Lời nói đầu
Những năm gần đây, xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ; mối quan hệ kinh tế giữa các nước trên thế giới càng trở nên chặt chẽ và rất phức tạp, chúng tác động rất nhiều đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Với thực tế cấp thiết trên đòi hỏi Việt Nam phải tích cực, chủ động tham gia hội nhập kinh tế với kinh tế khu vực và trên thế giới nhằm khai thác có hiệu quả những thế mạnh của nền kinh tế trong nước.
Bên cạnh những hoạt động kinh tế đối ngoại đem lại hiệu quả cao thì các hoạt động gia công quốc tế cũng là một phương pháp hữu hiệu, nó vừa phù hợp với thực tế nền kinh tế nước ta hiện nay.
Trong gia công quốc tế thì lĩnh vực gia công da giầy đóng một vai trò khá quan trọng trong tổng sản phẩm quốc nội của nước ta.
Ngành công nghiệp Da giầy luôn được đánh giá là một trong ba ngành hàng có giá trị XK cao nhất, chỉ sau ngành dầu khí và dệt may của nước ta. Kim ngạch XK của ngành đạt tốc độ phát triển cao, luôn chiếm 10% trong tổng kim ngạch XK của quốc gia. Hiện nay, da giay VN được xếp trong top 10 nước xuất khẩu hàng đầu vào thị trường 25 nước EU và Mỹ (hai thị trường tiêu thụ giầy dép lớn nhất thế giới). ở khu vực châu Á, Nhật Bản đang là một trong những thị trường XK giay dép lớn nhất của VN. Chúng ta đứng thứ ba trong số các nước XK giay dép lớn nhất vào Nhật Bản, chỉ sau Trung Quốc và Italia.
Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề gia công quốc tế nói chung và gia công da giầy ở Việt Nam nói riêng nhóm 10 chọn đề tài thảo luận: “Phân tích phương thức gia công quốc tế và nhận xét gia công ngành da giầy ở Việt Nam”.
21 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8135 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích phương thức gia công quốc tế và nhận xét gia công ngành da giầy ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Những năm gần đây, xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ; mối quan hệ kinh tế giữa các nước trên thế giới càng trở nên chặt chẽ và rất phức tạp, chúng tác động rất nhiều đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Với thực tế cấp thiết trên đòi hỏi Việt Nam phải tích cực, chủ động tham gia hội nhập kinh tế với kinh tế khu vực và trên thế giới nhằm khai thác có hiệu quả những thế mạnh của nền kinh tế trong nước.
Bên cạnh những hoạt động kinh tế đối ngoại đem lại hiệu quả cao thì các hoạt động gia công quốc tế cũng là một phương pháp hữu hiệu, nó vừa phù hợp với thực tế nền kinh tế nước ta hiện nay.
Trong gia công quốc tế thì lĩnh vực gia công da giầy đóng một vai trò khá quan trọng trong tổng sản phẩm quốc nội của nước ta.
Ngành công nghiệp Da giầy luôn được đánh giá là một trong ba ngành hàng có giá trị XK cao nhất, chỉ sau ngành dầu khí và dệt may của nước ta. Kim ngạch XK của ngành đạt tốc độ phát triển cao, luôn chiếm 10% trong tổng kim ngạch XK của quốc gia. Hiện nay, da giay VN được xếp trong top 10 nước xuất khẩu hàng đầu vào thị trường 25 nước EU và Mỹ (hai thị trường tiêu thụ giầy dép lớn nhất thế giới). ở khu vực châu Á, Nhật Bản đang là một trong những thị trường XK giay dép lớn nhất của VN. Chúng ta đứng thứ ba trong số các nước XK giay dép lớn nhất vào Nhật Bản, chỉ sau Trung Quốc và Italia.
Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề gia công quốc tế nói chung và gia công da giầy ở Việt Nam nói riêng nhóm 10 chọn đề tài thảo luận: “Phân tích phương thức gia công quốc tế và nhận xét gia công ngành da giầy ở Việt Nam”.
I, CƠ SỞ LÝ LUẬN.
1, Khái niệm và đặc điểm của gia công quốc tế.
a, Khái niệm.
Gia Công quốc tế (GCQT) là phương thức gia công quốc tế trong đó bên đặt gia công nước ngoài cung cấp máy móc, thiết bị nguyên liệu phụ kiện hoặc bán thành phẩm để bên nhận gia công trong nước tiến hành tổ chức quá trình sản xuất thành sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công.Toàn bộ sản phẩm làm ra bên nhận gia công sẽ giao lại cho bên đặt gia công để nhận về 1 khoản thù lao (phí gia công) theo thỏa thuận. Gia công quốc tế là hình thức gia công thương mại mà bên đặt gia công hoặc bên nhận gia công là thương nhân nước ngoài.
b, Đặc điểm của gia công quốc tế.
Gia công quốc tế là một phương thức ủy thác gia công, trong đó hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất.
Trong quá trình gia công, bên nhận gia công trong nước bỏ ra lao động, tiền chi phí gia công (thù lao lao động). Do đó, có thể nói gia công quốc tế là một hình thức mậu dịch lao động, một ìn thức xuất khẩu lao động tại chỗ thông qua hàng hóa.
Gia công quốc tế là một phương thức buôn bán gia công “hai đầu ở ngoài”, nghĩa là thị trường nước ngoài là nơi cung cấp nguyên vật liệu, đồng thời cũng là thị trường tiêu thụ sản phẩm đó.
Ở đây cần lưu ý, nghiệp vụ gia công quốc tế khác với nghiệp vụ nhập khẩu thành phẩm (mua đứt bán đoạn). Tuy nó cùng về phương thức buồn bán gia công “Hai đầu ở ngoài” nhưng nó có điểm khác biệt rõ rệt với gai công quóc tế ở chỗ:
Thứ nhất, trong nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu thành phẩm là hai vụ giao dịch khác nhau, đều xảy ra chuyển dịch quyền sở hữu, người cung ứng nguyên liệu và người mua thành phẩm không có liên hệ chắc chắn nào. Trong nghiệp vụ gia công quốc tế, nhập nguyên liệu đầu vào và xuất thành phẩm đi không có sự chuyển dịch quyền sở hữu, hoặc nếu có chuyển dịch quyền sở hữu trong nhập nguyên liệu nhưng chúng đều thuộc một cuộc giao dịch, các việc có liên quan đều được quy định trong cùng một hợp đồng. Vì ngiệp vu gia công quộc tế thuộc về ủy thác gia công, do đó người cung ứng nguyên liệu lại chính là người nhận thành phẩm.
Thứ hai, trong nghiệp vụ nhập khẩu nguyên liệu gia công và xuất khẩu thành phẩm, nhà mày trong nước mua từ nước ngoài nguyên liệu, gai công thành phẩm, làm tăng giá trị, sau đó bán ra thị trường nước ngoài, kiếm giá trị chênh lệch từ nguyên liệu đến thành phẩm, nhà máy trong nước phải chịu những rủi ro khi tiêu thụ trên thị trường. Trong nghiệp vụ gia công quốc tế, vì thành phẩm giao cho bên đặt gia công tự tiêu thụ, nhà máy trong nước không phải chịu rủi ro, nhưng phần nhận được cũng chỉ là thù lao sức lao động, còn giá trị lao động lớn như thế nào thì không cần quan tâm, do đó, lợi nhuận thu được từ nghiệp vụ gia công quôc tế thường thấp hơn nhiều so với nhập khẩu nguyên liệu gia công.
