Đề tài Phân tích quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế (theo các mô hình tăng trưởng)

Như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã từng nói trong bài phát biểu của mình về việc “Phát huy sức mạnh tổng hợp, nỗ lực phấn đấu ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng và đảm bảo an sinh xã hội của Việt Nam”: “ Điều quan trọng nhất đối với nước ta hiện nay là phải đẩy nhanh quá trình cải cách và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, từ mô hình tăng trưởng chủ yếu là dựa vào các yếu tố theo chiều rộng (chủ yếu dựa vào xuất khẩu tài nguyên, tăng đầu tư, nhất là đầu tư nhà nước) sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, nhằm tạo ra năng lực cạnh tranh mới trong từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế”, bài viết của chúng tôi chỉ muốn một lần nữa làm rõ hơn những ưu nhược điểm của các mô hình tăng trưởng kinh tế trong từng giai đoạn cũng như thực trạng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam những năm vừa qua để thấy rằng chúng ta đã làm được những gì, chưa làm được những gì và từ đó có những quyết sách đúng đắn cho phát triển kinh tế

pdf32 trang | Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 1833 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế (theo các mô hình tăng trưởng), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của sản xuất, năng lực của vốn đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Hệ số ICOR chịu ảnh hưởng của những nhiều nhân tố: Trình độ công nghệ kỹ thuật của sản xuất, Mức độ khan hiếm nguồn lực, Hiệu quả của sử dụng vốn đầu tư. (2) Mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với tiết kiệm và đầu tư Tiếp tục phân tích theo logic trên, nếu gọi thu nhập của nền kinh tế (GDP) là Y, tốc độ tăng trưởng thu nhập là g: CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G 15 gt+1 = ΔYt+1 / Yt Sử dụng công thức tính hệ số ICOR ở trên, thay vào công thức này, chúng ta có: gt+1 = ΔKt+1 / k x Yt Theo giả định trong nghiên cứu của Harrod - Domar: ΔKt+1 = It = St (mức vốn sản xuất gia tăng của thời kỳ sau) bằng mức đầu tư của thời kỳ trước, và tổng đầu tư bằng tổng tiết kiệm, chúng ta có: gt+1 = It / k x Yt = St / k x Yt Nếu gọi s là tỷ lệ tích luỹ trong GDP và mức tích luỹ là S: s = S/Y Do đó chúng ta có: gt+1 = st / kt+1 Như vậy, bằng việc mô tả dưới dạng công thức, phương trình Harrod - Domar đã xây dựng mối liên kết chắc chắn giữa tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế với hai biến số cơ bản: khả năng tiết kiệm của nền kinh tế và hệ số gia tăng vốn - sản lượng. Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng với tiết kiệm và hệ số gia tăng vốn - sản lượng, Harrod - Domar đã đưa ra ba khái niệm về tốc độ tăng trưởng có ý nghĩa quan trọng trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Tốc độ tăng trưởng bảo đảm (gw) là thương số giữa tỷ lệ tiết kiệm theo dự kiến và hệ số gia tăng vốn sản lượng dự kiến. Tốc độ tăng trưởng thực tế (gr) được hình thành bởi tỷ lệ tiết kiệm dự kiến với hệ số gia tăng vốn - sản lượng thực tế. Tốc độ tăng trưởng tự nhiên (gf) là tốc độ tăng trưởng đạt được trong điều kiện toàn dụng công nhân (đạt được mức tiềm năng). Nếu gr = gw = gf , Harrod – Domar gọi đó là thời kỳ vàng của nền kinh tế, và đây chính là điều kiện tăng trưởng kinh tế ổn định. 2.1.2.3. Hạn chế của mô hình Harrod – Domar Chúng ta rất dễ nhận ra nhược điểm của mô hình Harrod – Domar: nó quá đơn giản khi coi sự tăng trưởng là do kết quả tương tác giữa tiết kiệm với đầu tư và đầu tư là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế. Điều này đúng khi các quốc gia đang ở một trình độ phát triển thấp, thu nhập thực tế đạt được còn rất nhỏ so với sản lượng tiềm năng, mô hình tăng trưởng trong điều kiện này chủ yếu dựa vào đầu tư theo chiều rộng để khai thác nguồn lực đang chưa được sử dụng hết. Đó cũng chính là lý do mà hiện nay các nước đang phát triển vẫn đang sử dụng khá phổ biến mô hình này trong lập kế hoạch tăng trưởng và huy động vốn đầu tư. Tuy vậy, nền kinh tế trong nước và thế giới càng ở trình độ phát triển cao, thì tăng trưởng kinh tế càng chịu sự tác động của nhiều nhân tố hơn. Trên thực tế thì tăng trưởng kinh tế có thể xảy ra không phải vì lý do tăng đầu tư, hoặc ngược lại đầu tư không có hiệu quả thì vẫn không có sự tăng trưởng. Kể cả trong trường hợp đầu tư có hiệu quả thì sự gia tăng tỷ lệ tiết kiệm cũng chỉ có thể tạo nên gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn chứ không thể đạt được trong dài hạn. Một khía cạnh khác khi phân tích hạn chế của mô hình Harrod – Domar, đó là kể cả trong điều kiện các nước đang phát triển ở trình độ thấp áp dụng được mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư thì các nước này lại có mức thu nhập gần như tối thiểu khó có thể thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói. Khi đó chính phủ phải sử dụng chiến lược tích luỹ vốn theo kế hoạch và cơ chế mệnh lệnh nhằm hạn chế tiêu dùng hoặc dành quỹ đầu tư trước khi tiêu dùng. Đồng thời với sử dụng cơ chế ấy, Chính phủ phải gồng mình lên với việc đi vay nợ nước ngoài, xin viện trợ v.v... để có đủ vốn đầu tư. Tất cả các hình thức ấy đã đem lại kết quả nhất định trong giai đoạn đầu của chính sách, tăng trưởng kinh tế đạt được tốc độ khá nhanh. Tuy vậy, càng về sau nó càng gặp phải những bất cập: (i) trước hết là trong CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G 16 nội bộ nền kinh tế khi giải quyết mối quan hệ giữa tích luỹ với tiêu dùng và động lực tích luỹ; (ii) tăng trưởng kinh tế bị phụ thuộc rất lớn bởi nguồn vốn nước ngoài và đầu tư tập trung chủ yếu cho mục tiêu ngắn hạn, thiếu bền vững; (iii) Chính phủ trở thành con nợ lớn với nguy cơ phá sản cận kề. 2.1.3. Mô hình tăng trưởng Solow 2.1.3.1. Xuất phát điểm của mô hình Năm 1956, nhà kinh tế học người Mỹ là Robert Solow (1924) với bài viết “Một đóng góp cho lý thuyết tăng trưởng kinh tế” đã xây dựng nên mô hình tăng trưởng tân cổ điển, còn được gọi là mô hình tăng trưởng Solow. Những quan điểm của Harrod – Domar trong mô hình tăng trưởng kinh tế vẫn được Solow xem là xuất phát điểm trong nghiên cứu của mình. Solow đồng nhất với Harrod – Domar hai điểm: + Vốn sản xuất gia tăng được hình thành từ tiết kiệm và đầu tư là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế; + Quy luật lợi tức biên giảm dần theo quy mô vẫn tiếp tục chi phối hoạt động đầu tư mở