Đề tài Phát triển bền vững ngành cà phê ở Tây Nguyên

Cây cà phê gắn liền với đời sống của người dân ở Tây Nguyên và giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh Tây Nguyên. Trong nhiều năm qua, cây cà phê là một trong những sản phẩm chính làm thay đổi thu nhập và mức sống của đa số người dân Tây Nguyên. Cây cà phê góp phần trực tiếp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm cho lao động phổ thông, định canh - định cư và xóa đói giảm nghèo cho đại đa số đồng bào dân tộc thiểu số. Nhưng việc phát triển cà phê ở Tây Nguyên cũng đang đối mặt với những khó khăn, thách thức trước mắt cũng như trong dài hạn. Người nông dân đổ xô phát triển diện tích cây cà phê tràn lan đang dẫn đến nguy cơ suy kiệt nguồn nước ngầm vốn là tài nguyên khan hiếm của Tây Nguyên, nạn chặt phá rừng hủy hoại môi trường sinh thái ngày càng trầm trọng. Việt nam đứng thứ hai về sản lượng xuất khẩu cà phê nhưng chưa có thương hiệu cà phê nổi bật trên thị trường cà phê quốc tế, chất lượng cà phê và giá xuất khẩu kém hơn sản phẩm cà phê của nhiều nước Để cà phê Tây Nguyên có thể phát triển mạnh mẽ hơn, vươn ra khỏi quy mô hiện tại, đòi hỏi phải có một chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và lâu dài. Mục tiêu trọng tâm của đề tài này hướng vào việc đề xuất xây dựng một chiến lược phát triển thương hiệu và những kiến nghị về chiến lược phát triển bền vững cho ngành cà phê ở Tây Nguyên

doc13 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8144 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phát triển bền vững ngành cà phê ở Tây Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGÀNH CÀ PHÊ Ở TÂY NGUYÊN LỜI MỞ ĐẦU Cây cà phê gắn liền với đời sống của người dân ở Tây Nguyên và giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh Tây Nguyên. Trong nhiều năm qua, cây cà phê là một trong những sản phẩm chính làm thay đổi thu nhập và mức sống của đa số người dân Tây Nguyên. Cây cà phê góp phần trực tiếp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm cho lao động phổ thông, định canh - định cư và xóa đói giảm nghèo cho đại đa số đồng bào dân tộc thiểu số. Nhưng việc phát triển cà phê ở Tây Nguyên cũng đang đối mặt với những khó khăn, thách thức trước mắt cũng như trong dài hạn. Người nông dân đổ xô phát triển diện tích cây cà phê tràn lan đang dẫn đến nguy cơ suy kiệt nguồn nước ngầm vốn là tài nguyên khan hiếm của Tây Nguyên, nạn chặt phá rừng hủy hoại môi trường sinh thái ngày càng trầm trọng. Việt nam đứng thứ hai về sản lượng xuất khẩu cà phê nhưng chưa có thương hiệu cà phê nổi bật trên thị trường cà phê quốc tế, chất lượng cà phê và giá xuất khẩu kém hơn sản phẩm cà phê của nhiều nước… Để cà phê Tây Nguyên có thể phát triển mạnh mẽ hơn, vươn ra khỏi quy mô hiện tại, đòi hỏi phải có một chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và lâu dài. Mục tiêu trọng tâm của đề tài này hướng vào việc đề xuất xây dựng một chiến lược phát triển thương hiệu và những kiến nghị về chiến lược phát triển bền vững cho ngành cà phê ở Tây Nguyên. I. THỰC TRẠNG NGÀNH CÀ PHÊ Ở