Nên, phấn đấu để tăng dần tỷ lệ “mua đứt bán đoạn” lên thay thế gia công thuần túy đang là mục tiêu quan trọng của các doanh nghiệp đang thực hiện gia công quốc tế tại các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
2, Tác dụng của phương thức gia công quốc tế.
Áp dụng phương thức giao dịch gia công quốc tế đều có tác dụng tích cực đối với bên đặt gia công cũng như bên nhận gia công, nên gia công quốc tế ngày nay khá phổ biến trong thương mại quốc tế của nhiều nước.
Tác dụng đối với bên đặt gia công
Tác dụng đối với bên nhận gia công
- Hạ thấp giá thành sản phẩm, do đó làm tăng sức mạnh cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
- Có thể điều chỉnh cơ cấu ngành nghề ở nước sở tại
- Giảm tải dư thừa lao động hay thất nghiệp, phát triển nguồn nhân lực, tăng Thu nhập thêm ngoại tệ.
- Phát triển nguồn lao động, tạo cơ hội việc làm và làm phát triển kinh tế.
- Thu hút sự đầu tư kỹ thuật hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước ngoài, thúc đẩy kinh tế hướng xuất khẩu phát triển.
3, Các loại gia công quốc tế và hợp đồng gia công quốc tế.
a, Các loại gia công quốc tế.
Theo quyền sở hữu nguyên liệu, gia công quốc tế có các hình thức sau.
- Bên đặt gia công theo nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia công và sau thời gian sản xuất, chế tạo, sẽ thu hồi thành phẩm và trả phí gia công. Trong trường hợp này, trong thời gan chế tạo, quyền sở hữu về nguyên liệu vẫn thuộc về bên đặt gia công.
- Bên đặt gia công bán đứt nguyên liệu cho bên nhận gia công và sau thời gian sàn xuất chế xuất, sẽ thu hồi thành phẩm. Trong trường hợp này, quyền sở hữu nguyên liệu chuyển từ bên đặt gia công sang bên nhận gia công .
- Ngoài ra, người ta còn áp dụng hình thức kết hợp, trong đó bên đặt gia công chỉ giao những nguyên liệu chính, còn bên nhận gia công cùng cung cấp nguyên vật liệu phụ
Theo giá cả gia công:
- Theo giá thực tế, trong đó bên nhận gia công thanh toán với bên nhân gia công toàn bộ những chi phí thực tế của mình cộng với tiền thù lao gia công.
- Theo giá thị trường, trong đó người ta xác định một giá định mức cho mối sản phẩm, bao gồm chi phí định mức và thù lao định mức. Dù chi phí thực tế của bên nhận gia công là bao nhiêu đi chăng nữa ,hai bên vẫn thanh toán với nhau theo giá định mức đó.
Theo số bên tham gia quan hệ gia công,có hai loại gia công sau đây:
- Gia công hai bên, trong đó chỉ có bên đặt gia công và bên nhận gia công.
- Gia công nhiều bên, còn gọi là gia công chuyển tiếp, trong đó bên nhận gia công là một số doanh nghiệp mà sản phẩm gia công của đơn vị trước là đối tượng gia công của đơn vị sau, còn bên nhận gia công vẫn chỉ là một.
b, Hợp đồng gia công quốc tế:
Bản chất: là hơp đồng bán sức lao động
Các phương thức kí kết hợp đồng gia công quốc tế
- Nhà máy trực tiếp kí kết với nước ngoài
- Công ty xuất nhập khẩu kí kết hợp đồng, nhà máy gia công (nguyên liệu ,máy móc….)
- Qua công ty dich vụ gia công quốc tế
Những nội dung cơ bản của hợp đồng gia công quốc tế
- Mục đích của hợp đồng
- Quy định về thành phẩm
- Quy định về nguyên vật liệu
- Quy định về giá cả gia công
- Quy định về nghiệm thu
- Quy định về thanh toán
- Quy định về giao hàng
- Quy định về vận chuyển
- Quy định về bảo hiểm
4, Những vấn đề cần chú ý khi áp dụng phương thức gia công quốc tế.
Gia công quốc tế là một phương thức thương mại quốc tế mà các nước đang phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa thường áp dụng, nhằm tận dụng những lợi ích mà gia công quốc tế đem lại. Khi áp dụng gia công quốc tế vần lưu ý các vấn đề sau:
- Khi phát triển nghiệp vụ thương mại quốc tế phải có quan điểm toàn cục, chú ý xử lý tốt mối quan hệ với xuất khẩu thông thường.
- Xác định hợp lý chi phí lao động: cần tăng cường hoặch toán kinh tế, chú ý tới hiệu quả kinh tế. Với nước có giá thành gia công thấp hơn nước ngoài, khi quyết định mức chi phí lao động, không những phải xem xét xem có hợp lý hay không, đồng thời phải tham khảo mức chi phí lao động của thị trừơng nước ngoài để hoặch toán, cân nhắc hiệu quả, để cho tiêu chuẩn chi phí của mình vừa có sức cạnh tranh, lại thu về nhiều ngoại tệ cho nước mình, tránh sự cạnh tranh với các đơn vị gia công khác trong nước, tự ý hạ thấp mức chi phí lao động.
- Dần dần mở rộng tỷ trọng sử dụng nguyên liệu, linh kiện nước mình sản xuất: ở những khu vực hoặc đơn vị có điều kiện,cần cố gắng sử dụng nhiều nguyên vật liệu hoặc linh kiện do nước mình sản xuất, tranh thủ nâng cao tỷ trọng ở mặt này, dần dần quá độ sang tự kinh doanh XK.
- Nâng cao năng lực của doanh nghiệp: Nỗ lực nâng cao năng lực của doanh nghiệp về mọi mặt. Không ngừng nâng cao năng suất lao động, tăng khả năng cạnh tranh về mặt chất lượng. Những đơn vị có điều kiện cần có kế hoặch dần dần nâng cao trình độ kỹ thuật của nghiệp vụ gia công. Từ gia công nhiều sức lao động quá độ sang gia công tập trung kỹ thuật,tập trung vốn.
II, THỰC TRẠNG GIA CÔNG GIÀY DA TẠI CÁC DOANH NGIỆP VIỆT NAM HIÊN NAY.
1, Ngành giày da Việt Nam.
Năm 2010 ngành da giày Việt Nam tổ chức kỷ niệm 20 năm thành lập. Thật ra việc sản xuất và kinh doanh giày dép tại Việt Nam đã có từ lâu đời nhưng phần lớn là sản xuất bằng phương pháp thủ công với những cơ xưởng vài mươi nhân công.
Việc thành lập ngành da giày Việt Nam cách đây 20 năm là mốc đánh dấu sự ra đời của ngành công nghiệp da giày sản xuất theo phương thức hiện đại trên dây chuyền công nghiệp, từ đó hình thành những nhà máy có quy mô từ vài trăm đến hàng chục ngàn lao động và tham gia vào việc xuất khẩu giày dép ra thế giới.
Vào những năm đầu thập niên 1990, ngành giày Việt Nam chủ yếu gia công sản xuất mũ giày cho các nước Đông Âu theo Hiệp định 19/5, tuy nhiên việc gia công này đã sớm sút giảm do thị trường Đông Âu bị biến động mạnh.
