Đề tài Pháp luật về quảng cáo của Việt Nam một số bất cập và giải pháp

Quảng cáo trên các phương tiện điện tử đang ngày càng phổ biến với các hình thức đa dạng như gửi thư điện tử hay tin nhắn qua điện thoại di động, đặt biểu tượng trên các trang tin điện tử. Tuy nhiên, là một loại hình còn tương đối mới mẻ ở Việt Nam và với tốc độ phát triển chóng mặt của công nghệ thông tin, vấn đề quản lý hoạt động này khá khó khăn và phức tạp. Các văn bản pháp quy hiện hành của Việt Nam về quảng cáo mới chỉ đề cập đến vấn đề quảng cáo trên mạng thông tin máy tính, mà những quy định nà y cũng còn hết sức chung chung. Cụ thể, Điều 11 Pháp lệnh Quảng cáo, Điều 19 Nghị định số 24/2003/NĐ-CP và Thông tư số 43/2003/TT-BVHTT quy định: cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp sau khi có Giấy phép chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ quảng cáo theo quy định của pháp luật, được phép kinh doanh dịch vụ quảng cáo trên mạng Internet.

pdf109 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9140 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật về quảng cáo của Việt Nam một số bất cập và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thương mại và nhằm mục tiêu lợi nhuận. Vì thế, việc giao cho Bộ Văn hóa – Thông tin quản lý hoạt động quảng cáo là chưa phù hợp với chức năng của Bộ này. Và khi hoạt động quảng cáo phát triển phong phú với nhiều hình thức đa dạng, phức tạp thì công tác quản lý sẽ gặp nhiều khó khăn, khó tránh khỏi những thiếu sót, bất cập. Với tất cả những vấn đề đã trình bày, xin được kiến nghị nên giao cho Bộ Thương mại là cơ quan chủ quản thống nhất quản lý hoạt động quảng cáo trong cả nước. Một vấn đề nữa được đặt ra là, hoạt động quảng cáo không chỉ bị điều chỉnh trực tiếp bởi Pháp lệnh Quảng cáo mà còn bị điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp lý có liên quan. Ngoài ra, khi hoạt động quảng cáo được phân cấp quản lý về địa phương thì ở mỗi nơi lại ban hành những quy định khác nhau mà những quy định này đôi khi trái ngược với các văn bản luật có tính pháp lý cao hơn. Chính sự không nhất quán này đã khiến cho các doanh nghiệp gặp rất nhiều phiền hà trong việc xin các giấy tờ, thủ tục để thực hiện quảng cáo. Vì vậy kiến 82 nghị các Bộ ra một văn bản hướng dẫn liên bộ để giảm các thủ tục phiền hà cho doanh nghiệp. Mặt khác, cơ quan chủ quản quản lý hoạt động quảng cáo cũng cần hướng dẫn một cách cụ thể nhằm thống nhất việc quản lý hoạt động này ở các địa phương, tránh tình trạng quyết định của UBND cấp tỉnh, thành phố lại mâu thuẫn với văn bản có hiệu lực cao hơn. Tuy nhiên, văn bản hướng dẫn cũng cần tạo điều kiện cho việc phân cấp quản lý được thuận lợi. 1.1.2. Đơn giản hóa thủ tục xin Giấy phép thực hiện quảng cáo Từ năm 1999 đến nay, theo tinh thần của Luật Doanh nghiệp, cơ chế xin – cho trong việc thành lập doanh nghiệp đã bị bãi bỏ; thay vào đó, doanh nghiệp chỉ phải đăng ký kinh doanh. Như vậy, quyền tự do kinh doanh – quyền đã được quy định trong Hiến pháp - đã hoàn toàn được thừa nhận. Vì thế, nhiều ý kiến cho rằng việc hiện nay các doanh nghiệp quảng cáo vẫn phải xin phép quảng cáo trên một số phương tiện là đi ngược lại với tinh thần tiến bộ của Luật Doanh nghiệp. Tất nhiên, luật pháp về quảng cáo mới cần tạo điều kiện thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp để thúc đẩy ngành công nghiệp quảng cáo phát triển. Tuy nhiên, trong điều kiện như ở Việt Nam, việc có nên bãi bỏ hoàn toàn Giấy phép xin thực hiện quảng cáo hay không còn là một vấn đề cần bàn luận. Thứ nhất, đối với quảng cáo trên mạng thông tin máy tính; kênh, chương trình phát thanh, truyền hình chuyên quảng cáo; phụ trang, phụ bản chuyên quảng cáo. Hiện nay loại hình quảng cáo này cần xin Giấy phép thực hiện quảng cáo của Bộ Văn hóa – Thông tin. Tuy nhiên, với việc các quy định hiện hành của pháp luật còn chung chung, thiếu cụ thể thì việc xem xét để đưa ra quyết định cấp hay không cấp Giấy phép chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan của cơ quan quản lý; do đó việc xin Giấy phép ít có ý nghĩa trên thực tế mà ngược lại gây thêm phiền hà cho doanh nghiệp quảng cáo, kết quả là dẫn tới những hiện tượng tiêu cực. Thêm vào đó, với quan điểm xem xét hoạt động quảng cáo là một hành vi 83 thương mại thì hoạt động này sẽ tự động bị điều chỉnh bởi các lực lượng trên thị trường. Quảng cáo là nhằm mục tiêu lợi nhuận. Nếu một quảng cáo không được người tiêu dùng chấp nhận, thậm chí có phản cảm thì ngay lập tức, không một nhà quảng cáo nào lại tiếp tục đăng quảng cáo đó trên các phương tiện thông tin đại chúng. Hay nếu các tờ báo, tạp chí, các kênh truyền thanh, truyền hình phát quá nhiều quảng cáo xen vào giữa các nội dung của các loại phương tiện truyền thông đó thì người đọc, người nghe và người xem cũng sẽ có phản ứng. Đơn giản nhất là họ sẽ bỏ qua các mục quảng cáo được đăng, được phát; thậm chí họ có thể không tiếp tục đọc tờ báo, tạp chí, không nghe hay xem chương trình phát thanh, truyền hình đó nữa. Vì thế, các nhà quảng cáo và những người phát hành quảng cáo cũng không thể muốn tùy tiện đăng bao nhiêu quảng cáo và với nội dung, hình thức như thế nào cũng được. Vì vậy, với loại hình quảng cáo này, kiến nghị nên bỏ Giấy xin phép thực hiện quảng cáo. Tuy nhiên, bỏ Giấy phép xin thực hiện quảng cáo không có nghĩa là chỉ để cho thị trường quyết định hoàn toàn, mà vẫn cần sự kiểm soát của Nhà nước. Nghiên cứu việc quản lý quảng cáo ở một số nước cho thấy, ở các nước phát triển thường thành lập một cơ quan chuyên trách để quản lý hoạt động quảng cáo, ví dụ như ở Singapore là Ủy ban Tư vấn xét xử về các chuẩn mực quảng cáo (ASAS). Tổ chức này bao gồm các thành viên từ các ban của các Chính phủ và đại diện của Hội Bảo vệ người tiêu dùng, đại diện các công ty quảng cáo. Ủy ban có chức năng giám sát hoạt động quảng cáo, nó có quyền yêu cầu một nhà quảng cáo sửa đổi hay hủy bỏ bất cứ quảng cáo nào theo quan điểm của ASAS là trái với Luật Quảng cáo của Singapore; ngoài ra nó còn thực hiện chức năng tư vấn sản phẩm quảng cáo cho các doanh nghiệp [15]. Về điểm này, chúng ta có thể học tập mô hình của các nước phát triển và thành lập một cơ quan chuyên trách quản lý quảng cáo trực thuộc Bộ Thương mại, và cơ quan này phải được trao đủ 84 quyền để có thể thực hiện chức năng của mình. Bên cạnh đó, cần chú trọng công tác thẩm định các sản phẩm quảng cáo thay vì tiến hành các đợt kiểm tra và xử phạt rầm rộ nhưng không thường