Quảng cáo trên các phương tiện điện tử đang ngày càng phổ biến với các 
hình thức đa dạng như gửi thư điện tử hay tin nhắn qua điện thoại di động, đặt 
biểu tượng trên các trang tin điện tử. Tuy nhiên, là một loại hình còn tương đối 
mới mẻ ở Việt Nam và với tốc độ phát triển chóng mặt của công nghệ thông tin, 
vấn đề quản lý hoạt động này khá khó khăn và phức tạp. 
Các văn bản pháp quy hiện hành của Việt Nam về quảng cáo mới chỉ đề
cập đến vấn đề quảng cáo trên mạng thông tin máy tính, mà những quy định nà y 
cũng còn hết sức chung chung. Cụ thể, Điều 11 Pháp lệnh Quảng cáo, Điều 19 
Nghị định số 24/2003/NĐ-CP và Thông tư số 43/2003/TT-BVHTT quy định: cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp sau khi có Giấy phép chứng nhận đăng ký kinh 
doanh dịch vụ quảng cáo theo quy định của pháp luật, được phép kinh doanh 
dịch vụ quảng cáo trên mạng Internet.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 109 trang
109 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9816 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật về quảng cáo của Việt Nam một số bất cập và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thương mại và nhằm mục tiêu lợi nhuận. Vì 
thế, việc giao cho Bộ Văn hóa – Thông tin quản lý hoạt động quảng cáo là chưa 
phù hợp với chức năng của Bộ này. Và khi hoạt động quảng cáo phát triển phong 
phú với nhiều hình thức đa dạng, phức tạp thì công tác quản lý sẽ gặp nhiều khó 
khăn, khó tránh khỏi những thiếu sót, bất cập. Với tất cả những vấn đề đã trình 
bày, xin được kiến nghị nên giao cho Bộ Thương mại là cơ quan chủ quản thống 
nhất quản lý hoạt động quảng cáo trong cả nước. 
Một vấn đề nữa được đặt ra là, hoạt động quảng cáo không chỉ bị điều 
chỉnh trực tiếp bởi Pháp lệnh Quảng cáo mà còn bị điều chỉnh bởi nhiều văn bản 
pháp lý có liên quan. Ngoài ra, khi hoạt động quảng cáo được phân cấp quản lý 
về địa phương thì ở mỗi nơi lại ban hành những quy định khác nhau mà những 
quy định này đôi khi trái ngược với các văn bản luật có tính pháp lý cao hơn. 
Chính sự không nhất quán này đã khiến cho các doanh nghiệp gặp rất nhiều 
phiền hà trong việc xin các giấy tờ, thủ tục để thực hiện quảng cáo. Vì vậy kiến 
 82 
nghị các Bộ ra một văn bản hướng dẫn liên bộ để giảm các thủ tục phiền hà cho 
doanh nghiệp. Mặt khác, cơ quan chủ quản quản lý hoạt động quảng cáo cũng 
cần hướng dẫn một cách cụ thể nhằm thống nhất việc quản lý hoạt động này ở 
các địa phương, tránh tình trạng quyết định của UBND cấp tỉnh, thành phố lại 
mâu thuẫn với văn bản có hiệu lực cao hơn. Tuy nhiên, văn bản hướng dẫn cũng 
cần tạo điều kiện cho việc phân cấp quản lý được thuận lợi. 
1.1.2. Đơn giản hóa thủ tục xin Giấy phép thực hiện quảng cáo 
 Từ năm 1999 đến nay, theo tinh thần của Luật Doanh nghiệp, cơ chế xin – 
cho trong việc thành lập doanh nghiệp đã bị bãi bỏ; thay vào đó, doanh nghiệp 
chỉ phải đăng ký kinh doanh. Như vậy, quyền tự do kinh doanh – quyền đã được 
quy định trong Hiến pháp - đã hoàn toàn được thừa nhận. Vì thế, nhiều ý kiến 
cho rằng việc hiện nay các doanh nghiệp quảng cáo vẫn phải xin phép quảng cáo 
trên một số phương tiện là đi ngược lại với tinh thần tiến bộ của Luật Doanh 
nghiệp. Tất nhiên, luật pháp về quảng cáo mới cần tạo điều kiện thông thoáng 
hơn cho các doanh nghiệp để thúc đẩy ngành công nghiệp quảng cáo phát triển. 
Tuy nhiên, trong điều kiện như ở Việt Nam, việc có nên bãi bỏ hoàn toàn Giấy 
phép xin thực hiện quảng cáo hay không còn là một vấn đề cần bàn luận. 
 Thứ nhất, đối với quảng cáo trên mạng thông tin máy tính; kênh, chương 
trình phát thanh, truyền hình chuyên quảng cáo; phụ trang, phụ bản chuyên 
quảng cáo. Hiện nay loại hình quảng cáo này cần xin Giấy phép thực hiện quảng 
cáo của Bộ Văn hóa – Thông tin. Tuy nhiên, với việc các quy định hiện hành của 
pháp luật còn chung chung, thiếu cụ thể thì việc xem xét để đưa ra quyết định 
cấp hay không cấp Giấy phép chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan của cơ quan quản 
lý; do đó việc xin Giấy phép ít có ý nghĩa trên thực tế mà ngược lại gây thêm 
phiền hà cho doanh nghiệp quảng cáo, kết quả là dẫn tới những hiện tượng tiêu 
cực. Thêm vào đó, với quan điểm xem xét hoạt động quảng cáo là một hành vi 
 83 
thương mại thì hoạt động này sẽ tự động bị điều chỉnh bởi các lực lượng trên thị 
trường. Quảng cáo là nhằm mục tiêu lợi nhuận. Nếu một quảng cáo không được 
người tiêu dùng chấp nhận, thậm chí có phản cảm thì ngay lập tức, không một 
nhà quảng cáo nào lại tiếp tục đăng quảng cáo đó trên các phương tiện thông tin 
đại chúng. Hay nếu các tờ báo, tạp chí, các kênh truyền thanh, truyền hình phát 
quá nhiều quảng cáo xen vào giữa các nội dung của các loại phương tiện truyền 
thông đó thì người đọc, người nghe và người xem cũng sẽ có phản ứng. Đơn 
giản nhất là họ sẽ bỏ qua các mục quảng cáo được đăng, được phát; thậm chí họ 
có thể không tiếp tục đọc tờ báo, tạp chí, không nghe hay xem chương trình phát 
thanh, truyền hình đó nữa. Vì thế, các nhà quảng cáo và những người phát hành 
quảng cáo cũng không thể muốn tùy tiện đăng bao nhiêu quảng cáo và với nội 
dung, hình thức như thế nào cũng được. Vì vậy, với loại hình quảng cáo này, 
kiến nghị nên bỏ Giấy xin phép thực hiện quảng cáo. 
Tuy nhiên, bỏ Giấy phép xin thực hiện quảng cáo không có nghĩa là chỉ để 
cho thị trường quyết định hoàn toàn, mà vẫn cần sự kiểm soát của Nhà nước. 
Nghiên cứu việc quản lý quảng cáo ở một số nước cho thấy, ở các nước phát 
triển thường thành lập một cơ quan chuyên trách để quản lý hoạt động quảng 
cáo, ví dụ như ở Singapore là Ủy ban Tư vấn xét xử về các chuẩn mực quảng cáo 
(ASAS). Tổ chức này bao gồm các thành viên từ các ban của các Chính phủ và 
đại diện của Hội Bảo vệ người tiêu dùng, đại diện các công ty quảng cáo. Ủy ban 
có chức năng giám sát hoạt động quảng cáo, nó có quyền yêu cầu một nhà quảng 
cáo sửa đổi hay hủy bỏ bất cứ quảng cáo nào theo quan điểm của ASAS là trái 
với Luật Quảng cáo của Singapore; ngoài ra nó còn thực hiện chức năng tư vấn 
sản phẩm quảng cáo cho các doanh nghiệp [15]. Về điểm này, chúng ta có thể 
học tập mô hình của các nước phát triển và thành lập một cơ quan chuyên trách 
quản lý quảng cáo trực thuộc Bộ Thương mại, và cơ quan này phải được trao đủ 
 84 
quyền để có thể thực hiện chức năng của mình. Bên cạnh đó, cần chú trọng công 
tác thẩm định các sản phẩm quảng cáo thay vì tiến hành các đợt kiểm tra và xử 
phạt rầm rộ nhưng không thường xuyên, chỉ có hiệu quả tức thì mà không có 
hiệu quả lâu dài. 
