để nâng cao vai trò của BHXH ở Việt Nam hiện nay.
15 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7215 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích làm sáng tỏ vai trò của bảo hiểm xã hội trong đời sống kinh tế xã hội,những thành tựu và hạn chế trong việc thực thi vai trò của bảo hiểm xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trên thế giới, BHXH xuất hiện cách đây hàng trăm năm. Ngày nay, BHXH đã trở thành một công cụ hữu hiệu, mang tính xã hội to lớn,mang tính nhân văn sâu sắc để giúp con người vượt qua những khó khăn, rủi ro phát sinh trong cuộc sống và trong quá trình lao động như bị ốm đau, chăm sóc y tế, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, mất khả năng lao động, già cả hoặc bị chết, bằng việc lập các quỹ BHXH từ sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và Nhà nước để trợ giúp cho họ khi gặp các rủi ro trên. Vì thế, BHXH ngày càng trở thành nền tảng cơ bản cho an sinh xã hội của mỗi quốc gia,của mọi thể chế nhà nước và được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới.
Ở nước ta, Đảng và Chính phủ luôn xác định chính sách BHXH là chính sách xã hội lớn ,có tính nhân văn sâu sắc, có tầm quan trọng và vai trò to lớn đối với cuộc sống con người:BHXH góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động ,ổn định sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp,ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc….
Như vậy vai trò to lớn của BHXH là không thể phủ nhận,đó cũng là lý do để em đi vào tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề này, với mục đích:Phân tích làm sáng tỏ vai trò của BHXH trong đời sống kinh tế xã hội,những thành tựu và hạn chế trong việc thực thi vai trò của BHXH và giải pháp để nâng cao vai trò của BHXH ở Việt Nam hiện nay.
Bài viết dù đã cố gắng rất nhiều nhưng cũng không tránh khỏi những sai sót,khiếm khuyết.Bởi vậy ,kính mong các thầy cô có những nhận xét và đánh giá để những bài viết sau em hoàn thành tốt hơn.Em xin cảm ơn.
I:CƠ SỞ LÝ LUẬN.
Khái niệm BHXH:
BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp những rủi ro làm giảm hoặc mất đi khả năng thu nhập từ lao động hoặc mất việc làm thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, nhằm đảm bảo an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
Về bản chất:
BHXH là hình thức bảo hiểm thu nhập cho người lao động ,là sản phẩm tất yếu khách quan của xã hội phát triển,là hình thức dịch vụ công để quản lý và đáp ứng nhu cầu chia sẻ rủi ro trong cộng đồng,là quyền cơ bản của người lao động.
Bảo hiểm xã hội vừa để thực hiện mục đích xã hội ,vừa để thực hiện các mục đích kinh tế trong mỗi cộng đồng quốc gia.Trong đó,mục đích kinh tế và mục đích xã hội luôn luôn được thực hiện đồng thời,đan xen lẫn nhau,là hai mặt không thể tách rời của BHXH.Khi đề cập đến các lợi ích kinh tế của BHXH đối với người lao động và đối với xã hội là đã bao hàm cả mục đích xã hội của nó .Ngược lại,các mục đích xã hội của BHXH cũng chỉ đạt được khi nó đồng thời mang lại các lợi ích kinh tế thiết thực cho người tham gia.
Về chức năng:
Thứ nhất:BHXH bảo đảm bù đắp hoạc thay thế một phần thu nhập cho người lao động.
Thứ hai:BHXH phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH.
Thứ ba:BHXH góp phần kích thích nâng cao năng suất lao động của cá nhân và toàn xã hội.
Thứ tư:BHXH góp phần thu hút lao động,hình thành và phát triển thị trường lao động,gắn bó các lợi ích ngưòi lao động với người sử dụng lao động và lợi ích xã hội.
Vai trò của BH nói chung:
Nhanh chóng góp phần ổn định cuộc sống,khôi phục sản xuất và làm cho sản xuất kinh doanh của những người tham gia bảo hiểm tiếp tục phát triển bình thường nếu như đối tượng được của họ gặp rủ ro, sự cố gây tôn thất .Bởi lẽ, thông qua quỹ bảo hiểm được tạo lập từ trước một cách chủ động,có ý thức từ phí bảo hiểm của những người tham gia, tổn thất của một hay một số người sẽ bị phân tán ,dàn mỏng theo quy luật “số đông bù số ít”.