xuyên, chỉ có hiệu quả tức thì mà không có hiệu quả lâu dài. Thứ hai, đối với quảng cáo trên các phương tiện ngoài trời như bảng, biển, panô, băng rôn, màn hình đặt nơi công cộng, vật phát quang, vật thể trên không, dưới nước, phương tiện giao thông, vật thể di động khác. Do quảng cáo ngoài trời không chỉ có ảnh hưởng về mặt văn hóa, tâm lý mà còn tác động đến mỹ quan môi trường và trật tự an toàn xã hội, thêm vào đó do các doanh nghiệp và người dân chưa có ý thức chấp hành pháp luật cao nên kiến nghị chưa nên bãi bỏ Giấy phép xin thực hiện quảng cáo đối với loại hình này. Tuy nhiên cần quy định thủ tục và trình tự cấp Giấy phép như thế nào để tránh phiền hà cho doanh nghiệp mà vẫn đảm bảo quản lý có hiệu quả. Nghiên cứu pháp luật các nước cũng thấy rằng ở những nước phát triển như Pháp, Mỹ, khi người dân muốn lắp đặt các biển hiệu quảng cáo vẫn phải khai báo với thị trưởng hoặc tỉnh trưởng. Ví dụ theo quy định của Pháp, khi muốn lắp đặt, thay thế hay thay đổi một thiết bị hay một phương tiện đỡ quảng cáo thì phải khai báo trước những nội dung như: loại thiết bị hay phương tiện đỡ, khoảng cách lắp đặt so với các giới hạn phân chia và các cửa của các ngôi nhà nằm ở đất bên cạnh, bản vẽ thiết bị hay phương tiện có ghi kích thước 3 chiều. Ngoài ra nếu đấy là đất tư thì còn phải khai báo vị trí và diện tích mảnh đất cũng như một sơ đồ hiện trạng khu đất [15]. Đối với Việt Nam, khi một doanh nghiệp muốn thực hiện quảng cáo ngoài trời, nên áp dụng hình thức khai báo thay vì cơ chế xin – cho như hiện nay. Khi khai báo, doanh nghiệp phải cung cấp đủ những bằng chứng để chứng minh việc quảng cáo ngoài trời của mình không vi phạm các quy định của pháp luật về quảng cáo ngoài trời. 85 1.1.3. Phát huy vai trò của Hiệp hội Quảng cáo Bên cạnh sự quản lý của các cơ quan Nhà nước, hoạt động quảng cáo còn chịu sự giám sát của Hiệp hội quảng cáo Việt Nam. Hiệp hội quảng cáo Việt Nam là một tổ chức xã hội - nghề nghiệp, bao gồm các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ quảng cáo có đăng ký kinh doanh hợp lệ, các doanh nghiệp chủ quảng cáo và các tổ chức chủ phương tiện quảng cáo, được thành lập nhằm bảo vệ các nhà sản xuất, kinh doanh chân chính, chống lại các hành vi quảng cáo không trung thực vi phạm pháp luật. Mục tiêu đặt ra khi thành lập Hiệp hội là bảo vệ quyền lợi cho các hội viên, là cầu nối giữa Chính phủ, các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp [40]. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động của mình, Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam chưa thực sự phát huy được vai trò của mình, tiếng nói của Hiệp hội vẫn còn rất hạn chế ngay cả đối với các thành viên thuộc Hiệp hội. Có nhiều vụ tranh chấp đã xảy ra giữa các hội viên nhưng không thể được giải quyết thông qua Hiệp hội bằng con đường hòa giải. Đơn cử vụ tranh chấp vị trí quảng cáo ngoài trời giữa công ty quảng cáo Mắt Vàng với 17 công ty khác cũng là hội viên của Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam tại khu vực đối diện với nhà ga T1, Nội Bài - Hà Nội. Vụ việc kéo dài hơn một năm, và mặc dù Hiệp hội đã nhiều lần đừng ra làm trung gian hòa giải nhưng vẫn không được giải quyết [29]. Việc ra đời Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam là cần thiết và vai trò của Hiệp hội là không thể phủ nhận được. Tuy nhiên, để có thể phát huy được chức năng của mình, trước hết Hiệp hội cần cho hội viên của mình thấy được những quyền lợi to lớn khi tham gia vào tổ chức. Muốn vậy, Hiệp hội cần tích cực hơn nữa trong vai trò là cầu nối trung gian giữa Chính phủ và doanh nghiệp, ví dụ như tham gia tư vấn trong việc soạn thảo văn bản pháp luật mới về quảng cáo, tư vấn quy hoạch quảng cáo ngoài trời, giúp đỡ cơ quan Nhà nước trong việc quản lý 86 hoạt động quảng cáo… Ngoài ra, Hiệp hội cần chấn chỉnh lại nội quy hoạt động của mình, đặc biệt là xây dựng một cơ chế hòa giải trong các vụ tranh chấp liên quan đến thành viên của Hiệp hội, đảm bảo các chế tài mà Hiệp hội đưa ra khi xét xử hòa giải giữa các hội viên có tính cưỡng chế cao. 1.2. Giải pháp hoàn thiện một số nội dung pháp lý cụ thể 1.2.1. Về khái niệm quảng cáo Như đã phân tích, hiện nay đang tồn tại hai khái niệm về quảng cáo trong hai văn bản pháp luật có tính pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động này là Pháp lệnh Quảng cáo 2001 và Luật Thương mại 2005. Việc hoàn thiện pháp luật về quảng cáo của Việt Nam sẽ theo hướng là thống nhất các quy định hiện hành về quảng cáo, vì thế cũng cần thống nhất và làm rõ khái niệm về quảng cáo. Do không làm rõ tính chất thương mại của hoạt động quảng cáo, chấp nhận sự tồn tại của hai khái niệm “quảng cáo” (theo Pháp lệnh Quảng cáo) và “quảng cáo thương mại” (theo Luật Thương mại) nên chúng ta chưa thể có giải pháp triệt để nhằm hoàn thiện pháp luật về quảng cáo, bởi vì đằng sau nó là sự tồn tại của hai nhóm văn bản luật khác nhau, hai hệ thống cơ quan quản lý khác nhau và rất nhiều phiền toái cho các tổ chức, cá nhân hoạt động quảng cáo. Trước hết, cần xác định bản chất của hoạt động quảng cáo và nội hàm của khái niệm quảng cáo, trên cơ sở đó xác định phạm vi điều chỉnh của pháp luật về quảng cáo. Trên thực tế, sau khi Pháp lệnh quảng cáo thi hành được một năm, qua công tác kiểm tra ở nhiều cơ quan đài báo cho thấy, một trong những vấn đề nổi cộm lên đó là tình trạng một số cơ quan báo chí do đăng nhiều thông tin xã hội (theo Pháp lệnh Quảng cáo đó là quảng cáo không có mục đích sinh lời) như Báo Tuổi trẻ, Báo Phụ nữ Sài Gòn, Báo Sài Gòn tiếp thị… nên số phụ trang quảng cáo nhiều hơn số trang báo chính. Như vậy, nếu tuân theo Pháp lệnh Quảng cáo, nghĩa là phải cắt giảm bớt phần thông tin quảng cáo đó đi thì vô hình 87 chung đã làm hạn chế một kênh thông tin văn hóa - xã hội tạo cơ hội việc làm, nâng cao dân trí cho cộng đồng... Vì thế, họ kiến nghị với Bộ Văn hoá - Thông tin tách phần phụ trang thành hai loại: thông tin xã hội (không coi là quảng cáo) và phụ trang quảng cáo [18]. Vì vậy, theo ý kiến của nhiều chuyên gia, việc pháp luật về quảng cáo điều chỉnh cả hoạt động quảng cáo phi thương mại là quá rộng, không có tính khả thi và không hợp lý. Từ những phân tích trên, kiến nghị pháp luật mới về quảng cáo cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng như sau: Thứ nhất, những thông tin tuyên truyền, vận động nhằm mục tiêu chính trị, xã hội, nhân đạo, rao vặt và các thông tin tương tự không cần phải điều chỉnh bởi pháp luật