Vì vậy, vào giữa những năm 1990, các doanh nghiệp ngành da giày Việt Nam phải tự tìm kiếm thị trường và chuyển dần xuất khẩu sang các nước Tây Âu. Đến cuối năm 2000, số liệu xuất khẩu cho thấy cả ngành da giày lúc bấy giờ đã đạt mức 1.471 triệu đô la Mỹ.
Từ đầu những năm 2000 đến nay, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước giúp cho các doanh nghiệp da giày trong nước cơ hội phát triển, cộng với đầu tư của nhiều doanh nghiệp sản xuất da giày từ Hàn Quốc, Đài Loan... góp phần thay đổi nhanh chóng bộ mặt của ngành da giày Việt Nam.
Đến hết năm 2008, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đã đạt đến 4.767 triệu đô la Mỹ, tăng 3,2 lần so với năm 2000 và tăng đều đặn với tỷ lệ khá cao, trên 18% mỗi năm.
Trong những năm gần đây công tác xúc tiến thương mại đã bắt đầu được chú trọng. Toàn ngành đã có những hoạt động tích cực nhằm tăng cường tuyên truyền và quảng bá hình ảnh của ngành da giày Việt Nam như một quốc gia sản xuất và xuất khẩu da giày tiềm năng, nâng cao năng lực hiểu biết về kiến thức pháp luật, thị trường, phòng ngừa các vụ kiện bán phá giá và vận dụng luật để đấu tranh trong các vụ tranh chấp thương mại. Phương thức bán hàng tại các doanh nghiệp đã có nhiều đổi mới, hình thành nhiều mạng lưới bán buôn, bán lẻ, tham gia vào các kênh phân phối của các tập đoàn xuyên quốc gia, phát triển hình thức thương mại điện tử.
2, Thực trang gia công giày dép tại các doanh nghiệp Việt Nam
a, Thực trạng chung
Da giày là một trong những lĩnh vực đầu tiên đón nhận làn sóng đầu tư nước ngoài từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước với việc hình thành hàng loạt nhà máy gia công, liên doanh, 100% vốn nước ngoài) trải dài trên cả nước. Thế nhưng đến nay, ngành xuất khẩu đứng thứ 3 của Việt Nam với hơn 600.000 lao động vẫn bị đánh giá là lợi nhuận thấp. “Mặc dù có đến 90% sản lượng xuất khẩu, nhưng giá trị gia tăng của ngành này chỉ đạt 25%”. Giá trị gia tăng nhỏ nhoi đó chủ yếu nằm ở sức lao động, yếu tố được xem là xem là “lợi thế cạnh tranh” lớn nhất của da giày Việt Nam những năm qua. Song lợi thế về “giá nhân công rẻ” và “nguồn lao động dồi dào” này đang mất dần đi khi người lao động không còn mặn mà với công việc hết sức vất vả, khắc nghiệt mà thu nhập thấp (da giày là một trong những ngành có thu nhập thấp nhất).
Việt Nam được xếp hạng là một trong 10 nước xuất khẩu hàng đầu trên thị trường quốc tế hiện nay về da giày, riêng ở thị trường EU, Việt Nam xếp thứ hai sau Trung Quốc. Kim ngạch xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam có mức tăng trưởng trung bình hàng năm 16%, đạt mức 3,96 tỉ USD năm 2007, đứng thứ 3 sau ngành dệt may và dầu khí. Kim ngạch xuất khẩu giày dép các loại trong tháng 4/2008 ước đạt 330 triệu USD, tăng 5,4% so với tháng trước và tăng 17% so với cùng kỳ năm 2007. Tổng kim ngạch xuất khẩu da giày các loại trong 4 tháng năm 2008 ước đạt 1,356 tỉ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm 2007. Dự báo đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm ngành da giày Việt Nam sẽ đạt 6,2 tỉ USD.
Tuy nhiên, đến năm 2009, kim ngạch xuất khẩu của ngành đã có dấu hiệu chững lại với mức xuất khẩu là 4.067 triệu đô la, giảm 14,6% so với 2008, khiến cho nhiều doanh nghiệp trong ngành và những người quan tâm đến ngành da giày Việt Nam cảm thấy lo ngại.
Ngành da giày thế giới tiếp tục có xu hướng chuyển dịch sản xuất sang các nước đang phát triển, đặc biệt hướng vào các nước có môi trường đầu tư thuận lợi, chính trị ổn định và an toàn. Khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới, hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ, cùng với các chính sách thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu của Chính phủ, Việt Nam sẽ trở thành một địa điểm đầu tư lý tưởng cho các nhà sản xuất da giày.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải nhìn nhận thực tế rằng năng lực xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam trên thị trường xuất khẩu thế giới còn yếu do thiếu khả năng tự thiết kế mẫu mã, tự đảm bảo vật tư nguyên liệu trong nước, quy mô sản xuất chưa đủ lớn, điều kiện kinh tế và hạ tầng dịch vụ của Việt Nam còn nhiều hạn chế, giá thành chi phí sản xuất cao, ưu thế về nhân công lao động tuy vẫn là nhân tố cạnh tranh, nhưng không còn thuận lợi như trước đây. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế thì dù có đến 90% sản lượng xuất khẩu, nhưng lợi nhuận thu về từ ngành này chỉ đạt mức 25% giá trị gia tăng, vì ngành này chủ yếu vẫn “bán” sức lao động là chính.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển của ngành da giày: gia tăng các luồng chuyển giao vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thúc đẩy giao lưu văn hoá, trí tuệ, củng cố và tăng cường các thể chế quốc tế, phát triển văn minh vật chất và tinh thần tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển thị trường quốc tế. Song, hội nhập cũng mang lại không ít khó khăn và thách thức. Các doanh nghiệp sản xuất giày da Việt Nam đang gặp phải cạnh tranh gay gắt từ các thế lực kinh tế mạnh trong khu vực và quốc tế như Brazil, Trung Quốc và một số nước ASEAN.
Theo Hiệp hội da giày Việt Nam (Lefaso), bảy tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu da giày cả nước đạt 2,75 tỷ USD, tăng 13,8% so cùng kỳ năm trước. Với kim ngạch xuất khẩu này, da giày tiếp tục là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch hơn 1 tỷ USD. Đây là tín hiệu đáng mừng đối với ngành da giày Việt Nam trong bối cảnh giày mũ da Việt Nam vẫn đang chịu mức thuế xuất khẩu 10% vào EU và không được hưởng cơ chế ưu đãi thuế quan phổ cập GSP.
Cùng với sự hồi phục kinh tế thế giới, các đơn hàng xuất khẩu của ngành da giày tăng khoảng 16% so với năm ngoái. Theo Hiệp hội da giày Việt Nam, chỉ riêng hai tháng 6 và 7 vừa qua, trung bình kim ngạch xuất khẩu da giày đạt 450 triệu USD/tháng. Thị trường tiêu thụ hàng giày dép Việt Nam chính vẫn là Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản, trong đó kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đạt gần 700 triệu USD, chiếm 25% tổng giá trị xuất khẩu. Mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong bảy tháng qua chủ yếu là giày thể thao, còn lại là giày thời trang, túi, cặp, giày da, giày vải... Với đà tăng trưởng này, dự kiến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của ngành đạt gần 5 tỷ USD.