Nếu tham gia bảo hiểm, các cá nhân ,tổ chức kinh tế -xã hội sẽ được nhà bảo hiểm phối hợp quản lý rủi ro, thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất . Vấn đề này không chỉ có ý nghĩa đối với những người tham gia, người bảo hiểm mà còn có ý nghĩa rất to lớn đối với xã hội và thực chất là góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
Do đặc điểm của bảo hiểm là cần phài có các quỹ dự trữ, dự phòng ,quỹ bồi thường hoặc chi trả..Khi các loại quỹ này chưa sử dụng đến ,chúng sẽ là nguồn vốn đầu tư đáng kể góp phần phát triển và tăng trưởng kinh tế.
Bảo hiểm còn làm giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước và tăng cường tích luỹ xã hội.
Các tổ chức và doanh nghiệp bảo hiểm còn thu hút một lực lượng lao động đáng kể vào làm việc tạo công ăn việc làm giảm tỉ lệ thât nghiệp cho xã hội
Về phương diện tâm lý bảo hiểm còn là chỗ dựa tinh thần cho những người tham gia yên tâm trong cuộc sông và trong hoạt động kinh doanh
Thông qua hoạt động tái bảo hiểm,bảo hiểm còn có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy phảt triển quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các nước trong điều kiện kinh tế hội nhập để phát triển như hiện nay.
II:VAI TRÒ CỦA BHXH TRONG ĐỜI SỐNG KINH TẾ XÃ HỘI
a,Với người lao động :
Về mục đích có thể nói rằng BHXH là hình thức bảo hiểm thu nhập và cung cấp các dịch vụ việc làm,chăm sóc y tế thiết yếu cho người lao động và một số thành viên trong gia đình họ trong các trường hợp ốm đau ,thai sản ,tai nạn nghề nghiệp ,tàn tật ,hưu trí ,tử tuất ,thất nghiệp….trên cơ sở đóng quỹ của người tham gia.Vì vậy,BHXH có vai trò to lớn đối với người lao động.
Trước hết đó là cho người lao động được cộng đồng tương trợ khi ốm đau ,tai nạn...đó là một khoản thu nhập được đảm bảo.Khoản thu nhập này cao hơn so với khoản phí mà họ đã đóng góp.Để làm được điều này,BHXH thực hiện trên cơ sở số đông bù số ít,tức là lấy số đông người tham gia đóng góp để bù cho số ít người không may gặp rủi ro…Đồng thời ,BHXH cũng là cơ hội để mỗi người thực hiện trách nhiệm tương trợ cho những khó khăn của các thành viên khác.Từ đó,các rủi ro trong lao động sản xuất(tai nạn thất nghiệp …) và trong đời sống lao động (ốm đau,tuổi già…)được khống chế,khắc phục hậu quả ở mức độ thấp nhất.
Tham gia BHXH còn giúp người lao động nâng cao hiệu quả trong chi dùng cá nhân ,giúp họ tiết kiệm được những khoản nhỏ , đều đặn để có nguồn dự phòng cần thiết chi dùng khi về già,mất sức lao động …góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân và cho gia đình từ đó giúp ổn định xã hội. Đó không chỉ là nguồn hỗ trợ vật chất mà còn là nguồn động viên tinh thần to lớn đối với mỗi cá nhân khi gặp khó khăn ,giúp họ ổn định về tâm lý ,không còn lo lắng khi ốm đau ,tai nạn ,tuổi già…
Người lao động tham gia BHXH được đảm bảo về thu nhập ổn định ở mức độ cần thiết nên thường có tâm lý yên tâm,tự tin hơn trong cuộc sống.Nhờ có BHXH,cuộc sống của những thành viên trong gia đình người lao động, đặc biệt là trẻ em,người tàn tật,goá bụa cũng được đảm bảo sự an toàn.