quảng cáo mà chỉ cần không vi phạm các quy định chung của pháp luật, ví dụ như Luật Báo chí… Thứ hai, không nên đưa ra khái niệm “quảng cáo thương mại”. Thực tế tìm hiểu pháp luật quảng cáo của nhiều nước trên thế giới cho thấy trong các quy định của họ không tồn tại khái niệm “quảng cáo thương mại” vì đã thừa nhận khái niệm này tức là thừa nhận sự tồn tại của khái niệm “quảng cáo phi thương mại”. Dù có thể có một số trường hợp ngoại lệ, nhưng xét đến cùng thì bản chất của quảng cáo là hành vi thương mại, và chỉ những hoạt động giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ của thương nhân nhằm mục tiêu lợi nhuận thì mới được coi là quảng cáo. Thứ ba, nên nêu rõ phạm vi điều chỉnh của pháp luật về quảng cáo cùng với khái niệm quảng cáo. Có một số hành vi cũng là giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích sinh lời nhưng không cần thiết phải đưa vào phạm vi điều chỉnh của pháp luật về quảng cáo và phải do cơ quan chuyên trách về quảng cáo quản lý, giám sát, ví dụ như hiện tượng một số cơ sở sản xuất kinh doanh vẫn thường vẽ, dán các thông báo trên tường, cột điện, cột đèn giao thông… Hành vi này nên để cơ quan phụ trách về trật tự an toàn xã hội giám sát và xử lý. 1.2.2. Về nội dung và hình thức quảng cáo 88 Hiện nay, các quy định về nội dung và hình thức quảng cáo trong các văn bản pháp luật ở nước ta còn chung chung, thiếu tính cụ thể. Vì thế rất khó trong việc áp dụng vào thực tế. Do đó kiến nghị cần sửa đổi, bổ sung pháp luật về quảng cáo theo hướng như sau: Thứ nhất, đối với những sản phẩm cần hạn chế quảng cáo, những sản phẩm có ảnh hưởng tới sức khỏe, đặc biệt là với trẻ em như các loại thuốc, mỹ phẩm, sản phẩm dinh dưỡng… cần quy định cụ thể hơn nội dung quảng cáo, tránh tình trạng các sản phẩm này bị quảng cáo tràn lan hay quảng cáo tối ưu hóa tính năng của sản phẩm, gây nhầm lẫn cho người sử dụng. Mới đây nhất, Chính phủ đã ban hành Nghị định 21/2006/NĐ-CP về kinh doanh và sử dụng các sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ, tiếp theo đó các Bộ Y tế, Thương mại, Văn hóa – Thông tin và UB Dân số – Gia đình & Trẻ em đã ban hành Thông tư 10/2006 liên bộ hướng dẫn thi hành Nghị định trên, trong đó có đề cập đến nội dung quảng cáo cho sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ. Đây là một động thái tích cực của các cơ quan chức năng cho thấy vấn đề dinh dưỡng của trẻ nhỏ đã được quan tâm hơn. Cũng cần phải có những quy định tương tự như thế với những sản phẩm nhạy cảm về quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Thứ hai, đối với những quy định mang tính trừu tượng, cần phải đưa ra một định nghĩa nhằm làm rõ các khái niệm đó để pháp luật có thể đi vào đời sống chứ không phải là những quy định chung chung, hình thức. Cụ thể, đối với những quy định về hình thức của quảng cáo như phải có “tính thẩm mỹ”, phải có “dấu hiệu phân biệt những thông tin quảng cáo với những thông tin không phải là quảng cáo”, cần bổ sung quy định để cụ thể hóa. Có như thế mới tránh được việc áp dụng luật tùy tiện, khác nhau giữa các doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động quảng cáo. 89 1.2.3. Về phương tiện quảng cáo Về phương tiện quảng cáo cần bổ sung, sửa đổi một số quy định cụ thể sau: Đối với quảng cáo trên các phương tiện phát thanh, truyền hình. Do thực tiễn ở Việt Nam, ngành phát thanh, truyền hình vẫn mang tính độc quyền, người xem, người nghe không có nhiều sự lựa chọn các kênh, các chương trình phát thanh, truyền hình nên vẫn cần có các quy định về thời lượng quảng cáo trên loại phương tiện này để đảm bảo quyền lợi cho người nghe, người xem đài. Tuy nhiên, cần quy định mức giới hạn như thế nào cho hợp lý. Hiện nay các văn bản pháp luật hiện hành mới chỉ quy định không được quảng cáo quá 5% thời lượng phát sóng của chương trình, trừ chương trình chuyên quảng cáo. Mặc dù vậy, như đã trình bày ở Mục II.4.1 Chương II, việc quy định như vậy chưa thật hợp lý. Vì với mỗi chương trình phát sóng có thời gian phát sóng khác nhau, nội dung khác nhau, mục đích khác nhau thì thời lượng quảng cáo xen vào cũng khác nhau. Vì thế không nên quy định chung như thế cho mọi chương trình mà cần quy định cụ thể hơn đối với từng loại chương trình. Chẳng hạn, với các chương trình vui chơi giải trí trên đài truyền hình, có thể cho phép một thời lượng phát xen quảng cáo dài hơn các chương trình khác. Một điểm nữa là, tại điểm 2d Mục II Thông tư 43/2003/TT-BVHTT có quy định: chương trình chuyên quảng cáo trên đài phát thanh, đài truyền hình đã được Bộ Văn hoá - Thông tin cho phép phải thông báo rõ lượng thời gian cụ thể của chương trình quảng cáo đó cho người xem, người nghe biết ngay từ đầu chương trình. Quy định này không có tính khả thi. Về lý luận, bản chất của quảng cáo là thông tin được đưa đến với công chúng nhằm mục tiêu thúc đẩy cơ hội sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ của người quảng cáo. Công chúng là người tiếp nhận những thông tin này. Thông tin càng thu hút được sự chú ý của 90 công chúng bao nhiêu thì cơ hội đạt mục đích càng cao. Về thực tiễn, cho đến nay, qua theo dõi trên các chương trình này, chẳng thấy một cơ quan thông tin đại chúng nào thực hiện quy định này cả. Một điều đơn giản có thể hiểu đó là không phải ai cũng có nhu cầu xem hay nghe quảng cáo nếu không nói là đôi khi quảng cáo “buộc” người ta phải xem, phải nghe. Cho nên, nếu có thông báo của người phát hành quảng cáo về thời gian sẽ dành cho quảng cáo, dù đó là quảng cáo vì mục tiêu lợi nhuận hay không thì chắc chắn sẽ khó có thể đạt được mục đích của người quảng cáo. Vì thế, nên chăng chúng ta cần bãi bỏ quy định không phù hợp này đi. Đối với quảng cáo trên báo in. Ở Việt Nam, quảng cáo trên truyền hình là phương tiện hiệu quả nhất để tiếp cận với đại đa số công chúng. Tuy nhiên, do chi phí quảng cáo trên loại phương tiện này khá cao nên tới 83% số lượng quảng cáo trên truyền hình là của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngược lại, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước thường lựa chọn phương thức quảng cáo trên báo in. Vì thế, việc giới hạn quảng cáo trên báo in không được quá 10% tổng diện tích báo đã làm hạn chế hoạt động quảng cáo của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước, tức là hạn chế hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp này. Nếu quảng cáo trong các phụ trang, phụ bản chuyên quảng cáo thì lại không mấy hiệu quả. Bên cạnh đó, hiện nay số lượng ấn phẩm báo chí ở Việt Nam tương đối phong phú và đa dạng, tạo điều kiện cho người đọc có nhiều sự lựa chọn. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia trong ngành quảng cáo, nên để cho người đọc – khách hàng tự quyết định diện tích quảng cáo trên báo thế nào là hợp lý. Vì vậy, kiến nghị nên bỏ quyết định giới hạn 10% về diện tích đối quảng cáo trên các loại báo in. Về quảng cáo trên các phương tiện điện tử. Hiện nay Pháp lệnh Quảng cáo và các văn bản hướng dẫn mới chỉ đề cập đến quảng cáo trên mạng thông tin 91 máy tính, tuy nhiên những quy định này còn rất chung chung, khó áp dụng trong thực tiễn. Do sự phức tạp trong hoạt động quảng cáo trên mạng khiến các nhà quản lý văn hoá - thông tin không khỏi gặp khó khăn. Với đội ngũ cán bộ quản lý quảng cáo còn rất mỏng, trình độ chuyên môn về quảng cáo, về mạng thông tin máy tính như hiện nay thì khó có thể làm tròn nhiệm vụ được giao. Tình trạng luật quy định rồi nhưng không được thực hiện trên thực tế đã trở thành một vấn đề đáng phải xem xét lại. Đã đến lúc, các nhà quản lý hoạt động quảng cáo cần có biện pháp quản lý mới, thực sự hiệu quả. Với hình thức quảng cáo này, các cơ quan quản lý phải phối hợp với cơ quan có chuyên môn về khoa học - công nghệ thì mới đảm bảo công tác quản lý phát huy được đúng vai trò, chức năng của mình, chứ không chỉ là đặt ra rồi để đấy. Ngoài ra, hình thức quảng cáo trên các phương tiện điện tử vô cùng phong phú và đa dạng. Với tính chất phức tạp của loại hình quảng cáo này thì những quy định chung chung sẽ không thể áp dụng được. Vì thế, cần phải có các quy định riêng cho từng hình thức quảng cáo trên các phương tiện điện tử, không thể có quy định áp dụng chung cho mọi hình thức. Theo dự kiến, dự thảo Thông tư mới nhất của Bộ Thương mại hướng dẫn về quảng cáo thương mại trên các phương tiện điện tử sẽ được sửa thành Thông tư về quảng cáo thương mại bằng thư điện tử, và Thông tư này sẽ chỉ điều chỉnh hoạt động cung cấp dịch vụ thư điện tử cũng như gửi thư điện tử quảng cáo thương mại [48]. Tiếp đến, các cơ quan quản lý cũng cần nhanh chóng soạn thảo và ban hành các văn bản mới quy định về các hình thức khác của quảng cáo trên phương tiện điện tử. Đặc biệt trong đó cần quy định rõ trách nhiệm của các nhà cung cấp các dịch vụ Internet và dịch vụ thông tin di động, vì những người này đóng vai trò rất quan trọng trong việc đưa thông tin quảng cáo đến với người sử dụng dịch vụ Internet và thông tin di động. 92 Đối với quảng cáo ngoài trời. Hiện nay, phương tiện quảng cáo ngoài trời là nơi diễn ra nhiều sai phạm nhất về hoạt động quảng cáo, do vậy, chúng ta cần có những quy định cụ thể. Để khắc phục tình trạng phức tạp đang diễn ra, giải pháp đưa ra là các cơ quan quản lý ở địa phương cần lập ra một chiến lược định hướng phát triển quảng cáo trong từng giai đoạn cũng như quy hoạch quảng cáo ngoài trời, rồi từ đó công bố bản đồ quảng cáo làm cơ sở cho các doanh nghiệp theo dõi, triển khai hoạt động. Ở một số con đường, khu phố, nếu vì mục đích bảo tồn di tích lịch sử, bảo vệ môi trường hay an toàn giao thông… thì có thể không cho phép lắp đặt một số loại phương tiện quảng cáo ngoài trời nhất định nào đó, còn lại về nguyên tắc là không cấm loại hình này. Việc làm này đã được một số địa phương thực hiện nhưng với tính nhỏ lẻ nên chưa tạo được hiệu quả cao. Việc lập và công bố bản đồ quảng cáo trong thời gian tới cần được thống nhất, nhân rộng trong phạm vi toàn quốc. Có như vậy, diện mạo của các đô thị mới được cải thiện và hoạt động quảng cáo ngoài trời sẽ phát triển trong sự quản lý của pháp luật. 1.2.4. Về những hành vi bị nghiêm cấm trong quảng cáo và biện pháp xử lý Đối với những hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động quảng cáo cần bổ sung một số quy định sau đây: Thứ nhất, cần quy định cụ thể về hành vi quảng cáo so sánh trực tiếp. Trong các nội dung của văn bản pháp luật hiện hành mới chỉ quy định chung là cấm doanh nghiệp so sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác. Thực tế cho thấy rằng, để đạt được hiệu quả trong quảng cáo và thu hút sự chú ý của khách hàng, các doanh nghiệp khi quảng cáo vẫn thường sử dụng thủ pháp so sánh, miễn là sự so sánh ấy không trực tiếp làm giảm uy tín hay gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh. Luật pháp của nhiều nước trên thế giới cũng không cấm quảng cáo so sánh nếu thỏa mãn một số điều kiện nhất định. Vì thế, pháp luật về quảng cáo mới cần đưa ra 93 những quy định cụ thể hơn để xác định thế nào là so sánh trực tiếp, từ đó mới có đủ căn cứ pháp lý để quản lý, giám sát và xử lý hành vi này. Thứ hai, đối với các biện pháp xử lý vi phạm trong hoạt động quảng cáo thì hiện nay, chế tài xử lý bao gồm trách nhiệm hình sự, được quy định trong Bộ luật Hình sự với tội danh quảng cáo gian dối (Điều 168 Bộ luật Hình sự) và trách nhiệm hành chính được quy định trong Nghị định mới nhất số 56/2006/NĐ-CP ngày 06/06/2006 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hoá - thông tin, trong đó có các quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quảng cáo. Có thể nhận thấy pháp luật còn thiếu những chế tài cụ thể đối với những vi phạm pháp luật quảng cáo thương mại. Hơn nữa, mức xử phạt còn nhẹ. Theo Nghị định số 56/2006/NĐ-CP, mức phạt tiền với các vi phạm phổ biến thường không cao, dao động từ 200.000 đồng đến 20 triệu đồng. Đối với hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ quảng cáo ở Việt Nam mà chưa được cho phép; văn phòng đại diện, chi nhánh của tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ quảng cáo ở Việt Nam đã hết thời hạn hoạt động ghi trong giấy phép nhưng vẫn tiếp tục hoạt động thì mức phạt có thể dao động từ 20 - 30 triệu đồng. Đối với hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, theo Nghị định số 120/2005/NĐ-CP quy định về việc xử lý đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định pháp luật về cạnh tranh, mức phạt có thể từ 5 – 70 triệu đồng. Đây được coi là “hạt muối bỏ bể”, không thấm vào đâu so với khoản chi phí vài trăm triệu đồng mà doanh nghiệp bỏ ra xây dựng một bộ phim quảng cáo. Đôi khi, để thực hiện ý đồ quảng cáo của mình, các doanh nghiệp dù biết hành vi đó là vi phạm pháp luật nhưng vì lợi nhuận hay mục đích nào đó vẫn cố tình thực hiện và sẵn sàng chịu nộp phạt. Ý kiến đề xuất mà tác giả muốn đưa ra là nên chăng cần phải nâng mức phạt tiền trong xử phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp luật 94 quảng cáo