Chủ tịch Hiệp hội da giày Việt Nam Nguyễn Đức Thuấn cho biết, từ năm 2010 trở đi, đặc biệt từ năm 2010 đến năm 2015 được coi là thời kỳ "vàng" của ngành da giày nước ta bởi Việt Nam hiện đang có lợi thế cạnh tranh hơn một số nước trong khu vực. Điển hình là chi phí nhân công ở nước ta rẻ hơn. Chẳng hạn, tại Trung Quốc, một trong những nước xuất khẩu giày dép lớn trên thế giới, hiện thu nhập bình quân đầu người đã đạt mức khoảng 3.000 USD/người/năm nên giá nhân công ở Trung Quốc bắt đầu tăng lên. Trong khi đó, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam mới đạt khoảng 1.200 USD/người/năm. Đây chính là lợi thế để Việt Nam phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như da giày. Đến nay, phần lớn các sản phẩm da giày và thời trang trên thế giới được tập trung làm chủ yếu ở một số nước châu Á đông dân như Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ, In-đô-nê-xi-a, Băng-la-đét... Không những thế, Việt Nam cũng là nước đang có cơ cấu dân số "vàng", tỷ lệ người bước vào độ tuổi lao động hằng năm đang tăng lên, tạo nguồn lao động dồi dào cho các ngành này. Chủ tịch Hiệp hội Nguyễn Đức Thuấn ví von: "Đơn hàng xuất khẩu da giày đang như dòng thác chảy vào những chỗ có lợi thế, vì vậy thách thức đối với ngành da giày Việt Nam là phải chớp được cơ hội vàng này". Tuy nhiên, đây cũng chỉ là cơ hội lớn đối với các DN da giày lớn, làm chủ công nghệ nền (vật tư nguyên liệu, thị trường, làm hàng FOB...), còn những DN da giày nhỏ cũng chỉ có thể làm gia công cho các DN lớn.
b, Khó khăn.
Hiện nay, thu nhập của người lao động trong ngành da giày còn thấp hơn một số ngành khác nên đã xuất hiện tình trạng dịch chuyển lao động sang những ngành sản xuất có thu nhập cao hơn. Mặc dù các DN da giày nhận được rất nhiều đơn hàng xuất khẩu, nhưng khó khăn lớn nhất đối với họ chính là không đủ năng lực sản xuất do thiếu lao động. Nếu DN nhận đơn hàng vượt năng lực sản xuất của mình và để kịp giao hàng cho đối tác, thì DN buộc phải tăng lương công nhân, tăng chi phí nhập khẩu nguyên liệu, vận chuyển bằng đường hàng không... Nhiều DN da giày sẽ không chịu nổi một loạt chi phí tăng lên như vậy.
Khó khăn về nhân công chính là bài toán nan giải đối với các DN da giày Việt Nam. Chủ tịch Hiệp hội Nguyễn Đức Thuấn phân tích, để giải bài toán này, DN cần làm sao đưa được đơn hàng về những nơi có lợi thế về lao động để tranh thủ nguồn lao động dồi dào ở các địa phương, tiết kiệm chi phí thuê nhân công. Giải pháp khắc phục dài hạn là Nhà nước cần có những cơ chế, chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích các DN xây dựng nhà máy sản xuất da giày tại các vùng có lực lượng lao động, nhất là các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Có thể quy hoạch thành năm vùng cho phát triển ngành da giày như vùng 1 gồm một số tỉnh phía bắc như Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Thanh Hoá, Hải Phòng; vùng 2 gồm các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, một phần Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng; vùng 3 gồm các tỉnh Khánh Hoà, Quy Nhơn, Bình Định, Bình Thuận; vùng 4 gồm các tỉnh Đông Nam Bộ và vùng 5 gồm các tỉnh Cần Thơ, Vĩnh Long, Bến Tre. Nhà nước có thể ban hành chính sách giảm thuế thu nhập DN, miễn tiền thuê đất, hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn, chuẩn bị mặt bằng sạch, xây dựng hạ tầng kỹ thuật sẵn... để thu hút các DN da giày vào đầu tư tại những vùng này. Việc quy hoạch các vùng nêu trên sẽ khắc phục được những bất cập về bất ổn xã hội trong thu hút lao động cho ngành da giày tại những khu công nghiệp tập trung như hiện nay.
Để nắm được lượng đơn hàng xuất khẩu lớn, tranh thủ thời cơ vàng, các DN da giày Việt Nam cần tăng năng lực sản xuất bằng cách mở rộng sản xuất về các vùng có chi phí lao động rẻ, thay vì tìm cách thu hút nguồn lao động tại các trung tâm lớn. Theo tính toán, DN muốn tăng 15% năng lực sản xuất tại trung tâm thì phải mở rộng 20-30% năng lực sản xuất tại các vùng sâu, vùng xa. Đặc thù của ngành da giày là 60% số lao động tập trung ở khâu may giày. Vì vậy, để giảm chi phí sản xuất, DN có thể thực hiện các khâu may mũi tại các vùng sâu, vùng xa, còn các khâu hoàn thiện công nghệ, chất lượng sản phẩm có thể thực hiện tại các thành phố, khu công nghiệp tập trung, gần cảng... Ngoài ra, DN cần liên kết cùng nhau mua đơn hàng nhập khẩu nguyên liệu có giá trị lớn để giảm chi phí đầu vào đồng thời tránh được việc các nhà cung cấp nguyên liệu ép giá. Không chỉ vậy, Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng trung tâm thuộc da tập trung bởi hiện ngành này vẫn phải nhập khẩu tới 70% nguyên liệu da và hỗ trợ Hiệp hội da giày Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại.
Ông Nguyễn Đức Thuấn, Chủ tịch Hiệp hội Da giày Việt Nam, cho biết, hiện dung lượng giày thế giới khoảng 17 tỷ đôi mỗi năm. Giày xuất khẩu chiếm 6 - 7 tỷ đôi, trong đó 70 - 75% năng lực sản xuất tại châu Á. Trung Quốc đứng đầu khu vực, với trên 75% tổng sản lượng, tiếp theo là Việt Nam, 8 - 9%.
Tiềm năng tiêu thụ giày dép đang rất lớn. Tuy nhiên, tình hình chung của ngành da giày các nước châu Á nói chung va Việt Nam nói riêng phụ thuộc nguyên phụ liệu nhập khẩu. Chất lượng hàng hoá lại thấp, ít thương hiệu, uy tín có thể tham gia xuất khẩu và nâng cao giá trị gia tăng.
Việt Nam là một điển hình. Năm 2009 đạt 4,67 tỷ USD, thu hút gần 700.000 lao động trực tiếp. Nhiều năm liền, ngành da giày Việt Nam đứng thứ 3 về kim ngạch xuất khẩu. Song, kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu, phụ tùng, thiết bị xấp xỉ 50% so với xuất khẩu. Nhiều loại nguyên liệu như nhựa cao su tổng hợp, kim loại chuyên dùng, hoá chất, linh kiện… đều phải nhập khẩu. Hiện tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm da giày xuất khẩu chỉ chiếm 30 - 35%. Trong nước cũng đã sản xuất được một số nguyên phụ liệu với giá thành thấp hơn nguyên liệu nhập khẩu. Song, chất lượng không ổn định, mẫu mã nghèo nàn, chưa sản xuất được chủng loại cao cấp… Hiệu quả kinh tế từ ngành da giày mang lại vì thế hạn chế.