rộng quy mô tài sản hữu hình. Solow đã chỉ ra một điểm khác biệt so với Harrod – Domar: khi quy mô tài sản hữu hình (vốn sản xuất) lớn lên đến một mức độ nào đó, thì đầu tư sẽ không dẫn đến gia tăng mức sản lượng của nền kinh tế, tức là Solow đã lo ngại về khả năng tăng trưởng trong dài hạn của nền kinh tế nếu chỉ dựa vào yếu tố đầu tư. Cuối thế kỷ 19 là thời kỳ đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật. Hàng loạt các phát minh khoa học và hàng loạt các nguồn tài nguyên được khai thác phục vụ cho quá trình sản xuất. Sự chuyển biến này đã có những ảnh hưởng rõ rệt trong các trào lưu chính của tư tưởng kinh tế. Nếu như Ricardo và cả Keynes đều cho rằng, hệ số kết hợp giữa vốn và lao động trong quá trình sản xuất sản phẩm luôn luôn cố định thì trường phái tân cổ điển đã bác bỏ quan điểm đó, họ cho rằng vốn và lao động có thể kết hợp với nhau theo những tỷ lệ khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể về sự tương quan giữa hai yếu tố này. Nếu có nhiều lao động hơn so với vốn, thì một phương án sản xuất sản phẩm sử dụng nhiều lao động sẽ hình thành. Ngược lại, nếu thiếu hụt lao động thì các biện pháp khai thác và sử dụng vốn sẽ được sử dụng tối đa trong sản xuất sản phẩm, hệ số ICOR sẽ tăng lên.Từ quan điểm trên đây các nhà kinh tế học tân cổ điển cũng đưa ra khái niệm "Sự phát triển kinh tế theo chiều sâu" có nghĩa là gia tăng số lượng vốn cho một đơn vị lao động trong sản xuất, còn sự gia tăng vốn phù hợp với sự gia tăng về lao động được gọi là "phát triển kinh tế theo chiều rộng". Cải tiến trong các phương pháp sản xuất sẽ là cơ sở gia tăng khối lượng sản phẩm và xu hướng của thay đổi trong kỹ thuật là đa số các sáng chế đều có khuynh hướng dùng vốn để tiết kiệm nhân công. Những ý tưởng đó chính là xuất phát điểm cho kết luận của Solow về vai trò quyết định của tiến bộ kỹ thuật để thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Tuy vậy, khi nghiên cứu vai trò của tiến bộ công nghệ kỹ thuật trong tăng trưởng kinh tế, Solow lại cho rằng, đây là yếu tố tác động từ bên ngoài và sự tăng trưởng kinh tế hoàn toàn phụ thuộc vào những cú sốc về tiến bộ công nghệ từ bên ngoài đưa đến. Vì vậy chúng ta thường gọi mô hình Solow là mô hình tăng trưởng ngoại sinh. 2.1.3.2. Quan điểm của Mô hình Solow về các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế * Các yếu tố cấu thành hàm sản xuất trong mô hình Solow CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G 17 Mô hình Solow đã đưa thêm nhân tố lao động và tiến bộ công nghệ vào hàm sản xuất. Như vậy, theo Solow họat động sản xuất trong nền kinh tế là sự kết hợp của các yếu tố vốn (K), lao động (L) và yếu tố kỹ thuật công nghệ (T). Hàm sản xuất tổng quát có dạng: Y = F( K,L,T) Yếu tố T tạo nên hiệu quả của lao động (E) - hiệu quả lao động phản ánh trình độ công nghệ của xã hội. E và L luôn đi đôi với nhau, LxE được gọi là số lao động hiêu quả (gọi là công nghệ bao hàm trong lao động). Hàm sản xuất của Solow còn có thể được viết: Y(t) = F(K, ExL). Trong hàm sản xuất của Solow, các yếu tố đầu vào không phải là vốn, lao động và công nghệ sẽ không có vai trò lớn trong quá trình sản xuất. Nói cách khác, so với hàm sản xuất tổng quát truyền thống thì yếu tố đất đai và các loại tài nguyên thiên nhiên khác không được đưa vào trong mô hình Solow. Theo ông, nó không thể có quan hệ hàm số với quy mô sản lượng, bỏ yếu tố tài nguyên thiên nhiên khỏi hàm sản xuất làm cho các kết luận về vai trò của ba yếu tố còn lại trở nên chính xác hơn. * Vai trò của các yếu tố đến tăng trưởng kinh tế a. Tiết kiệm và tăng trưởng kinh tế Solow đã sử dụng một dạng hàm tổng sản xuất Cobb-Douglas giản đơn, trong đó chỉ có 2 yếu tố vốn và lao động, chưa có yếu tố công nghệ:   1LKY trong đó, KY , và L lần lượt là sản lượng, vốn và lao động của nền kinh tế. Khi đó, ta có thể chia hai vế của phương trình trên cho L để có được một dạng hàm sản xuất mới ky  với LYy  (thu nhập bình quân công nhân) và LKk  (mức vốn bình quân công nhân). Vì năng suất cận biên của vốn giảm dần, nên khi k tăng thì y tăng chậm dần. Từ mô hình tăng trưởng Harrod - Domar, ta đã có sYI  , với I là đầu tư của nền kinh tế và s là tỷ lệ tiết kiệm quốc gia. Nếu chia cả hai vế phương trình này cho L , ta được mức đầu tư bình quân công nhân i bằng syi  . Tại mỗi thời điểm, lượng vốn là yếu tố quyết định sản lượng của nền kinh tế, nhưng lượng vốn có thể thay đổi theo thời gian, dẫn tới tăng trưởng kinh tế. Mô hình Solow xác định hai lực lượng tác động tới sự thay đổi của lượng vốn là đầu tư (làm tăng lượng vốn) và khấu hao (làm giảm lượng vốn), cụ thể là Thay đổi lượng vốn = Đầu tư – Khấu hao Với quy mô dân số nhất định, giả sử tỷ lệ khấu hao vốn sản xuất là một số  không đổi, tức là mức khấu hao bình quân công nhân là k và từ 3 phương trình trên ta viết được kskkik    Δk là sự thay đổi lượng vốn giữa năm này với năm khác. Rõ ràng, k càng cao thì đầu tư và sản lượng càng cao, nhưng đồng thời k càng cao thì mức khấu hao cũng càng lớn. CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G 18 Đầu tư, khấu hao và trạng thái ổn định. Tồn tại duy nhất một *k mà tại đó, đầu tư bằng khấu hao. Nếu nền kinh tế có mức vốn bình quân công nhân bằng *k , thì lượng vốn sẽ không thay đổi ( 0k ), bởi vì hai lực lượng tác động lên nó là đầu tư và khấu hao bằng nhau. Khi đó, nền kinh tế ở trạng thái ổn định, với k và y không thay đổi theo thời gian. Mô hình Solow chứng minh rằng: nếu nền kinh tế nằm ở trạng thái ổn định thì nó sẽ đứng nguyên tại đó, và nếu nền kinh tế chưa nằm tại trạng thái ổn định, thì nó sẽ có xu hướng tiến về đó (tức là 1k và 2k có xu hướng tiến về *k ). Do vậy, trạng thái ổn định chính là cân bằng dài hạn của nền kinh tế. Xét khi tỷ lệ tiết kiệm tăng lên. Từ hình dưới, nếu tỷ lệ tiết kiệm tăng từ 1s lên 2s , thì đường đầu tư sẽ dịch chuyển lên trên. Vậy là ta có một *k mới ( *2k ) lớn hơn, tức là nền kinh tế đã chuyển tới một trạng thái ổn định có mức vốn bình quân công nhân cao hơn, do đó có mức sản lượng bình quân đầu người lớn hơn so với trạng thái ổn định ban đầu ( *1k ). Tỷ lệ tiết kiệm gia tăng. Vậy, mô hình Solow cho thấy, nếu tỷ lệ tiết kiệm cao, thì nền kinh tế sẽ có mức sản lượng lớn hơn (GDP cao hơn). Tuy nhiên, việc tăng tỷ lệ tiết kiệm chỉ đưa đến tăng trưởng nhanh hơn trong một thời gian ngắn, trước khi nền kinh tế đạt tới trạng thái ổn định. Nếu một nền kinh tế duy trì một tỷ lệ tiết kiệm cao