Về cơ cấu, FDI đăng ký trong năm 2012 tiếp tục có dấu hiệu chuyển biến tích cực khi ḍòng vốn có xu hướng chảy mạnh vào lĩnh vực công nghiệp chế biến- chế tạo (tăng mạnh từ 48% trong năm 2011 lên 70% trong năm 2012). Ngược lại, lĩnh vực bất động sản và xây dựng ngày càng bớt hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam khi mục tiêu thu hút FDI không chỉ nằm ở khía cạnh vốn mà c̣òn ở khả năng học hỏi, tiếp nhận công nghệ từ phía các doanh nghiệp FDI.
Chúng tôi cho rằng FDI giải ngân trong năm 2013 có thể đạt mức 9-10 tỷ USD. Nguyên nhân là do ḍòng vốn đăng ký năm 2010 và 2011 đều ở mức khá cao và độ trễ triển khai các dự án này sẽ rơi vào năm 2011 cũng như các năm sau đó. Ngoài ra, sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư vào các ngành Việt Nam có lợi thế cạnh tranh và giá trị gia tăng cao cũng sẽ đảm bảo tốc độ giải ngân trong thời gian tới.
34 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4778 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích nội dung và ý nghĩa cán cân thanh toán Quốc tế, liên hệ thực tiễn với Việt Nam giai đoạn 2010 - 2012, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Còn những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú ngoài nước cho người cư trú trong nước được ghi vào bên "có" (ghi bằng mực đen). Thặng dư tài khoản vãng lai xảy ra khi bên có lớn hơn bên nợ.
Phân loại:
Cán cân vãng lai bao gồm:
Cán cân thương mại
Cán cân dịch vụ
Cán cân thu nhập
Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều
1.1. Cán cân thương mại
Cán cân thương ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch giữa chúng (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu). Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng. Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại. Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị âm. Lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại.
Cán cân thương mại có ảnh hưởng rất lớn đến cán cân thanh toán quốc tế đồng thời tác động trực tiếp đến cung, cầu, giá cả hàng hóa và sự biến động tỷ giá, tiếp đến sẽ tác động đến cả cung cầu nội tệ và tình hình lạm phát trong nước.
Các nhân tố ảnh hưởng tới cán cân thương mại gồm có
Tỷ giá
Tâm lý người tiêu dùng
Giá cả hàng hóa
Chính sách thương mại quốc tế
Thu nhập người dân
Tương quan lạm phát
1.2. Cán cân dịch vụ
Bao gồm các khoản thu chi từ các dịch vụ về vận tải, du lịch, bảo hiểm, bưuchính, viễn thông, ngân hàng, thông tin xây dựng và các hoạt động khác giữa người cư trú với người không cư trú.
Giống như xuất nhập khẩu hàng hoá, xuất khẩu dịchvụ làm phát sinh cung ngoại tệ nên nó được ghi vào bên có và có dấu dương, nhậpkhẩu ngoại tệ làm phát sinh cầu ngoại tệ nên nó được ghi vào bên nợ và có dấu âm.Các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất
nhập khẩu dịch vụ cũng giống như các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất nhậpkhẩu hàng hoá.
1.3. Cán cân thu nhập
Phản ánh thu nhập ròng của người lao động hoặc thu nhập ròng từ hoạt động đầu tư.
+ Thu nhập người lao động: là các khoản tiền lương, tiền thưởng và cáckhoản thu nhập khác bằng tiền hiện vật người cư trú trả cho người không cư trúhay ngược lại.
+ Thu nhập về đầu tư: là các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp, lãi từ đầu tư giấy tờ có giá và các khoản lãi đến han phải trả của các khoản vay giữangười cư trú và không cư trú.
Các nhân tố ảnh hưởng tới cán cân thu nhập
Mức tiền lương thưởng
Tỷ suất lợi nhuận từ hoạt động đầu tư
Lãi suất
Môi trường kinh tế xã hội
1.4. Cán cân chuyển giao vãng lại một chiều
Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều bao gồm: các khoản viện trợ không hoàn lại, quà tặng, quà biếu và các khoản chuyểngiao khác bằng tiền, hiện vật cho mục đích tiêu dùng do người không cư trú chuyểncho người cư trú và ngược lại.
Các khoản chuyển giao vãng lai một chiều phản ánh sự phân phối lại thu nhập giữa người cư trú với người không cư trú cáckhoản thu làm phát sinh cung ngoại tệ nên được ghi vào bên có (+),các khoản chi làm phát sinh cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên nợ (-).
Các nhân tố ảnh hưởng đến cán cân chuyển giao vãng lai 1 chiều
Quan hệ hợp tác giữa các nước
Tình hình phát triển kinh tế xã hội
Môi trường, thể chế chính trị
Những vấn đề về lịch sử, dân tộc, dân cư
Nhân tố chính ảnh hưởng lên chuyển giao vãng lai một chiều là lòng tốt, tình cảm giữangười cư trú và người không cư trú.
Cán cân vốn và tài chính
Cán cân vốn là một bộ phận của cán cân thanh toán quốc tế, nó ghi chép lại toàn bộ các giao dịch, chu chuyển về vốn như vay nợ, cho vay, trả nợ, đòi nợ, đầu tư trực tiếp, đầu tư vào giấy tờ có giá hay chuyển giao vốn một chiều giữa người cư trú và người không cư trú
Tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng mà người ta phân chia cán cân vốn và tài chính thành từng loại khác nhau.
Nhằm mục đích thống kê:
Nếu chỉ nhằm mục đích theo dõi tình hình các luồng vốn vào ra khỏi quốc gia và để tiện lợi cho việc ghi chép, người ta chia cán cân vốn và tài chính thành cán cân vốn và cán cân tài chính.
Cán cân vốn:
Cán cân vốn ghi chép lại các giao dịch về vốn và về tài sản phi tài chính, phi sản xuất, trong đó:
Các giao dịch chuyển giao vốn: bao gồm các giao dịch cho, tặng bằng tiền hoặc hiện vật nhằm mục đích viện trợ hay xoá nợ giữa người cư trú và người không cư trú
Các giao dịch về tài sản phi tài chính và phi sản xuất: bao gồm những tài sản do tự nhiên tạo ra như đất đai, khoáng vật, các tài sản tự nhiên khác… và các tài sản vô hình do con người tạo ra như bằng sáng chế, bản quyền… nhưng tài sản này không phải là tài sản tài chính và cũng không do con người tạo ra
Cán cân tài chính:
Cán cân tài chính ghi chép lại toàn bộ các giao dịch về chuyển giao vốn có liên quan đến hoạt động đầu tư giữa người cư trú và người không cư trú
Cán cân tài chính bao gồm:
+ Đầu tư trực tiếp: được ghi chép lại khi một đơn vị là người cư trú ở nên kinh tế này đầu tư vào một đơn vị là người cư trú của nền kinh tế khác nhằm mục đích thu được lợi ích lâu dài
+ Đầu tư gián tiếp (thông qua giấy tờ có giá): là đầu tư thông qua các loại cổ phiếu, trái phiếu, các công cụ tài chính khác có kỳ hạn dài hay ngắn khác nhau, thông thường nghiệp vụ này phát sinh khi có việc mua bán cổ phiếu hay trái phiếu quốc tế thông qua thị trường chứng khoán, sự phát triển của thị trường chứng khoán ngày càng thúc đẩy sự phát triển của nghiệp vụ này
+ Đầu tư khác: phản ánh tất cả các giao dịch không phải là đầu tư trực tiếp hay đầu tư thông qua các loại giấy tờ có giá, nó bao gồm các giao dịch về tín dụng, tiền, tiền gửi giữa người cư trú và không cư trú
Nhằm mục đích phân tích
Nếu mục đích xây dựng cán cân vốn là nhằm để phân tích tác động của nó đến nền kinh tế, khi đó người ta chia cán cân vốn thành 3 bộ phận:
Cán cân vốn dài hạn
Cán cân vốn ngắn hạn
Cán cân chuyển giao vốn một chiều
Cán cân vốn dài hạn:
Cán cân vốn dài hạn ghi chép lại sự chảy vào hay chảy ra khỏi một quốc gia của các luồng vốn dài hạn (thường là nguồn vốn có kỳ hạn dài lớn hơn 1 năm).