Thứ hai, đối với quảng cáo trên các phương tiện ngoài trời như bảng, 
biển, panô, băng rôn, màn hình đặt nơi công cộng, vật phát quang, vật thể trên 
không, dưới nước, phương tiện giao thông, vật thể di động khác. Do quảng cáo 
ngoài trời không chỉ có ảnh hưởng về mặt văn hóa, tâm lý mà còn tác động đến 
mỹ quan môi trường và trật tự an toàn xã hội, thêm vào đó do các doanh nghiệp 
và người dân chưa có ý thức chấp hành pháp luật cao nên kiến nghị chưa nên bãi 
bỏ Giấy phép xin thực hiện quảng cáo đối với loại hình này. Tuy nhiên cần quy 
định thủ tục và trình tự cấp Giấy phép như thế nào để tránh phiền hà cho doanh 
nghiệp mà vẫn đảm bảo quản lý có hiệu quả. Nghiên cứu pháp luật các nước 
cũng thấy rằng ở những nước phát triển như Pháp, Mỹ, khi người dân muốn lắp 
đặt các biển hiệu quảng cáo vẫn phải khai báo với thị trưởng hoặc tỉnh trưởng. 
Ví dụ theo quy định của Pháp, khi muốn lắp đặt, thay thế hay thay đổi một thiết 
bị hay một phương tiện đỡ quảng cáo thì phải khai báo trước những nội dung 
như: loại thiết bị hay phương tiện đỡ, khoảng cách lắp đặt so với các giới hạn 
phân chia và các cửa của các ngôi nhà nằm ở đất bên cạnh, bản vẽ thiết bị hay 
phương tiện có ghi kích thước 3 chiều. Ngoài ra nếu đấy là đất tư thì còn phải 
khai báo vị trí và diện tích mảnh đất cũng như một sơ đồ hiện trạng khu đất [15]. 
Đối với Việt Nam, khi một doanh nghiệp muốn thực hiện quảng cáo ngoài trời, 
nên áp dụng hình thức khai báo thay vì cơ chế xin – cho như hiện nay. Khi khai 
báo, doanh nghiệp phải cung cấp đủ những bằng chứng để chứng minh việc 
quảng cáo ngoài trời của mình không vi phạm các quy định của pháp luật về 
quảng cáo ngoài trời. 
 85 
1.1.3. Phát huy vai trò của Hiệp hội Quảng cáo 
Bên cạnh sự quản lý của các cơ quan Nhà nước, hoạt động quảng cáo còn 
chịu sự giám sát của Hiệp hội quảng cáo Việt Nam. Hiệp hội quảng cáo Việt 
Nam là một tổ chức xã hội - nghề nghiệp, bao gồm các doanh nghiệp kinh doanh 
dịch vụ quảng cáo có đăng ký kinh doanh hợp lệ, các doanh nghiệp chủ quảng 
cáo và các tổ chức chủ phương tiện quảng cáo, được thành lập nhằm bảo vệ các 
nhà sản xuất, kinh doanh chân chính, chống lại các hành vi quảng cáo không 
trung thực vi phạm pháp luật. 
Mục tiêu đặt ra khi thành lập Hiệp hội là bảo vệ quyền lợi cho các hội 
viên, là cầu nối giữa Chính phủ, các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp [40]. 
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động của mình, Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam 
chưa thực sự phát huy được vai trò của mình, tiếng nói của Hiệp hội vẫn còn rất 
hạn chế ngay cả đối với các thành viên thuộc Hiệp hội. Có nhiều vụ tranh chấp 
đã xảy ra giữa các hội viên nhưng không thể được giải quyết thông qua Hiệp hội 
bằng con đường hòa giải. Đơn cử vụ tranh chấp vị trí quảng cáo ngoài trời giữa 
công ty quảng cáo Mắt Vàng với 17 công ty khác cũng là hội viên của Hiệp hội 
Quảng cáo Việt Nam tại khu vực đối diện với nhà ga T1, Nội Bài - Hà Nội. Vụ 
việc kéo dài hơn một năm, và mặc dù Hiệp hội đã nhiều lần đừng ra làm trung 
gian hòa giải nhưng vẫn không được giải quyết [29]. 
Việc ra đời Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam là cần thiết và vai trò của Hiệp 
hội là không thể phủ nhận được. Tuy nhiên, để có thể phát huy được chức năng 
của mình, trước hết Hiệp hội cần cho hội viên của mình thấy được những quyền 
lợi to lớn khi tham gia vào tổ chức. Muốn vậy, Hiệp hội cần tích cực hơn nữa 
trong vai trò là cầu nối trung gian giữa Chính phủ và doanh nghiệp, ví dụ như 
tham gia tư vấn trong việc soạn thảo văn bản pháp luật mới về quảng cáo, tư vấn 
quy hoạch quảng cáo ngoài trời, giúp đỡ cơ quan Nhà nước trong việc quản lý 
 86 
hoạt động quảng cáo… Ngoài ra, Hiệp hội cần chấn chỉnh lại nội quy hoạt động 
của mình, đặc biệt là xây dựng một cơ chế hòa giải trong các vụ tranh chấp liên 
quan đến thành viên của Hiệp hội, đảm bảo các chế tài mà Hiệp hội đưa ra khi 
xét xử hòa giải giữa các hội viên có tính cưỡng chế cao. 
1.2. Giải pháp hoàn thiện một số nội dung pháp lý cụ thể 
1.2.1. Về khái niệm quảng cáo 
 Như đã phân tích, hiện nay đang tồn tại hai khái niệm về quảng cáo trong 
hai văn bản pháp luật có tính pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động này là Pháp 
lệnh Quảng cáo 2001 và Luật Thương mại 2005. Việc hoàn thiện pháp luật về 
quảng cáo của Việt Nam sẽ theo hướng là thống nhất các quy định hiện hành về 
quảng cáo, vì thế cũng cần thống nhất và làm rõ khái niệm về quảng cáo. Do 
không làm rõ tính chất thương mại của hoạt động quảng cáo, chấp nhận sự tồn 
tại của hai khái niệm “quảng cáo” (theo Pháp lệnh Quảng cáo) và “quảng cáo 
thương mại” (theo Luật Thương mại) nên chúng ta chưa thể có giải pháp triệt để 
nhằm hoàn thiện pháp luật về quảng cáo, bởi vì đằng sau nó là sự tồn tại của hai 
nhóm văn bản luật khác nhau, hai hệ thống cơ quan quản lý khác nhau và rất 
nhiều phiền toái cho các tổ chức, cá nhân hoạt động quảng cáo. 