thương mại, bởi khi thấy lợi ích kinh tế của mình có thể bị đe doạ, ý thức chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp sẽ phát huy hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, đối với chế tài bồi thường thiệt hại được quy định trong Bộ luật Hình sự, phải cụ thể hóa nội dung “gây hậu quả nghiêm trọng” để các nhà hành pháp có căn cứ xác định hành vi vi phạm. 2. Nhóm giải pháp vi mô Pháp luật về quảng cáo là do Nhà nước đặt ra để điều chỉnh và đưa hoạt động này đi theo đúng quỹ đạo mà Nhà nước mong muốn. Tuy nhiên, luật pháp không phải được đặt ra một cách tùy tiện mà phải xuất phát từ thực tiễn. Bên cạnh đó, người thực thi luật pháp và chịu tác động trực tiếp của nó chính là các tổ chức, cá nhân hoạt động quảng cáo. Vì thế, để hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thì không thể không xét đến vai trò tích cực của các chủ thể tham gia hoạt động quảng cáo. Trong phần này sẽ chỉ tập trung vào nhóm giải pháp vi mô đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ quảng cáo ở Việt Nam. 2.1. Nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật Có thể thấy, thời gian qua, những vi phạm trong lĩnh vực quảng cáo là khá nhiều. Theo Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Thương mại, vì quản lý chưa chặt nên những quảng cáo phản cảm xuất hiện đầy rẫy. Đặc biệt, những vi phạm trong hoạt động quảng cáo ngoài trời rất phổ biến. Những hiện tượng như quảng cáo không xin giấy phép, hết thời hạn trong giấy phép nhưng không dỡ bỏ biển quảng cáo, quảng cáo sai về vị trí, diện tích… xảy ra rất thường xuyên. Nhưng nguy hiểm hơn là những tấm panô dựng không cẩn thận trên nóc những tòa nhà cao tầng vào mùa mưa bão luôn là hiểm họa đe dọa những người dân ở xung quanh. Đây là một thói quen rất không tốt của các doanh nghiệp quảng cáo. Thực trạng lộn xộn của ngành quảng cáo thời gian qua khiến cho cơ quan quản lý phải thắt chặt hơn hoạt động kiểm tra, xử lý vi phạm, gây tốn kém, phiền hà cho cả 95 phía Nhà nước lẫn doanh nghiệp. Thêm vào đó, ngành quảng cáo vốn chưa được thực sự nhìn nhận là một ngành thương mại dịch vụ sẽ phải “chịu” thêm những ý kiến không thiện cảm từ phía công chúng. Vì vậy, về phía doanh nghiệp hoạt động quảng cáo, cần phải tuân thủ những quy định của pháp luật. Trong một số trường hợp và điều kiện, khi luật chưa điều chỉnh hết những vấn đề thực tiễn phát sinh, doanh nghiệp có thể được phép làm những điều mà luật không cấm. Nhưng nguyên tắc chung là không được vi phạm các quy định của pháp luật. Đặc biệt, khi Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu thì các doanh nghiệp nội địa không chỉ phải nghiêm túc thực hiện các quy định trong nước mà còn phải tuân thủ các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Chúng ta sẽ phải “chơi” theo một luật chơi chung của nền kinh tế toàn cầu. Việc nâng cao ý thức pháp luật cho doanh nghiệp là một trong những điều kiện tiên quyết để nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và tránh những rắc rối về pháp lý có thể gặp phải khi tham gia nền kinh tế toàn cầu. Đặc biệt, vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ là một trong những vấn đề doanh nghiệp quảng cáo của Việt Nam cần đặc biệt quan tâm khi gia nhập “sân chơi” toàn cầu. 2.2. Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực chất lƣợng cao Nguồn nhân lực luôn là hạt nhân của sự phát triển đối với bất kỳ một đất nước, một lĩnh vực, ngành nghề cũng như một doanh nghiệp. Để có thể tồn tại, phát triển và cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam cần phải đầu tư cho nguồn nhân lực của mình. Đồng thời, đầu tư cho nguồn nhân lực của ngành quảng cáo cũng là góp phần hạn chế tình trạng lộn xộn hiện nay trong hoạt động quảng cáo. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, cái khó lớn nhất hiện nay đối với doanh nghiệp quảng cáo, cũng là nguyên 96 nhân gây ra tình trạng lộn xộn trong ngành, chính là nhân lực. Hiện nay, ngành quảng cáo Việt Nam thiếu những người được đào tạo bài bản về quảng cáo. Thậm chí ngay cả những người sáng lập và đứng đầu của các công ty quảng cáo ở Việt Nam hiện nay cũng có rất nhiều người chưa qua một trường lớp đào tạo chính quy nào. Cả nước hiện mới chỉ có một lớp chuyên đào tạo về quảng cáo của Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội. Vì vừa làm, vừa tìm hiểu, tích lũy kinh nghiệm nên các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam tất nhiên sẽ có những lúng túng. Khi mà hệ thống đào tạo của Việt Nam còn chưa hoàn thiện thì các doanh nghiệp phải tự tìm cách tháo gỡ cho mình. Các công ty quảng cáo cần liên kết với các trường đại học, tìm kiếm nguồn nhân lực về marketing hay công nghiệp mỹ thuật tại các trường ngay khi họ còn đang học tập để định hướng phát triển sau này. Đối với những sinh viên có triển vọng, có thể trao học bổng hay áp dụng chính sách thực tập tại công ty có trả lương với điều kiện họ phải làm việc cho doanh nghiệp trong một thời gian nhất định sau khi ra trường. Chính sách này tạo điều kiện cho sinh viên có cơ hội học hỏi kinh nghiệm về quảng cáo ngay khi đang ngồi trên ghế nhà trường, đồng thời giúp doanh nghiệp tìm kiếm được nguồn nhân lực cho mình, rút ngắn thời gian đào tạo sau này. Ngoài ra, các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam cũng nên có tầm nhìn dài hạn hơn về đào tạo nguồn nhân lực chiến lược cho mình. Có thể tiến hành bằng cách cử đi học ở nước ngoài với chi phí do công ty chịu kèm một số điều kiện nhất định đặt ra đối với người lao động được chọn. 2.3. Tăng cƣờng hợp tác quốc tế Một thực tế tồn tại đối với các doanh nghiệp Việt Nam là thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực marketing nói chung và hoạt động quảng cáo nói riêng. 