Cán cân vốn dài hạn bao gồm:
- Đầu tư trực tiếp: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay tổ chức ở quốc gia này vào quốc gia khác nhằm tìm kiếm lợi ích lâu dài, thông qua hình thức đầu tư trực tiếp, người nước ngoài không chỉ mang lại lợi ích lâu dài cho mình mà đồng thời còn tạo thêm nhiều công ăn việc làm, góp phần phát triển nền kinh tế tại quốc gia được nhận vốn đầu tư.
- Đầu tư vào các loại cổ phiếu, trái phiếu dài hạn: đây là một hình thức đầu tư dài hạn khá phổ biến, nhất là khi mà thị trường chứng khoán đang ngày một phát triển với hệ thống thông tin điện tử rất linh hoạt, nhạy bén. Nó giúp cho nhà đầu tư dễ dàng di chuyển luồng vốn của mình từ nền kinh tế này đến nền kinh tế khác một cách nhanh chóng chỉ thông qua vài thao tác khớp lệnh.
- Đầu tư dài hạn khác bao gồm các hình thức đầu tư dài hạn mà không phải là đầu tư trực tiếp hay đầu tư thông qua mua bán giấy tờ có giá.
Cán cân vốn ngắn hạn:
Cán cân vốn ngắn hạn ghi chép lại sự chảy vào hay chảy ra khỏi một quốc gia của các luồng vốn ngắn hạn, cán cân này bao gồm rất nhiều hạng mục đầu tư khác nhau, đa dạng, phong phú:
Chẳng hạn như tín dụng thương mại ngắn hạn, hoạt động tiền gửi, đầu tư vào các giấy tờ có giá ngắn hạn, kinh doanh ngoại hối…
Ngày nay, nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin và mạng lưới ngân hàng mà giao dịch ngắn hạn giữa các nền kinh tế trở nên rất thuận tiện, cán cân vốn ngắn hạn ngày càng có ảnh hưởng lớn đến cán cân thanh toán quốc tế.
Chuyển giao vốn một chiều:
Chuyển giao vốn một chiều phát sinh khi có sự cho, tặng, xoá nợ, viện trợ không hoàn lại giữa các quốc gia
Thông thường rất khó để phân biệt rõ ràng chuyển giao vốn một chiều và chuyển giao vãng lai một chiều, để thống nhất, người ta quy định nếu giao dịch bằng tiền gắn với việc mua bán tài sản cố định sẽ được coi là giao dịch chuyển giao vốn, nếu không thể phân loại được chuyển giao vốn hay chuyển giao vãng lai một chiều thì giao dịch đó sẽ được tính là chuyển giao vãng lai. Chính vì vậy mà thường ít thấy khoản mục này xuất hiện trên cán cân thanh toán do phần lớn đã được tính vào cán cân vãng lai một chiều
Nhầm lẫn và sai sót
Do áp dụng nguyên tắc hạch toán kép, nên cán cân thanh toán luôn được cân bằng. Do đó
OB+ OFB= 0
OB = - OFB
CA+ K+ OM = - OFB
OM = – (CA + K + OFB)
Trong đó:
OB là cán cân tổng thể
CA là cán cân vãng lai
K là cán cân vốn và tài chính
OM là phần sai sót do thống kê
OFB là cán cân bù đắp chính thức
Đẳng thức cuối cùng cho thấy số dư của hạng mục nhầm lẫn và sai sót chính là độ lệch giữa cán cân bù đắp chính thức và tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn.
Đây là căn cứ tính nhầm lẫn và sai sót khi lập BP trong thực tế.
Do giao dịch giữa hai nền kinh tế phát sinh trong một khoảng thời gian dù ngắn cũng là rất nhiều nên việc thống kê ghi chép lại đầy đủ tất cả các giao dịch là vô cùng khó khăn, cũng như việc ghi chép không phải lúc nào cũng chính xác vì thế mà việc bổ xung thêm mục sai sót nhằm cân đối lại cán cân thanh toán là điều cần thiết. Những sai sót này sẽ dần được hạn chế bởi sự phát triển của khoa học công nghệ thống kê hiện đại trong tương lai.
Sở dĩ có các khoản mục nhầm lẫn và sai sót trong CCTTQT là do:
- Các giao dịch phát sinh giữa người cư trú và người không cư trú rất nhiều. Do vậy trong quá trình thống kê rất dễ dẫn đến sai sót.
- Sự không trùng khớp giữa thời điểm diễn ra giao dịch và thời điểm thanh toán.
Cán cân tổng thể
Cán cân tổng thể là tổng của cán cân vãng lai, cán cân vốn và hạng mục nhầm lẫn sai sót do thống kê thiếu hay số liệu thống kê chưa chính xác
OB = CA + K + OM
Trong đó:
OB là cán cân tổng thể
CA là cán cân vãng lai
K là cán cân vốn và tài chính
OM là phần sai sót do thống kê
Cho đến nay, khi nói đến thâm hụt hay thặng dư cán cân thanh toán (BP) mà không nói rõ đó là cán cân nào thì người ta hiểu đó là thặng dư hay thâm hụt cán cân tổng thể (OB), chính vì thế cán cân tổng thể còn được gọi là cán cân thanh toán chính thức của quốc gia (Official Settlements Balance).
PHẦN 2: THÂM HỤT VÀ THẶNG DƯ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ
BOP=(X – M+Se+Ic+Tg)+(KL+Ks)+(∆R+L+≠)
X: Xuất khẩuKl: Luồng vốn ròng dài hạn
M:Nhập khẩu Kx:Luồng vốn dòng ngắn hạn
Se: Dịch vụ ròng ∆R: Thay đổi dự trữ
Ic: Thu nhập ròng +L: Vốn vay
Tg: Giá trị chuyển giao vãng lai ròng
Khái niệm
CCTT được lập theo nguyên tắc hạch toán kép, do đó tổng các bút toán ghi có luôn bằng tổng các bút toán ghi nợ, nhưng có dấu ngược nhau. Điều này có nghĩa là, về tổng thể thì CCTTQT luôn được cân bằng. Do đó nói đến thặng dư, thâm hụt CCTTQT là nói đến thặng dư thâm hụt của một hoặc của một nhóm các cán cân bộ phận chứ không nói đến toàn bộ cán cân.
Về mặt nguyên tắc, thặng dư hay thâm hụt của CCTTQT được xác định theo hai phương pháp:
-Phương pháp xác định thặng dư thâm hụt của từng cán cân bộ phận.
-Phương pháp tích lũy.
1.1. Thặng dư và thâm hụt cán cân thương mại( TB)
TB=X-M
Như vậy cán cân thương mại là chênh lệch giữa giá trị xuất khẩu và giá trị nhập khẩu về hàng hóa.
Cán cân thương mại thặng dư: X > M, cho biết:
- Thu từ người không cư trú > chi cho người không cư trú
- Cung ngoại tệ > cầu ngoại tệ
Cán cân thương mại thâm hụt: X < M, cho biết:
Thu từ người không cư trú < chi cho người không cư trứ
Cung ngoại tệ < cầu ngoại tệ
Việc phân tích diễn biến cán cân thương mại cóvai trò to lớn trong nền kinh tế, bởi vì:
- Cán cân thương mại là bộ phận chính cấu thành cán cân vãng lai, thâm hụt và thặng dư cán cân thương mại thường quyết định đến tình trạng của cán cân vãng lai.
-Cán cân thương mại phản ánh kịp thời xu hướng vận động của cán cân vãng lai. Điều này xảy ra là vì, cơ quan hải quan thường cung cấp kịp thời các số liệu về xuất nhập khẩu hàng hóa, trong khi đố việc thu thập các số liệu về dịch vụ, thu nhập và chuyển giao vãng lai thường diễn ra chậm hơn, tức là có một độ lệch về thời gian nhất định.
Do tầm quan trọng của cán cân thương mại, cho nên hầu hết các nước phát triển thường công bố tình trạng cán cân này hàng tháng.
Để cân bằng cán cân thương mại, các biện pháp chủ yếu thường được áp dụng sẽ tác động vào lượng hàng hoá xuất nhập khẩu thông qua các hình thức thuế quan, quotas,… và tác động vào tâm lý tiêu dùng hàng hoá nhập khẩu của công chúng.
1.2. Thặng dư và thâm hụt cán cân vãng lai(CA)
Cán cân vãng lai bao gồm cán cân “Hữu hình” và “Vô hình’, nên nhìn tổng thể thì nó quan trọng hơn cán cân thương mại.