 Trước hết, cần xác định bản chất của hoạt động quảng cáo và nội hàm của 
khái niệm quảng cáo, trên cơ sở đó xác định phạm vi điều chỉnh của pháp luật về 
quảng cáo. Trên thực tế, sau khi Pháp lệnh quảng cáo thi hành được một năm, 
qua công tác kiểm tra ở nhiều cơ quan đài báo cho thấy, một trong những vấn đề 
nổi cộm lên đó là tình trạng một số cơ quan báo chí do đăng nhiều thông tin xã 
hội (theo Pháp lệnh Quảng cáo đó là quảng cáo không có mục đích sinh lời) như 
Báo Tuổi trẻ, Báo Phụ nữ Sài Gòn, Báo Sài Gòn tiếp thị… nên số phụ trang 
quảng cáo nhiều hơn số trang báo chính. Như vậy, nếu tuân theo Pháp lệnh 
Quảng cáo, nghĩa là phải cắt giảm bớt phần thông tin quảng cáo đó đi thì vô hình 
 87 
chung đã làm hạn chế một kênh thông tin văn hóa - xã hội tạo cơ hội việc làm, 
nâng cao dân trí cho cộng đồng... Vì thế, họ kiến nghị với Bộ Văn hoá - Thông 
tin tách phần phụ trang thành hai loại: thông tin xã hội (không coi là quảng cáo) 
và phụ trang quảng cáo [18]. Vì vậy, theo ý kiến của nhiều chuyên gia, việc pháp 
luật về quảng cáo điều chỉnh cả hoạt động quảng cáo phi thương mại là quá rộng, 
không có tính khả thi và không hợp lý. 
Từ những phân tích trên, kiến nghị pháp luật mới về quảng cáo cần được 
sửa đổi, bổ sung theo hướng như sau: Thứ nhất, những thông tin tuyên truyền, 
vận động nhằm mục tiêu chính trị, xã hội, nhân đạo, rao vặt và các thông tin 
tương tự không cần phải điều chỉnh bởi pháp luật quảng cáo mà chỉ cần không vi 
phạm các quy định chung của pháp luật, ví dụ như Luật Báo chí… Thứ hai, 
không nên đưa ra khái niệm “quảng cáo thương mại”. Thực tế tìm hiểu pháp luật 
quảng cáo của nhiều nước trên thế giới cho thấy trong các quy định của họ 
không tồn tại khái niệm “quảng cáo thương mại” vì đã thừa nhận khái niệm này 
tức là thừa nhận sự tồn tại của khái niệm “quảng cáo phi thương mại”. Dù có thể 
có một số trường hợp ngoại lệ, nhưng xét đến cùng thì bản chất của quảng cáo là 
hành vi thương mại, và chỉ những hoạt động giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ của 
thương nhân nhằm mục tiêu lợi nhuận thì mới được coi là quảng cáo. Thứ ba, 
nên nêu rõ phạm vi điều chỉnh của pháp luật về quảng cáo cùng với khái niệm 
quảng cáo. Có một số hành vi cũng là giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ nhằm mục 
đích sinh lời nhưng không cần thiết phải đưa vào phạm vi điều chỉnh của pháp 
luật về quảng cáo và phải do cơ quan chuyên trách về quảng cáo quản lý, giám 
sát, ví dụ như hiện tượng một số cơ sở sản xuất kinh doanh vẫn thường vẽ, dán 
các thông báo trên tường, cột điện, cột đèn giao thông… Hành vi này nên để cơ 
quan phụ trách về trật tự an toàn xã hội giám sát và xử lý. 
1.2.2. Về nội dung và hình thức quảng cáo 
 88 
 Hiện nay, các quy định về nội dung và hình thức quảng cáo trong các văn 
bản pháp luật ở nước ta còn chung chung, thiếu tính cụ thể. Vì thế rất khó trong 
việc áp dụng vào thực tế. Do đó kiến nghị cần sửa đổi, bổ sung pháp luật về 
quảng cáo theo hướng như sau: 
 Thứ nhất, đối với những sản phẩm cần hạn chế quảng cáo, những sản 
phẩm có ảnh hưởng tới sức khỏe, đặc biệt là với trẻ em như các loại thuốc, mỹ 
phẩm, sản phẩm dinh dưỡng… cần quy định cụ thể hơn nội dung quảng cáo, 
tránh tình trạng các sản phẩm này bị quảng cáo tràn lan hay quảng cáo tối ưu hóa 
tính năng của sản phẩm, gây nhầm lẫn cho người sử dụng. Mới đây nhất, Chính 
phủ đã ban hành Nghị định 21/2006/NĐ-CP về kinh doanh và sử dụng các sản 
phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ, tiếp theo đó các Bộ Y tế, Thương mại, Văn 
hóa – Thông tin và UB Dân số – Gia đình & Trẻ em đã ban hành Thông tư 
10/2006 liên bộ hướng dẫn thi hành Nghị định trên, trong đó có đề cập đến nội 
dung quảng cáo cho sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ. Đây là một động 
thái tích cực của các cơ quan chức năng cho thấy vấn đề dinh dưỡng của trẻ nhỏ 
đã được quan tâm hơn. Cũng cần phải có những quy định tương tự như thế với 
những sản phẩm nhạy cảm về quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu 
dùng. 
Thứ hai, đối với những quy định mang tính trừu tượng, cần phải đưa ra 
một định nghĩa nhằm làm rõ các khái niệm đó để pháp luật có thể đi vào đời 
sống chứ không phải là những quy định chung chung, hình thức. Cụ thể, đối với 
những quy định về hình thức của quảng cáo như phải có “tính thẩm mỹ”, phải có 
“dấu hiệu phân biệt những thông tin quảng cáo với những thông tin không phải 
là quảng cáo”, cần bổ sung quy định để cụ thể hóa. Có như thế mới tránh được 
việc áp dụng luật tùy tiện, khác nhau giữa các doanh nghiệp khi thực hiện hoạt 
động quảng cáo. 
 89 
1.2.3. Về phương tiện quảng cáo 
 Về phương tiện quảng cáo cần bổ sung, sửa đổi một số quy định cụ thể 
sau: 
 Đối với quảng cáo trên các phương tiện phát thanh, truyền hình. Do thực 
tiễn ở Việt Nam, ngành phát thanh, truyền hình vẫn mang tính độc quyền, người 
xem, người nghe không có nhiều sự lựa chọn các kênh, các chương trình phát 
thanh, truyền hình nên vẫn cần có các quy định về thời lượng quảng cáo trên loại 
phương tiện này để đảm bảo quyền lợi cho người nghe, người xem đài. Tuy 
nhiên, cần quy định mức giới hạn như thế nào cho hợp lý. Hiện nay các văn bản 
pháp luật hiện hành mới chỉ quy định không được quảng cáo quá 5% thời lượng 
phát sóng của chương trình, trừ chương trình chuyên quảng cáo. Mặc dù vậy, 
như đã trình bày ở Mục II.4.1 Chương II, việc quy định như vậy chưa thật hợp 
lý. Vì với mỗi chương trình phát sóng có thời gian phát sóng khác nhau, nội 
dung khác nhau, mục đích khác nhau thì thời lượng quảng cáo xen vào cũng 
khác nhau. Vì thế không nên quy định chung như thế cho mọi chương trình mà 
cần quy định cụ thể hơn đối với từng loại chương trình. Chẳng hạn, với các 
chương trình vui chơi giải trí trên đài truyền hình, có thể cho phép một thời 
lượng phát xen quảng cáo dài hơn các chương trình khác. 
 Một điểm nữa là, tại điểm 2d Mục II Thông tư 43/2003/TT-BVHTT có 
quy định: chương trình chuyên quảng cáo trên đài phát thanh, đài truyền hình đã 
được Bộ Văn hoá - Thông tin cho phép phải thông báo rõ lượng thời gian cụ thể 
của chương trình quảng cáo đó cho người xem, người nghe biết ngay từ đầu 
chương trình. Quy định này không có tính khả thi. Về lý luận, bản chất của 
quảng cáo là thông tin được đưa đến với công chúng nhằm mục tiêu thúc đẩy cơ 
hội sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ của người quảng cáo. Công chúng là 
người tiếp nhận những thông tin này. Thông tin càng thu hút được sự chú ý của 
 90 
công chúng bao nhiêu thì cơ hội đạt mục đích càng cao. Về thực tiễn, cho đến 
nay, qua theo dõi trên các chương trình này, chẳng thấy một cơ quan thông tin 
đại chúng nào thực hiện quy định này cả. Một điều đơn giản có thể hiểu đó là 
không phải ai cũng có nhu cầu xem hay nghe quảng cáo nếu không nói là đôi khi 
quảng cáo “buộc” người ta phải xem, phải nghe. Cho nên, nếu có thông báo của 
người phát hành quảng cáo về thời gian sẽ dành cho quảng cáo, dù đó là quảng 
cáo vì mục tiêu lợi nhuận hay không thì chắc chắn sẽ khó có thể đạt được mục 
đích của người quảng cáo. Vì thế, nên chăng chúng ta cần bãi bỏ quy định không 
phù hợp này đi. 