97 Trước đây các doanh nghiệp ít chú trọng đến hoạt động này vì chưa hiểu được tầm quan trọng của nó. Khi các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam với những chiến dịch quảng cáo rầm rộ và thu hút được sự chú ý của đông đảo khách hàng thì lúc đó các doanh nghiệp của chúng ta mới hình thành ý niệm về việc đầu tư cho hoạt động marketing và quảng cáo. Các doanh nghiệp của chúng ta đã hiểu rằng quảng cáo chính là một công cụ cạnh tranh hữu hiệu, tuy nhiên, do kinh nghiệm chưa có nên thực tế triển khai nhiều khi đi ngược lại với mục đích. Không ít quảng cáo do các doanh nghiệp Việt Nam thiết kế và thực hiện đã phản tác dụng, gây phản cảm cho người xem do thiếu tính chuyên nghiệp và sự sáng tạo, thậm chí thiếu tính nghệ thuật. Tuy nhiên, sắp tới nước ta sẽ gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, đây là thách thức nhưng cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ quảng cáo trong nước. Các công ty quảng cáo cần tăng cường hợp tác với các công ty nước ngoài trong tiến trình hội nhập, do đó sẽ học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm từ đối tác. Cùng triển khai các hoạt động quảng cáo với các tập đoàn lớn trên thế giới không chỉ giúp các doanh nghiệp trong nước có cái nhìn chuyên nghiệp, sáng tạo hơn trong việc thiết kế và triển khai ý tưởng quảng cáo mà còn cho các doanh nghiệp những bài học quý giá về việc tuân thủ những chuẩn mực, tôn trọng những giới hạn và các nguyên tắc quảng cáo sao cho phù hợp với luật pháp trong nước, các điều ước quốc tế cũng như phong tục tập quán của từng quốc gia và vùng lãnh thổ. Các doanh nghiệp Việt Nam quy mô còn bé, tiềm lực tài chính không mạnh, kinh nghiệm hạn chế nên chưa đủ sức chiếm lĩnh chính thị trường trong nước, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có vốn đầu tư nước ngoài nên càng cần tăng cường hợp tác để dần dần thâm nhập vào phân đoạn thị trường này. Đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam đào tạo đội ngũ nhân lực cho hoạt động quảng cáo. 98 Hiện nay, pháp luật Việt Nam mới cho phép hai hình thức đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo là hợp đồng hợp tác kinh doanh và liên doanh. Theo ý kiến người viết, các công ty quảng cáo của Việt Nam nên hợp tác theo hình thức liên doanh vì với hình thức này, nhà đầu tư nước ngoài tham gia trực tiếp vào hoạt động quản lý doanh nghiệp nên ta mới có điều kiện học tập kinh nghiệm cũng như công nghệ trong lĩnh vực quảng cáo. 2.4. Tích cực sử dụng các yếu tố truyền thống trong quảng cáo Các hoạt động quảng cáo sẽ vô tác dụng nếu như nó không gây được sự chú ý của khách hàng mục tiêu hoặc gây phản cảm. Để các hoạt động quảng cáo đạt được mục đích thì trước hết các chương trình quảng cáo phải hấp dẫn, độc đáo và đặc biệt là không trái với những quan niệm thông thường của xã hội, không đi ngược lại văn hoá truyền thống của dân tộc. Sở dĩ quảng cáo của các tập đoàn lớn như Unilever, Coca Cola… gây được sự chú ý và giành được thiện cảm của rất nhiều người dân Việt Nam là vì họ biết cách đưa những hình ảnh thân thuộc gần gũi, những tình cảm truyền thống của người Việt vào những chương trình và chiến dịch quảng cáo của mình. Nói cách khác, họ đã biết cách địa phương hoá những chương trình quảng cáo giành cho những sản phẩm mang tính quốc tế. Vì vậy, không có lý do gì để các doanh nghiệp Việt Nam không sử dụng những yếu tố truyền thống vào trong hoạt động quảng cáo vì các sản phẩm của doanh nghiệp nội địa chủ yếu hướng tới người tiêu dùng Việt Nam, trên cơ sở nhu cầu của chính người Việt, đồng thời các doanh nghiệp hiểu về văn hoá cũng như tập quán của người Việt hơn bất kỳ một doanh nghiệp nước ngoài nào. Các doanh nghiệp cần chú ý đến các yếu tố truyền thống như thói quen, sở thích, quan niệm… để thiết kế các chương trình phù hợp, đồng thời có cách để đưa các chương trình ấy đến khán giả một cách hữu hiệu nhất. Muốn vậy doanh nghiệp 99 cần kết hợp với các yếu tố khác như thời gian tiến hành quảng cáo, hình thức quảng cáo... Những hình ảnh bắt mắt có thể là cách quảng cáo thích hợp ở các quốc gia phương Tây hay châu Mỹ, nhưng những hình ảnh ấm cúng về gia đình, những tình cảm yêu thương giúp đỡ cộng đồng lại là những hình ảnh khiến cho người Việt cảm động, chú ý. Điều đó để nhắc nhở các doanh nghiệp phải cân nhắc một cách cẩn thận khi thiết kế các chương trình quảng cáo, học hỏi kinh nghiệm từ nước ngoài nhưng áp dụng vào thực tế phải căn cứ vào hoàn cảnh, truyền thống của từng quốc gia, từng địa phương. 100 KẾT LUẬN Ngành công nghiệp quảng cáo của Việt Nam còn khá non trẻ, chỉ mới thực sự phát triển trong khoảng 10 năm trở lại đây. Thế nhưng cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, quảng cáo ngày càng đóng một vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động quảng cáo vẫn đang phát triển một cách khá tự phát, đôi khi vượt khỏi sự quản lý của Nhà nước. Mặt khác, hệ thống pháp luật về quảng cáo của Việt Nam cũng ra đời chưa lâu và đang trong quá trình hoàn thiện dần dần nên còn nhiều điểm bất cập, chưa hợp lý. Do vậy, để tạo hành lang pháp lý cho hoạt động này phát triển cũng như tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước thì vấn đề đặt ra là phải sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện những quy định về quảng cáo trên cơ sở đánh giá những mặt tồn tại, những điểm chưa phù hợp của pháp luật hiện hành. Việc hoàn thiện các quy định về quảng cáo cần được tiến hành theo hướng: đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất với các văn bản luật có liên quan và sự phù hợp với luật pháp quốc tế; bảo vệ quyền lợi người sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng; hoàn thiện cơ chế quản lý và tổ chức bộ máy quản lý khoa học, hợp lý. Ngoài ra, pháp luật về quảng cáo còn phải đảm bảo cho hoạt động này không đi ngược lại với văn hoá, truyền thống, thuần phong mỹ tục của Việt Nam. Với đề tài Pháp luật về quảng cáo của Việt Nam – Một số bất cập và giải pháp, khoá luận tập trung phân tích những quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về quảng cáo, nhấn mạnh đến một số điểm còn bất hợp lý, có tham khảo pháp luật của một số nước trên thế giới. Từ những phân tích đó, khoá luận đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về quảng cáo ở nước ta, với 101 mong muốn rằng có thể góp phần tạo một môi trường pháp lý lành mạnh, ổn định cho sự phát triển của một ngành công nghiệp dịch vụ quan trọng và cần thiết. 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO CÁC VĂN BẢN PHÁP LÝ [1] Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 1999. [2] Pháp lệnh Quảng cáo 2001. [3] Nghị định số 24/2003/NĐ-CP ngày 13/03/2003 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Quảng cáo. [4] Thông tư của Bộ Văn hóa – Thông tin số 43/2003/TT-BVHTT ngày 16/07/2003 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 24/2003/NĐ/CP. [5] Luật Cạnh tranh 2004. [6] Thông tư của Bộ Văn hóa – Thông tin số 79/2003/TT-BVHTT ngày 08/12/2005 sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư số 43/2003/TT- BVHTT. [7] Luật Thương mại 2005. [8] Nghị định số của Chính phủ số 37/2006/NĐ-CP ngày 04/04/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại. [9] Nghị định của Chính phủ số 56/2006/NĐ-CP ngày 06/06/2006 về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa – thông tin. [10] Thông tư liên tịch số 10/2006/TTLT/BYT-BTM-BVHTT-UBDSGĐTE ngày 25/08/2006 hướng dẫn thi hành Nghị định số 21/2006/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh và sử dụng các sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ. [11] Dự thảo 2.3 Thông tư hướng dẫn về quảng cáo thương mại trên các phương tiện điện tử. [12] Dự thảo 3.0 Thông tư về quảng cáo thương mại bằng thư điện tử. [13] Văn kiện Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp 1979. 