Công thức xác định:
CA = TB + Se + Ic + Tr = Kl+ Ks+ êR
- Cán cân vãng lai thặng dư khi: ( X – M + Se + Ic + Tr ) > 0
Cán cân vãng lai thặng dư (CA > 0) có nghĩa :
Thu từ người không cư trú > chi cho người không cư trú: có nghĩa là giá trị ròng của các giấy tờ có giá do người không cư phát hành nằm trong tay người cư trú tăng lên.
Cung ngoại tề > cầu ngoại tệ.
- Cán cân vãng lai thâm hụt khi: ( X – M + Se + Ic + Tr ) < 0
Cán cân vãng lai thâm hụt ( CA < 0) có nghĩa:
Thu từ người không cư trú < chi cho người không cư trú: có nghĩa là giá trị ròng của các giấy tờ có giá do người không cư trú phát hành nằm trong tay người cư trú giảm xuống.
Cung ngoại tệ < cầu ngoại tệ.
- Hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, trạng thái cán cân vãng lai là lý tưởng để phân tích trạng thái nợ nước ngoài của quốc gia. Lý do có thể được giả thích như sau: Trạng thái cán cân vãng lai có mối liên hệ trực tiếp với trạng thái tổng nợ nước ngoài của một quốc gia. Cán cân vãng lai cân bằng nói lên rằng tổng nợ nước ngoài của quốc gia là không đổi (quốc gia không là chủ nợ và cũng không là con nợ). Cán cân vãng lai thặng dư phản ánh tài sản có ròng của quốc gia đối với phần thế giới còn lại được tăng lên (vị thế quốc gia là chủ nợ). Ngược lại cán cân vãng lai thâm hụt phản ánh tài sản nợ ròng của quốc gia đối với nước ngoài tăng lên (vị thế quốc gia là con nợ).
*CA = 0, trong dài hạn
Theo giả thiết cán cân vãng lai cân bằng, nghĩa là:
(X- M + Se + Ic + Tr ) = 0
Vì trong dài hạn hiệu ứng can thiệp của NHTW mang tính trung lập do đó chúng ta có thể coi dự trữ ngoại hối của NHTW thay đổi là bằng 0, tức:
êR= 0
Kl + Ks = 0 ó Kl= - Ks.có 2 khả năng xảy ra
+ TH1: Kl 0. nếu luồng vốn ngắn hạn chảy vào càng lớn và được cân đối bởi luồng vốn dài hạn chảy ra, có thể làm cho năng lực thanh toán của quốc gia trong tương lai bị đe dọa, dẫn đến áp lực tăng áp suất và giảm giá nội tệ
+ TH2: Kl> 0 và Ks < 0. nếu luồng vốn dài hạn chảy vào càng lớn và được cân đối bởi luồng vốn ngắn hạn chảy ra, thì sẽ tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định hơn để duy trì ổn định tỷ giá, lãi suất va thực hiện chiến lược phát triển kinh tế quốc gia.
*CA = 0 trong ngắn hạn
Trong ngắn hạn, các khoản đầu tư dài hạn coi như không đổi, nghĩa là
Kl=0,
Ks + êR = 0 có 2 khả năng xảy ra:
+ TH1:êR > 0 và Ks <0:Đây là trạng thái khi vốn ngắn hạn chảy ra được bù đắp bởi sự giảm sút của dự trữ ngoại hối quốc gia. Trong thực tế tình huống này có thể xảy ra trong ngắn hạn, khi NHTW nỗ lực cân đối các luồng vốn ngắn hạn có tính đầu cơ chảy ra nước ngoài bằng cách can thiệp bán dự trữ trên thị trường noại hối nhằm bảo vệ tỷ giá, tức ngăn ngừa nội tệ giảm giá. Do vậy cho dù trang thái cán cân vãng lai là cân bằng, nhưng vẫn tồn tại áp lực giảm giá nội tệ hoặc phải tăng lãi suất nội tệ, nếu NHTW không tiếp tục can thiệp bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối
+ TH2: êR 0:Đây là trạng thái khi vốn ngắn hạn chảy vào làm tăng ngoại hối dự trữ quốc gia. Trong thực tế, tình huống này có thêr xảy ra, khi NHTW tăng mức lãi suất của nội tệ để ngăn ngừa các luồng vốn ngắn hạn chạy ra và thu hút thêm các luồng vốn ngắn hạn chạy vào nhằm bảo vệ cho tỷ giá không tiếp tục tăng nữa (tức ngăn không cho nội tệ tiếp tục giảm giá).
Phân tích cán cân vãng lai có ý nghĩa rất quan trọng trongquản lý kinh tế vĩ mô vì tình trạng của cán cân này tác động trực tiếp đến tỷ giá, lãi suất, tăng trưởng kinh tế, lạm phát và cuối cùng tác động đến cán cân tổng thể.
Thặng dư và thâm hụt cán cân cơ bản(BB)
BB = CA + Kl
Khi CA 0 thì quốc gia không hề chịu rủi ro thanh toán. Chính vì thế mà nhiều nhà kinh tế cho rằng, cán cân cơ bản phản ánh tổng quát hơn về trạng thái nợ nước ngoài của một quốc gia so với cán cân vãng lai. Điều này xảy ra là vì: vốn dài hạn có đặc trưng của sự phân phối lại thu nhập tương đối ổn định trong một thời gian dài giữa một quốc gia và thế giới.
- Thông thường người ta cho rằng một sự xấu đi của cán cân cơ bản là tín hiệu xấu của nền kinh tế. Tuy nhiên, điều này không nhất thiết phải như vậy,cho dù cán cân cơ bản bị thâm hụt nhưng đây chưa hẳn đã là điều xấu.
Ví dụ, một quốc gia có thể đang bị thâm hụt cán cân vãng lai và đồng thời có các luồng vốn dài hạn chảy ra, điều này khiến cho cán cân cơ bản trở lên thâm hụt nặng; nhưng các luồng vốn chảy ra sẽ hứa hẹn những thu nhập như lãi suất, cổ tức hay lợi nhuận trong tương lai; những thu nhập mày sẽ góp phần cải thiện thâm hụt hay tạo thặng dư cán cân vãng lai trong tương lai. Ngược lại thặng dư cán cân cơ bản không nhất thiết là điều tốt, khi mà luồng vốn ròng dài hạn chảy vào lớn hơn mứcthâm hụt cán cân vãng lai thì cán cân cơ bản trở lên thặng dư.
*)Tình trạng cán cân cơ bản có tác động một cách không rõ ràng đến nền kinh tế tuỳ theo cách tiếp cận.
*)Đối với các nước đang phát triển, vốn là yếu tố cần thiết để thực hiện công nghiệp và hiện đại hoá, thặng dư cán cân cơ bản nhìn chung được coi là dấu hiệu tích cực.
*)Các chính sách thu hút vốn đầu tư, nhất là đầu tư trực tiếp là giải pháp cơ bản cho vấn đề này.
Ngược lại thặng dư cán cân cơ bản không nhất thiết là điều tốt, khi mà luồng vốn ròng dài hạn chảy vào lớn hơn mức thâm hụt cán cân vãng lai thì cán cân cơ bản trở lên thặng dư. Có hai cách để nhìn nhận vấn đề thặng dư của cán cân cơ bản như sau:
- Cách thứ nhất cho rằng, do được phía nước ngoài tin tưởng nên quốc gia có khả năng nhập khẩu được nhiều vốn dài hạn, do đó không có vấn đề gì phải lo lắng khi cán cân vãng lai bị thâm hụt.
- Cách thứ hai cho rằng, thặng dư cán cân cơ bản là một vấn đề phải xem xét, bởi vì việc một quốc gia nhập khẩu vốn dài hạn sẽ phải thanh toán các khoản lãi suất, cổ tức và lợi nhuận trong tương lai. Điều này có thể làm cho cán cân vãng lai trở lên xấu đi trong tương lai.
1.4. Thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể
Cán cân tổng thể phản ánh bức tranh các hoạt động của Ngân hàng Trung ương trong việc tài trợ cho sự mất cân đối cuối cùng của nền kinh tế.
OB= X-M + Se + Ic +Tr + Kl + Ks
OB = - OFB
Cán cân tổng thể có ý nghĩa vì:
(i) Nếu thặng dư nó cho biết số tiền có sẵn để một quốc gia có thể sử dụng để tăng dự trữ ngoại hối;
(ii) Nếu thâm hụt nó cho biết số tiền một quốc gia phải hoàn trả bằng việc bán ngoại hối.