 Đối với quảng cáo trên báo in. Ở Việt Nam, quảng cáo trên truyền hình là 
phương tiện hiệu quả nhất để tiếp cận với đại đa số công chúng. Tuy nhiên, do 
chi phí quảng cáo trên loại phương tiện này khá cao nên tới 83% số lượng quảng 
cáo trên truyền hình là của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngược 
lại, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước thường lựa chọn phương thức 
quảng cáo trên báo in. Vì thế, việc giới hạn quảng cáo trên báo in không được 
quá 10% tổng diện tích báo đã làm hạn chế hoạt động quảng cáo của các doanh 
nghiệp vừa và nhỏ trong nước, tức là hạn chế hoạt động cạnh tranh của các 
doanh nghiệp này. Nếu quảng cáo trong các phụ trang, phụ bản chuyên quảng 
cáo thì lại không mấy hiệu quả. Bên cạnh đó, hiện nay số lượng ấn phẩm báo chí 
ở Việt Nam tương đối phong phú và đa dạng, tạo điều kiện cho người đọc có 
nhiều sự lựa chọn. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia trong ngành quảng cáo, nên 
để cho người đọc – khách hàng tự quyết định diện tích quảng cáo trên báo thế 
nào là hợp lý. Vì vậy, kiến nghị nên bỏ quyết định giới hạn 10% về diện tích đối 
quảng cáo trên các loại báo in. 
Về quảng cáo trên các phương tiện điện tử. Hiện nay Pháp lệnh Quảng 
cáo và các văn bản hướng dẫn mới chỉ đề cập đến quảng cáo trên mạng thông tin 
 91 
máy tính, tuy nhiên những quy định này còn rất chung chung, khó áp dụng trong 
thực tiễn. Do sự phức tạp trong hoạt động quảng cáo trên mạng khiến các nhà 
quản lý văn hoá - thông tin không khỏi gặp khó khăn. Với đội ngũ cán bộ quản 
lý quảng cáo còn rất mỏng, trình độ chuyên môn về quảng cáo, về mạng thông 
tin máy tính như hiện nay thì khó có thể làm tròn nhiệm vụ được giao. Tình trạng 
luật quy định rồi nhưng không được thực hiện trên thực tế đã trở thành một vấn 
đề đáng phải xem xét lại. Đã đến lúc, các nhà quản lý hoạt động quảng cáo cần 
có biện pháp quản lý mới, thực sự hiệu quả. Với hình thức quảng cáo này, các cơ 
quan quản lý phải phối hợp với cơ quan có chuyên môn về khoa học - công nghệ 
thì mới đảm bảo công tác quản lý phát huy được đúng vai trò, chức năng của 
mình, chứ không chỉ là đặt ra rồi để đấy. 
Ngoài ra, hình thức quảng cáo trên các phương tiện điện tử vô cùng phong 
phú và đa dạng. Với tính chất phức tạp của loại hình quảng cáo này thì những 
quy định chung chung sẽ không thể áp dụng được. Vì thế, cần phải có các quy 
định riêng cho từng hình thức quảng cáo trên các phương tiện điện tử, không thể 
có quy định áp dụng chung cho mọi hình thức. Theo dự kiến, dự thảo Thông tư 
mới nhất của Bộ Thương mại hướng dẫn về quảng cáo thương mại trên các 
phương tiện điện tử sẽ được sửa thành Thông tư về quảng cáo thương mại bằng 
thư điện tử, và Thông tư này sẽ chỉ điều chỉnh hoạt động cung cấp dịch vụ thư 
điện tử cũng như gửi thư điện tử quảng cáo thương mại [48]. Tiếp đến, các cơ 
quan quản lý cũng cần nhanh chóng soạn thảo và ban hành các văn bản mới quy 
định về các hình thức khác của quảng cáo trên phương tiện điện tử. Đặc biệt 
trong đó cần quy định rõ trách nhiệm của các nhà cung cấp các dịch vụ Internet 
và dịch vụ thông tin di động, vì những người này đóng vai trò rất quan trọng 
trong việc đưa thông tin quảng cáo đến với người sử dụng dịch vụ Internet và 
thông tin di động. 
 92 
Đối với quảng cáo ngoài trời. Hiện nay, phương tiện quảng cáo ngoài trời 
là nơi diễn ra nhiều sai phạm nhất về hoạt động quảng cáo, do vậy, chúng ta cần 
có những quy định cụ thể. Để khắc phục tình trạng phức tạp đang diễn ra, giải 
pháp đưa ra là các cơ quan quản lý ở địa phương cần lập ra một chiến lược định 
hướng phát triển quảng cáo trong từng giai đoạn cũng như quy hoạch quảng cáo 
ngoài trời, rồi từ đó công bố bản đồ quảng cáo làm cơ sở cho các doanh nghiệp 
theo dõi, triển khai hoạt động. Ở một số con đường, khu phố, nếu vì mục đích 
bảo tồn di tích lịch sử, bảo vệ môi trường hay an toàn giao thông… thì có thể 
không cho phép lắp đặt một số loại phương tiện quảng cáo ngoài trời nhất định 
nào đó, còn lại về nguyên tắc là không cấm loại hình này. Việc làm này đã được 
một số địa phương thực hiện nhưng với tính nhỏ lẻ nên chưa tạo được hiệu quả 
cao. Việc lập và công bố bản đồ quảng cáo trong thời gian tới cần được thống 
nhất, nhân rộng trong phạm vi toàn quốc. Có như vậy, diện mạo của các đô thị 
mới được cải thiện và hoạt động quảng cáo ngoài trời sẽ phát triển trong sự quản 
lý của pháp luật. 
1.2.4. Về những hành vi bị nghiêm cấm trong quảng cáo và biện pháp xử lý 
 Đối với những hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động quảng cáo cần bổ 
sung một số quy định sau đây: 
 Thứ nhất, cần quy định cụ thể về hành vi quảng cáo so sánh trực tiếp. 
Trong các nội dung của văn bản pháp luật hiện hành mới chỉ quy định chung là 
cấm doanh nghiệp so sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, 
dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác. Thực tế cho thấy rằng, để đạt được 
hiệu quả trong quảng cáo và thu hút sự chú ý của khách hàng, các doanh nghiệp 
khi quảng cáo vẫn thường sử dụng thủ pháp so sánh, miễn là sự so sánh ấy 
không trực tiếp làm giảm uy tín hay gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh. Luật 
pháp của nhiều nước trên thế giới cũng không cấm quảng cáo so sánh nếu thỏa 
mãn một số điều kiện nhất định. Vì thế, pháp luật về quảng cáo mới cần đưa ra 
 93 
những quy định cụ thể hơn để xác định thế nào là so sánh trực tiếp, từ đó mới có 
đủ căn cứ pháp lý để quản lý, giám sát và xử lý hành vi này. 