103 SÁCH, TẠP CHÍ VÀ TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU [14] Bộ Văn hóa – Thông tin (2005), Một số vấn đề về thực trạng quảng cáo ở Việt Nam và những chính sách của Việt Nam đối với quảng cáo nước ngoài. [15] Bộ Văn hóa – Thông tin (2005), Tài liệu sưu tầm Pháp luật quảng cáo của một số nước trên thế giới. [16] Biểu giá quảng cáo thực hiện năm 2005 trên VTV, Ban hành kèm theo Quyết định số 1350/THVN-QC ngày 12/11/2004. [17] Nguyễn Mạnh Chiến, Quản lý hoạt động quảng cáo, Phòng Quảng cáo, Cục Văn hóa – Thông tin cơ sở, Bộ Văn hóa – Thông tin. [18] Cục Văn hoá - Thông tin cơ sở, Bộ Văn hoá - Thông tin (2003), Báo cáo tổng kết công tác năm 2003 của Phòng văn hoá thông tin cơ sở. [19] Arman Dayan (2002), Nghệ thuật quảng cáo, NXB Thế giới. [20] PGS.TS. Nguyễn Bá Diến (1997), Pháp luật về chống quảng cáo không trung thực ở Việt Nam và một số nước trên thế giới, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 10/1997. [21] Nguyễn Thị Dung (2005), Khái niệm “quảng cáo” trong pháp luật Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến việc hoàn thiện pháp luật về quảng cáo, Tạp chí Luật học số 12/2005. [22] Trần Văn Dũng (2004), Một số vấn đề về Tội quảng cáo gian dối theo quy định của pháp luật hình sự 1999, Tạp chí Tòa án Nhân dân số 22, 11/2004. [23] Đỗ Thị Thanh Thuỷ, Pháp luật điều chỉnh hoạt động quảng cáo không trung thực xâm phạm đến lợi ích của người tiêu dùng, Khoá luận tốt nghiệp. [24] Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (2001), Cẩm nang sở hữu trí tuệ, 130 - 131, 259 – 260. 104 [25] Tổng cục Thống kê (2006), Thông cáo báo chí về số liệu thống kê kinh tế – xã hội năm 2005. [26] Trường Đại học Ngoại thương (2000), Giáo trình marketing lý thuyết, NXB Giáo dục, 146 – 152, Hà Nội. [27] Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa (1998), Đại từ điển kinh tế thị trường (dịch của Trung Quốc), 830, Hà Nội. [28] Otto Kleppner, J. Thomas Russel, W. Ronald Lane (2002), Kleppner’s Advertising Procedure, Prentice Hall Publisher, 2- 53, 166 – 387, New Jersey. BÀI BÁO VÀ THÔNG TIN TỪ CÁC WEBSITE [29] Doanh nghiệp quảng cáo coi thường pháp luật, Báo pháp luật, 23/06/2003. [30] Phạm Ngọc, Hoạt động quảng cáo: Bất cập từ hai phía doanh nghiệp và Nhà nước, Thanh niên, 25/03/2005. [31] Phạm Hải, Quảng cáo Việt Nam bao giờ hết “đánh thuê”?, Hà Nội mới, 03/042005. [32] Nâng tầm hoạt động quảng cáo, Thời báo Kinh tế Việt Nam, 15/04/2005. [33] Dân Ký, Quảng cáo – cần một cái nhìn toàn diện, Hà Nội mới, 14/05/2005. [34] Xuân Thái , Hoạt động quảng cáo nhỏ bé và manh mún, Sài Gòn Giải Phóng 10/07/2005. [35] Quảng cáo Việt Nam thua ngay trên sân nhà, Sài Gòn Giải Phóng, 01/08/2005. [36] 2005 ad revenue seen at VND 5 trillion, Sai Gon Times Daily, 19/12/2005. [37] Xuân Thái, Lộn xộn quảng cáo ngoài trời, Sài Gòn giải phóng, 10/02/2006. [38] Hà Nội sẽ quy hoạch điểm quảng cáo, Phụ nữ Việt Nam, 01/08/2006. [39] Tiến Tài, Rào cản lớn nhất là cách nhìn nhận, Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 40-2006, 28/09/2006. 105 [40] www.vneconomy.com.vn, Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam sẽ làm gì?, 14/05/2001. [41] www.vnexpress.net, Hoạt động quảng cáo, khiêu vũ cần có quy hoạch đồng bộ, 10/05/2003. [42] www.vneconomy.com.vn, “Không thể có cái gọi là quảng cáo phi thương mại”, 24/02/2005. [43] www.vnn.vn, Quảng cáo, chuyện bao giờ mới nói hết?, 10/04/2005. [44] www.vnexpress.net, Công ty Kim Đan phải xin lỗi đối thủ cạnh tranh, 03/07/2005. [45] www.vnexpress.net, Những kiểu quảng cáo có vấn đề, 15/10/2005. [46] www.vnexpress.net, Doanh nghiệp muốn quảng cáo trên xe buýt, 18/11/2005. [47] www.vneconomy.com.vn, ADB: Việt Nam là ngôi sao của Đông Nam Á, 06/09/2006. [48] www.mot.gov.vn, Diễn đàn Bộ Thương mại, 12/10/2006. 106 MỤC LỤC Lời nói đầu ................................................................................................................ 1 Chƣơng I: Những vấn đề lý luận chung về quảng cáo và pháp luật quảng cáo .... 4 I. Khái quát chung về quảng cáo ........................................................................... 4 1. Khái niệm quảng cáo và các phương tiện quảng cáo ................................. 4 1.1. Khái niệm quảng cáo ...................................................................... 4 1.2. Các phương tiện quảng cáo ............................................................ 6 2. Quy trình quảng cáo ............................................................................... 13 II. Vai trò của quảng cáo .................................................................................... 17 1. Khái quát về lịch sử và quá trình phát triển của quảng cáo ..................... 17 2. Vai trò của quảng cáo trong nền kinh tế thị trường ................................. 19 2.1. Vai trò của quảng cáo đối với người tiêu dùng ............................. 21 2.2. Vai trò của quảng cáo đối với doanh nghiệp ................................. 22 2.3. Vai trò của quảng cáo đối với xã hội ............................................ 23 III. Vấn đề pháp luật về quảng cáo ...................................................................... 23 1. Tóm tắt sự hình thành và phát triển của pháp luật về quảng cáo của Việt Nam ........................................................................................................... 23 1.1. Giai đoạn trước năm 1994 ............................................................ 23 1.2. Giai đoạn từ năm 1994 đến 2001 ................................................. 24 1.3. Giai đoạn từ năm 2001 đến nay .................................................... 26 2. Pháp luật về quảng cáo và một số vấn đề có liên quan ............................ 28 2.1. Pháp luật quảng cáo với vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 28 2.2. Pháp luật quảng cáo với vấn đề cạnh tranh không lành mạnh ....... 