Không những vậy, các doanh nghiệp giày da châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng, phải chịu sức ép từ vụ kiện chống bán phá giá đối với các loại giày mũ da xuất khẩu sang EU và không được hưởng GSP. Các nhà đầu tư tại Mỹ lại đang hướng đến Mehico và khu vực Nam Mỹ…
c, Môt số thực trạng xảy ra trong ngành:
Gian dối gia công
Không phải là hàng nhái, nhưng những sản phẩm "ca ba" làm thêm ngoài luồng cũng đang gây tổn hại không nhỏ tới sản xuất kinh doanh của nhiều Cty tên tuổi quốc tế.
Hầu hết các hãng lớn thường lảng tránh vấn đề này vì e làm khách hàng hoang mang, tổn hại tới uy tín thương hiệu. Nhưng trên thực tế, những sản phẩm ca ba thịnh phát, đè nén cả hàng chính, gây ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín gia công của những nền kinh tế lao động rẻ.
Sâu nở thời tự do
Trong thời buổi công nghệ in ấn, scanning và 3D hiện đại như ngày nay thì chẳng khó khăn gì để bắt chước, copy ra những sản phẩm giả ngỡ như thật. Đấy chính là nguyên nhân dẫn đến việc nhiều nhà thầu phụ gia công thừa ra số lượng hàng đặt từ các hãng lớn để tuồn ra ngoài kiếm lời. Bỏ mặc những thiệt hại mà các Cty chính ngạch phải hứng chịu từ việc hàng hóa "ca ba" phá giá trên thị trường.
Tuột mất quyền chủ động
Tự do hóa thương mại, đầu tư tạo cảm hứng cho các hãng lớn đổ vốn ra nước ngoài gia công nhằm tận dụng lợi thế so sánh để hạ chi phí đầu vào. Nhưng vấn nạn ca ba khiến nhiều nhà đầu tư nước ngoài nản lòng. Bởi mỗi khi đi gia công (outsourcing), chuyển gánh nặng sản xuất cho các xí nghiệp nước ngoài, thì kèm với đó là việc tiết lộ những chi tiết đặc chủng, bí quyết chế biến và cả bản vẽ thiết kế. Hay nói khác đi là chính hãng phải sẵn sàng từ bỏ quyền kiểm soát trong vấn đề sở hữu trí tuệ, bí kíp nhà nghề. Nhưng rủi thay, lợi bất cập hại, nhiều khi vốn chưa thu về thì tên tuổi đã bị phai nhạt bởi hàng ngoài luồng.
DN chưa mặn mà với thị trường trong nước
Một nghiên cứu của Viện nghiên cứu Da giày Việt Nam cho thấy, hiện mỗi người dân Việt Nam trung bình sử dụng từ 1,5 - 3 đôi giày/năm, lượng tiêu thụ khoảng 130 - 240 triệu đôi/năm, tập trung 80% vào sản phẩm da - giả da có giá dưới 150.000 đồng/đôi. Do đó, tổng giá trị thị trường giày dép các loại trong nước đạt từ 1 - 1,5 tỷ USD, chiếm tỷ trọng khoảng 30% so với kim ngạch xuất khẩu và đây là một con số không nhỏ cho ngành da giày.
Tuy nhiên, thị trường trong nước lại đang bị hàng nước ngoài “lấn chỗ” mà nhiều nhất là hàng Trung Quốc, rồi đến các loại giày dép nhái, giả, kém chất lượng nhưng giá rẻ, tràn ngập phân khúc thị trường người có thu nhập thấp.
Đi tìm nguyên nhân của tình trạng trên, bà Đinh Thị Mỹ Loan, Tổng thư ký Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam nhận định, sở dĩ doanh nghiệp (DN) chưa mặn mà với thị trường trong nước là do hầu hết các DN có vốn nước ngoài (chiếm 80%) làm gia công và bị ràng buộc từ quy định bản quyền (không được đưa sản phẩm gia công ra ngoài). Hơn nữa, DN không mặn mà với thị trường trong nước cũng bởi khi xuất khẩu, giá bán ở thị trường các nước sau khi sản phẩm mang thương hiệu nước ngoài đã tăng 4 - 5 lần.
Ngay cả các DN có vốn trong nước cũng “ngại” làm hàng nội do khi chuyển từ làm hàng xuất khẩu sang hàng nội phải thay đổi kiểu dáng, mẫu mã, một số trang thiết bị… Còn nếu bán hàng xuất khẩu ở thị trường nội thì mẫu mã sản phẩm xuất khẩu thành công ở nước ngoài chưa hẳn đã phù hợp với người tiêu dùng trong nước, mà giá lại cao. Do đó, thị trường trong nước chưa thực sự hấp dẫn họ đầu tư.
Ngoài ra, khi quay lại thị trường trong nước, DN lại thiếu kỹ năng nghiên cứu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng nên sản phẩm khó bán dù cũng đã có nhiều sáng tạo, sáng kiến. Tuy nhiên, rào cản lớn nhất là đối với các DN da giày nếu triển khai bán sản phẩm ở thị trường trong nước là hầu hết DN đều thiếu hệ thống phân phối. Trong khi đó, hệ thống cung ứng bán lẻ tại Việt Nam chưa nhiều, do chỉ tập trung ở các tỉnh, thành phố lớn và chi phí thuê mặt bằng rất cao, vượt quá khả năng DN vừa và nhỏ.
Thừa nhận thực trạng này, bà Nguyễn Thị Tòng, Tổng thư ký Hiệp hội Da giày Việt Nam cho biết thêm, hiện các sản phẩm da giày cũng mới chỉ đáp ứng được 40% nhu cầu tiêu dùng nội địa. Do vậy, mục tiêu phấn đấu của toàn ngành đến năm 2015 là sẽ nâng tỷ lệ này lên 60 - 70%.
Kim ngạch giày da có nguy cơ tiếp tục giảm
Bắt đầu từ 3/1/2010, sản phẩm giày mũ da xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU tiếp tục “mắc cạn” 10% "thuế chống bán phá giá".
Mặc dù, suốt ba năm qua, việc EU áp thuế mức thuế 10% đối với mặt hàng giày da của Việt Nam, đồng thời quyết định loại bỏ ngành giày da Việt Nam khỏi diện được hưởng Quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) giai đoạn 2009 – 2011 mà EC đưa ra vào tháng 6/2008 đã gây ra những thiệt hại rất lớn cho ngành công nghiệp giày da của Việt Nam.
Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào thị trường EU đã giảm sút rất lớn. Cụ thể những năm bị áp thuế chống bán phá giá, kim ngạch của lĩnh vực này xuất khẩu vào EU trung bình giảm trên 20%/năm. Riêng trong 9 tháng đầu năm 2009, tổng kim ngạch giày dép xuất khẩu đã giảm 11,2% so với cùng kỳ năm 2008.
Đồng thời cũng làm giảm đi đáng kể sức cạnh tranh của sản phẩm gia dày Việt Nam so với sản phẩm cùng loại của các nước khác.