b, Với người sử dụng lao động:
BHXH giúp cho các tổ chức sử dụng lao động nói chung hay các doanh nghiệp nói riêng sẽ ổn định được hoạt động, ổn định hoạt động sản suất kinh doanh thông qua việc phân phối một cách hợp lý các chi phí cho người lao động.Nếu không có BHXH ,người sử dụng lao động trả tiền bảo hiểm cùng với tiền lương hàng tháng để người lao động tự lo thì nguồn tiền này có thể bị sử dụng vào những nhu cầu ,những mục đích khác và không bao giờ cũng mang lại hiệu quả. Đến khi người lao động ốm đau ,tai nạn không có nguồn thu nhập ,không có chi phí thuốc men….,đời sống của họ bị ảnh hưởng theo.Qua việc phân phối chi phí cho người lao động hợp lý,BHXH góp phần làm cho lực lượng trong mỗi đơn vị ổn định ,sản xuất kinh doanh được liên tục ,hiệu quả , các bên của quan hệ lao động cũng gắn bo với nhau hơn.
BHXH còn tạo điều kiện để người sử dụng lao động có trách nhiệm với người lao động, không chỉ khi trực tiếp sử dụng lao động mà trong suốt cuộc đời người lao động cho đến khi già yếu.Như vậy BHXH làm cho quan hệ lao động có tính nhân văn sâu sắc.
BHXH còn giúp cho đơn vị sử dụng lao động ổn định nguồn chi,ngay cả khi có rủi ro lớn xảy ra thì cũng không lâm vào tình trang nợ nần hay phá sản.Nhờ đó các chi phí được chủ động hạch toán, ổn định và tạo điều kiện để phát triển không phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh khách quan.
Tuy nhiên BHXH hầu như không mang lại cá lợi ích trực tiếp nên không phải bao giờ người sử dụng lao động cũng nhận thức đúng được vai trò của nó.Nếu không tổ chức BHXH bắt buộc thì nhiều khi,vì những khoản lợi trước mắt mà người sử dụng lao động cắt xén quyền lợi ,vô trách nhiệm với người lao động.Trong thực tế vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp nhỏ bằng nhiều thủ đoạn luồn lách luật để tránh bị đóng một khoản tiền BHXH cho nhân viên,công nhân.Đây cũng là bài toán nan giải đối với ngành BHXH hiện nay.
c, Với xã hội:
Bảo hiểm xã hội có vai trò to lớn ,có những đóng góp quan trọng đối với xã hội, với tư cách là hình thức chia sẻ rủi ro hữu hiệu, tạo ra nguồn thu nhập thay thế, góp phần bảo đảm an toàn cuộc sống cho người lao động. Cùng với việc gia tăng quy mô, “độ bao phủ” các đối tượng tham gia, bảo hiểm xã hội càng khẳng định là trụ cột quan trọng nhất trong hệ thống an sinh xã hội.
Vai trò đầu tiên của hình thức bảo hiểm này đối với xã hội là việc tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro,nâng cao tính cộng đồng xã hội,củng cố truyền thống đoàn kết gắn bó giữa các thành viên trong xã hội. Điều đó đã thúc đẩy sự ra đời và trở thành lý do tồn tại của BHXH.Tuy không nhằm mục đích kinh doanh,lợi nhuận nhưng BHXH là công cụ phân phối,sử dụng nguồn quỹ dự phòng hiệu quả nhất cho việc giảm hậu quả rủi ro,tạo động lực phát triển kinh té ,xã hội.Thông qua hoạt động BHXH,những rủi ro trong đời sống của người lao động được dàn trải theo nhiều chiều,tạo ra khả năng giải quyết an toàn nhất ,chi phí thấp nhất.
Hiện nay,khi đã trở thành một cấu phần cơ bản nhất trong hệ thống an sinh xã hội,BHXH là cơ sở để phát triển các bộ phận an sinh xã hội khác.Các nhà nước thường căn cứ vào mức độ bao phủ của chính sách BHXH đẻ xác định những đối tuợng nào còn gặp khó khăn,cần cộng đồng chia sẻ nhưng chưa được tham gia BHXH để thiết kế những mạng lưới khác của an sinh xã hội như trợ cấp cứu trợ xã hội….Trên cơ sở đó,BHXH là căn cứ để đánh giá trình độ quản lý rủi ro của từng quốc gia và mức độ an sinh xã hội đạt được trong mỗi nước.