nhất định, nó sẽ duy trì được mức sản lượng cao nhưng không duy trì được tốc độ tăng trưởng cao. Kết luận này hoàn toàn khác với kết luận của mô hình Harrod - Domar. k* k Đầu tư và khấu hao i1 Khấu hao, k Đầu t, i = sk i * = k * k1 k1 k2 i2 k2 * 1k k Đầu t và khấu hao k i = s1k  * 2k i = s2k  CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G 19 b. Tăng lao động và tăng trưởng kinh tế Giả sử dân số và lực lượng lao động tăng với tốc độ nhất định là n . Nhưng rõ ràng là tăng số công nhân sẽ khiến mức vốn bình quân trên một công nhân giảm xuống. Vậy sự thay đổi lượng vốn bình quân công nhân bây giờ là: knik )(   trong đó, đầu tư làm tăng k còn khấu hao và gia tăng dân số làm giảm k . Hình trên được chuyển thành dạng dưới đây Tăng trưởng lao động trong mô hình Solow. Tại trạng thái ổn định, đầu tư vừa đủ để bù đắp khấu hao và cung cấp máy móc thiết bị cho những công nhân mới, tức là 0* k và *** nkki   . Vậy khi đó, ky  không thay đổi (thu nhập bình quân đầu người không thay đổi), nhưng vì số lao động L tăng với tốc độ n nên tổng sản lượng yLY  cũng phải tăng với tốc độ n . Điều đó có nghĩa là nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ gia tăng dân số (còn thu nhập bình quân đầu người không thay đổi) trong dài hạn. Nếu n tăng (từ 1n lên 2n ), rõ ràng *k sẽ giảm xuống còn *2k , do đó thu nhập bình quân đầu người cũng giảm xuống (xem hình dưới). Vậy, mô hình Solow cho biết những nước có tốc độ tăng dân số cao sẽ có mức thu nhập bình quân đầu người thấp hơn. Tác động của sự gia tăng dân số. k* k Đầu t (+n)k i = sk * 1k k Đầu t (+n1)k i = sk (+n2)k * 2k CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G 20 c. Tiến bộ công nghệ và tăng trưởng kinh tế Để đưa tiến bộ công nghệ vào mô hình, ta sửa hàm sản xuất thành:   1)( ELKY E là một biến mới, là hiệu quả của lao động. Hiệu quả của lao động phản ánh trình độ công nghệ của xã hội, và khi công nghệ tiến bộ thì hiệu quả của lao động cũng tăng lên. Lúc này, EL  đo số công nhân hiệu quả. Tổng sản lượng Y phụ thuộc vào số đơn vị K và số công nhân hiệu quả EL  . Giả định E tăng với tốc độ g không đổi. Bởi vì L tăng với tốc độ là n , nên số công nhân hiệu quả EL  tăng với tốc độ là gn  . Tương tự như trên, nhưng bây giờ ta phân tích nền kinh tế theo các mức bình quân trên mỗi công nhân hiệu quả. Đặt LEKk  và LEYy  . Vậy, ta vẫn có ky  . Sự thay đổi của mức vốn trên mỗi công nhân hiệu quả lúc này là: kgnik )(   Ta vẫn xác định được *k thoả mãn 0k . Điều này hàm ý rằng, ở trạng thái ổn định, đầu tư vừa đủ để bù đắp khấu hao và cung cấp máy móc thiết bị cho những công nhân hiệu quả mới. Khi đó, mức vốn trên mỗi công nhân hiệu quả không thay đổi, và mức sản lượng trên mỗi công nhân hiệu quả LEY cũng không thay đổi. Tuy nhiên, mức sản lượng trên mỗi công nhân LY bây giờ tăng trưởng với tốc độ g , và Y tăng với tốc độ gn  . Tiến bộ công nghệ trong mô hình Solow. Tóm lại, tiến bộ công nghệ giải thích cho sự tăng trưởng của nền kinh tế trong dài hạn, cả trên phương diện tổng thu nhập lẫn GDP bình quân đầu người. Nếu tốc độ tiến bộ công nghệ tăng lên, thì cả GDP lẫn GDP/người đều tăng lên tương ứng. 2.1.3.3. Những nhược điểm của mô hình tăng trưởng Solow - Theo mô hình này, nếu không có cú sốc thay đổi công nghệ từ bên ngoài, thì tất cả các nền kinh tế sẽ dần đạt đến trạng thái ổn định không có tăng trưởng (do quy mô dân số cũng đã ổn định). Ngay cả khi tỷ lệ tiết kiệm tăng lên thì sự gia tăng GDP bình quân đầu người chỉ là hiện tượng tạm thời, diễn ra trong quá trình nền kinh tế chuyển từ trạng thái ổn định này sang trạng thái ổn định khác. Cũng theo ý nghĩa đó, các chính sách của nhà nước không có tác động gì tới tăng trưởng dài hạn nếu như chúng không tạo ra tiến bộ công nghệ. Do đó, lý thuyết này không thể giải thích những bước tăng k* k (+n+g)k i = sk Đầu t CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G 21 trưởng vượt bậc của nhiều nền kinh tế trên thế giới từ sau những năm 1950, cũng như sự chênh lệch lớn giữa nhiều nền kinh tế có cùng trình độ công nghệ. - Mọi sự gia tăng GDP nếu không phải là do vốn và lao động đều là do công nghệ “số dư Solow” (trên 50%) - Phủ nhận vai trò của các chính sách Chính phủ và các quyết định của các chủ thể kinh tế 2.1.4. Các mô hình tăng trưởng nội sinh 2.1.4.1. Xuất phát điểm của các mô hình tăng trưởng nội sinh Thực tế tăng trưởng kinh tế ở các nước có thể nhận ra rằng, tiến bộ công nghệ không phải yếu tố ngoại sinh từ bên ngoài tác động vào nền kinh tế và “phần dư” giữa tăng trưởng thu nhập với tăng trưởng của vốn cũng không phải chỉ là kết quả của yếu tố ngoại sinh này. Những nhược điểm của mô hình Solow đã thúc đẩy sự ra đời một cách tiếp cận mới đối với tăng trưởng kinh tế: tăng trưởng kinh tế nội sinh (hay lý thuyết tăng trưởng mới) vào giữa những năm 80 của thế kỷ XX. Đại diện tiêu biểu cho nhóm những nhà kinh tế theo đuổi mô hình tăng trưởng kinh tế mới mẻ này là là Robert E. Lucas (1937), một trong những nhà lý luận kinh tế hiện đại có ảnh hưởng nhất thời nay, người đã đoạt giải Nobel kinh tế năm 1995. Hai xuất phát điểm trong phân tích, làm cơ sở cho những kết luận mới về vai trò của các yếu tố tăng trưởng, và gọi nó là mô hình tăng trưởng nội sinh. Thứ nhất, đó là việc phân chia vốn làm 2 loại: Vốn hữu hình (vốn vật chất, bao gồm K và L). Cụ thể, vốn sản xuất (K) là tài sản hữu hình do các doanh nghiệp tư nhân hoặc chính phủ đầu tư như máy móc thiết bị, nhà xưởng mà các doanh nghiệp sử dụng để sản xuất ra hàng hoá, cơ sở hạ tầng nghiên cứu khoa học kỹ thuật, giáo dục hệ thống đường xá, cầu cống, hệ thống bưu chính viễn thông, cơ sở hạ tầng giao thông, v.v..Lao động (L) nằm trong phạm vi vốn vật chất bao gồm quy mô, số lượng, cơ cấu lực lượng lao động xã hội. Vốn nhân lực (hay gọi là vốn con người). Vốn con người là thuật ngữ dùng để chỉ khả năng, kỹ năng, kiến thức, sự khéo léo, linh hoạt có được của mỗi con người và sử dụng trong các hoạt động kinh tế. Vốn nhân lực hình thành trong quá trình tích luỹ kiến thức của người lao động thông qua giáo dục, đào tạo từ thời đi học phổ thông, đến đại học và các chương trình đào tạo nghề nghiệp cho người lao động, hoặc tích luỹ từ kinh nghiệm thực tế. Thứ hai, khẳng định vai trò của chính phủ trong tăng trưởng dài hạn: mô hình tăng trưởng nội sinh đồng nhất với quan điểm của trường phái kinh tế hiện đại, trong đó nổi bật là tư tưởng của Samuelson trong tác phẩm Economics (giải thưởng