“Ngoài ra, đời sống của khoảng 650.000 lao động trong ngành này, chủ yếu là lao động nữ cũng đã và đang phải chịu tác động tiêu cực bởi những quy định “trái ngược” trên của EU”, ông Vĩnh cho biết.
Theo ông Bạch Văn Mừng, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương), thì việc áp thuế này cũng sẽ gây khó khăn cho các nhà nhập khẩu, phân phối giày gia của châu Âu, vì thuế được áp sẽ tính vào trong giá bán và người tiêu dùng của châu Âu sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp.
Tuy nhiên, theo Mừng, nguy cơ lớn tới đây, trong điều kiện kinh tế thế giới và tiêu dùng của người dân vẫn còn khó khăn, với mức thuế “bị” áp trên, thì các sản phẩm cùng giá, cùng chủng loại của Việt Nam so với sản phẩm giày mũ da của các nước khác giá sẽ cao hơn, như thế các nhà nhập khẩu của châu Âu phải tính toán đến nhập khẩu ở các quốc gia khác không bị áp thuế.
“Nên nguy cơ giảm kim ngạch xuất khẩu sản phẩm giầy mũ da của Việt Nam vào thị trường EU so với tiềm năng là rất lớn”, ông Mừng lo lắng.
3, Cơ hội.
Nhu cầu tiêu dùng giầy dép của các nước trên thế giới ngày càng gia tăng cùng với sự cải thiện đời sống kinh tế xã hội. Giầy dép là một trong các sản phẩm tiêu dùng thời trang không thể thiếu được, đặc biệt tại các nước có khí hậu lạnh (Người dân không thể không đi giầy).
Quá trình hội nhập, các DN ngành Da - Giầy Việt Nam có thêm nhiều cơ hội tiếp cận với công nghệ mới, kỹ thuật tiên tiến và được tiếp cận rộng hơn với thị trường quốc tế, có cơ hội hợp tác phát triển tốt và bình đẳng hơn
Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần thúc đẩy các cơ hội phát triển ngành da giày, việc chuyển giao công nghệ theo chu kỳ nhanh hơn phù hợp với yêu cầu khắt khe của thị trường. Việc gia nhập tổ chức mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) tạo điều kiện việc giao lưu hàng hoá thông suốt, ít cản trở, xoá bỏ hàng rào phi thuế quan, ưu đãi về thuế quan tạo điều kiện cho ngành hàng da giày thâm nhập vào thị trường khu vực.
Trong những năm gần đây công tác xúc tiến thương mại đã bắt đầu được chú trọng. Toàn ngành đã có những hoạt động tích cực nhằm tăng cường tuyên truyền và quảng bá hình ảnh của ngành da giày Việt Nam như một quốc gia sản xuất và xuất khẩu da giày tiềm năng, nâng cao năng lực hiểu biết về kiến thức pháp luật, thị trường, phòng ngừa các vụ kiện bán phá giá và vận dụng luật để đấu tranh trong các vụ tranh chấp thương mại. Phương thức bán hàng tại các doanh nghiệp đã có nhiều đổi mới, hình thành nhiều mạng lưới bán buôn, bán lẻ, tham gia vào các kênh phân phối của các tập đoàn xuyên quốc gia, phát triển hình thức thương mại điện tử.
Với dân số trên 80 triệu dân là một thị trường đầy tiềm năng cho thị trường nội địa. Mặt khác, với đời sống ngày càng được nâng cao, khả năng mua sắm của xã hội ngày càng được cải thiện, đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng vào thế giới làm cho ngành du lịch phát triển là những cơ hội để ngành da giày phát triển theo hướng xuất khẩu trực tiếp ngay trên sân nhà.
Chế độ xã hội ổn định và đang tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển thông qua cơ chế chính sách phù hợp với tình hình trong nước và thông lệ quốc tế.
Về năng lực sản xuất. Đến hết năm 2007, năng lực sản xuất của toàn ngành đạt:
Giày dép các loại: 680 triệu đôi
Cặp túi xách các loại: 88 triệu chiếc
Da thuộc thành phẩm: 150 triệu sqft.
Năng lực sản xuất của ngành đã đạt trên 90% mức năng lực được đầu tư, có mức tăng trưởng mạnh trong 7 năm liên tiếp với mức tăng trung bình đạt 10%/năm trên 2 loại sản phẩm chính là giày dép và túi cặp các loại. Riêng sản phẩm da thuộc đạt mức tăng trưởng trung bình khoảng 20%/năm. Mặt hàng chủ lực của ngành vẫn tập trung chủ yếu vào giày thể thao, chiếm khoảng 51% năng lực sản xuất các sản phẩm giày dép của ngành, phù hợp với xu thế tiêu dùng của thị trường xuất khẩu.
Về thị trường xuất khẩu, thị trường xuất khẩu da giày Việt Nam ngày càng được mở rộng và ổn định cụ thể:
Thị trường EU:
Trong những năm vừa qua, giày dép Việt Nam xuất khẩu vào EU tăng trưởng nhanh về khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hết năm 2007, EU vẫn là thị trường lớn nhất tiêu thụ giày dép của Việt Nam với doanh thu 2,6 tỉ USD, tăng 33,9% so với năm 2006 và chiếm 54% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng giày dép của Việt Nam.
Thị trường Mỹ:
Năm 2004, Việt Nam đã vượt Italia và trở thành nhà cung cấp lớn thứ tư sau Trung Quốc, Brazil, Indonesia. Trong năm 2007, xuất khẩu vào Mỹ đạt 995 triệu USD, tăng 30% so với năm 2006. Tháng 1/2008, xuất khẩu giày dép vào Mỹ tăng 25% so với năm 2007, đạt 93,8 triệu USD, đây là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của toàn ngành. Hiện nay và trong những năm tới, Mỹ sẽ là thị trường xuất khẩu mục tiêu đối với sản phẩm giày dép của Việt Nam và các sản phẩm xuất khẩu chính sẽ là giày thể thao, giày da nam nữ.
Thị trường các nước Đông Á:
Đây là khu vực thị trường có những phong tục tập quán tương đối giống Việt Nam, cùng nằm ở khu vực châu Á. Các sản phẩm chủ yếu xuất khẩu từ Việt Nam sang các thị trường này là giày thể thao, giày da nam nữ, dép đi trong nhà. Năm 2006, xuất khẩu vào Nhật Bản đạt 113 triệu USD, tăng 21% so với năm 2005.
4, Thách thức.
Thách thức trước hết phải kể đến là sự cạnh tranh khốc liệt của Trung Quốc, một đất nước có thế mạnh về mặt hàng giày dép. Gần đây Trung Quốc là có thêm lợi thế với việc gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Mặt hàng giày dép xuất khẩu của Trung Quốc có ưu thế hơn giày dép xuất khẩu của Việt Nam do trình độ công nghệ của Trung Quốc tiên tiến hơn, mẫu mã của họ đẹp và đa dạng hơn.
Tuy sức mua của thị trường truyền thống (EU) vẫn giữ ở mức ổn định nhưng Việt Nam bị chịu nhiều sức ép hơn về thuế và các rào cản so với một số nước như Brazil, Indonesia... đặc biệt từ ngày 6 tháng 10 năm 2006, EU áp thuế chống bán phá giá giày mũ da sản xuất tại Việt Nam xuất khẩu sang EU là 10%.
Xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng mạnh trong những năm gần đây nhưng thị phần của Việt Nam cũng mới chỉ chiếm 2,1% về số lượng so với 83,5% của Trung Quốc.
Đối với các thị trường xuất khẩu khác như Liên bang Nga, các nước Đông Âu, Trung Đông, châu Phi, tuy không yêu cầu cao về mẫu mã và chất lượng nhưng hàng Việt Nam vẫn không thể thâm nhập mạnh vào thị trường các nước này.
Nguyên vật liệu sản xuất của ngành da giày chiếm đến 80% giá trị của sản phẩm trong đó ngành sản xuất da đóng vai trò quan trọng nhất. Theo LEFASO, nhu cầu da thuộc năm 2007 của toàn ngành khoảng 350 triệu feet vuông, trong khi đó các nhà máy thuộc da của Việt Nam và nước ngoài đầu tư tại Việt Nam mới chỉ sản xuất và đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu da thuộc của cả nước, 80% còn lại phải nhập khẩu.
Ngành phụ liệu sản xuất còn trầm trọng hơn, các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ sản xuất được một vài mặt hàng rất hạn chế như nhãn, ren, dây giày... nhưng lại “bỏ ngỏ” những loại phụ kiện tinh xảo là các sản phẩm nhựa có xi mạ như khoen, móc, cườm, các vật trang trí trên giày, đặc biệt là giày nữ và giày trẻ em.
Năng lực sản xuất của ngành chủ yếu tại các cơ sở ngoài quốc doanh và có yếu tố nước ngoài, chiếm trên 90% năng lực của cả ngành, chứng tỏ năng lực ngành phụ thuộc hoàn toàn vào làn sóng đầu tư của tư bản tư nhân trong nước và quốc tế.
Tuy có lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn cung ứng lao động dồi dào do dân số trẻ, nhưng năng suất lao động của người Việt Nam rất thấp, trung bình trên 1 dây chuyền 450 lao động đạt mức sản lượng 500.000 đôi/năm, chỉ bằng 1/35 năng suất lao động của người Nhật, 1/30 của Thái Lan, 1/20 của Malaysia và 1/10 của Indonesia.
Hiện nay trình độ công nghệ của ngành da giày Việt Nam đang ở mức trung bình và trung bình khá, song khá lệ thuộc vào nước ngoài về trang bị máy móc. Khả năng đầu tư và chuyển giao công nghệ mới phụ thuộc vào nguồn tài chính hạn hẹp, đội ngũ chuyên gia hiểu biết sâu và cập nhật công nghệ còn quá ít và chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của doanh nghiệp, kinh nghiệm và khả năng đàm phán, ký kết hợp đồng về công nghệ còn hạn chế...Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài. Điều này còn dẫn đến việc ngành có nguy cơ mất khả năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế.
Tính cạnh tranh của cả ngành Da - Giầy Việt Nam còn yếu so với các nước xuất khẩu giầy dép trong khu vực, đặc biệt là với nước xuất khẩu giầy lớn (như Trung Quốc) do thiếu khả năng tự đảm bảo vật tư nguyên liệu trong nước, điều kiện kinh tế và hạ tầng dịch vụ của Việt Nam còn chưa theo kịp các nước và giá không cạnh tranh.
Thiếu đội ngũ thiết kế tạo mẫu và phát triển sản phẩm và đội ngũ cán bộ marketing, kinh doanh giỏi - lực lượng chủ yếu quyết định chuyển đổi phương thức sản xuất (Từ gia công sang tự sản xuất toàn bộ), tạo điều kiện để DN có thể giao dịch trực tiếp với khách hàng.
Ưu thế của Việt Nam về công lao động vẫn là nhân tố cạnh tranh, nhưng đã có những khó khăn và có những biến động lớn; Công tác đào tạo lao động có tay nghề kỹ thuật chưa đáp ứng kịp nhu cầu của sản xuất.
Một số doanh nghiệp trong ngành có quy mô không lớn, chưa chủ động tiếp cận được với thị trường, vẫn phải gia công qua các đối tác trung gian nên hiệu quả sản xuất kinh doanh bị hạn chế, sản xuất dễ bị biến động do không có khách hàng truyền thống. Nhiều DN trong ngành chưa sẵn sàng hội nhập.
Sức ép đối với các DN da giầy về lao động, việc làm, thu nhập (Hiện tại lao động trong ngành Da - Giầy có mức thu nhập thấp so với mặt bằng chung) và đảm bảo các chế độ cho người lao động.
5, Hạn chế.
Sở dĩ giày dép Việt Nam vẫn miệt mài gia công, giá trị gia tăng thấp bởi “80% nguyên liệu phải nhập khẩu”, “ngành phụ liệu mới chỉ sản xuất được một vài mặt hàng rất hạn chế như nhãn, ren, dây giày... nhưng lại bỏ ngỏ những loại phụ kiện tinh xảo”; “năng suất lao động của Việt Nam rất thấp, chỉ bằng 1/10 Indonesia, 1/20 Malaysia, 1/30 Thái Lan”; “trình độ tay nghề ở mức trung bình và trung bình khá”
Các doanh nghiệp sản xuất và gia công giày dép xuất khẩu đều có đặc điểm chung là phải đầu tư cơ sở hạ tầng, đầu tư nguồn nhân lực cho sản xuất, nhưng lại bỏ qua khâu rất quan trọng là không đầu tư cho các khâu thiết kế, tiếp thị, lưu kho, cửa hàng bán lẻ. Các doanh nghiệp này không tham gia vào các giai đoạn thiết kế và phân phối sản phẩm, mà chỉ đóng góp 30% - 50% giá trị sản phẩm trong giai đoạn sản xuất. Giá trị mà họ đóng góp thêm vào sản phẩm là rất nhỏ bé qua việc "bán" sức lao động của nhân công.
Các doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được thương hiệu riêng của mình trên thi trường thế giới. Đó cũng là một trong những lí do dẫn đến các sản phẩm của Việt Nam chỉ là gia công. Được tiếp thu rất nhiều kinh nghiệm, công nghệ, bí quyết tiên tiến của thế giới, nhưng đôi giày, đôi dép Việt Nam vẫn phải oằn mình “cõng” trên lưng những thương hiệu ngoại nếu như muốn có chỗ đứng ở thị trường Âu - Mỹ. Việt Nam hiện có hơn 500 doanh nghiệp da giày nhưng những thương hiệu được người tiêu dùng trong nước biết đến chỉ đếm trên đầu ngón tay như Biti’s, Bita’s, Thượng Đình, Vento, Sholega… Còn những thương hiệu Việt Nam có mặt ở thị trường nước ngoại lại càng ít nữa. Dường như mới chỉ có Biti’s (công bố có mặt ở hơn 40 nước), Vento (vươn tới Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Canada, Bắc Mỹ), còn Vina Giày mới đang tìm đường sang Mỹ.
6, Giải pháp.
Từ nhiều năm qua, Hiệp hội Da giày Việt Nam (Lefaso) luôn đưa ra nội dung thảo luận về giải pháp cho sự phát triển bền vững của ngành.