BHXH còn là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế,xã hội của một quốc gia.Nếu kinh tế chậm phát triển,xã hội lạc hậu, đời sống nhân dân thấp kém thì hệ thống BHXH cũng chậm phát triển.Ngược lại khi kinh tế càng phát triển,đời sống người lao động được nâng cao thì nhu cầu tham gia BHXH của họ càng lớn.Thông qua hệ thống bảo hiểm xã hội ,trình độ tổ chức,quản lý rủi ro xã hội của các nhà nước cũng ngày càng được nâng cao thể hiện bằng việc mở rộng đối tượng tham gia, đa dạng về hình thức bảo hiểm,quản lý được nhiều trường hợp rủi ro trên cơ sở phát triển các chế độ BHXH…
Ở một số phương diện nhất định,BHXH còn phản ánh và góp phần nâng cao trình độ văn hoá của cộng đồng.Bởi vì ,”Người dân chỉ thấy nhu cầu an sinh xã hội và biết yêu sách khi họ đạt tới một trình độ văn hoá nào đố.Trước hết họ phải ý thức được sự bất công trong xã hội,nghĩa là họ biết quan niệm rằng tình trạng thiếu an ninh trong xã hội là một sự bất công chứ không phải chỉ là một hậu quả tất nhiên của sinh hoạt xã hội mà họ phải cam chịu ..”
Hoạt động BHXH cũng góp phần vào việc huy động vốn đầu tư,làm cho thị trường tài chính phong phú và kinh tế xã hội phát triển. Đặc biệt,với bảo hiểm hưu trí,nguồn vốn tích luỹ trong thời gian dài ,kết dư tương đối lớn,có thể đầu tư vào các doanh nghiệp,các dự án cần huy động vốn,mang lại lợi ích cho tất cả các bên: người tham gia bảo hiểm xã hội,cơ quan bảo hiểm xã hội và nền kinh tế xã hội nói chung.
Ở Việt nam,thông qua chính sách bảo hiểm bắt buộc đối với khu vực chính thức,BHXH còn góp phần làm cho quá trình từ sản xuất nhỏ tiến nên sản xuất lớn nhanh chóng hơn.
Với chức năng của mình BHXH là một khâu không thể thiếu trong việc thực hiện mục tiêu “dân giàu nước mạnh,xã hội công bằng,dân chủ và văn minh”,góp phần ổn định xã hội,phát triển kinh tế đất nước.
III:THỰC TRẠNG TRONG VIỆC THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA BHXH.
a,Kết quả đạt được:
Kết quả đạt được lớn nhất đó là Luật BHXH có hiệu lực từ năm 2007,Luật Bảo hiểm xã hội thực sự đi vào cuộc sống, trong đó bảo hiểm xã hội tự nguyện được thực hiện từ ngày 1-1-2008 ,bảo hiểm thất nghiệp được thực hiện từ ngày 1-1-2009,đã hướng đối tượng phục vụ tới từng người dân, bao gồm gần như toàn bộ lực lượng lao động 46 triệu người của nước ta hiện nay. Đây là những hình thức bảo hiểm có ý nghĩa xã hội rất lớn, mở ra cơ hội được thụ hưởng dịch vụ này tới đông đảo người dân, nhất là bộ phận có thu nhập thấp, vốn phải gánh chịu nhiều rủi ro như: nông dân, thợ thủ công...,những người lao động có nguy cơ thất nghiệp cao trong điều nền kinh tế đang rơi vào khủng hoảng như hiện nay.
Mặt khác tính pháp lý của luật cao và ổn định,giúp người sử dụng lao động và người lao động yên tâm trong việc đóng góp và hưởng quyền lợi. Trước đây, khi chưa có luật, chế độ, chính sách BHXH ở nước ta thường xuyên có sự thay đổi, mà sự thay đổi này bản chất của nó không thuộc về sự điều chỉnh của chính sách BHXH mà thuộc về sự điều chỉnh của các chính sách xã hội khác như: chính sách ưu đãi người có công, dân số và kế hoạch hóa gia đình, sắp xếp lại lực lượng lao động tinh giản biên chế, quy đổi thời gian công tác... những chính sách này đã phá vỡ sự tương quan giữa đóng góp và hưởng thụ và là nguyên nhân làm mất cân đối quỹ, giảm lòng tin của các đối tượng tham gia, đây cũng là yếu tố thuận lợi đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam khi tổ chức thực hiện Luật BHXH.