Nobel năm 1970) về vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường. Theo đó việc mở rộng kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước không chỉ vì thị trường có những khuyết tật, mà còn vì xã hội đặt ra mục tiêu mà thị trường dù có hoạt động tốt cũng không thể đáp ứng được. Quan điểm của Samuelson về vai trò và chức năng của chính phủ đã giúp các nhà kinh tế thuộc trường phái tăng trưởng nội sinh giải thích sự tiến bộ của công nghệ kỹ thuật có vai trò của chính phủ. Vai trò của chính phủ được thể hiện bằng các chính sách khuyến khích đầu tư nghiên cứu tiến bộ công nghệ, sử dụng công nghệ kỹ thuật mới vào hoạt động kinh tế, bảo vệ các bản quyền phát minh, sở hữu trí tuệ, cũng như các chính sách đầu tư phát triển vốn nhân lực. Với các xuất phát điểm trên, các lý thuyết tăng trưởng kinh tế nội sinh đã cố gắng mô hình hoá yếu tố tiến bộ công nghệ bằng cách đưa nguồn vốn con người vào hàm sản xuất và giải thích quá trình CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G 22 tích luỹ kiến thức (tiến bộ công nghệ) trực tiếp thông qua tích luỹ nguồn vốn con người, hay gián tiếp thông qua nghiên cứu và phát triển (R&D) và vai trò của chính phủ trong quá trình phát triển vốn nhân lực như thế nào.. 2.1.4.2. Các yếu tố tác động đến tăng trưởng * Các yếu tố trong hàm sản xuất Các yếu tố trong hàm sản xuất của mô hình nội sinh cũng giống mô hình Solow, bao gồm ba yếu tố là vốn, lao động và công nghệ kỹ thuật. Tuy vậy có những sự khác biệt sau đây: Thứ nhất, nền kinh tế được phân chia thành hai khu vực: Khu vực sản xuất hàng hoá, bao gồm các doanh nghiệp. Khu vực này có chức năng sản xuất hàng hoá và dịch vụ, được sử dụng trong tiêu dùng và tái đầu tư vào vốn sản xuất vật chất. Khu vực sản xuất kiến thức, có chức năng sản xuất ra một yếu tố gọi là “kiến thức” được sử dụng một cách tự do ở cả hai khu vực. Chính khu vực sản xuất kiến thức này sẽ tạo nên tiến bộ kỹ thuật. Khu vực sản xuất kiến thức thực hiện sự Tiến bộ kỹ thuật, và được chia thành hai dạng: Một là nắm bắt các khía cạnh của tiến bộ công nghệ, sản phẩm của dạng này là những sản phẩm mới (cải tiến sản phẩm) và đưa ra các phương thức mới để tiến hành sản xuất (cải tiến quy trình công nghệ). Hai là, Chuyển giao kiến thức kỹ thuật, thực hiện sự khuyếch tán kỹ thuật từ các cơ sở nghiên cứu đến các lĩnh vực sản xuất vật chất và dịch vụ ở trong nước và phần còn lại của thế giới, đến tận người lao dộng và thể hiện bằng kỹ năng, kiến thức và sự thành thạo, khéo léo của họ. Khu vực sản xuất kiến thức được thực hiện ở các trường đại học, trung học viện, trung tâm nghiên cứu và triển khai, dạy nghề (chúng ta gọi tắt là khu vực các trường đại học) Thứ hai, nếu trong hàm sản xuất của Solow, yếu tố công nghệ kỹ thuật thể hiện ở hiệu quả lao động (E) là yếu tố ngoại sinh và số dư giữa thu nhập và đầu tư chính là do yếu tố này tạo nên, thì hàm sản xuất của trường phái nội sinh cho rằng yếu tố E được tạo nên bởi tổng hợp tất cả các yếu tố ngoài yếu tố vật chất là vốn và lao động tạo nên gọi là yếu tố năng suất lao động tổng hợp (TFP). Các yếu tố khác phi vật chất như tiến bộ công nghệ, cơ chế sử dụng công nghệ, chính sách của Chính phủ có liên quan đến khuyến khích nghiên cứu và triển khai, tác động nên vốn nhân lực và nó chính là yêu tố làm nâng cao hiệu quả lao động * Vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng a. Vai trò của vốn nhân lực theo Mô hình AK Xét hàm sản xuất rất đơn giản: AKY  trong đó, Y là sản lượng, K là lượng vốn sản xuất và A là một hằng số đo sản lượng được sản xuất ra trên mỗi đơn vị vốn. Hàm sản xuất này không thể hiện năng suất cận biên của vốn giảm dần. Thêm một đơn vị vốn sẽ tạo ra thêm A đơn vị sản lượng, bất kể có bao nhiều vốn đi chăng nữa. Việc bỏ qua quy luật năng suất cận biên giảm dần là khác biệt căn bản giữa mô hình tăng trưởng nội sinh và mô hình Solow. Giả định rằng có một tỷ lệ s trong thu nhập được tiết kiệm và đầu tư. Do đó, ta có phương trình tích luỹ vốn, cho biết sự thay đổi lượng vốn bằng đầu tư trừ đi khấu hao: KsYK  CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G 23 Tốc độ tăng trưởng của sản lượng AKY  bằng tổng tốc độ tăng trưởng của A và của K , nghĩa là: KA gg Y Y g    Nếu không có tiến bộ công nghệ, 0Ag , thì từ 2 phương trình trên, ta có tốc độ tăng trưởng sản lượng chính là tốc độ tăng trưởng của vốn:     sA K K Y Y Như vậy, nếu sA , thì thu nhập của nền kinh tế sẽ tăng trưởng vĩnh viễn, cho dù có tiến bộ công nghệ hay không. Chính tỷ lệ đầu tư (tiết kiệm) sẽ quyết định tăng trưởng. Như vậy, một thay đổi nhỏ trong hàm sản xuất có thể dẫn tới kết luận hoàn toàn trái ngược. Trong mô hình Solow, tiết kiệm dẫn đến tăng trưởng nhất thời, nhưng quy luật năng suất cận biên giảm dần của vốn cuối cùng sẽ buộc nền kinh tế tiến tới một trạng thái ổn định, tại đó tăng trưởng chỉ phụ thuộc vào tiến bộ công nghệ ngoại sinh. Ngược lại, trong mô hình tăng trưởng nội sinh, tiết kiệm và đầu tư có thể dẫn tới tăng trưởng vĩnh viễn. Vấn đề là tại sao mô hình này có thể loại bỏ giả định năng suất cận biên của vốn giảm dần. Câu trả lời nằm ở bản chất của vốn sản xuất trong mô hình. Nếu theo quan điểm truyền thống, K chỉ bao gồm số máy móc, thiết bị (gọi chung là vốn sản xuất vật chất) của nền kinh tế, thì đương nhiên K tuân theo quy luật năng suất cận biên giảm dần. Tuy nhiên, mô hình tăng trưởng nội sinh cho rằng cần hiểu rộng K hơn nữa, rằng K bao gồm cả kiến thức, kỹ năng mà người lao động có được thông qua giáo dục, đào tạo (gọi chung là vốn con người). Rõ ràng là kiến thức, kỹ năng của người lao động là một đầu vào quan trọng trong sản xuất của nền kinh tế, nhưng chẳng có lý do gì để buộc loại vốn này tuân theo quy luật năng suất cận biên giảm dần. Trên thực tế, những tiến bộ khoa học – công nghệ trong mấy thế kỷ qua cho phép các nhà kinh tế đặt giả định rằng vốn con người có năng suất cận biên tăng dần. Nếu chúng ta chấp nhận quan điểm rằng kiến thức, kỹ năng của người lao động cũng là một loại vốn, thì giả định năng suất cận biên của vốn không đổi trở nên hợp lý hơn trong mô hình tăng trưởng kinh tế dài hạn. b. Mô hình Lucas giản đơn – một mô hình tăng trưởng hai khu vực Giả sử một nền kinh tế có hai khu vực: khu vực sản xuất (gồm các doanh nghiệp) và khu vực giáo dục (gồm các trường đại học). Các doanh nghiệp sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ, được sử dụng trong tiêu dùng và đầu tư