Khái niệm thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể chỉ thích hợp đối với quốc gia áp dụng tỷ giá cố định mà không thích hợp đối với quốc gia áp dụng tỷ giá thả nổi. Sở dĩ vậy là do, nếu áp dụng tỷ giá thả nổi thì tỷ giá hoàn toàn tự do biến động và như thế thì cán cân tổng thể luôn có xu hướng vận động về trạng thái cân bằng vì Ngân hàng trung ương không can thiệp mua vào hay bán ra đồng tiền của mình, do đó dự trữ ngoại hối không thay đổi.
Trong tỷ giá thả nổi, nếu cầu về một đồng tiền lớn hơn cung của đồng tiền đó thì tỷ giá của nó sẽ tăng và ngược lại. Do đó thông qua cơ chế biến đổi tỷ giá mà cán cân tổng thể sẽ luôn có xu hướng chuyển về vị trí cân bằng.
Tuy nhiên, cán cân tổng thể là rất quan trọng đối với tỷ giá cố định vì nó cho biết áp lực dãn đến phải phá giá hay nâng giá đồng tiền như thế nào. Trong hệ thống tỷ giá cố định một quốc gia có thâm hụt cán cân tổng thể phải chịu áp lực cung nội tệ lớn hơn cầu, do đó để tránh phá giá, Ngân hàng trung ương phải tiến hành bán dự trữ.
*) Tình trạng của cán cân tổng thể là rất quan trọng và tác động trực tiếp đến nền kinh tế và sự vận hành các chính sách vĩ mô, đặc biệt khi cán cân tổng thể ở tình trạng thâm hụt.
*) Các giải pháp cân bằng đối với cán cân tổng thể khi ở tình trạng thặng dư không những không khó mà luôn mang lại những hiệu ứng tích cực, kể cả trong ngắn hạn và dài hạn.
*) Ngược lại, các biện pháp cân bằng khi ở tình trạng thâm hụt không những khó khăn hơn mà tác động mặt trái thường rất nặng nề, thậm chí có thể mang lại những hậu quả trong dài hạn.
*) Cân bằng cán cân tổng thể cần lựa chọn và thực hiện các giải pháp một cách hết sức thận trọng.
III) Ý nghĩa của cán cân thanh toán quốc tế
+ Thực chất của cán cân thanh toán quốc tế là một tài liệu thống kê, có mục đích cung cấp sự kê khai đầy đủ dưới hình thức phù hợp vói yêu cầu phân tích những mối quan hệ kinh tế tài chính của một nước với nước ngoài trong một thời gian xác định. Do đó CCTTQT là một trong những công cụ quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô. Thông qua cán cân thanh toán trong một thời kì, chính phủ của mỗi quốc gia có thể đối chiếu giữa những khoản tiền thực tế thu được từ nước ngoài với những khoản tiền mà thực tế nước đó chi ra cho nước ngoài trong một thời kì nhất định. Từ đó đưa ra các quyết sách về điều hành kinh tế vĩ mô như chính sách tỷ giá, chính sách xuất nhập khẩu
VD: Khi cán cân thanh toán ở tình trạng thâm hụt nhà nước cần phải:
+Vận hành chính sách thương mại quốc tế theo hướng tăng xuất khẩu hạn chế nhập khẩu: giới hạn kinh tế của chính sách bảo trợ.
+Vận hành chính sách tài khóa theo hướng thắt chặt Ngân sách nhà nước: chính sách thắt lưng buộc bụng.
+Vận hành chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt cung tiền tệ.
+Phá giá tiền tệ để thúc đẩy lượng xuất khẩu đồng thời giảm lượng nhập khẩu: giới hạn của phá giá tiền tệ.
+Giảm dự trữ quốc tế thông qua bán các giấy tờ có giá và xuất khẩu vàng.
+Vay nước ngoài đẻ thanh toán các khoản chi trả và đến hạn trả: đảo nợ và sự gia tăng nợ (thâm hụt ) trong dài hạn.
+Tuyên bố tình trạng vỡ nợ hay mất khảnăng trả nợ nước ngoài.
+ Ngoài ra CCTT là công cụ đánh giá tiềm năng kinh tế của một quốc gia giúp các nhà hoach định kinh tế có định hướng đúng đắn. Cán cân thanh toán bộc lộ rõ ràng khả năng bền vững, điểm mạnh và khả năng kinh tế bằng việc đo lường chính xác kết quả xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ của đất nước đó
PHẦN 3: THỰC TRẠNG CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010-2012
Cán cân thanh toán 2010-2012
(Đơn vị tính: tỷ USD_Nguồn: SBV, IMF, WB)
Khoản mục
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
I.Cán cân vãng lai
-4.2
-3.0
8.7
- Cán cân thương mại
-7.1
-6.0
9.9
- Cán cân thu nhập và dịch vụ
-5.8
-6.0
-9.4
-Chuyển giao
8.7
9.0
8.2
II.Cán cân vốn
5.6
8.6
8.0
-FDI ròng
7.1
10
7.2
-Đầu tư gián tiếp
2.4
1.0
2.0
-Nợ ngắn hạn
2.8
0.5
1.3
-Vốn vay trung và dài hạn
1.0
2.6
3.5
-Đầu tư khác
-7.7
-5.5
-6.0
III.Lỗi và sai sót
-3
-4
-4.7
IV.Cán cân tổng thể
-1.6
1.6
12
Biểu đồ cán cân thanh toán của Việt Nam giai đoạn 2010-2012
(đv: tỷ USD)
Cán cân vãng lai
Cán cân thương mại
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch giữa chúng (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu).
Cán cân thương mại năm 2010
Biểu đồ cán cân thương mại việt nam năm 2010
Đơn vị: triệu USD
Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt nam năm 2010 có nhiều dấu hiệu khởi sắc hơn nhiều so với năm 2009. Tính chung cả năm 2010, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 71,6 tỷ USD, tăng 25,5% so với năm 2009 trong khi tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 84 tỷUSD, tăng 20,1% so với cùng kỳnăm trước. Theođó, cán cân thương mại năm 2010 mặc dù vẫn thâm hụt khá cao, khoảng 12,4 tỷUSD nhưng thấp hơn so với mức nhập siêu 12,85 tỷUSD của năm 2009 và chỉbằng 16,9% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010.
Về cơ cấu xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu dầu thô sụt giảm khá mạnh trong khi kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng phi dầu thô lại có mức tăng trưởng ấn tượng. Lý do của việc sụt giảm kim ngạch xuất khẩu dầu thô là do khả năng khai thác chưa cao và nhu cầu sử dụng dầu thô cho nhà máy lọc dầu Dung Quất tăng cao. Bên cạnh đó, giá dầu trên thếgiới có xu hướng giảm cũng đã ảnh hưởng đến khối lượng và giá trịdầu thô xuất khẩu. So với cùng kỳnăm 2009, khối lượng dầu thô xuất khẩu giảm 40,3% làm cho giá trịxuất khẩu sụt giảm 20,2%. Nhưvậy, có thểthấy rằng, sựtăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu năm 2010 chủyếu dựa vào việc tăng xuất khẩu của các mặt hàng phi dầu thô với giá trị lên tới 66,69 tỷ USDXét về kim ngạch nhập khẩu, một sốnguyên liệu thô và đầu vào trung gian cho các ngành sản xuất phục vụxuất khẩu như bông, sợi dệt và nguyên phụ liệu dệt may giày dép có tốc độtăng khá cao, lần lượt là 69,2%, 43,5% và 36%. Tuy Thị trườngxuấtkhẩunăm2010khôngcógìkhácbiệtnhiềusovới năm 2009.Thịtrường Mỹvẫn là thịtrường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm trên 20% tổng kim ngạch xuất khẩu, tiếp theo là thị trường các nước EU, ASEAN, và Nhật Bản. Tuy nhiên, tỷtrọng xuất khẩu sang các nước thịtrường mới nổi cũng đang được tăng cường đáng kể, bao gồm Châu Mỹla tinh, châu Phi, TrungĐông và Trung Quốc. Trong khiđó, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từthịtrường Trung Quốc cũng tăng lên khá cao, chiếm khoảng 24% trong năm 2010, và Trung Quốc chính thức trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam trong năm 2010, thay thế vị trí các nước ASEAN
Cán cân thương mại năm 2011:
Năm 2011, hoạt động xuất nhập khẩu có sự tăng trưởng mạnh mẽ so với năm 2010. Tính chung cả năm 2011, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 96,3 tỷ USD, tăng 33% so với năm cùng kỳ 2010 trong khi tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 105,8 tỷ USD, tăng 24,7%.