Thứ hai, đối với các biện pháp xử lý vi phạm trong hoạt động quảng cáo 
thì hiện nay, chế tài xử lý bao gồm trách nhiệm hình sự, được quy định trong Bộ 
luật Hình sự với tội danh quảng cáo gian dối (Điều 168 Bộ luật Hình sự) và trách 
nhiệm hành chính được quy định trong Nghị định mới nhất số 56/2006/NĐ-CP 
ngày 06/06/2006 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực 
văn hoá - thông tin, trong đó có các quy định xử phạt vi phạm hành chính trong 
lĩnh vực quảng cáo. Có thể nhận thấy pháp luật còn thiếu những chế tài cụ thể 
đối với những vi phạm pháp luật quảng cáo thương mại. Hơn nữa, mức xử phạt 
còn nhẹ. Theo Nghị định số 56/2006/NĐ-CP, mức phạt tiền với các vi phạm phổ 
biến thường không cao, dao động từ 200.000 đồng đến 20 triệu đồng. Đối với 
hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ quảng cáo 
ở Việt Nam mà chưa được cho phép; văn phòng đại diện, chi nhánh của tổ chức, 
cá nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ quảng cáo ở Việt Nam đã hết thời hạn 
hoạt động ghi trong giấy phép nhưng vẫn tiếp tục hoạt động thì mức phạt có thể 
dao động từ 20 - 30 triệu đồng. Đối với hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh 
không lành mạnh, theo Nghị định số 120/2005/NĐ-CP quy định về việc xử lý 
đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định 
pháp luật về cạnh tranh, mức phạt có thể từ 5 – 70 triệu đồng. Đây được coi là 
“hạt muối bỏ bể”, không thấm vào đâu so với khoản chi phí vài trăm triệu đồng 
mà doanh nghiệp bỏ ra xây dựng một bộ phim quảng cáo. Đôi khi, để thực hiện ý 
đồ quảng cáo của mình, các doanh nghiệp dù biết hành vi đó là vi phạm pháp 
luật nhưng vì lợi nhuận hay mục đích nào đó vẫn cố tình thực hiện và sẵn sàng 
chịu nộp phạt. Ý kiến đề xuất mà tác giả muốn đưa ra là nên chăng cần phải nâng 
mức phạt tiền trong xử phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp luật 
 94 
quảng cáo thương mại, bởi khi thấy lợi ích kinh tế của mình có thể bị đe doạ, ý 
thức chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp sẽ phát huy hiệu quả cao hơn. 
Ngoài ra, đối với chế tài bồi thường thiệt hại được quy định trong Bộ luật Hình 
sự, phải cụ thể hóa nội dung “gây hậu quả nghiêm trọng” để các nhà hành pháp 
có căn cứ xác định hành vi vi phạm. 
2. Nhóm giải pháp vi mô 
 Pháp luật về quảng cáo là do Nhà nước đặt ra để điều chỉnh và đưa hoạt 
động này đi theo đúng quỹ đạo mà Nhà nước mong muốn. Tuy nhiên, luật pháp 
không phải được đặt ra một cách tùy tiện mà phải xuất phát từ thực tiễn. Bên 
cạnh đó, người thực thi luật pháp và chịu tác động trực tiếp của nó chính là các 
tổ chức, cá nhân hoạt động quảng cáo. Vì thế, để hoàn thiện pháp luật về quảng 
cáo thì không thể không xét đến vai trò tích cực của các chủ thể tham gia hoạt 
động quảng cáo. Trong phần này sẽ chỉ tập trung vào nhóm giải pháp vi mô đối 
với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ quảng cáo ở Việt Nam. 
2.1. Nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật 
 Có thể thấy, thời gian qua, những vi phạm trong lĩnh vực quảng cáo là khá 
nhiều. Theo Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Thương mại, vì quản lý chưa chặt nên 
những quảng cáo phản cảm xuất hiện đầy rẫy. Đặc biệt, những vi phạm trong 
hoạt động quảng cáo ngoài trời rất phổ biến. Những hiện tượng như quảng cáo 
không xin giấy phép, hết thời hạn trong giấy phép nhưng không dỡ bỏ biển 
quảng cáo, quảng cáo sai về vị trí, diện tích… xảy ra rất thường xuyên. Nhưng 
nguy hiểm hơn là những tấm panô dựng không cẩn thận trên nóc những tòa nhà 
cao tầng vào mùa mưa bão luôn là hiểm họa đe dọa những người dân ở xung 
quanh. Đây là một thói quen rất không tốt của các doanh nghiệp quảng cáo. Thực 
trạng lộn xộn của ngành quảng cáo thời gian qua khiến cho cơ quan quản lý phải 
thắt chặt hơn hoạt động kiểm tra, xử lý vi phạm, gây tốn kém, phiền hà cho cả 
 95 
phía Nhà nước lẫn doanh nghiệp. Thêm vào đó, ngành quảng cáo vốn chưa được 
thực sự nhìn nhận là một ngành thương mại dịch vụ sẽ phải “chịu” thêm những ý 
kiến không thiện cảm từ phía công chúng. 
 Vì vậy, về phía doanh nghiệp hoạt động quảng cáo, cần phải tuân thủ 
những quy định của pháp luật. Trong một số trường hợp và điều kiện, khi luật 
chưa điều chỉnh hết những vấn đề thực tiễn phát sinh, doanh nghiệp có thể được 
phép làm những điều mà luật không cấm. Nhưng nguyên tắc chung là không 
được vi phạm các quy định của pháp luật. Đặc biệt, khi Việt Nam đang ngày 
càng hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu thì các doanh nghiệp nội địa không 
chỉ phải nghiêm túc thực hiện các quy định trong nước mà còn phải tuân thủ các 
điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Chúng ta sẽ phải “chơi” theo một luật 
chơi chung của nền kinh tế toàn cầu. Việc nâng cao ý thức pháp luật cho doanh 
nghiệp là một trong những điều kiện tiên quyết để nâng cao năng lực cạnh tranh 
cho doanh nghiệp và tránh những rắc rối về pháp lý có thể gặp phải khi tham gia 
nền kinh tế toàn cầu. Đặc biệt, vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ là một trong những 
vấn đề doanh nghiệp quảng cáo của Việt Nam cần đặc biệt quan tâm khi gia 
nhập “sân chơi” toàn cầu. 
2.2. Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực chất lƣợng cao 
 Nguồn nhân lực luôn là hạt nhân của sự phát triển đối với bất kỳ một đất 
nước, một lĩnh vực, ngành nghề cũng như một doanh nghiệp. Để có thể tồn tại, 
phát triển và cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp 
quảng cáo Việt Nam cần phải đầu tư cho nguồn nhân lực của mình. Đồng thời, 
đầu tư cho nguồn nhân lực của ngành quảng cáo cũng là góp phần hạn chế tình 
trạng lộn xộn hiện nay trong hoạt động quảng cáo. Theo ý kiến của nhiều chuyên 
gia, cái khó lớn nhất hiện nay đối với doanh nghiệp quảng cáo, cũng là nguyên 
 96 
nhân gây ra tình trạng lộn xộn trong ngành, chính là nhân lực. Hiện nay, ngành 
quảng cáo Việt Nam thiếu những người được đào tạo bài bản về quảng cáo. 
Thậm chí ngay cả những người sáng lập và đứng đầu của các công ty quảng cáo 
ở Việt Nam hiện nay cũng có rất nhiều người chưa qua một trường lớp đào tạo 
chính quy nào. Cả nước hiện mới chỉ có một lớp chuyên đào tạo về quảng cáo 
của Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội. Vì vừa làm, vừa tìm hiểu, tích lũy 
kinh nghiệm nên các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam tất nhiên sẽ có những 
lúng túng. 