Ðồng thời hệ thống BHXH đã phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với các cơ quan Tuyên giáo, truyền thông ở Trung ương và địa phương tăng cường thời lượng tuyên truyền các nội dung liên quan đến Luật BHXH. Thực hiện nhiệm vụ này, cơ quan BHXH từ Trung ương đến địa phương đã phối hợp với các báo, đài truyền hình, đài phát thanh thực hiện nhiều phóng sự, chương trình, các chuyên trang, chuyên đề và nhiều tin bài tuyên truyền về Luật BHXH. Giúp cho dư luận xã hội hiểu được rõ quyền lợi và trách nhiệm tham gia BHXH, của các bên tham gia, lộ trình từng bước thực hiện các quy định mới về BHXH đó là mức đóng BHXH, BHXH tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp trong thời gian tới.
Bởi vậy,Chỉ một năm sau khi luật có hiệu lực, số đối tượng tham gia BHXH tăng từ 6.759.723 người năm 2006 lên 8.148.123 người năm 2007 ( tăng 20,7%). Trong đó lao động ở các cơ quan hành chính, sự nghiệp tăng 4%: doanh nghiệp dân doanh tăng 25,7%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,3%; doanh nghiệp nhà nước chỉ tăng 2%. Như vậy số lao động tham gia BHXH tăng thêm trong năm 2007 chủ yếu thuộc khu vực ngoài quốc doanh, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và lực lượng vũ trang.
Ðể phù hợp với tình hình mới, BHXH Việt Nam đã sớm sửa đổi, bổ sung quy trình giải quyết các chế độ BHXH phù hợp với quy định của Luật theo hướng cải cách thủ tục hành chính; thủ tục hồ sơ đơn giản, dễ thực hiện nhưng vẫn đáp ứng yêu cầu quản lý, quy định cụ thể các loại giấy tờ cần phải có trong từng loại hồ sơ; quy định rõ quyền và trách nhiệm của cá nhân người lao động, của chủ sử dụng lao động và của cơ quan BHXH trong thực hiện chế độ, chính sách BHXH; giảm bớt các thủ tục, giấy tờ, biểu mẫu không cần thiết đem lại nhiều thuận lợi cho người lao động và chủ sử dụng lao động. Tất cả các bước giải quyết đều được thực hiện trong cơ chế một cửa thuộc lộ trình cải cách hành chính của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Những kết quả nhìn từ các con số:
Nếu như năm 1996 mới có 3,2 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, thì đến năm 2007, con số đó đã lên tới 8,15 triệu người, tăng 2,5 lần so với năm 1996, chiếm 67% đối tượng thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.Nếu năm 2007 số lao động tham gia BHXH đạt 8,15 triệu người thì số lao động tham gia BHXH đến cuối năm 2008 đạt gần 8,50 triệu người.
Lương hưu liên tục được điều chỉnh, trong 3 năm (2003 - 2005) đã điều chỉnh 5 lần, tăng từ 164,8% đến 228,8% so với trước tháng 12-2002.
Trong năm 2007, các tỉnh, thành phố trong cả nước đã chi trả các chế độ BHXH nói trên với số kinh phí lên tới 33.951 tỉ đồng, trong đó chi cho chế độ hưu trí là 27.702 tỷ đồng chiếm 81,5% tổng chi. Trong năm có thêm 120.315 người hưởng chế độ hang tháng, 208.710 người hưởng chế độ một lần, hơn 2 triêu người hưởng trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, 750000 lượt người hưởng trợ cấp dưỡng sức và 35.000 người qua dời được mai táng phí.Năm 2008 có gần 60 nghìn người hưởng chế độ BHXH hằng tháng, gần 200 nghìn người hưởng chế độ BHXH một lần và gần 4 triệu lượt người hưởng trợ cấp ốm đau, thai sản, trợ cấp mai táng và hưởng trợ cấp dưỡng sức đã được giải quyết. Với số chi hơn 33 nghìn tỷ đồng, số tiền này góp phần bảo đảm an sinh xã hội.
b,Khó khăn,hạn chế,tồn tại:
Thứ nhất: Mức độ bao phủ của bảo hiểm xã hội còn thấp, tỷ lệ lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mới chiếm khoảng 16% tổng lao động xã hội và 67% đối tượng thuộc diện đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.Người về hưu có mức lương hưu, trợ cấp hưu còn thấp, năm 2006 lương hưu bình quân của công nhân viên chức là một triệu đồng.Trong khi đó, hiện nay giá cả đang tăng, tỷ lệ lạm phát rất cao,năm 2007 so với năm 2006 tăng 12,6%, bình quân 5 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007 tăng hơn 19%, nhất là giá các mặt hàng thiết yếu (lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh...), ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến đời sống của người có thu nhập thấp, người nghèo.