TÂY NGUYÊN: Năm 2008 Việt Nam có 530,9 ngàn hecta cà phê, xuất khẩu hơn 954 ngàn tấn cà phê, là nước đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Brazil về sản lượng cà phê xuất khẩu, đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1,95 tỷ USD. Tính trung bình cả năm 2008, giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam đạt 2,044 USD/ tấn, có lúc lên đỉnh điểm là 2,240 USD/ tấn ,tăng 31% so với năm 2007. Mới đây, Ngân hàng Thế giới (WB) cũng dự báo giá cà phê robusta trong năm 2010 sẽ đứng ở mức 1,470 USD/tấn (tính theo giá trị đồng Đô la năm 2000), tăng khoảng 6,5% so với năm 2009. Kim ngạch cà phê xuất khẩu Việt Nam năm 2009 và quý I năm 2010 (Nguồn:lấy từ trang Trong đó các tỉnh Tây Nguyên có trên 450 ngàn hecta cà phê chiếm hơn 75% diện tích đất trồng và sản lượng cà phê của cả nước, giải quyết việc làm cho trên 700 ngàn lao động và đóng góp từ 30% đến 40% vào GDP hằng năm của các tỉnh trong vùng. Tỷ trọng cà phê Tây Nguyên so với cả nước Diện tích (ha) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Cả nước 561.900 565.300 522.200 510.200 496.800 497.400 497.000 506.400 Tây Nguyên 403.128 399.964 378.400 374.149 369.379 374.603 379.282 389.229 Tỷ trọng 72% 71% 72% 73% 74% 75% 76% 77% (Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê các tỉnh Tây Nguyên và Niên giám thống kê 2007-Nhà xuất bản Thống kê). Sản Lượng (tấn) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Cả nước 802.500 840.600 699.500 793.700 836.000 752.100 985.300 961.200 Tây Nguyên 612.776 624.976 505.525 657.646 655.275 589.747 819.511 735.757 Tỷ trọng 76% 74% 72% 83% 78% 78% 83% 77% (Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám Thống kê-Nhà xuất bản Thống kê 2007) Ở khu vực Tây Nguyên thì Đắc Lắc là địa phương có diện tích cà phê nhiều nhất, với trên 185 ngàn hecta, trong đó có 173,4 ngàn hecta cà phê kinh doanh cho sản phẩm, kế đến là tỉnh Lâm Đồng, với diện tích cho thu hoạch 128,289 ngàn hecta, diện tích cà phê còn lại là các tỉnh Gia Lai, Đắk Nông. Sự mở rộng diện tích trồng cà phê đặc biệt ở khu vực Tây Nguyên góp phần làm cho Việt Nam nhanh chóng trở thành quốc gia đứng thứ hai trên thế giới (sau Brazil) trong việc xuất khẩu cà phê, tạo được nhiều việc làm, tăng thu nhập, góp phần cải thiện đời sống của người lao động, đặc biệt là đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên. Tuy nhiên cũng như các sản phẩm nông nghiệp khác, năng suất cà phê chịu sự ảnh hưởng rất lớn của thời tiết. Khi nóng hạn, không đủ nước thì cây cà phê không ra hoa hoặc chết, khi sương muối nhiều thì hạt lép, nhỏ… do đó, sản lượng của cà phê cũng tăng giảm theo vụ mùa và từ đó ảnh hưởng đến giá cả. Ví dụ như năm 2007, sản lượng cà phê trên toàn thế giới giảm trên 10,6 ngàn bao so với năm 2006, tương đương 636 ngàn tấn thì giá tăng, kéo theo thị trường trong nước tăng giảm không ổn định Ngoài ra chất lượng của sản phẩm từ cà phê vẫn luôn là một vấn đề nan giải đối với ngành cà phê Tây Nguyên nói riêng và cà phê Việt Nam nói chung.Với chủng loại chủ yếu là Robusta (cà phê vối), giá