29 2.3. Pháp luật quảng cáo với vấn đề bảo vệ văn hóa, thuần phong mỹ tục, đạo đức xã hội ..................................................................................... 30 2.4. Pháp luật quảng cáo với vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ......... 32 Chƣơng II: Đánh giá thực trạng những bất cập về pháp luật quảng cáo của Việt Nam trong thời gian qua ........................................................................................ 34 I. Khái quát thực trạng hoạt động quảng cáo của Việt Nam trong thời gian qua ... 34 1. Thực trạng phát triển của ngành công nghiệp quảng cáo Việt Nam......... 34 2. Một số vi phạm trong hoạt động quảng cáo thời gian qua ....................... 36 107 2.1. Quảng cáo vi phạm nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 36 2.2. Quảng cáo vi phạm nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh .................. 38 2.3. Quảng cáo không phù hợp với văn hóa, thuần phong mỹ tục, đạo đức xã hội của Việt Nam ................................................................................................. 39 2.4. Quảng cáo vi phạm quyền sở hữu trí tuệ ....................................... 40 2.5. Một số vi phạm khác trong hoạt động quảng cáo ngoài trời .......... 41 II. Đánh giá những vấn đề bất cập về pháp luật quảng cáo của Việt Nam ............ 42 1. Về khái niệm quảng cáo ......................................................................... 42 2. Về các chủ thể tham gia trong hoạt động quảng cáo ............................... 44 2.1. Người kinh doanh dịch vụ quảng cáo ........................................... 44 2.2. Người phát hành quảng cáo .......................................................... 47 3. Về sản phẩm quảng cáo .......................................................................... 48 3.1. Nội dung quảng cáo...................................................................... 48 3.2. Hình thức quảng cáo .................................................................... 50 4. Về phương tiện quảng cáo ...................................................................... 51 4.1. Quảng cáo trên đài phát thanh, truyền hình ................................... 52 4.2. Quảng cáo trên báo in ................................................................... 53 4.3. Quảng cáo ngoài trời .................................................................... 54 4.4. Quảng cáo trên phương tiện điện tử .............................................. 56 5. Những hành vi bị nghiêm cấm và xử lý vi phạm trong quảng cáo ........... 57 6. Quản lý Nhà nước về hoạt động quảng cáo ............................................. 59 6.1. Nội dung quản lý Nhà nước về quảng cáo .................................... 59 6.2. Thẩm quyền quản lý Nhà nước về quảng cáo ............................... 60 6.3. Giấy phép thực hiện quảng cáo ..................................................... 61 III. Đánh giá nguyên nhân của những bất cập ...................................................... 62 1. Quảng cáo là một hoạt động mang tính linh hoạt cao .............................. 62 2. Cách nhìn nhận chưa đúng về quảng cáo ................................................ 63 3. Những khó khăn trong quá trình triển khai và thực thi pháp luật............. 65 4. Hạn chế trong kỹ thuật lập pháp ............................................................. 67 Chƣơng III: Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về quảng cáo của Việt Nam trong thời gian tới ................................................................................................... 68 I. Phương hướng chung hoàn thiện pháp luật về quảng cáo của Việt Nam ........... 68 108 1. Dự báo sự phát triển của ngành quảng cáo Việt Nam trong thời gian tới 68 2. Phương hướng chung hoàn thiện pháp luật về quảng cáo........................ 72 2.1. Cần làm rõ khái niệm quảng cáo .................................................. 73 2.2. Đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất giữa các văn bản luật và sự phù hợp với luật pháp quốc tế ........................................................................... 73 2.3. Bảo đảm quyền và lợi ích của người sản xuất, người kinh doanh và người tiêu dùng cũng như bảo vệ văn hoá, thuần phong mỹ tục, đạo đức xã hội .................................................................................................. 74 2.4. Hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động quảng cáo ........................... 76 2.5. Tổ chức hệ thống quản lý về quảng cáo khoa học, hợp lý ............. 76 II. Giải pháp hoàn thiện pháp luật quảng cáo của Việt Nam trong thời gian tới ... 77 1. Nhóm giải pháp vĩ mô ............................................................................ 78 1.1. Giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước ......... 78 1.1.1. Thống nhất một cơ quan quản lý Nhà nước về quảng cáo ... 78 1.1.2. Đơn giản hóa thủ tục xin Giấy phép thực hiện quảng cáo ... 80 1.1.3. Phát huy vai trò của Hiệp hội Quảng cáo ............................ 82 1.2. Giải pháp hoàn thiện một số nội dung pháp lý cụ thể .................... 83 1.2.1. Về khái niệm quảng cáo ..................................................... 83 1.2.2. Về nội dung và hình thức quảng cáo ................................... 85 1.2.3. Về phương tiện quảng cáo .................................................. 86 1.2.4. Về những hành vi bị nghiêm cấm trong quảng cáo và biện pháp xử lý .................................................................................... 90 2. Nhóm giải pháp vi mô ............................................................................ 91 2.1. Nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật .................... 91 2.2. Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ......................... 93 2.3. Tăng cường hợp tác quốc tế.......................................................... 94 2.4. Tích cực sử dụng các yếu tố truyền thống trong quảng cáo ........... 95 Kết luận ................................................................................................................... 97 Tài liệu tham khảo .................................................................................................. 98

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3512_0652.pdf
Luận văn liên quan