Thứ hai: Tình trạng các doanh nghiệp vi phạm Luật BHXH chưa có chiều hướng giảm, hàng trăm ngàn tỷ đồng tiền BHXH vẫn bị nhiều chủ sử dụng lao động chiếm dụng, chiếm đoạt. nợ đọng đóng bảo hiểm xã còn lớn.Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện có 80% doanh nghiệp với 73% lao động khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thuộc diện BHXH bắt buộc nhưng vẫn chưa tham gia. Ở hầu hết các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân, tình trạng man trá trong thu chi BHXH xảy ra khá phổ biến. Hình thức chủ yếu vẫn là giả mạo hồ sơ hoặc khai không đúng tuổi đời, năm công tác, mức lương để hưởng chế độ BHXH; chậm cắt giảm đối tượng hưởng chế độ mất sức lao động khi hết thời hạn được hưởng ở một số địa phương, tình trạng cắt chậm từ 1-6 tháng là phổ biến, việc cắt giảm định suất tuất khi hết hạn hưởng cũng xảy ra tương tự; lập chứng từ giả hoặc khai không đúng thời gian để thanh toán chế độ ốm đau thai sản, vừa hưởng tiền từ quỹ BHXH vừa hưởng tiền lương từ ngân sách; trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH hoặc khai giảm số lao động và quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH... ,làm cho BHXH mất đi vai trò của nó.
Thứ ba: Bảo hiểm xã hội chưa có sự tách bạch giữa khu vực hành chính sự nghiệp và khu vực thị trường; chưa thực hiện đầy đủ nguyên tắc đóng - hưởng; còn gắn chặt vào điều chỉnh tiền lương tối thiểu và hỗ trợ từ ngân sách nhà nước. Việc triển khai thực hiện chính sách BHXH trong các đơn vị, tổ chức, các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh còn gặp nhiều khó hạn chế,chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra.
Thứ tư: Quỹ Bảo hiểm xã hội dài hạn (thực hiện chế độ hưu trí và tử tuất) thiếu vững chắc,tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất cân đối thu –chi trong dài hạn.Theo dự báo của các chuyên gia nếu quỹ BHXH vẫn tính toán như bây giờ thì tới năm 2035 quỹ sẽ mất khả năng chi trả.Hiện nay quỹ BHXH được dùng để chi trả cho quá nhiều chế độ như: thai sản, ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, lương hưu, tử tuất, khám sức khoẻ... và vô vàn các khoản chi khác như chi cho quản lý bộ máy và chi hoạt động đầu tư quỹ. Nhưng mức thu vẫn dừng lại ở con số khiêm tốn 20% mức lương cơ bản thì hệ quả tất yếu sẽ xảy ra. Nếu vậy, từ năm 2022 trở đi số chi hàng năm sẽ lớn hơn số thu và sẽ phải sử dụng quỹ BHXH tồn từ những năm trước - đây chính là sự mất cân đối của quỹ.
Thứ năm: Năng lực chuyên môn, phương pháp làm việc của một số cán bộ công chức trong ngành còn hạn chế, hành chính, cứng nhắc, chưa đạt mục tiêu phục vụ người lao động, phục vụ đối tượng làm đích phấn đấu trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao. Việc chuyển đổi tác phong làm việc từ hành chính, thụ động sang tác phong phục vụ còn chậm, hiệu quả chưa cao và chưa đồng đều trong toàn ngành; có nơi, có lúc còn gây phiền hà cho đối tượng tham gia và hưởng các chế độ BHXH,BHYT.