Trong cơ cấu hàng xuất khẩu, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm 35,2% tỷ trọng, nhóm hàng công nghiệp nhẹ chiếm 40,6% còn nhóm hàng nông, lâm, thủy sản chiếm 21,9%, và vàng tái xuất chiếm 2,3%. Trong cơ cấu hàng nhập khẩu, nhóm tư liệu sản xuất chiếm tới 90,6%, nhóm hàng vật phẩm tiêu dung chiếm 7,6%, và nhóm vàng tăng 1,8%(làm thành 2 cái biểu đồ tròn nhé). Theo đó, thâm hụt cán cân thương mại năm 2011 là 9,5 tỷ USD, và bằng 9,9% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Mức nhập siêu này thấp hơn mức mục tiêu 16% mà chính phủ đã đề ra, đồng thời là mức thấp nhất trong vòng 5 năm và là năm có tỷ lệ nhập siêu thấp nhất so với kim ngạch xuất khẩu kể từ năm 2002.
Tỷ trọng xuất khẩu năm 2011 Tỷ trọng xuất khẩu năm 2011
Cán cân thương mại năm 2012:
Về xuất khẩu hàng hóa, tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012 đạt 114,6 tỷ USD, tăng 18,3% so với năm 2011. Khu vực kinh tế trong nước đạt 42,3 tỷ USD, tăng 1,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (gồm cả dầu thô) đạt 72,3 tỷ USD, tăng 31,2%.
Kim ngạch xuất khẩu năm nay tăng cao chủ yếu nhờ vào các mặt hàng như: Điện tử, máy tính và linh kiện, hàng dệt may, giày dép…
Về nhập khẩu hàng hóa, tổng kim ngạch trong năm 2012 đạt 114,3 tỷ USD, tăng 7% so với năm trước.
Về cơ cấu, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm nay cũng có sự thay đổi so với năm 2011. Nhóm tư liệu sản xuất chiếm tỷ trọng cao nhất với 93,2%, tăng so với mức 90,6% của năm 2011. Nhóm hàng tiêu dùng chiếm 6,8%, giảm so với mức 7,6% của năm 2011 cũng cho thấy cầu tiêu thụ trong nước sụt giảm.
Đặc thù của nền kinh tế Việt Nam gia công nhiều, do vậy tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu thường sẽ đi đôi với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu. Với tình hìnhxuất khẩu được dự báo chỉ tăng trưởng 10% cùng sự hồi phục chậm chạp của cầu trong nước, nhiều khả năng nhập khẩu trong năm 2013 sẽ có mức tăng dưới 10%. Với kịch bản này, Việt Nam hoàn toàn có thể có năm thứ 2 liên tiếp xuất siêu.
Như vậy, năm 2012 là năm đầu tiên Việt Nam xuất siêu (284 triệu USD) sau gần 20 năm liên tục nhập siêu. Trạng thái xuất siêu trong năm vừa qua là một tín hiệu đáng mừng, giúp giảm áp lực cho cán cân thanh toán, góp phần kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, xuất siêu trong năm vừa qua chủ yếu đến từ khu vực đầu tư nước ngoài trong khi khu vực kinh tế trong nước vẫn nhập siêu gần 12 tỷ USD. Ngoài ra, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến hiện tượng xuất siêu là do suy giảm của sản xuất và tiêu dùng trong nước nên nhập khẩu nguyên vật liệu, thiết bị tăng thấp chứ không hẳn do xuất khẩu đă tăng bền vững.
Cán cân thu nhập và dịch vụ
Phần thu từ đầu tư của Việt Nam chủ yếu là tiền lãi của các khoản tiền gửi của người cư trú Việt Nam ở các ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên những khoản tiền lãi đó rất nhỏ, thậm chí còn giảm đi vì ta rút ngoại tệ về cho vay trong nước. Ngược lại, những khoản phải thanh toán ngày càng tăng lên do phải trả lãi cho các khoản nợ nước ngoài. Những khoản nợ này khá lớn, hàng năm Việt Nam phải trả lãi khoảng mấy trăm triệu USD. Thêm vào đó những khoản chuyển lợi nhuận đầu tư cũng tăng lên do các dự án FDI được thực hiện dần. Tuy các khoản lãi tiền gửi có tăng lên nhưng các khoản chuyển lợi nhuận và trả lãi nợ nước ngoài tăng mạnh dẫn đến thu nhập đầu tư ngày càng bị thâm hụt.
Quy mô xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam nói chung còn rất nhỏ. Xét trên khía cạnh về tỷ trọng của xuất khấu dịch vụ trong tổng kim ngạch của xuất khẩu nói chung (bao gồm cả hàng hóa dịch vụ) thì tỷ trọng của xuất khẩu dịch vụ vừa nhỏ lại vừa có xu hướng giảm đi, nguyên nhân chính là do sức cạnh tranh của ngành dịch vụ nước ta trên thị trường thế giới còn chưa cao, tốc độ tăng của kim ngạch xuất khẩu dịch vụ luôn thấp, còn thấp hơn tốc độ tăng của xuất khấu hàng hóa.
Mặt khác, cơ cấu xuất khẩu dịch vụ còn một số điểm bất hợp lí và chuyển dịch chậm. Dịch vụ du lịch (xuất khẩu tại chỗ) luôn chiếm tỷ trọng cao nhất (55,2% tống kim ngạch xuất khấu dịch vụ) nhưng tốc độ tăng còn thấp và "mật độ" khách du lịch quốc tế đến Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực, ở Châu Á và trên thế giới.
Ngoài du lịch, một số dịch vụ khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ, như dịch vụ bảo hiểm, chỉ chiếm 1,1%, dịch vụ bưu chính viễn thông chiếm tỷ trọng 1,7%, dịch vụ tài chính chỉ chiếm 5,5%. Về mặt tổng thể, cán cân dịch vụ của nước ta hầu hết đều thâm hụt qua các năm.
tổng cán cân thu nhập và dịch vụ liên tụcthâm hụt và từ bảng số liệu trên ta thấy thâm hụt tăng dần, từ mức 5,9 tỷ USD năm 2008 lên mức 5,8% năm 2010 và thâm hụt nặng khoảng 9,428 tỷ USD vào năm 2012.
Cán cân chuyển giao
Trong cán cân chuyến giao vãng lai của Việt Nam thì bộ phận chiếm tỷ trọng chủ yếu là chuyển giao tư nhân, còn bộ phận chuyển giao chính phủ chiếm tỷ trọng không đáng kể và thường xu hướng ổn định. Chuyển giao tư nhân của Việt Nam chủ yếu là chuyển tiền của người Việt Nam sống ở nước ngoài (kiều hối).
Từ bảng số liệu ta thấy cán cân chuyển giao giai đoạn này luôn có thặng dư, cũng góp phần đáng kể cải thiện tình trạng thâm hụt của cán cân vãng lai. Năm 2008, cán cân chuyển giao là 8,1 tỷ USD. Đến năm 2009, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế sẽ khiến cho đại bộ phận thu nhập của người lao động trên thế giới giảm xuống, cuộc sống trở nên khó khăn hơn, trong đó có bộ phận người Việt Nam sống ở nước ngoài, do đókhiến cho dòng kiều hối chảy về Việt Nam trong những năm gần đây giảm sút, chỉ bằng 80,25% của năm 2008. Năm 2011, cán cân chuyển giao đạt cao nhất trong giai đoạn 2008-2012 với mức 9,0 tỷ USD, nguyên nhân là do nền kinh tế đang dần được phục hồi, những việt kiều thất nghiệp do khủng hoảng đã có thể tìm được các công việc mới dẫn đến dòng kiều hối tăng. Năm 2012, cán cân chuyển giao ở mức 8,246 tỷ USD, giảm nhẹ so với năm 2011. Qua các năm, ta thấy cán cân chuyển giao nhìn chung là ổn định, có một số biến động qua các năm do ảnh hưởng của tình hình kinh tế thế giới và trong nước song không đáng kể.