cà phê của Việt Nam thấp hơn giá cà phê của một số nước trên thế giới (Brazil, Colombia, Costa Rica…). Bên cạnh đó cà phê xuất khẩu của Việt Nam luôn bị phàn nàn về chất lượng xấu, có lúc bị thải loại đến 60%, giá bị giảm 100 USD-200 USD/tấn, có lúc lên đến 600 USD/tấn tại London. Lượng cà phê robusta được cấp chứng nhận chất lượng London ngày càng ít, khiến có lúc cà phê Việt Nam bị tồn kho tại London lên đến 400 ngàn tấn vào cuối năm 2007, đầu 2008. Xét riêng trong những tháng gần đây của năm 2010, trong khi dự đoán giá cà phê trên thế giới đang trên đà tăng lên thì cà phê Tây Nguyên trong mấy tháng vừa qua lại gặp phải sự thay đổi liên tục về giá, điển hình là giá cà phê nhân trên thị trường (lúc tăng – đạt khoảng 35.000 đồng/kg– 39.000 đồng/kg, lúc thấp – chỉ còn không đến 20.000 đồng/kg và giá thường chỉ ở mức chỉ khoảng 25.000 đồng/kg) đã khiến cho không ít hộ nông dân tỏ ra chán nản, không còn quá mặn mà với loại cây trồng này như trước đây. Bên cạnh đó, theo dự báo giá cà phê sẽ tiếp tục giảm xuống (hiện đang dao động ở mức 28.000 đồng/kg – 30.000 đồng/kg) khi hai quốc gia khá hùng mạnh về cà phê là Brazil và Colombia đang bắt đầu vào vụ thu hoạch mới trong năm nay, thậm chí đã có nhiều người lo ngại rằng giá cà phê năm 2010 sẽ rớt giá xuống còn 3000 đồng/kg - 4000 đồng/kg như cách đây 10 năm. Cũng như đặc điểm của các loại nông sản khác thì cà phê Tây Nguyên từ trước đến nay luôn có tình trạng mất mùa thì được giá, được mùa thì mất giá, tuy nhiên, trong năm nay, tuy bị mất mùa nhưng giá của cà phê vẫn bị giảm. Rõ ràng, cà phê Tây Nguyên hiện nay đang đứng trước rất nhiều khó khăn. Khoan hãy nói về việc cà phê Tây Nguyên cũng như cà phê Việt Nam không tạo được một thương hiệu nổi bật trên thị trường thế giới, mà việc người nông dân trồng cà phê Việt Nam phải đối mặt với việc giá cả không ổn định, mùa vụ bị sâu bệnh đe dọa,…đã, đang và sẽ là một bài toán làm đau đầu các nhà quản lý. II. NHỮNG HẠN CHẾ TRONG NGÀNH CÀ PHÊ Ở TÂY NGUYÊN: Bên cạnh những đóng góp quan trọng của mình trong việc phát triển kinh tế- xã hội thì ngành sản xuất cà phê ở Tây Nguyên nói riêng và ở Việt Nam nói chung vẫn còn những hạn chế, yếu kém và khó khăn từ giai đoạn quy hoạch, cải tạo giống, trồng trọt, thu hoạch đến giai đoạn bảo quản và chế biến cà phê sau thu hoạch… Chính những điều này là nguyên nhân dẫn đến việc giá trị xuất khẩu cà phê Việt Nam chưa cao cho dù sản lượng cà phê xuất khẩu đứng thứ hai trên thế giới và cà phê Việt Nam chưa tạo được cho mình một thương hiệu nổi bật trên thị trường thế giới. 1. Vấn đề về giống cây trồng: Hiện nay, đa số các loại giống ở Việt Nam cho năng suất và chất lượng không cao, bị sâu bệnh nhiều. Tuy nhiên Nhà nước vẫn chưa quan tâm và đầu tư đúng mức cho việc cải tạo giống mới. Diện tích trồng bị chênh lệch giữa 2 loại giống Robusta (cà phê vối) và Arabica (cà phê chè) quá lớn trong khi cây cà phê Robusta có chất lượng kém hơn cây cà phê Arabica. Mặt khác, người dân trồng cà phê thì vẫn làm theo kinh nghiệm, trồng trọt nhỏ, lẻ, manh mún chủ yếu vẫn trồng các loại