vào vốn sản xuất vật chất. Còn các trường đại học sản xuất ra một nhân tố sản xuất gọi là “kiến thức”, được sử dụng tự do trong cả hai khu vực. Nền kinh tế được mô tả bằng hàm sản xuất của doanh nghiệp, hàm sản xuất của các trường đại học, và phương trình tích luỹ vốn: Sử dụng hàm sản xuất Coob – Douglas, Hàm sản xuất của doanh nghiệp của mô hình nội sinh được xây dựng có xét tới vai trò của vốn con người, và thể hiện:   1])1[( ELuKY Trong đó, u là tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực giáo dục và u1 là tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực sản xuất. E là lượng kiến thức (quyết định hiệu quả lao động). Như vậy thu nhập của khu vực sản xuất được hình thành bởi kết quả của tích luỹ vốn vật chất (K) và hiệu quả tích luỹ của khu vực giáo dục thể hiện ở số lao động hiệu quả trong khu vực sản xuất ELu)1(  . Vốn vật chất được tích luỹ theo quy luật vận động thông thường, và phương trình tích luỹ được xác định: CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G 24 KsYK  Trong đó, s là tỷ lệ tiết kiệm trong GDP, б là tỷ lệ khấu hao bình quân của vốn sản xuất Hàm sản xuất của khu vực giáo dục (các trường đại học) có sự vận động khác hơn. Không giống như vốn vật chất, vốn con người không phải là một phần của sản lượng được tích luỹ va chuyển hoá thành vốn sản xuất. Hơn thế nữa, việc tạo ra vốn con người mới đòi hỏi sử dụng vốn con người hiện vó. Vốn con người được tạo ra thông qua giáo dục và kiến thức hiện có là yếu tố chủ yếu trong việc tạo ra giáo dục. Do vậy nếu chúng ta giả định vốn con người tương lai được sản xuất ra từ chính vốn con người, thì sự gia tăng vốn nhân lực hay hàm sản xuất của khu vực các trường đại học được mô tả: EugE )( . Từ logic như trên, có thể tổng hợp các phương trình liên quan đến tăng trưởng kinh tế theo mô hình Lucas như sau:   1])1[( ELuKY hàm sản xuất của các doanh nghiệp EugE )( hàm sản xuất của các trường đại học KsYK  phương trình tích luỹ vốn Mô hình này có cùng bản chất như mô hình AK, ở chỗ nền kinh tế này có năng suất cận biên của vốn không đổi nếu vốn được hiểu rộng là bao gồm cả kiến thức. Vậy nên cũng như mô hình AK, mô hình này kết luận rằng nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng liên tục cho dù không có cú sốc công nghệ ngoại sinh nào xảy ra. Sự tăng trưởng liên tục ở đây là nhờ tốc độ tạo ra kiến thức ở các trường đại học không hề suy giảm. Có hai biến quyết định quan trọng trong mô hình này. Như trong mô hình Solow, tỷ lệ thu nhập được sử dụng cho tiết kiệm và đầu tư ( s ) sẽ quyết định lượng vốn vật chất ở trạng thái ổn định. Bên cạnh đó, tỷ lệ lao động trong các trường đại học (u ) sẽ quyết định tốc độ tăng trưởng của kiến thức. Cả s và u đều tác động tới tốc độ tăng thu nhập của nền kinh tế ở trạng thái ổn định. Do đó, mô hình tăng trưởng nội sinh cho thấy các quyết định của xã hội sẽ dẫn tới sự thay đổi công nghệ như thế nào, và do đó ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng kinh tế ra sao. (Điều này hoàn toàn khác với mô hình Solow, khi chính phủ không thể kiểm soát tốc độ tăng trưởng kinh tế vì không xác định được các nhân tố ảnh hưởng tới tiến bộ công nghệ). 2.1.4.3. Hạn chế của các mô hình tăng trưởng nội sinh Về mặt thực tiễn, các nghiên cứu phân tích tăng trưởng cho thấy, mô hình vốn nhân lực đã đánh giá quá cao vai trò của vốn con người, mô hình này cho rằng các nước đang phát triển khó có khả năng vươn tới hội tụ với các nước phát triển. Đầu tư cho giáo dục không đủ thúc đẩy tăng trưởng ở các nước nghèo. Một số đề xuất chính sách của mô hình vốn nhân lực còn tỏ ra mang nặng tính chủ quan. Có thể xảy ra một nghịch lý là, trong dài hạn, tăng trưởng có thể bị giới hạn do thiếu lao động thô sơ, đồng thời những người lao động có trình độ lại bị thất nghiệp. Mô hình tăng trưởng nội sinh vẫn phụ thuộc vào một số giả định Tân cổ điển truyền thống mà không phù hợp với các nền kinh tế đang phát triển. Chẳng hạn, các mô hình tăng trưởng nội sinh còn CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G 25 bỏ qua những yếu tố như sự yếu kém về cấu trúc hạ tầng, cấu trúc thể chế, các thị trường vốn và thị trường hàng hoá không hoàn hảo ở các nước đang phát triển, mà đây cũng là những yếu tố kìm hãm tăng trưởng GDP giống như mức tiết kiệm và tích luỹ vốn con người thấp. 2.2. Phân tích những thay đổi về vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế theo các mô hình tăng trưởng kinh tế 2.2.1. Những thay đổi về nội dung Adam Smith là người đầu tiên cho rằng cơ chế tiết kiệm và đầu tư – thông qua giảm tiêu dùng hoang phí và gia tăng đầu tư vào những hoạt động “hữu ích và hiệu quả” - là cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, phải đến những phát triển sau này của trường phái Cổ điển Anh thì cơ chế đó mới được sử dụng như là cột trụ trung tâm của lý thuyết tăng trưởng kinh tế. Với D.Ricardo, lý thuyết tăng trưởng nhấn mạnh đến 3 nhân tố trực tiếp tác động đến tăng trưởng kinh tế là vốn, lao động và ruộng đất: Y = F(K, L, R) Trong đó, K là được xác định bằng tổng tiền lương phải trả cho người lao động và phần tiền bỏ ra để mua máy móc thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất. R là số lượng ruộng đất trong nông nghiệp. Còn L được xác định bằng số lượng lao động sẵn sàng làm việc đủ thời gian, với bất cứ mức lương nào. D.Ricardo cho rằng nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất, do đó ruộng đất chính là yếu tố quyết định đến tăng trưởng, nhưng ông lại không tính đến vai trò của yếu tố công nghệ, kỹ thuật. Ông đã không đánh giá đúng vai trò của yếu tố này nên đã dẫn đến một loạt các kết luận sai như đã trình bầy ở phần trên. D.Ricardo còn đưa ra ý tưởng về “duy trì khả năng tăng trưởng kinh tế - một mô hình hai khu vực kinh tế” chứ không nghĩ rằng việc phát triển các khu công nghiệp với số lượng công nhân ở đó là tất yếu của quy luật cung cầu (không phải để nhằm mục đích thu hút lao động dư thừa từ khu vực nông nghiệp). Thặng dư từ sản xuất công nghiệp thu được đều đổ dồn về cho nhà tư bản - những người có khuynh hướng tiết kiệm và đầu tư cao. Cơ chế này đảm bảo duy trì tỷ lệ tích luỹ tư bản cao và tăng trưởng bền vững. Mặc dù vậy, Ricardo đã xác định một lực lượng cản trở quá trình tăng trưởng này, đó là quy luật lợi tức giảm dần của đất đai, dẫn đến tỷ suất lợi nhuận giảm dần, nhà tư bản không còn động cơ đầu tư và tăng trưởng kinh tế dừng lại ở đó. Có thể nói, các