Cán cân vốn và tài chính
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
(Đvt: tỷ USD)
2009
2010
2011
2012
Cán cân vốn
6,7
5,6
8,6
7,901
FDI ròng
6,9
7,1
10
7,168
FII
2,4
1,0
1,999
Nợ ngắn hạn
0,2
2,8
0,5
1,294
Vốn vay trung dài hạn
4,4
1,0
2,6
3,483
Đầu tư khác
-4,8
-7,7
-5,5
-6,043
Năm 2010:
Mặc dù kinh tế thế giới và Việt Nam đã có nhiều dấu hiệu phục hồi khả quan, nhưng dòng vốn ngoại tệ đổ vào Việt Nam vẫn chưa có nhiều chuyển biến tích cực. Thu hút trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến cuối tháng 12 đạt 18,595 tỷ USD, giảm 17,8% so với cùng kỳ năm 2009, và chỉ bằng 26% so với cùng kỳ năm 2008.
Trong số này, vốn đăng ký của 969 dự án được cấp phép mới đạt 17,9 tỷ USD (giảm về vốn và giảm về số dự án) còn vốn đăng ký bổ sung của 269 dự án được cấp giấy phép từ các năm trước chỉ tăng thêm được 1,3 tỷ USD.
Về tổng thể, số lượng các dự án FDI khiêm tốn hơn, trong đó, cấp mới chỉ có 1.155 dự án, bằng 83,9% và xin bổ sung vốn, chỉ có 351 lượt dự án, bằng 76,6% so với năm 2009.
Tuy nhiên, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện được trong năm đạt khoảng 11 tỷ USD, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2009 và cao hơn khoảng 0,7 tỷ USD so với năm 2008. Nguyên nhân giảm sút của đầu tư nước ngoài có thể là do môi trường kinh tế thế giới chưa thực sự thuận lợi, tuy nhiên, nhiều yếu tố liên quan đến nguồn lực (như thiếu lao động có kỹ năng, thiếu điện, hạ tầng giao thông yếu kém) và chính sách vĩ mô chưa nhất quán, rõ ràng và thiếu khả năng dự báo cũng đang là những yếu tố tác động đến tâm lý các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, so với một số nước trong khu vực, Việt Nam vẫn đang được đánh giá là “địa điểm đáng chú ý của nhà đầu tư quốc tế” (World Bank,2010).
Năm 2011:
Ḍòng vốn FDI đăng ký và giải ngân lần lượt đạt 14.7 tỷ USD . Con số đạt được thấp hơn so với kế hoạch đề ra, bằng 74% so với năm 2010. Trong khi đó, tổng vốn FDI giải ngân đạt 11 tỷ USD, tương đương với năm 2010. Hoạt động thu hút dòng vốn FDI rất khó khăn trong năm 2011 bởi sự suy yếu của nền kinh tế toàn cầu. Điều này thể hiện rõ khi vốn FDI đăng kí cấp mới chỉ tăng 65% trong khi FDI đăng ký tăng thêm là 165%. Con số trên cho thấy, chỉ có các nhà đầu tư cũ tiếp tục tin tưởng để tiếp tục đầu tư tại Việt Nam trong khi rất khó để thu hút thêm các nhà đầu tư mới. Như vậy, các chỉ tiêu thu hút vốn FDI năm 2011 là thấp so với kế hoạch. Cụ thể, vốn FDI đăng ký năm 2011 chỉ đạt chưa tới 50% kế hoạch (20 tỷ USD) và FDI giải ngân chỉ gần tương đương mục tiêu 11-12.5 tỷ USD.
Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu danh sách thu hút vốn đầu tư với 435 dự án đầu tư đăng ký mới, tổng số vốn cấp mới và tăng thêm là 7.1 tỷ USD, chiếm 48.455% tổng giá trị FDI đăng ký cả năm 2011. Lĩnh vực sản xuất phân phối điện đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm là 2.53 tỷ USD, chiếm 17.2% tổng vốn FDI đăng kí năm 2011. Lĩnh vực xây dựng đứng thứ ba với 140 dự án đầu tư mới, tổng số vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm là 1.25 tỷ USD, chiếm 8.5% tổng FDI đăng ký năm 2011. Hông Kông là quốc gia có tổng vốn đầu tư đăng kí cấp mới và tăng thêm cao nhất trong 53 quốc gia có đầu tư tại Việt Nam, đạt 3.09 tỷ USD, chiếm 21% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam. Nhật Bản đứng ở vị trí thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng kí cấp mới và tăng thêm là 2.43 tỷ USD, chiếm 16.6% tổng vốn FDI đăng ký(cho vào 2 biểu đồ). Dự báo trong năm 2012, dòng vốn FDI giải ngân đạt 10-11 tỷ USD. Đây là mức giải ngân bình quân từ năm 2008-2011. Quan điểm của CLS cho rằng triển vọng kinh tế trong năm 2012 vẫn gặp nhiều khó khăn như giai đoạn 2008-2011 nên giữ được mức thu hút FDI giải ngân như trên cũng đạt được nhiều thành công. Trong khi FDI đăng kư dự báo giảm nhẹ so với năm 2011 và ở mức 13-14 tỷ USD
Năm 2012:
FDI: Giảm về lượng nhưng có dấu hiệu chuyển biến về chất
Nh́ìn chung bức tranh tổng thể FDI của năm 2012 mặc dù có sự sụt giảm cả về số vốn thu hútvà giải ngân, tuy nhiên xét trong bối cảnh kinh tế toàn cầu c̣òn nhiều khó khăn th́ì nhữngthành quả đạt được cũng không quá bi quan. Theo số liệu từ Bộ Kế hoạch và đầu tư, tổng sốvốn FDI giải ngân trong năm 2012 đạt 10,46 tỷ USD, bằng 95,1% so với mức 11 tỷ USD của năm 2011. Tổng số vốn FDI đăng kí mới đạt 13 tỷ USD, bằng 84,7% so với mức 15,3 tỷUSD của năm 2011. Đáng chú ý, số vốn đăng kí cấp mới có sự sụt giảm mạnh (35%) chỉ đạt xấp xỉ 8 tỷ USD trong khi số vốn đăng kư tăng thêm lại có diễn biến hoàn toàn trái ngược khi tăng tới gần 60% (đạt 5,1 tỷ USD) so với năm 2011. Diễn biến này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài đă và đang có các dự án hoạt động tại Việt Nam tiếp tục tin tưởng vào triển vọng tăng trưởng của Việt Nam.Trong khi đó, việc thu hút nhà đầu tư mới sụt giảm trong năm 2012 có thể sẽ ảnh hưởng tới số vốn FDI thực hiện trong những năm tới.
Về cơ cấu, FDI đăng ký trong năm 2012 tiếp tục có dấu hiệu chuyển biến tích cực khi ḍòng vốn có xu hướng chảy mạnh vào lĩnh vực công nghiệp chế biến- chế tạo (tăng mạnh từ 48% trong năm 2011 lên 70% trong năm 2012). Ngược lại, lĩnh vực bất động sản và xây dựng ngày càng bớt hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam khi mục tiêu thu hút FDI không chỉ nằm ở khía cạnh vốn mà c̣òn ở khả năng học hỏi, tiếp nhận công nghệ từ phía các doanh nghiệp FDI.
Chúng tôi cho rằng FDI giải ngân trong năm 2013 có thể đạt mức 9-10 tỷ USD. Nguyên nhân là do ḍòng vốn đăng ký năm 2010 và 2011 đều ở mức khá cao và độ trễ triển khai các dự án này sẽ rơi vào năm 2011 cũng như các năm sau đó. Ngoài ra, sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư vào các ngành Việt Nam có lợi thế cạnh tranh và giá trị gia tăng cao cũng sẽ đảm bảo tốc độ giải ngân trong thời gian tới.
2.2. Đầu tư gián tiếp nước ngoài
Trên thế giới, nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này bao gồm đầu tư trực tiếp (FDI) và đầu tư gián tiếp (FII). Trong khi nguồn vốn FDI có vai trò trực tiếp thúc đẩy sản xuất, thì FII lại có tác động kích thích thị trường tài chính phát triển theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động, mở rộng quy mô và tăng tính minh bạch, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn mới; nâng cao vai trò quản lý nhà nước và chất lượng quản trị doanh nghiệp, có tác động thúc đẩy mạnh mẽ các mối quan hệ kinh tế.