Gần đây nhất, Lefaso đã kết hợp cùng Viện Nghiên cứu da giày Việt Nam xây dựng một chiến lược phát triển cho ngành da giày Việt Nam giai đoạn 2010-2020, tầm nhìn đến 2025
Đây là việc làm kịp thời để ngành da giày nói chung, từng doanh nghiệp sản xuất da giày, phụ liệu trong nước nói riêng, có dịp rà soát, nhìn nhận những điểm mạnh, yếu, để từ đó xây dựng nên một con đường phát triển bền vững với những giải pháp cụ thể là:
- Đa dạng hóa thị trường và sản phẩm: từ chỗ lệ thuộc quá nhiều vào một thị trường là EU, ngay từ giữa những năm 2000, Mỹ là thị trường được các doanh nghiệp ngành da giày Việt Nam nhắm đến như một thị trường chiến lược với tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành, từ mức 20% của năm 2005 đã tăng lên 25,6% vào năm 2009.
Bên cạnh đó, rất nhiều thị trường nhỏ như Đài Loan, Úc, Nam Mỹ, châu Phi, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ... đã được mở ra trong chiến lược đa dạng hóa thị trường xuất khẩu nhằm hóa giải tình trạng lệ thuộc vào một thị trường. Nhóm thị trường nhỏ này đã chiếm đến gần một phần tư thị trường xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam. Bảng số liệu của Hiệp hội Da giày Việt Nam bên cạnh cho ta thấy được hình ảnh đó.
- Nâng dần tỷ lệ nguyên liệu nội địa: cuối những năm 1990, tỷ lệ này chỉ là con số rất khiêm tốn, chưa đến 20%, nhưng đến năm 2009 đã được các chuyên gia trong nước đánh giá là đã đạt những thành quả khá cao.
Cụ thể, các loại nguyên liệu và mức độ mà ngành da giày Việt Nam đã chủ động được là: trên 30% các loại nguyên liệu da, giả da, nguyên liệu tổng hợp cho sản phẩm cấp trung; trên 50% các loại phụ liệu như nhãn mác, chỉ, ruy băng, giấy carton tăng cường, các loại keo, dung môi...; trên 70% các loại vải dùng cho các loại giày cấp trung và thấp như canvas, các loại đế giày, gót giày, form giày và bao bì các loại như thùng, hộp, bao PE, giấy lót, giấy gói...
Hiện nay, Việt Nam chỉ nhập khẩu các loại da, vải cao cấp, nguyên liệu tổng hợp cao cấp, các loại keo dán, hóa chất đặc biệt.
- Thâm nhập và đứng vững trên thị trường nội địa: đây là một điểm nhấn đáng khen ngợi, từ chỗ bỏ quên thị trường nội địa cuối những năm 1990, đến nay, người tiêu dùng Việt Nam đã biết đến nhiều thương hiệu như Biti’s, Bitas, Vina Giày, T&T, Hồng Thạnh, Long Thành... Tuy thương hiệu giày dép chưa nhiều như ngành dệt may nhưng giày dép Việt Nam đang dần khẳng định chỗ đứng tại thị trường nội địa với tỷ trọng được đánh giá là chiếm lĩnh gần 40%.
Từ những giải pháp và nỗ lực đó, ngành da giày Việt Nam đã sớm có dấu hiệu phục hồi ngay từ đầu năm 2010, số liệu xuất khẩu trong các tháng đầu năm 2010 đều cho thấy có sự tăng trưởng từ 6-7% so với năm 2009. Cuối tháng 5 vừa qua, toàn ngành đã xuất khẩu được 1.784 triệu đô la Mỹ, tăng gần 8% so với cùng kỳ 2009. Có thể nói rằng đây là một nỗ lực rất lớn của ngành da giày Việt Nam trong bối cảnh mà các nước nhập khẩu liên tục sử dụng các đòn chống bán phá giá nhằm cản trở sự thâm nhập của giày dép Việt Nam.
Vì thế những sự kiện như Cuộc bình chọn doanh nghiệp da giày tiêu biểu năm 2010, việc tổ chức Hội nghị Da giày Quốc tế lần thứ 29 tại TPHCM (29th International Footwear Conference - IFC), lễ kỷ niệm 20 năm thành lập ngành... sẽ là những hoạt động góp phần gắn kết các doanh nghiệp trong ngành da giày Việt Nam, giúp tạo thêm động lực cho sự phát triển.
Ngoài ra, nhiều giải pháp khác mà Lefaso đã đề ra để nâng cao khả năng phát triển của ngành có thể nhắc đến là:
- Tập trung chăm lo hơn nữa đời sống của người lao động để ngành thực sự là nơi nương tựa của một lực lượng lao động luôn gắn bó với nghề.
- Bám sát công nghệ của thế giới, đặc biệt quan tâm đến công nghệ tự động hóa trong các công đoạn may, bôi keo, tạo form, gò dán...
- Tham gia thường xuyên cuộc thi đua sáng tác mẫu mã mà IFC tổ chức hàng năm nhằm nâng cao khả năng thiết kế mẫu, giúp ngành thoát dần cơ chế gia công.
-Xác định hợp lý chi phí lao động:cần tăng cường hoặch toán kinh tế,chú ý tới hiệu quả kinh tế.Với nước có giá thành gia công thấp hơn nước ngoài,khi quyết định mức chi phí lao động,không những phải xem xét xem có hợp lý hay không,đồng thời phải tham khảo mức chi phí lao động của thị trừơng nước ngoài để hoặch toán,cân nhắc hiệu quả,để cho tiêu chuẩn chi phí của mình vừa có sức cạnh tranh,lại thu về nhiều ngoại tệ cho nước mình,tránh sự cạnh tranh với các đơn vị gia công khác trong nước,tự ý hạ thấp mức chi phí lao động.
-Dần dần mở rộng tỷ trọng sử dụng nguyên liệu,linh kiện nước mình sản xuất:ở những khu vực hoặc đơn vị có điều kiện,cần cố gắng sử dụng nhiều nguyên vật liệu hoặc linh kiện do nước mình sản xuất,tranh thủ nâng cao tỷ trọng ở mặt này,dần dần quá độ sang tự kinh doanh XK.
-Nâng cao năng lực của doanh nghiệp:nỗ lực nâng cao năng lực của doanh nghiệp về mọi mặt.Không ngừng nâng cao năng suất lao động,tăng khả năng cạnh tranh về mặt chất lượng.Những đơn vị có điều kiện cần có kế hoặch dần dần nâng cao trình độ kỹ thuật của nghiệp vụ gia công.Từ gia công nhiều sức lao động quá độ sang gia công tập trung kỹ thuật,tập trung vốn.
Mục tiêu chiến lược ngành được phác thảo đến năm 2020 là xuất khẩu 13-14 tỉ đô la Mỹ sản phẩm giày dép các loại, chủ động đến 80% nguyên phụ liệu, chiếm lĩnh trên 60% thị trường nội địa quả là khá cao. Tuy nhiên, nếu không cùng nhau nỗ lực để đạt mục tiêu này thì ngành da giày Việt Nam sẽ khó có được vị trí bền vững trong làng giày thế giới cũng như vị trí là một trong ba ngành kinh tế xuất khẩu lớn nhất nước.
Tất cả đang còn ở phía trước, tuy nhiên, một quy luật của muôn đời là “mọi nỗ lực sẽ luôn được đền đáp một cách xứng đáng”, điều đó chắc chắn cũng đúng với nỗ lực của ngành da giày Việt Nam.
III, KẾT LUẬN.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích phương thức gia công quốc tế và nhận xét gia công ngành da giầy ở Việt Nam.doc