 Khi mà hệ thống đào tạo của Việt Nam còn chưa hoàn thiện thì các doanh 
nghiệp phải tự tìm cách tháo gỡ cho mình. Các công ty quảng cáo cần liên kết 
với các trường đại học, tìm kiếm nguồn nhân lực về marketing hay công nghiệp 
mỹ thuật tại các trường ngay khi họ còn đang học tập để định hướng phát triển 
sau này. Đối với những sinh viên có triển vọng, có thể trao học bổng hay áp 
dụng chính sách thực tập tại công ty có trả lương với điều kiện họ phải làm việc 
cho doanh nghiệp trong một thời gian nhất định sau khi ra trường. Chính sách 
này tạo điều kiện cho sinh viên có cơ hội học hỏi kinh nghiệm về quảng cáo 
ngay khi đang ngồi trên ghế nhà trường, đồng thời giúp doanh nghiệp tìm kiếm 
được nguồn nhân lực cho mình, rút ngắn thời gian đào tạo sau này. Ngoài ra, các 
doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam cũng nên có tầm nhìn dài hạn hơn về đào tạo 
nguồn nhân lực chiến lược cho mình. Có thể tiến hành bằng cách cử đi học ở 
nước ngoài với chi phí do công ty chịu kèm một số điều kiện nhất định đặt ra đối 
với người lao động được chọn. 
2.3. Tăng cƣờng hợp tác quốc tế 
Một thực tế tồn tại đối với các doanh nghiệp Việt Nam là thiếu kinh 
nghiệm trong lĩnh vực marketing nói chung và hoạt động quảng cáo nói riêng. 
 97 
Trước đây các doanh nghiệp ít chú trọng đến hoạt động này vì chưa hiểu được 
tầm quan trọng của nó. Khi các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị 
trường Việt Nam với những chiến dịch quảng cáo rầm rộ và thu hút được sự chú 
ý của đông đảo khách hàng thì lúc đó các doanh nghiệp của chúng ta mới hình 
thành ý niệm về việc đầu tư cho hoạt động marketing và quảng cáo. Các doanh 
nghiệp của chúng ta đã hiểu rằng quảng cáo chính là một công cụ cạnh tranh hữu 
hiệu, tuy nhiên, do kinh nghiệm chưa có nên thực tế triển khai nhiều khi đi 
ngược lại với mục đích. Không ít quảng cáo do các doanh nghiệp Việt Nam thiết 
kế và thực hiện đã phản tác dụng, gây phản cảm cho người xem do thiếu tính 
chuyên nghiệp và sự sáng tạo, thậm chí thiếu tính nghệ thuật. Tuy nhiên, sắp tới 
nước ta sẽ gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, đây là thách thức 
nhưng cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ quảng cáo trong 
nước. Các công ty quảng cáo cần tăng cường hợp tác với các công ty nước ngoài 
trong tiến trình hội nhập, do đó sẽ học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm từ đối tác. 
Cùng triển khai các hoạt động quảng cáo với các tập đoàn lớn trên thế giới 
không chỉ giúp các doanh nghiệp trong nước có cái nhìn chuyên nghiệp, sáng tạo 
hơn trong việc thiết kế và triển khai ý tưởng quảng cáo mà còn cho các doanh 
nghiệp những bài học quý giá về việc tuân thủ những chuẩn mực, tôn trọng 
những giới hạn và các nguyên tắc quảng cáo sao cho phù hợp với luật pháp trong 
nước, các điều ước quốc tế cũng như phong tục tập quán của từng quốc gia và 
vùng lãnh thổ. Các doanh nghiệp Việt Nam quy mô còn bé, tiềm lực tài chính 
không mạnh, kinh nghiệm hạn chế nên chưa đủ sức chiếm lĩnh chính thị trường 
trong nước, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có vốn đầu tư 
nước ngoài nên càng cần tăng cường hợp tác để dần dần thâm nhập vào phân 
đoạn thị trường này. Đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam đào tạo 
đội ngũ nhân lực cho hoạt động quảng cáo. 
 98 
Hiện nay, pháp luật Việt Nam mới cho phép hai hình thức đầu tư nước 
ngoài trong lĩnh vực quảng cáo là hợp đồng hợp tác kinh doanh và liên doanh. 
Theo ý kiến người viết, các công ty quảng cáo của Việt Nam nên hợp tác theo 
hình thức liên doanh vì với hình thức này, nhà đầu tư nước ngoài tham gia trực 
tiếp vào hoạt động quản lý doanh nghiệp nên ta mới có điều kiện học tập kinh 
nghiệm cũng như công nghệ trong lĩnh vực quảng cáo. 
2.4. Tích cực sử dụng các yếu tố truyền thống trong quảng cáo 
Các hoạt động quảng cáo sẽ vô tác dụng nếu như nó không gây được sự 
chú ý của khách hàng mục tiêu hoặc gây phản cảm. Để các hoạt động quảng cáo 
đạt được mục đích thì trước hết các chương trình quảng cáo phải hấp dẫn, độc 
đáo và đặc biệt là không trái với những quan niệm thông thường của xã hội, 
không đi ngược lại văn hoá truyền thống của dân tộc. Sở dĩ quảng cáo của các 
tập đoàn lớn như Unilever, Coca Cola… gây được sự chú ý và giành được thiện 
cảm của rất nhiều người dân Việt Nam là vì họ biết cách đưa những hình ảnh 
thân thuộc gần gũi, những tình cảm truyền thống của người Việt vào những 
chương trình và chiến dịch quảng cáo của mình. Nói cách khác, họ đã biết cách 
địa phương hoá những chương trình quảng cáo giành cho những sản phẩm mang 
tính quốc tế. Vì vậy, không có lý do gì để các doanh nghiệp Việt Nam không sử 
dụng những yếu tố truyền thống vào trong hoạt động quảng cáo vì các sản phẩm 
của doanh nghiệp nội địa chủ yếu hướng tới người tiêu dùng Việt Nam, trên cơ 
sở nhu cầu của chính người Việt, đồng thời các doanh nghiệp hiểu về văn hoá 
cũng như tập quán của người Việt hơn bất kỳ một doanh nghiệp nước ngoài nào. 
Các doanh nghiệp cần chú ý đến các yếu tố truyền thống như thói quen, sở thích, 
quan niệm… để thiết kế các chương trình phù hợp, đồng thời có cách để đưa các 
chương trình ấy đến khán giả một cách hữu hiệu nhất. Muốn vậy doanh nghiệp 
 99 
cần kết hợp với các yếu tố khác như thời gian tiến hành quảng cáo, hình thức 
quảng cáo... Những hình ảnh bắt mắt có thể là cách quảng cáo thích hợp ở các 
quốc gia phương Tây hay châu Mỹ, nhưng những hình ảnh ấm cúng về gia đình, 
những tình cảm yêu thương giúp đỡ cộng đồng lại là những hình ảnh khiến cho 
người Việt cảm động, chú ý. Điều đó để nhắc nhở các doanh nghiệp phải cân 
nhắc một cách cẩn thận khi thiết kế các chương trình quảng cáo, học hỏi kinh 
nghiệm từ nước ngoài nhưng áp dụng vào thực tế phải căn cứ vào hoàn cảnh, 
truyền thống của từng quốc gia, từng địa phương. 
 100 
KẾT LUẬN 
Ngành công nghiệp quảng cáo của Việt Nam còn khá non trẻ, chỉ mới thực 
sự phát triển trong khoảng 10 năm trở lại đây. Thế nhưng cùng với sự phát triển 
của nền kinh tế thị trường, quảng cáo ngày càng đóng một vai trò quan trọng đối 
với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động quảng cáo vẫn đang phát 
triển một cách khá tự phát, đôi khi vượt khỏi sự quản lý của Nhà nước. Mặt 
khác, hệ thống pháp luật về quảng cáo của Việt Nam cũng ra đời chưa lâu và 
đang trong quá trình hoàn thiện dần dần nên còn nhiều điểm bất cập, chưa hợp 
lý. 
Do vậy, để tạo hành lang pháp lý cho hoạt động này phát triển cũng như 
tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước thì vấn đề đặt ra là phải sửa đổi, 
bổ sung nhằm hoàn thiện những quy định về quảng cáo trên cơ sở đánh giá 
những mặt tồn tại, những điểm chưa phù hợp của pháp luật hiện hành. Việc 
hoàn thiện các quy định về quảng cáo cần được tiến hành theo hướng: đảm 
bảo sự đồng bộ, thống nhất với các văn bản luật có liên quan và sự phù hợp 
với luật pháp quốc tế; bảo vệ quyền lợi người sản xuất, kinh doanh, người tiêu 
dùng; hoàn thiện cơ chế quản lý và tổ chức bộ máy quản lý khoa học, hợp lý. 