Năm 2008 và đầu năm 2009, trước những khó khăn của nền kinh tế, dòng vốn FII có dấu hiệu chững lại và một phần đã được rút ra. Từ cuối quý II/2009, có sự đảo chiều và quay trở lại của vốn FII, nhưng không thật sự mạnh như mong đợi. Vốn FII năm 2010 đạt 2,4 tỷ USD cao nhất trong những năm gần đây, có được kết quả đó là do chính phủ phát hành 1 tỷ USD trái phiếu ra thị trường quốc tế. Sang năm 2011, FIIgiảm chỉ còn 1,0 tỷ USD, năm 2012 tăng lên xấp xỉ2 tỷ USD . Xu hướng FII đầu tư vào Việt Nam tăng trong 2 năm 2011 và 2012 cho thấy nhà đầu tư nước ngoài vẫn đang kỳ vọng vào sự phát triển của Việt Nam trong tương lai.
V) GIẢI PHÁP ĐIỀU CHỈNH CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ
Mục tiêu quan trọng trong chính sách kinh tế của mỗi quốc gia là đảm bảo cán cân thanh toán được cân bằng. Khi cán cân thanh toán bội thu hay bội chi thì các nước thường sử dụng các biện pháp điều chỉnh cán cân.Khi cán cân bội thu, các nước thường sử dụng sốbội thu đó đểtăng cường đầu tư ra nước ngoài và bổ sung quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia. Bội chi cán cân sẽ có tác động tiêu cực đến việc phát triển kinh tế của quốc gia, quan hệ kinh tế đối ngoại và quan hệ kinh tế-xã hội khác.Do vậy, việc áp dụng những biện pháp nhằm điều chỉnh cán cân khi bội chi là một việc làm hết sức cần thiết nhằm cải thiện cán cân. Tuy nhiên đôi với Việt Nam nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, công nghệ lạc hậu vì vậy đa phần chúng ta đều phải nhập khẩu nguyên vật liệu sản xuất gây ra việc thâm hụt cán cân trong thời gian dài vì vậy ở Việt Nam chủ yếu là các biện pháp giúp giảm thâm hụt cán cân. Để giảm bớt thâm hụt cán cân thanh toán, nhà nước đã áp dụng những chính sách cụ thể như sau
Năm 2010.
1. Thúc đẩy xuất khẩu, hạn chếnhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán (điều hành tỷgiá linh hoạt, các biện pháp hỗtrợxuất khẩu, hạn chếnhập siêu những mặt hàng trong nước đã sản xuất được). Ban hành chỉ thị 18/CT-BCT VỀ VIỆC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÁC BIỆN PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU, KIỂM SOÁT NHẬP KHẨU, HẠN CHẾ NHẬP SIÊU NĂM 2010.
- Sửađổi, bổsung chính sách thuếxuất khẩuđối với mặt hàng than gỗ, than cốc nhằm thúc đẩy xuất khẩu.Điều chỉnh giảm thuếnhập khẩuưuđãiđối với mặt hàng xăng dầu, nhằm bình ổn giá xăng dầu, không đểgiá tăng liên tục trong thời gian ngắn gây tác động bất lợi đến sản xuất hàng xuất khẩu.
-Trình Chính phủban hànhngày 13 tháng 8 năm 2010, quy địnhchi tiết một số điều của Luật thuếxuất khẩu, thuếnhập khẩu theo hướng khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, trước hết là đối với những mặt hàng trong nước sản xuất được hoặc không khuyến khích nhập khẩu đểhạn chếnhập siêu.
- Ban hành nhiều văn bản hướng dẫn liên quan đến hàng hóa xuất nhập khẩu (nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu) như: Thông tưsố07/2010/TT-BTC ngày 14/1/2010 hướng dẫnthực hiện Quyết định số93/2009/QĐ-TTg ngày 10/7/2009; sửa đổi, bổsung khoản 4 Điều 21 Quyết định số33/2009/QĐ-TTg ngày 02/3/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách tài chính đối với khu kinh tế cửa khẩu...
- Tiếp tục phá giá nội tệ cải thiện cán cân thanh toán. Đồng thời thắt chặt tài khóa và tiền tệ để đưa nền kinh tế về điểm cân bằng hơn đã tháo gỡ dần nút thắt đồng nội tệ định giá quá cao, đưa nền kinh tế về đúng mức cung cầu của thị trường. Tuy nhiên trong ngắn hạn, lạm phát lại tăng mạnh và sản lượng giảm, nợ công cao.
- Trong năm 2009Việt Nam liên tục phá giá đồng tiền. Vào tháng 11/2009, đồng tiền Việt Nam bị mất giá 5,44% so với đôla Mỹ. Mới đây nhất là vào ngày 12/2/2010 (nhằm ngày 28 tết Nguyên Đán), đồng tiền Việt Nam lại giảm 3,4% so với đô la Mỹ.
- Đối với vấn đề nợ công, tính đến hết 31/12/2010, dư nợ Chính phủ bằng 44,3% GDP, dư nợ quốc gia bằng 42,2% GDP và dư nợ công bằng 56,6% GDP. Tuy nhiên, xét về cơ cấu, tỷ trọng huy động vay nợ trong nước ngày càng tăng, vay nợ nước ngoài giảm; các khoản vay nước ngoài của Chính phủ phần lớn đều có thời hạn dài, lãi suất ưu đãi, việc bố trí thanh toán nợ hàng năm đều bảo đảm đầy đủ, đúng hạn, không có nợ xấu. Lạm phát năm 2010 ở mức 11,75%.
2.Các giải pháp về hành chính: thu hút lượng vốn vào nhiều, thực hiện các biện pháp trợ giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn của suy thoái kinh tế và khủng hoảng toàn cầu, giảm kiểm soát vốn, tăng cường các hoạt động hỗ trợ cho xuất khẩu, giảm nhập khẩu.
+ Trong năm 2010, Bộ Tài chính đã tiến hành thẩm định và phê duyệt tổng số 02 chương trình, dự án ODA. Trong đó có 01 dự án sử dụng vốn ODA vay và 01 dự án sử dụng ODA không hoàn lại.Tổng giá trị vốn ODA của CT-DA ODA đã ký kết trong năm 2010 là: 705,7 triệu USD (tương đương với 12.430 tỷ VND)
+ Ngày 15 tháng 11 năm 2010, Thủtướng Chính phủ đã ra Quyết định số72/2010/QĐ-TTg ban hành Quy chếmới vềviệcxây dựng, quản lý và thực hiện Chương trình Xúc tiến thương mại quốc gia(XTTMQG)ápdụngtừ năm2011trởđi,thaythế Quyếtđịnhsố 279/2005/QĐ- TTg ngày 03 tháng 11 năm 2005 và Quyếtđịnh số80/2009/QĐ-TTg ngày 21 tháng 5 năm 2009 đã hết hiệu lực vào năm 2010. Mục tiêu chính của Chương trình XTTMQG là nhằm tăng cường hoạtđộng xúc tiến thương mại, phát triển xuất khẩu, thịtrường trong nước, thương mại miền núi, biên giới và hải đảo; Góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trong sản xuất, kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam; Gắn kết các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tưvà du lịch. Quy chếxây dựng, quản lý và thực hiện Chương trình XTTMQGđược xây dựng dựa trên việc tiếp thu những nội dung phù hợp đã được thực thi tốt trong giaiđoạn vừa qua, đồng thời sửa đổi những nội dung không còn phù hợp với thực tiễn; nghiên cứu, tham khảo quy định và nội dung XTTM của các nước trên thếgiới,đềra nội dung, giải pháp phù hợp với thông lệquốc tế, áp dụng phương thức hỗtrợmới phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
3.Thực hiện các gói kích thích kinh tế nhằm trợgiúp các doanh nghiệp vượt qua những khó khăn của suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính toàncầu. Góikích thích kinh tế thứ nhấtđược Chính phủ công bố ngày 23/1/2009, trongđó hỗ trợ lãi suất 4%đối với các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng trong thời gian tối đa là 8 tháng, kết thúc vào ngày 31/12/2009. Vốn vay này nhằm giúp doanh nghiệp giảm giá thành sản phẩm, duy trì sản xuất kinh doanh, và tạo côngăn việc làm trongđiều kiện nền kinh tếbịtácđộng bởi suy thoái kinh tếvà khủng hoảng tài chính toàncầu. Gói kích thích1 kinh tế thứ hai (Quy ếtđịnh443/2009/QĐ-TTgcủaThủ tướngChínhphủ có hiệu lực ngày 04/4/2009) nhằm cung cấp bù lãi suất 4% cho doanh nghiệp nhưng hướng vào các nguồn vốn trung và dài hạn trong khoảng thời gian tốiđa 24 tháng, việc hỗtrợlãi suất nàyđược thực hiện từngày 01/4/2009 đến hết ngày 31/12/2011
2. Năm 2011
Chính phủ đã thi hành các giải pháp dài hạn bao gồm tái cấu trúc kinh tế để đẩy mạnh giá trị xuất khẩu, giảm dần kỳ vọng lạm phát, lấy lại niềm tin vào nhà điều hành chính sách.