giống cũ đã qua nhiều năm sử dụng nên mức độ thoái hóa cao, năng suất thấp. Kiến thức người dân về chuyên môn không cao, vấn đề thâm canh cây cà phê còn hạn chế. Trong khi đó thị trường thế giới thì bấp bênh nên tâm lý người dân luôn lo sợ đầu ra dẫn đến việc trồng rồi chặt bỏ rồi lại trồng lại là vấn đề thường xuyên. Do đó,việc đầu tư cho giống còn nhiều hạn chế. 2. Vấn đề về suy thoái đất trồng cà phê: Tài nguyên đất là lợi thế to lớn của Tây Nguyên. Với diện tích đất đỏ bazan chiếm 25% diện tích đất tự nhiên, kết hợp với đặc điểm về độ cao và khí hậu rất phù hợp với những cây công nghiệp dài ngày. Tuy nhiên trong quá trình canh tác chúng ta đã tập trung thâm canh cao độ, kết hợp với việc bón một lượng phân hóa học quá lớn, tập trung mà thiếu phân hữu cơ và sử dụng quá nhiều loại thuốc bảo vệ thực vật đã làm cho dinh dưỡng của những mảnh đất trồng cà phê bị bạc màu, xói mòn. Đến khi cây cà phê già cỗi, người nông dân phải chặt đi nhưng không thể trồng lại những lần sau vì cây cà phê mới khi phát triển tới năm thứ hai, thứ ba thì bị chết vì hiện tượng táp lá, khô rễ. 3. Vấn đề suy kiệt nguồn nước ngầm tại Tây Nguyên hiện nay: Báo cáo đoàn khảo sát của Bộ Tài Nguyên và Môi trường cho biết, mực nước ngầm tại các khu vực được khảo sát như: huyện Krông Pách, Krông Búc, Lắc (tỉnh Đắc Lắc), Đắc Min, Đắc Song, Cư Jút (tỉnh Đắc Nông), Chư Xuê (tỉnh Gia Lai)...đang suy giảm nghiêm trọng, giảm từ 3m- 5m so với trước đây. Cụ thể, tại các huyện trong diện khảo sát ở Đắc Lắc, từ những năm 2006 trở về trước, có thể khai thác tối đa 0,6 triệu mét khối/ngày thì nay chỉ còn chưa đầy 0,4 triệu mét khối/ngày. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trên là do tình trạng biến đổi khí hậu khiến mùa khô kéo dài, mùa mưa ngắn đi đã làm cho lượng nước bổ sung cho nguồn nước ngầm ngày càng ít đi. Đồng thời diện tích rừng ở Tây Nguyên ngày càng bị thu hẹp, lớp phủ bề mặt đất cũng giảm, diện tích trồng cà phê được mở rộng một cách nhanh chóng nên làm cho việc khai thác nguồn nước ngầm trở nên quá mức làm mạch nước ngầm ở khu vực Tây Nguyên ngày càng tụt giảm. 4. Vấn đề bảo quản, chế biến cà phê sau thu hoạch: Có một thực tế tồn tại trong ngành sản xuất và chế biến cà phê ở Việt Nam là người dân chỉ tập trung nguồn vốn lớn phát triển diện tích vườn cây, tập trung thâm canh để đạt năng suất cao, sản lượng nhiều, nhưng không quan tâm đến việc đầu tư cho việc xử lý sau thu hoạch nên chất lượng sản phẩm chưa được nâng cao. Về kỹ thuật thu hái cà phê: Từ trước đến nay nông dân trồng cà phê có thói quen thu hoạch một lần, tức là hái hết quả cà phê không phân biệt quả xanh, quả non, quả nẫu, quả khô bởi vì diện tích trồng cà phê rộng lại sử dụng lao động chân tay là chủ yếu nên không đủ lao động để thu hoạch có chọn lọc. Mặt khác các doanh nghiệp vẫn tiếp tục thu mua cà phê quả xanh. Về kỹ thuật bảo quản, phơi sấy, chế biến: Đây là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng cà phê khô nguyên liệu không cao. Cà phê sau thu hoạch với số lượng lớn nên thường không đủ sân bãi để phơi, Vì không có sân