Ngoài ra, pháp luật về quảng cáo còn phải đảm bảo cho hoạt động này không 
đi ngược lại với văn hoá, truyền thống, thuần phong mỹ tục của Việt Nam. 
Với đề tài Pháp luật về quảng cáo của Việt Nam – Một số bất cập và giải 
pháp, khoá luận tập trung phân tích những quy định hiện hành của pháp luật Việt 
Nam về quảng cáo, nhấn mạnh đến một số điểm còn bất hợp lý, có tham khảo 
pháp luật của một số nước trên thế giới. Từ những phân tích đó, khoá luận đưa ra 
một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về quảng cáo ở nước ta, với 
 101 
mong muốn rằng có thể góp phần tạo một môi trường pháp lý lành mạnh, ổn 
định cho sự phát triển của một ngành công nghiệp dịch vụ quan trọng và cần 
thiết. 
 102 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
CÁC VĂN BẢN PHÁP LÝ 
[1] Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 1999. 
[2] Pháp lệnh Quảng cáo 2001. 
[3] Nghị định số 24/2003/NĐ-CP ngày 13/03/2003 quy định chi tiết thi hành 
Pháp lệnh Quảng cáo. 
[4] Thông tư của Bộ Văn hóa – Thông tin số 43/2003/TT-BVHTT ngày 
16/07/2003 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 24/2003/NĐ/CP. 
[5] Luật Cạnh tranh 2004. 
[6] Thông tư của Bộ Văn hóa – Thông tin số 79/2003/TT-BVHTT ngày 
08/12/2005 sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư số 43/2003/TT-
BVHTT. 
[7] Luật Thương mại 2005. 
[8] Nghị định số của Chính phủ số 37/2006/NĐ-CP ngày 04/04/2006 quy định 
chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại. 
[9] Nghị định của Chính phủ số 56/2006/NĐ-CP ngày 06/06/2006 về xử phạt vi 
phạm hành chính trong hoạt động văn hóa – thông tin. 
[10] Thông tư liên tịch số 10/2006/TTLT/BYT-BTM-BVHTT-UBDSGĐTE 
ngày 25/08/2006 hướng dẫn thi hành Nghị định số 21/2006/NĐ-CP của Chính 
phủ về kinh doanh và sử dụng các sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ. 
[11] Dự thảo 2.3 Thông tư hướng dẫn về quảng cáo thương mại trên các phương 
tiện điện tử. 
[12] Dự thảo 3.0 Thông tư về quảng cáo thương mại bằng thư điện tử. 
[13] Văn kiện Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp 1979. 
 103 
SÁCH, TẠP CHÍ VÀ TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 
[14] Bộ Văn hóa – Thông tin (2005), Một số vấn đề về thực trạng quảng cáo ở 
Việt Nam và những chính sách của Việt Nam đối với quảng cáo nước ngoài. 
[15] Bộ Văn hóa – Thông tin (2005), Tài liệu sưu tầm Pháp luật quảng cáo của 
một số nước trên thế giới. 
[16] Biểu giá quảng cáo thực hiện năm 2005 trên VTV, Ban hành kèm theo 
Quyết định số 1350/THVN-QC ngày 12/11/2004. 
[17] Nguyễn Mạnh Chiến, Quản lý hoạt động quảng cáo, Phòng Quảng cáo, Cục 
Văn hóa – Thông tin cơ sở, Bộ Văn hóa – Thông tin. 
[18] Cục Văn hoá - Thông tin cơ sở, Bộ Văn hoá - Thông tin (2003), Báo cáo 
tổng kết công tác năm 2003 của Phòng văn hoá thông tin cơ sở. 
[19] Arman Dayan (2002), Nghệ thuật quảng cáo, NXB Thế giới. 
[20] PGS.TS. Nguyễn Bá Diến (1997), Pháp luật về chống quảng cáo không 
trung thực ở Việt Nam và một số nước trên thế giới, Tạp chí Nhà nước và Pháp 
luật số 10/1997. 
[21] Nguyễn Thị Dung (2005), Khái niệm “quảng cáo” trong pháp luật Việt 
Nam và ảnh hưởng của nó đến việc hoàn thiện pháp luật về quảng cáo, Tạp chí 
Luật học số 12/2005. 
[22] Trần Văn Dũng (2004), Một số vấn đề về Tội quảng cáo gian dối theo quy 
định của pháp luật hình sự 1999, Tạp chí Tòa án Nhân dân số 22, 11/2004. 
[23] Đỗ Thị Thanh Thuỷ, Pháp luật điều chỉnh hoạt động quảng cáo không 
trung thực xâm phạm đến lợi ích của người tiêu dùng, Khoá luận tốt nghiệp. 
[24] Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (2001), Cẩm nang sở hữu trí tuệ, 130 - 131, 
259 – 260. 
 104 
[25] Tổng cục Thống kê (2006), Thông cáo báo chí về số liệu thống kê kinh tế – 
xã hội năm 2005. 
 [26] Trường Đại học Ngoại thương (2000), Giáo trình marketing lý thuyết, NXB 
Giáo dục, 146 – 152, Hà Nội. 
 [27] Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa (1998), Đại từ điển kinh tế 
thị trường (dịch của Trung Quốc), 830, Hà Nội. 
[28] Otto Kleppner, J. Thomas Russel, W. Ronald Lane (2002), Kleppner’s 
Advertising Procedure, Prentice Hall Publisher, 2- 53, 166 – 387, New Jersey. 
BÀI BÁO VÀ THÔNG TIN TỪ CÁC WEBSITE 
[29] Doanh nghiệp quảng cáo coi thường pháp luật, Báo pháp luật, 23/06/2003. 
[30] Phạm Ngọc, Hoạt động quảng cáo: Bất cập từ hai phía doanh nghiệp và 
Nhà nước, Thanh niên, 25/03/2005. 
[31] Phạm Hải, Quảng cáo Việt Nam bao giờ hết “đánh thuê”?, Hà Nội mới, 
03/042005. 
[32] Nâng tầm hoạt động quảng cáo, Thời báo Kinh tế Việt Nam, 15/04/2005. 
[33] Dân Ký, Quảng cáo – cần một cái nhìn toàn diện, Hà Nội mới, 14/05/2005. 
[34] Xuân Thái , Hoạt động quảng cáo nhỏ bé và manh mún, Sài Gòn Giải 
Phóng 10/07/2005. 
[35] Quảng cáo Việt Nam thua ngay trên sân nhà, Sài Gòn Giải Phóng, 
01/08/2005. 
[36] 2005 ad revenue seen at VND 5 trillion, Sai Gon Times Daily, 19/12/2005. 
[37] Xuân Thái, Lộn xộn quảng cáo ngoài trời, Sài Gòn giải phóng, 10/02/2006. 
[38] Hà Nội sẽ quy hoạch điểm quảng cáo, Phụ nữ Việt Nam, 01/08/2006. 
[39] Tiến Tài, Rào cản lớn nhất là cách nhìn nhận, Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 
40-2006, 28/09/2006. 
 105 
[40] www.vneconomy.com.vn, Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam sẽ làm gì?, 
14/05/2001. 
[41] www.vnexpress.net, Hoạt động quảng cáo, khiêu vũ cần có quy hoạch đồng 
bộ, 10/05/2003. 
[42] www.vneconomy.com.vn, “Không thể có cái gọi là quảng cáo phi thương 
mại”, 24/02/2005. 
[43] www.vnn.vn, Quảng cáo, chuyện bao giờ mới nói hết?, 10/04/2005. 