thực hiệnđồng bộ các biện pháp nâng cao chất lượng, tăng giá trị hàng hóa xuất khẩu, đặc biệt chú ý đến các mặt hàng nông, lâm, thủy sản
đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tìm kiếm và mở rộng thị trường, tập trung khai thác theo chiều sâu, chiều rộng đối với các thị trường xuất khẩu truyền thống, thị trường xuất khẩu trọng điểm, đi đôi với việc phát triển các thịtrường có chung đường biên giới với Việt Namthông qua việc xem xét điều chỉnh những quy định không phù hợp hoặc hạn chếxuất khẩu thờigian qua.
đẩy mạnh triển khai các Hiệp định khu vực mậu dịch tựdo (FTA) đã ký kết và tận dụng lợi thế từ FTA đem lại, phối hợp với các địa phương, Hiệp hội ngành hàng tổchức phổ biến rộngrãi cho các doanh nghiệp nội dung FTA mà Việt Nam đã tham gia ký kết đểtăng cường hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tận dụng lợi thếcủa các FTA.
BộCông Thương phối hợp tổchức các hội nghị giao ban xuất khẩu nhằm tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, trong hoạt động xuất khẩu, bàn biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu cho từng ngành hàng, mặt hàng, tiếp tục cải cách hành chính trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, hải quan, tích cực phối hợp với các Bộ/ ngành, địa phương tiếp tục triển khai các chính sách khuyếnkhích xuất khẩu, kiềm chếnhập siêu. Mặt khác, khuyến khích các doanh nghiệp phát triển sảnxuất các loại nguyên liệu, các mặt hàng phụ trợ cho sản xuất hàng xuất khẩu. Đồng thời, để phát triển kinh tếđối ngoại tại vùng biên với Lào và Campuchia, Thủ tướng Chính phủđã ban hành cơchế, chính sách khuyến khích cụthể, áp dụng cho các tỉnh vùng biên, các doanh nghiệp Việt Nam đầu tưtại Quyết định số482/QĐ-TTg của Thủtướng Chính phủngày 14 tháng 4 năm 2010.
Năm 2012.
Cán cân tổng thể của Việt Nam năm 2012 đã biến chuyển theo hướng tích cực: từ bị thâm hụt trong 2 năm 2009 (-8,4 tỷ USD), 2010 (-1,7 tỷ USD) sang thặng dư trong năm 2011 (2,5 tỷ USD) và tiếp tục thặng dư trong các quý năm 2012 - quý I: 4,28 tỷ USD; quý II: 2,17 tỷ USD; quý III: 4,2 tỷ USD. Đây là sự chuyển dịch vị thế quan trọng, góp phần làm tăng sức mạnh tài chính quốc gia chống lại kỳ vọng về biến động tỷ giá, kỳ vọng lạm phát.
Có nhiều chính sách góp phần tạo nên sự cải thiện cán cân thanh toán tổng thể.
Thứ nhất, và quan trọng nhất là chính sách điều hành: (i) Đầu tháng 2/2011, NHNN tuyên bố mức phá giá cao nhất trong lịch sử (9,3%), nâng tỷ giá chính thức lên 20.693 USD/VND và giảm biên độ xuống còn ±1%; (ii) trong năm 2012, Thống đốc NHNN đã cam kết giữ tỷ giá biến động không quá 3% và liên tục can thiệp để ổn định tỷ giá tạo niềm tin cho công chúng. Những việc này đã đưa tỷ giá danh nghĩa về gần với giá thị trường hơn và tạo điều kiện giảm biến động tỷ giá, giảm kỳ vọng tăng tỷ giá, từ đó thu hút được lượng ngoại tệ mà cá nhân và DN nắm giữ, góp phần hạn chế tình trạng đô la hóa và tăng dự trữ ngoại hối.
Thứ hai, những cải thiện trong các khoản mục của cán cân thanh toán: (i) Thương mại hàng hóa, dịch vụ nhập siêu giảm kỷ lục; (ii) giải ngân vốn đầu tư nước ngoài vẫn duy trì mức cao đạt 10,46 tỷ USD, thấp không đáng kể so với năm 2011, 11 tỷ USD; (iii) giải ngân vốn hỗ trợ phát triển chính thức đạt mức kỷ lục từ trước đến nay.
Suốt 20 năm, Việt Nam mới có năm 2012 xuất siêu. Tính chung cả năm 2012, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 114,6 tỷ USD, tăng 18,3% so với năm 2011. Tăng trưởng của xuất khẩu vượt kế hoạch đề ra nhưng chủ yếu dựa vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài -72,3 tỷ USD, khu vực kinh tế trong nước đạt 42,3 tỷ USD.
Dự đoán sắp tới, cán cân thanh toán tiến triển tích cực, nhưng còn chứa đựng nhiều yếu tố ảnh hưởng không tốt đến tính bền vững: Cán cân thương mại hàng hóa dịch vụ thặng dư chưa vững chắc do có một phần nhu cầu đầu tư, sản xuất, tiêu dùng trong nước bị chững lại; thâm hụt cán cân dịch vụ còn cao do Việt Nam chưa đảm bảo cung cấp các dịch vụ y tế, giáo dục, vận tải có chất lượng cao; thu nhập từ lãi và đầu tư chuyển về ròng còn âm do chưa kiểm soát được lợi nhuận từ hoạt động đầu tư ra nước ngoài và Việt Nam chủ yếu vẫn là nước nhập vốn FDI; thu hút FDI ròng giảm dần qua thời gian. Đáng quan tâm nhất là cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam: (i) cơ cấu mặt hàng chủ yếu là nông sản và tài nguyên nên Việt Nam phụ thuộc nhiều vào biến động giá. Tỷ trọng của hàng công nghiệp ngày càng tăng - năm 1993 gần 70% là sản phẩm thô và sơ chế thì đến 2010 tỷ trọng này chỉ còn trên 34,86% kim ngạch xuất khẩu. Những mặt hàng xuất siêu cao trong năm 2012 chủ yếu là hàng gia công: linh kiện điện thoại, điện tử, thiết bị máy tính. Đây đều là các mặt hàng được các DN nhập khẩu linh kiện về lắp ráp, giá trị gia tăng không cao trong khi đó kéo sự gia tăng trong kim ngạch nhập khẩu. Thêm vào đó, xuất siêu năm nay phụ thuộc hoàn toàn vào khối DN FDI trong khi lượng vốn FDI đăng ký đang có xu hướng giảm dần. Do vậy, rất khó kỳ vọng Việt Nam tăng đột biến mức thặng dư cán cân thanh toán hiện tại.
Kết luận: Muốn duy trì và đảm bảo tăng thặng dư cán cân thanh toán cho năm 2013 và những năm sau, Việt Nam còn phải làm rất nhiều và cần nhiều thời gian để thay đổi cơ cấu xuất nhập khẩu, cơ cấu đầu tư đang bất lợi hiện nay. Cụ thể: từng bước và có nhiều giải pháp đồng bộ giữ được thặng dư cán cân thương mại trên cơ sở giữ được tốc độ tăng về kim ngạch xuất khẩu, tiếp tục kiềm chế tốc độ tăng nhập khẩu những mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu, giảm thiểu chênh lệch cao hơn của giá vàng trong nước so với giá vàng thế giới để đề phòng và ngăn chặn nguy cơ nhập khẩu vàng chính ngạch để can thiệp hoặc nhập lậu để hưởng lợi về giá; giảm thiểu thâm hụt cán cân dịch vụ bằng cách đảm nhận cung cấp các dịch vụ vận tải, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ du lịch; thu hút tốt hơn lượng kiều hối.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom_1_can_can_thanh_toan_viet_nam_2154.doc