lý thuyết tăng trưởng kinh tế truyền thống đã đề cao vai trò của vốn, coi đó là yếu tố quan trọng quyết định sự tăng trưởng, trong đó tốc độ tích luỹ vốn lại phụ thuộc vào tỷ lệ tiết kiệm của nền kinh tế. Tuy nhiên, phải đến mô hình Harrod - Domar của trường phái Keynes thì mối quan hệ tiết kiệm, tích lũy và tăng trưởng kinh tế mới được lượng hoá. Với Harrod-Domar cũng là hàm sản xuất Y = F(K, L, R) nhưng R là tài nguyên chứ không chỉ đơn thuần là ruộng đất như D.Ricardo nhận định. Khác với D.Ricardo, Harod-Domar đã cố định yếu tố công nghệ kỹ thuật, tức là đã có sự quan tâm tới yếu tố này nhưng chỉ cho rằng nó tăng với một tốc độ cố định, Harod-Domar coi trọng yếu tố vốn trong mô hình bằng việc phân tích hệ số ICOR, hệ số ICOR nói lên vốn được tạo nên bằng đầu tư là yếu tố cơ bản tạo nên mức tăng trưởng, hệ số này cũng phản ánh trình độ kỹ thuật của sản xuất, năng lực của vốn đầu tư. Hay nói cách khác, Harod-Domar coi sự tăng trưởng là do kết quả tương tác giữa tiết kiệm với đầu tư và đầu tư là động lực cơ bản cho sự CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G 26 phát triển kinh tế. Cũng với việc phân tích hệ số ICOR, Harod-Domar đã đưa ra 3 khái niệm về tốc độ tăng trưởng và thời kỳ vàng của nền kinh tế, và gọi đó là điều kiện để tăng trưởng kinh tế ổn định. Thất bại của chiến lược tăng trưởng nhờ huy động tiết kiệm trong nước cao độ theo mệnh lệnh của chính phủ đã phủ một bóng mây nghi ngờ lên quan điểm truyền thống cho rằng tích luỹ vốn là chìa khoá của tăng trưởng kinh tế và rằng tỷ lệ tiết kiệm thấp chính là giới hạn chủ yếu của tăng trưởng đối với các nước đang phát triển. Đến đây, lý thuyết tăng trưởng đã phát triển lên một bước mới, với việc phân tách tăng trưởng về mặt sản lượng thành: tăng trưởng thông qua tăng các đầu vào (lao động, vốn) và tăng trưởng thông qua tăng năng suất (chẳng hạn công nghệ mới). Trong dài hạn, một nền kinh tế cần tiến bộ công nghệ để có thể nâng cao mức sống người dân, bởi nền kinh tế đó không thể mãi tăng đầu vào lao động, đồng thời cũng gặp phải lợi tức cận biên giảm dần nếu tiếp tục tăng thêm vốn vào quá trình sản xuất. Mô hình tăng trưởng Solow, được coi là mô hình chuẩn đầu tiên, hội tụ được khá nhiều các yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế dài hạn. Solow thừa nhận một số quan điểm của Harod-Domar và lấy đó là xuất phát điểm của mình, ông đồng nhất với Harod-Domar 2 điểm: (i) Vốn sản xuất gia tăng được hình thành từ tiết kiệm và đầu tư là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế; (ii) quy luật lợi tức biên giảm dần theo qui mô vẫn tiếp tục chi phối hoạt động đầu tư mở rộng quy mô tài sản hữu hình. Nhưng điểm khác biệt của Solow với Harod-Domar chính là: khi quy mô tài sản hữu hình (vốn sản xuất) lớn đến một mức độ nào đó, thì đầu tư sẽ không dẫn đến gia tăng mức sản lượng của nền kinh tế, tức là Solow đã lo ngại về khả năng tăng trưởng kinh tế trong dài hạn của nền kinh tế nếu chỉ dựa vào yếu tố đầu tư, ông quan tâm nhiều đến yếu tố kỹ thuật công nghệ trong mô hình. Hàm sản xuất của Solow là Y (t) = F (K, EL). Như đã trình bầy rất rõ ràng ở phần trên, Solow đã phân tích mô hình của mình với sự tác động của các yếu tố một cách hết sức chi tiết: khi phân tích sự tác động của yếu tố vốn, ông đã chỉ rõ mối quan hệ giữa đầu tư, khấu hao và trạng thái ổn định; sự tác động của yếu tố lao động có liên quan đến sự tác động của sự gia tăng dân số và đặc biệt là sự tác động của tiến bộ công nghệ tới tăng trưởng kinh tế mà ở hai mô hình trên chưa đề cập đến hoặc có nhưng cho rằng là yếu tố này tăng cố định. Hàm sản xuất của mô hình tăng trưởng nội sinh lại được viết như sau: Y = F(K, L, E) Trong đó, vốn đã được chia làm 2 loại là vốn hữu hình (vốn vật chất) bao gồm cả K và L và vốn nhân lực (vốn con người) chính là khả năng, kỹ năng, kiến thức, sự khéo léo, linh hoạt có được của mỗi người và sử dụng trong hoạt động kinh tế. Mô hình này cũng đã khảng định vai trò của Chính phủ trong tăng trưởng dài hạn (khác với Solow) 2.2.2. Nguyên nhân thay đổi Có thể giải thích những thay đổi trên là do hai nguyên nhân chính như sau:  Sự thay đổi về điều kiện lịch sử dẫn đến sự thay đổi trong nhận thức tạo ra sự thay đổi trong quan niệm về vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế  Sự cạn kiệt, khan hiếm của một số yếu tố nguồn lực như nguồn tài nguyên thiên nhiên buộc con người phải nghiên cứu, tìm tòi tạo ra các yếu tố nguồn lực mới để thay thế vì thế dẫn đến sự thay đổi trong quan niệm về vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế: nền kinh tế không thể tăng trưởng bền vững dựa trên những nguồn lực khan hiếm, sẵn có đó mà dựa trên việc ứng dụng hiệu quả những tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới. CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G 27 D.Ricardo là một nhà kinh tế học cổ điển mà xét về mặt lịch sử thì kinh tế học cổ điển được hình thành trên nền một xã hội bị chi phối chủ yếu bởi kinh tế nông nghiệp, ruộng đất ngày càng hạn chế với quy mô dân số gia tăng, sự tác động của công nghệ và kỹ thuật thì yếu ớt và không liên tục. Những phát kiến do tiến bộ khoa học kỹ thuật tuy đã có như động cơ hơi nước, máy xe nhiều sợi một lúc, guồng nước, máy tỉa hạt bong nhưng cái thì chưa phục vụ nhiều cho sản xuất, cái thì chủ yếu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Chính vì lẽ đó mô hình tăng trưởng của D.Ricardo là mô hình quan tâm nhiều đến ruộng đất trong phát triển nông nghiệp. Còn với Harod-Domar, mô hình tăng trưởng này được hình thành vào những năm 30, 40 là thời điểm vừa mới trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế, đã có tiến bộ của khoa học kỹ thuật nhưng những tiến bộ đó đã làm cho hàng hoá đổ xuống biển (khủng hoảng thừa) do đó tiến bộ khoa học kỹ thuật phải là tăng với mức cố định và vốn được cho là có quan hệ chặt chẽ với sản lượng. Solow đã tiếp nhận mô hình Harod-Domar khi mà khoa học kỹ thuật đã thực sự tác động trực tiếp làm tăng sản lượng của nền kinh tế và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã chứng minh được năng lực sản xuất của mình dựa trên trình độ quản lý cũng như máy móc công nghệ cao. Ông đã tiếp nhận có chọn lọc những tư tưởng của Harod-Domar và quan tâm nhiều tới sự gia tăng dân số khi mà vấn đề gia tăng dân số trở thành mối lo ngại của nhiều quốc gia trên thế giới (thu nhập bình quân của mỗi người dường như sẽ giảm khi dân số tăng