[44] www.vnexpress.net, Công ty Kim Đan phải xin lỗi đối thủ cạnh tranh, 
03/07/2005. 
[45] www.vnexpress.net, Những kiểu quảng cáo có vấn đề, 15/10/2005. 
[46] www.vnexpress.net, Doanh nghiệp muốn quảng cáo trên xe buýt, 
18/11/2005. 
[47] www.vneconomy.com.vn, ADB: Việt Nam là ngôi sao của Đông Nam Á, 
06/09/2006. 
[48] www.mot.gov.vn, Diễn đàn Bộ Thương mại, 12/10/2006. 
 106 
MỤC LỤC 
Lời nói đầu ................................................................................................................ 1 
Chƣơng I: Những vấn đề lý luận chung về quảng cáo và pháp luật quảng cáo .... 4 
I. Khái quát chung về quảng cáo ........................................................................... 4 
1. Khái niệm quảng cáo và các phương tiện quảng cáo ................................. 4 
1.1. Khái niệm quảng cáo ...................................................................... 4 
1.2. Các phương tiện quảng cáo ............................................................ 6 
2. Quy trình quảng cáo ............................................................................... 13 
II. Vai trò của quảng cáo .................................................................................... 17 
1. Khái quát về lịch sử và quá trình phát triển của quảng cáo ..................... 17 
2. Vai trò của quảng cáo trong nền kinh tế thị trường ................................. 19 
2.1. Vai trò của quảng cáo đối với người tiêu dùng ............................. 21 
2.2. Vai trò của quảng cáo đối với doanh nghiệp ................................. 22 
2.3. Vai trò của quảng cáo đối với xã hội ............................................ 23 
III. Vấn đề pháp luật về quảng cáo ...................................................................... 23 
1. Tóm tắt sự hình thành và phát triển của pháp luật về quảng cáo của Việt 
Nam ........................................................................................................... 23 
1.1. Giai đoạn trước năm 1994 ............................................................ 23 
1.2. Giai đoạn từ năm 1994 đến 2001 ................................................. 24 
1.3. Giai đoạn từ năm 2001 đến nay .................................................... 26 
2. Pháp luật về quảng cáo và một số vấn đề có liên quan ............................ 28 
2.1. Pháp luật quảng cáo với vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 28 
2.2. Pháp luật quảng cáo với vấn đề cạnh tranh không lành mạnh ....... 29 
2.3. Pháp luật quảng cáo với vấn đề bảo vệ văn hóa, thuần phong mỹ tục, 
đạo đức xã hội ..................................................................................... 30 
2.4. Pháp luật quảng cáo với vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ......... 32 
Chƣơng II: Đánh giá thực trạng những bất cập về pháp luật quảng cáo của Việt 
Nam trong thời gian qua ........................................................................................ 34 
I. Khái quát thực trạng hoạt động quảng cáo của Việt Nam trong thời gian qua ... 34 
1. Thực trạng phát triển của ngành công nghiệp quảng cáo Việt Nam......... 34 
2. Một số vi phạm trong hoạt động quảng cáo thời gian qua ....................... 36 
 107 
2.1. Quảng cáo vi phạm nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 36 
2.2. Quảng cáo vi phạm nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh .................. 38 
2.3. Quảng cáo không phù hợp với văn hóa, thuần phong mỹ tục, đạo đức 
xã hội của Việt Nam ................................................................................................. 39 
2.4. Quảng cáo vi phạm quyền sở hữu trí tuệ ....................................... 40 
2.5. Một số vi phạm khác trong hoạt động quảng cáo ngoài trời .......... 41 
II. Đánh giá những vấn đề bất cập về pháp luật quảng cáo của Việt Nam ............ 42 
1. Về khái niệm quảng cáo ......................................................................... 42 
2. Về các chủ thể tham gia trong hoạt động quảng cáo ............................... 44 
2.1. Người kinh doanh dịch vụ quảng cáo ........................................... 44 
2.2. Người phát hành quảng cáo .......................................................... 47 
3. Về sản phẩm quảng cáo .......................................................................... 48 
3.1. Nội dung quảng cáo...................................................................... 48 
3.2. Hình thức quảng cáo .................................................................... 50 
4. Về phương tiện quảng cáo ...................................................................... 51 
4.1. Quảng cáo trên đài phát thanh, truyền hình ................................... 52 
4.2. Quảng cáo trên báo in ................................................................... 53 
4.3. Quảng cáo ngoài trời .................................................................... 54 
4.4. Quảng cáo trên phương tiện điện tử .............................................. 56 
5. Những hành vi bị nghiêm cấm và xử lý vi phạm trong quảng cáo ........... 57 
6. Quản lý Nhà nước về hoạt động quảng cáo ............................................. 59 
6.1. Nội dung quản lý Nhà nước về quảng cáo .................................... 59 
6.2. Thẩm quyền quản lý Nhà nước về quảng cáo ............................... 60 
6.3. Giấy phép thực hiện quảng cáo ..................................................... 61 
III. Đánh giá nguyên nhân của những bất cập ...................................................... 62 
1. Quảng cáo là một hoạt động mang tính linh hoạt cao .............................. 62 
2. Cách nhìn nhận chưa đúng về quảng cáo ................................................ 63 
3. Những khó khăn trong quá trình triển khai và thực thi pháp luật............. 65 
4. Hạn chế trong kỹ thuật lập pháp ............................................................. 67 
Chƣơng III: Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về quảng cáo của Việt Nam 
trong thời gian tới ................................................................................................... 68 
I. Phương hướng chung hoàn thiện pháp luật về quảng cáo của Việt Nam ........... 68 
 108 
1. Dự báo sự phát triển của ngành quảng cáo Việt Nam trong thời gian tới 68 
2. Phương hướng chung hoàn thiện pháp luật về quảng cáo........................ 72 
2.1. Cần làm rõ khái niệm quảng cáo .................................................. 73 
2.2. Đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất giữa các văn bản luật và sự phù hợp 
với luật pháp quốc tế ........................................................................... 73 
2.3. Bảo đảm quyền và lợi ích của người sản xuất, người kinh doanh và 
người tiêu dùng cũng như bảo vệ văn hoá, thuần phong mỹ tục, đạo đức 
xã hội .................................................................................................. 74 
2.4. Hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động quảng cáo ........................... 76 
2.5. Tổ chức hệ thống quản lý về quảng cáo khoa học, hợp lý ............. 76 
II. Giải pháp hoàn thiện pháp luật quảng cáo của Việt Nam trong thời gian tới ... 77 
1. Nhóm giải pháp vĩ mô ............................................................................ 78 
1.1. Giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước ......... 78 
1.1.1. Thống nhất một cơ quan quản lý Nhà nước về quảng cáo ... 78 
1.1.2. Đơn giản hóa thủ tục xin Giấy phép thực hiện quảng cáo ... 80 
1.1.3. Phát huy vai trò của Hiệp hội Quảng cáo ............................ 82 
1.2. Giải pháp hoàn thiện một số nội dung pháp lý cụ thể .................... 83 
1.2.1. Về khái niệm quảng cáo ..................................................... 83 
1.2.2. Về nội dung và hình thức quảng cáo ................................... 85 
1.2.3. Về phương tiện quảng cáo .................................................. 86 
1.2.4. Về những hành vi bị nghiêm cấm trong quảng cáo và biện 
pháp xử lý .................................................................................... 90 
2. Nhóm giải pháp vi mô ............................................................................ 91 
2.1. Nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật .................... 91 
2.2. Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ......................... 93 
2.3. Tăng cường hợp tác quốc tế.......................................................... 94 
2.4. Tích cực sử dụng các yếu tố truyền thống trong quảng cáo ........... 95 
Kết luận ................................................................................................................... 97 
Tài liệu tham khảo .................................................................................................. 98 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 3512_0652.pdf 3512_0652.pdf