Thứ sáu:Trong bảo hiểm tự nguyện:việc thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện còn nhiều khó khăn, xuất phát từ một số nguyên nhân. Thứ nhất, các chế độ của bảo hiểm tự nguyện ít hơn bảo bắt buộc.Thứ 2,mức đóng còn cao, trong khi thu nhập của đại đa số người dân còn tấp, không ổn định. Mức đóng thấp nhất bằng 16% mức lương tối thiểu chung, tương ứng 86.400 đồng (từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng thêm 2% cho đến khi đạt mức đóng là 22%). Thứ 3,công tác tuyên truyền đưa vào cuộc sống của bhtn còn hạn chế... dẫn đến nhận thức của người dân về về vai trò của BHTN còn nhiều hạn chế.Thứ 4,Hiện thời thu nhập của người lao động là rất khác nhau nên BHXH tự nguyện khó triển khai hơn so với BHXH bắt buộc. Vì BHXH bắt buộc có thể thu tại cơ quan, doanh nghiệp còn bảo hiểm xã hội tự nguyện là phải thu của từng người một…..
Thứ bảy: Một số chế độ BHXH đối với người LĐ còn chưa hợp lý; hệ thống chế độ chính sách BHXH chưa đồng bộ và tính pháp lý chưa cao; quyền lợi của người LĐ chưa được quan tâm thoả đáng; trong thực hiện còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa BHXH với các cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức công đoàn; cơ chế quản lý chưa hoàn thiện…..
IV:NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA BHXH .
Thứ nhất: Tăng cường, mở rộng về phạm vi, hình thức và nội dung thông tin tuyên truyền về các chính sách, chế độ, luật về BHXH đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, tập trung vào các đối tượng là người lao động trong các doanh nghiệp có sử dụng dưới 10 lao động, hộ sản xuất kinh doanh cá thể, tổ hợp tác; người lao động, xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao động trong các hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật Hợp tác xã; các cơ sở bán công, dân lập, tư nhân thuộc các ngành văn hoá, y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học, thể dục thể thao và các ngành sự nghiệp khác. Phương pháp tuyên truyền phải dễ hiểu, dễ nhớ, sát cơ sở, sát người lao động, phù hợp với từng loại đối tượng.
Thứ hai: Với tình trạng các doanh nghiệp vi phạm Luật BHXH thì phải tiếp tục duy trì, đẩy mạnh hoạt động kiểm tra trên tất cả các lĩnh vực BHXH; tăng cường phối hợp giữa kiểm tra của ngành với Thanh tra lao động, Thanh tra y tế và tổ chức kiểm tra của các đoàn thể chính trị - xã hội, đồng thời kiên quyết xử lý những hành vi tiêu cực hoặc vi phạm pháp luật về BHXH.
Thứ ba: Nghiên cứu tách bảo hiểm xã hội đối với khu vực hành chính sự nghiệp và khu vực doanh nghiệp; bổ sung, sửa đổi các chế độ bảo hiểm xã hội còn bất hợp lý; điều chỉnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội theo cơ chế tạo nguồn, độc lập tương đối với chính sách tiền lương, giảm dần phần hỗ trợ từ ngân sách nhà nước; khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm tự nguyện khác nhằm mở rộng vững chắc, tiến tới mọi người lao động ở mọi thành phần kinh tế đều được tham gia bảo hiểm xã hội; bảo đảm cân đối thu - chi bảo hiểm xã hội trên cơ sở mức đóng - hưởng tăng lên theo lộ trình quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, áp dụng các biện pháp đầu tư hiệu quả từ Quỹ Bảo hiểm xã hội để bảo toàn và tăng trưởng bền vững quỹ.
Thứ tư: Xây dựng một hệ thống bảo hiểm xã hội hoàn chỉnh, theo nguyên tắc đóng - hưởng (bao gồm bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm nghề nghiệp). Tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức bên trong của hệ thống BHXH Việt Nam theo hướng hình thành các tổ chức dịch vụ bảo hiểm theo từng loại hình bảo hiểm: bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm thai sản, ốm đau, BHYT, tai nạn lao động…, hoặc nghiên cứu tổ chức theo loại hình BHXH: bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện (kể cả BHYT tự nguyện).