nhanh) từ đó thấy được hiệu quả của lao động. Những năm gần đây sự tiến bộ của khoa học công nghệ cho chúng ta thấy không chỉ những ngành sản xuất vật chất mới đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế. Ngành công nghệ phần mềm đã mang lại thu nhập cho nhiều quốc gia còn hơn một số ngành công nghiệp. Vai trò của một số quốc gia lớn trên thế giới ngày càng trở nên quan trọng hơn không có lý do gì khác là do họ có một chính phủ “mạnh” Các mô hình hình tăng trưởng nội sinh đã giúp chúng ta giải thích một cách đúng đắn nhất vấn đề đó, nhưng như đã nói, mô hình nay vẫn còn có những hạn chế nhất định. Như vậy có thể nói rằng sự tiến bộ của khoa học công nghệ đã làm cho nhận thức của những nhà kinh tế được sâu hơn và đi đến những nhận định đúng đắn phù hợp hơn với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G 28 PHẦN 3 VẬN DỤNG CÁC MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY Sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đã tăng lên liên tục. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), GDP chỉ đạt mức tăng trưởng bình quân 4,4%/năm, thì trong 5 năm tiếp theo (1991 - 1995), tăng trưởng GDP bình quân là 8,2%, cao hơn so với kế hoạch đề ra là 5,5% - 6,5%, và thuộc vào loại cao trong số các nước đang phát triển. Trong giai đoạn 1996 - 2000, tốc độ tăng GDP bình quân của Việt Nam là 6,9%, tuy có thấp hơn nửa đầu thập niên 90 thế kỷ XX do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á, nhưng vẫn vào loại cao trong khu vực. Năm 2001, tốc độ tăng GDP của Việt Nam là 6,9%, năm 2002: 7%, năm 2003: 7,3%, năm 2004: 7,7%, năm 2005: 7,5%, năm 2006: 8,2% và năm 2007: 8,5%. So với các nước trong khu vực, Việt Nam đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng rất cao. Cùng với tăng trưởng kinh tế cao, chất lượng tăng trưởng kinh tế cũng đang được cải thiện. Tuy nhiên, theo nhiều đánh giá trong nước và quốc tế, mặc dù Việt Nam đạt được những kết quả tăng trưởng cao, nhưng đó là những kết quả tăng trưởng theo chiều rộng chứ chưa có sức bật tăng trưởng theo chiều sâu. Việt Nam vẫn đang ở trong ranh giới của những nước kém phát triển theo tiêu chuẩn của Liên hợp quốc. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu nghiêng về chiều rộng hơn là chiều sâu, nghĩa là tỷ trọng tác động của 2 nhân tố vốn và lao động gấp nhiều lần tác động của khoa học - công nghệ tới tăng trưởng. Ngay cả khi phát triển theo chiều rộng, yếu tố chủ yếu đóng góp vào tăng trưởng GDP lại là vốn, mà Việt Nam bị thiếu vốn, đang phải đi vay rất nhiều (vừa vay, vừa hoàn trả vốn, với số lãi mà ngân sách phải trả hằng năm chiếm gần 15% tổng chi ngân sách). Trong khi đó, việc sử dụng vốn đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế thấp thể hiện rõ qua sự tăng nhanh của hệ số ICOR (đo hiệu quả sử dụng vốn đầu tư). Trong cấu trúc tăng trưởng của kinh tế nước ta hiện nay, vốn chiếm đến 57,5%, lao động chiếm 20% và các yếu tố khác chiếm 22,5%. Đó chính là biểu hiện của sự phát triển theo chiều rộng, dựa vào vốn. Do vậy nên hệ số ICOR của Việt Nam tăng rất nhanh: từ 2,7 lên 4,7 (từ 1991-2000) và thời kỳ 2001-2005 là 5,0. Trong đó, kinh tế nhà nước là 6,0. Hoặc các năm 2006-2007, đầu tư chiếm 41% GDP thì hệ số ICOR là 4,9. Dù thừa nhận nếu so với thời kỳ trước, mô hình tăng trưởng của Việt Nam có tiến bộ rõ rệt nhưng so với các mô hình thành công trên thế giới thì bộc lộ sự tụt hậu về chất lượng và sớm rơi vào tình trạng đuối sức, hụt hơi trong phát triển, dẫn đến khả năng đề kháng với những biến động kinh tế toàn cầu có thể bị tác động sâu và rộng hơn các quốc gia phát triển khác. Lao động là yếu tố dồi dào nhất của Việt Nam, hiện lại đang có xu hướng dư thừa bởi số người đến độ tuổi bổ sung vào đội quân lao động hằng năm vẫn khá lớn (hơn 1 triệu người). Tuy nhiên, yếu tố này đã không được sử dụng hiệu quả để tạo ra tăng trưởng GDP lớn hơn. Nguồn nhân lực của nước ta đã không được sử dụng hết, thậm chí lãng phí. Cụ thể là: + Tỷ lệ thất nghiệp tuy có giảm nhưng vẫn ở mức cao. + Tỷ lệ lao động được đào tạo (tốt nghiệp đại học, cao đẳng và dạy nghề) không có việc làm hoặc việc làm không đúng chuyên môn còn rất lớn, gây lãng phí rất nhiều về chi phí đào tạo của gia đình và xã hội, dẫn đến cơ cấu lao động mất cân đối, thừa thầy thiếu thợ. Nhiều lao động trẻ được đào tạo, có trình độ kỹ thuật, có sức khỏe vẫn bị thất nghiệp. Ngoài ra, chương trình đào tạo chưa đáp ứng CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G 29 được yêu cầu của thị trường lao động. Học sinh học lý thuyết nhiều, nhưng khả năng vận dụng thực tiễn rất yếu. Học sinh chuyên các ngành khoa học cơ bản không được khuyến khích nên thiếu hụt nghiêm trọng. Như vậy, nguồn lực năng động nhất, cũng là lợi thế phát triển quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững của Việt Nam đang bị lãng phí rất lớn, khó phục vụ hiệu quả cho tăng trưởng kinh tế. Vì thế, năng suất lao động của Việt Nam hiện rất thấp so với các nước trong khu vực. Hiện nay, chất lượng giáo dục và đào tạo ở Việt Nam còn khá nhiều yếu kém bất cập: cơ cấu chưa hợp lý, còn sự chênh lệch khá lớn về điều kiện học tập, cơ sở trường lớp giữa thành thị và nông thôn, miền xuôi và miền núi. Phát triển giáo dục phổ thông chưa cân đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Đào tạo nghề còn rất yếu cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu ngành nghề không hợp lý, thiếu lao động trình độ cao. Công tác quản lý giáo dục, đào tạo chậm đổi mới, còn nhiều bất cập. Chủ trương xã hội hoá giáo dục thực hiện chậm, thiếu đồng bộ. Về công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật. Kinh nghiệm cho thấy việc tìm ra và ứng dụng nhanh khoa học công nghệ vào sản xuất sẽ là chìa khóa để tăng trưởng “đuổi kịp”. Tuy nhiên, theo số liệu từ Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Việt Nam hiện có khoảng 5 vạn người đang làm việc trực tiếp trong lĩnh vực nghiên cứu thuộc 1.102 cơ sở trên cả nước. Con số này là gấp 5 lần so với Thái Lan và 6 lần so với Malaysia. Kinh phí cho hoạt động nghiên cứu và phát triển hàng năm khoảng 200 triệu USD. Nhưng hiệu quả thì thật đáng thất vọng: ngoài lĩnh vực bưu chính-viễn thông, dầu khí, lắp ráp hàng điện tử tiêu dùng thì trình độ công nghệ của các ngành sản xuất nước ta lạc hậu khoảng 2 đến 3 thế hệ so với công nghệ các nước trong khu vực. Trang thiết bị của các viện nghiên cứu, trường đại học đã không đồng bộ lại còn lạc hậu so với ngay cả các cơ sở sản xuất tiên tiến trong nước. Thậm chí, chúng ta chưa tự làm nổi chiếc đinh vít cho ra đinh vít!? (báo Nhân dân ngày 08/10/2005). Còn trong lĩnh vực sáng chế, theo thống kê của Cục Sở hữu trí tuệ thì tới 96-99% số đơn đăng ký và số văn bằng bảo hộ đã cấp tại Việt Nam từ năm 1996 đến nay là của người nước ngoài. Thực tế là phần lớn các kết quả nghiên cứu chỉ dừng ở phạm vi phòng thí nghiệm, chưa tạo thành công nghệ hoàn chỉnh để có thể chuyển giao cho sản xuất. Nguyên nhân đầu tiên phải nói đến cơ chế quản lý. Quản lý hoạt động khoa học và công nghệ còn tập trung chủ yếu vào các yếu tố đầu vào, chưa chú trọng đúng mức đến quản lý chất lượng sản phẩm đầu ra và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Các cơ sở nghiên cứu hầu như chỉ là của nhà nước, quản lý cán bộ theo chế độ công chức thụ động. Việc nghiên cứu không gắn với nhu cầu thực tiển mà thường là theo chỉ định. Đồng thời, giữa các cơ sở nghiên cứu nhà nước, các doanh nghiệp và các trường đại học hầu như không có mối liên kết nào, và tất nhiên là không được thừa hưởng kết quả nghiên cứu của nhau. Điều này vừa tạo nên sự trùng lắp gây lãng phí vừa giảm chất lượng nghiên cứu do thiếu sự thẩm định có chất lượng. Do đó, để có thể tăng trưởng “đuổi kịp”, việc cần thiết đầu tiên phải là thay đổi chiến lược giáo dục cũng như chiến lược nghiên cứu phát triển của mình. Đối với giáo dục, những việc làm có thể làm ngay bao gồm thay đổi cách dạy và học ở các cấp. Đồng thời, tranh thủ tiếp nhận kỹ năng của các nước công nghiệp thông qua việc liên kết đào tạo, mời chuyên gia nước ngoài hay du học. Thay đổi cách nhìn về doanh nhân và khuyến khích các kỹ năng doanh nhân cũng là việc làm cần thiết. Về mặt R&D, chính phủ nên hạn chế những rào cản gia nhập đối với việc nghiên cứu, cải thiện khả năng tiếp cận đến các nguồn lực tài trợ cho hoạt động R&D, gia tăng việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, tạo điều kiện thuận lợi để kết nối các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu để hoạt động nghiên cứu sinh lợi nhiều hơn, có hiệu quả hơn. Cụ thể hơn, các nước đã cho phép khấu trừ thuế, khấu hao nhanh CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G 30 và giảm thuế nhập khẩu và khuyến khích dành doanh thu cho hoạt động R&D. Bên cạnh đó, việc áp dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động quản lý và sản xuất kinh doanh cũng cần tính đến. Kinh nghiệm cho thấy việc áp dụng nhanh chóng hệ thống công nghệ thông tin có thể đem lại tốc độ tăng trưởng năng suất cao hơn, giúp các doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh về giá. Cụ thể hơn, Việt Nam cần có biện pháp để khuyến khích sử dụng máy tính và internet trong mọi hoạt động từ học tập, quản lý đến sản xuất kinh doanh. Về mặt này, chính phủ đang làm tốt công việc của mình. Trong thời điểm mà cả nền kinh tế thế giới và trong nước đang đối đầu trực diện với suy thoái và giảm phát, thách thức đặt ra cho phát triển là yêu cầu nhanh mà bền vững. Thách thức lớn nhất đối với Việt Nam hiện tại và tương lai là năng lực hoạch định chính sách phát triển, điều chỉnh vĩ mô làm sao để các nguồn lực quốc gia được sử dụng hiệu quả nhất, chứ không phải vấn đề đồng vốn như thời kỳ trước. Việt Nam cần phải đẩy nhanh quá trình cải cách và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, từ mô hình tăng trưởng chủ yếu là dựa vào các yếu tố theo chiều rộng (chủ yếu dựa vào xuất khẩu tài nguyên, tăng đầu tư, nhất là đầu tư nhà nước) sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, nhằm tạo ra năng lực cạnh tranh mới trong từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế. CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G 31 KẾT LUẬN Như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã từng nói trong bài phát biểu của mình về việc “Phát huy sức mạnh tổng hợp, nỗ lực phấn đấu ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng và đảm bảo an sinh xã hội của Việt Nam”: “ Điều quan trọng nhất đối với nước ta hiện nay là phải đẩy nhanh quá trình cải cách và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, từ mô hình tăng trưởng chủ yếu là dựa vào các yếu tố theo chiều rộng (chủ yếu dựa vào xuất khẩu tài nguyên, tăng đầu tư, nhất là đầu tư nhà nước) sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, nhằm tạo ra năng lực cạnh tranh mới trong từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế”, bài viết của chúng tôi chỉ muốn một lần nữa làm rõ hơn những ưu nhược điểm của các mô hình tăng trưởng kinh tế trong từng giai đoạn cũng như thực trạng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam những năm vừa qua để thấy rằng chúng ta đã làm được những gì, chưa làm được những gì và từ đó có những quyết sách đúng đắn cho phát triển kinh tế. Chúng ta có nguồn nhân lực dồi dào, có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng nhưng nhân lực lại không có trình độ cao, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức nên đang có nguy cơ cạn kiệt vì vậy chúng ta không thể cứ trông chờ vào nguồn lực hiện có đó để tăng trưởng bền vững, để đuổi kịp các nước phát triển. Đã đến lúc chúng ta cần phải đoạn tuyệt với mô hình tăng trưởng dựa chủ yếu vào tăng trưởng chiều rộng, khai thác tài nguyên và vào đầu tư nhà nước. Tăng trưởng từng bước chắc chắn nhưng cũng không thể quá chậm trễ chuyển sang mô hình dựa trên nguyên lý phân phối nguồn lực do thị trường đóng vai trò quyết định, tuân theo quy luật cạnh tranh tự do lành mạnh, khuyến khích sự tham gia tối đa của khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt dựa càng nhiều hơn vào 2 yếu tố công nghệ cao, nguồn nhân lực kỹ năng cao và hội nhập quốc tế. Cách thức tối ưu nhất trong gia đoạn trước mắt chỉ có thể là tập trung ưu tiên cho nhiệm vụ tạo lập và củng cố nền tảng tăng trưởng, thay cho nỗ lực tăng vốn đầu tư nhà nước lên cực đại để đạt bằng được mục tiêu tốc độ. CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ PHÁT TRIỂN Nhóm 4 – Lớp Cao Học 16G 32 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS, TS. Ngô Thắng Lợi, TS. Phan Thị Nhiệm, Giáo trình Kinh tế phát triển (sách chuyên khảo dành cho cao học kinh tế), Nhà xuất bản Lao động – xã hội, 2008. 2. PGS. TS. Trần Thọ Đạt, Các mô hình tăng trưởng kinh tế, Hà Nội, 2005. 3. Các trang Web:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfktpt_nhom4_16g_2978.pdf
Luận văn liên quan