Thứ năm: Tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, cán bộ làm công tác BHXH theo hướng có năng lực chuyên môn cao, đạo đức trong sáng và thái độ phục vụ tận tuỵ, chu đáo, góp phần làm ổn định xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và đối với bản chất tốt đẹp của các chính sách BHXH.
Thứ sáu: Tiếp tục tổ chức tốt công tác chi trả các chế độ BHXH cho người lao động và người được thụ hưởng chế độ bảo hiểm theo phương châm "chi đúng, chi đủ, chi kịp thời đến tay người lao động". Tuyệt đối không để xảy ra mất mát và tiêu cực trong chi trả dẫn đến nảy sinh các vấn đề xã hội phức tạp. Phải xác định được: Làm tốt công tác chi trả là một trong những biện pháp tuyên truyền tốt nhất để tăng nhanh số người tham gia bảo hiểm…Chỉ có như vậy chức năng của BHXH mới được thực hiện đầy đủ và vai trò của BHXH với đời sống kinh tế xã hội mới được bảo đảm.
KẾT LUẬN
Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới bắt đầu từ năm 1986 thực hiện quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã đưa ra các nguyên tắc phát triển kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội, trong đó đặt vấn đề phát triển hệ thống an sinh xã hội (trong đó bảo hiểm xã hội là trụ cột) như một tất yếu đảm bảo cho các giá trị của CNXH được thể hiện trong quá trình chuyển đổi đầy khó khăn, phức tạp bởi các rủi ro và nguy cơ của các xung đột xã hội. Chính vì vậy, trong nhiều kỳ Đại hội Đảng , vấn đề BHXH, được xác định như một trọng tâm trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.BHXH là hoạt động sự nghiệp dịch vụ công - một trong những chức năng của quản lý nhà nước, là một chính sách xã hội lớn của đảng và nhà nước ta nhằm từng bước nâng cao việc bảo đảm vật chất ,góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình khi họ gặp phải các rủi ro hoặc các khó khăn trong cuộc sống.Như vậy vai trò củ BHXH đối với xã hội là vô cùng to lớn.
Ngày nay khi kinh tế thị trường ngày càng phát triển, tăng trưởng ngày càng cao thì nguy cơ phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, nạn thất nghiệp gia tăng, tiềm ẩn bất ổn định xã hội lớn… Bởi vậy một hệ thống chính sách BHXH phù hợp là cơ sở để tạo ra hình thức chia sẻ rủi ro hữu hiệu, tạo ra nguồn thu nhập thay thế, góp phần bảo đảm an toàn cuộc sống cho người lao động,giúp cho các tổ chức sử dụng lao động nói chung hay các doanh nghiệp nói riêng sẽ ổn định được hoạt động, ổn định hoạt động sản suất kinh doanh thông qua việc phân phối một cách hợp lý các chi phí cho người lao động….Làm giảm sự phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, nạn thất nghiệp ,bất ổn định xã hội.Là điều kiện để phát triển kinh tế xã hội của đất nước,nâng cao hơn nữa vai trò của BHXH trong đời sống kinh tế xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1:Giáo trình Bảo hiểm xã hội 1(Đại học Lao động xã hội).
2:Tạp chí Bảo hiểm xã hội.
3:Giáo trình Nhập môn an sinh xã hội (Đại học Lao động xã hội).
4:Các webside:…….
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu: ……………………………………………………….. 1
I,Cơ sở lý luận:……………………………………………………... 2
II,Vai trò của BHXH trong đời sống kinh tế xã hội:……………….. 3
a,Với người lao động:………………………………………………. 3
b,Với người sử dụng lao động:…………………………………….. 4
c,Với xã hội:………………………………………………………... 5
III,Thực trạng trong việc thực hiện vai trò của BHXH:……………. 7
a,Kết quả đạt được:…………………………………………………. 7
b,Khó khăn ,hạn chế,tồn tại:………………………………………… 9
IV,Những giải pháp nâng nhằm nâng cao vai trò của BHXH:……… 11
Kết luận:…………………………………………………………….. 13
Tài liệu tham khảo:…………………………………………………. 14
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích làm sáng tỏ vai trò của bảo hiểm xã hội trong đời sống kinh tế xã hội,những thành tựu và hạn chế trong việc thực thi vai trò của bảo hiểm xã.doc