phơi có khi cà phê quả tươi chất đống nhiều ngày trên nền đất làm cho quả bị ẩm mốc, đen hạt và hấp mùi của đất và tạp chất làm biển đổi thành phần dinh dưỡng trong hạt. Ngoài ra, phương pháp chế biến cà phê của nước ta còn thô sơ, lạc hậu, doanh nghiệp sản xuất chế biến chủ yếu tập trung ở một số công đoạn như: sơ chế đánh bóng cà phê xuất khẩu, rang xay sản xuất cà phê bột với quy mô nhỏ lẻ, giá trị và hiệu quả kinh tế mang lại chưa cao. Qui mô tổ chức sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ và phần lớn chưa đạt yêu cầu về chất lượng công nghệ nên sản phẩm có tỷ lệ tạp chất và độ ẩm cao, điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được quan tâm. 5. Vấn đề xây dựng thương hiệu cà phê Việt trên thị trường thế giới: Việt Nam là quốc gia có sản lượng cà phê xuất khẩu lớn thứ hai thế giới chỉ đứng sau Brazil. Nhưng thương hiệu cà phê Việt Nam vẫn chưa tương xứng với tầm diện tích và sản lượng , thậm chí còn chưa được các doanh nghiệp cũng như nhà nước chú ý quan tâm. Ở nhiều khía cạnh khác nhau, tồn tại rất nhiều vấn đề trong quá trình xây dựng thương hiệu cà phê Việt Nam hiện nay trên thị trường thế giới. Doanh nghiệp sản xuất nước ta đi ngược lại với con đường mà thế giới đã đi, trong khi các doanh nghiệp trên thế giới xây dựng thương hiệu cà phê và tiêu thụ sản phẩm trong nước trước sau khi đã có danh tiếng thì mới xuất khẩu sang nước ngoài, với cách làm đó đem lại hiệu quả rất cao lợi nhuận từ chuyển nhượng thương hiệu là rất lớn. Còn ở nước ta thì ngược lại, ta xuất khẩu tìm lợi nhuận trước sau đó mới quay lại xây dựng thương hiệu. Mặt khác, tuy sản lượng cà phê Việt Nam dồi dào nhưng chất lượng kém, tạp chất cao, hạt vỡ nhiều, màu sắc không đồng đều, độ chín chưa tốt đó là bất cập lớn nhất trong vấn đề khẳng định thương hiệu, đồng thời trên thương trường quốc tế chính điều này đã làm giảm giá trị cà phê Việt Nam. Ngoài ra, vấn đề kĩ thuật chế biến và phương pháp đánh giá chất lượng sản phẩm cà phê còn kém. Đánh giá theo tiêu chuẩn cũ năm 1993 TCVN4193-93 đã gây nhiều khó khăn, trong khi trên thị trường thế giới đánh giá theo tiêu chuẩn ISO 1047-2004 với tiêu chuẩn cao hơn. Thị trường sử dụng cà phê trong nước chưa xứng với tiềm năng dân số trên 80 triệu, sử dụng khoảng 10% sản lượng cà phê làm cho các doanh nghiệp trong nước khó khăn trong việc xây dựng và mở rộng nhãn hiệu để đi đến xây dựng thương hiệu cà phê của mình. Một vấn đề đặt ra nữa là, do nguồn tài chính hạn hẹp của các doanh nghiệp trong nước nên việc đầu tư cho quảng bá thương hiệu ra thị trường quốc tế gặp nhiều khó khăn. Đội ngũ nhân viên marketing có khả năng và tầm vóc chiến lược còn hạn chế. III. ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP CHO VIỆC PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGÀNH CÀ PHÊ Ở TÂY NGUYÊN: 1. Vấn đề về giống cây trồng: Với những bất cập đã nêu trên, nhóm chúng tôi xin đề ra một vài định hướng giải pháp về giống cà phê để nâng cao tính bền vững cho cà phê xuất khẩu của Việt Nam. Nhà nước và chính quyền các địa phương cần quy hoạch các vùng cà phê với giống đồng nhất phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng. Đầu tư thường xuyên cho việc tạo ra những giống mới để người dân thay thế các giống cũ lâu năm có năng suất thấp, giống mới phải phù hợp với khí hậu, vùng đất, năng suất cao, và quan trọng nhất là được thị trường thế giới ưa chuộng. Quan tâm tới việc nghiên cứu lai tạo giống mới để những giống cà phê chất lượng cao như Arabica có thể sinh trưởng và phát triển tốt trong điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng của khu vực Tây Nguyên thay thế cho giống cà phê Robusta hiện nay có chất lượng không cao. Gần đây, một số tỉnh như Đồng Nai, Lâm Đồng có đề xuất một số loại giống tốt phù hợp với nhu cầu thị trường như TR5,TR6 cho năng suất cao từ 6 đến 7 tấn trên một hecta, giống TS1, TS2, TS4 là 3 dòng cà phê Robusta được chọn lọc vô tính vừa được trung tâm nghiên cứu và chuyển giao kĩ thuật cây ăn quả và cây công nghiệp thuộc sở Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn tỉnh Lâm Đồng tuyển chọn thử nghiệm và khuyến khích nông dân trồng. Ngoài ra còn một số giống mới như TR4,TR9,TR11 để thay thế cà phê Robusta kém hiệu quả hiện nay. Giống cà phê cho năng suất cao,chất lượng tốt là cái mà Việt Nam đang cần để cải thiện vị trí của mình trên thương trường quốc tế. Ngoài ra,nên tăng cường bổ túc kiến thức cho người dân trồng cà phê về vấn đề chăm sóc, bón phân,tưới nước, thu hoạch để cho đảm bảm chất lượng cà phê tốt. Tăng cường nguồn vốn vay tín dụng để cho người dân có cơ hội tiếp cân, mua các loại giống tốt. 2. Vấn đề bảo vệ đất trồng cà phê: Bảo vệ đất chống lại các tác nhân thiên nhiên, nhất là chống xói mòn đất do nước mưa là rất quan trọng trong việc trồng cà phê. Sau đây là những biện pháp chính có thể áp dụng khi trồng cà phê: Che phủ đất: Nên trồng phủ đất bằng các loại cây họ Đậu. Do các cây này đáp ứng được nhu cầu về chất lượng: dễ trồng, mọc mạnh, sức chống chịu cao, tán rộng, lớp phủ dày. Cây thường được cắt giữa hàng cà phê và tủ xung quanh gốc cà phê. Tủ rơm: là phủ đất bằng một lớp rơm cỏ dày. Ngoài tác dụng chống xói mòn, lớp phủ khô còn nhiều lợi ích khác. Nó mang đến chất hữu cơ, tạo một lớp màng bảo vệ làm giảm sự mất nước do thoát hơi nước và ngăn cản không cho các loại cỏ dại phát triển. Cách thức canh tác: Tại vùng nhiệt đới, nhất là những vùng đất dốc cần áp dụng một số biện pháp canh tác để bảo vệ đất. Tránh cày, cuốc (dù nhẹ) trong mùa mưa ở những vùng đất nhẹ. Chú ý chăm sóc trên khoảng cách giữa hàng cà phê. Như trên đã trình bày, trong một số điều kiện, trồng cây phân xanh, tủ rơm giúp bảo vệ lớp đất mặt và tránh cỏ dại. Một biện pháp hỗn hợp là tăng cường lớp phủ mặt đất bằng cách gieo hạt một số cây họ Đậu có thân bò trên mặt đất. Ngoài ra cần phải khuyến khích nông dân sử dụng phân hữu cơ để bón cho cây cà phê. Tránh việc sử dụng phân bón hóa học tràn lan với lượng lớn. Đồng thời giảm việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật một cách tùy tiện để tránh gây bạc màu cho đất. 3. Vấn đề bảo vệ nguồn nước ngầm: Nguồn nước ngầm ở Tây Nguyên bị suy kiệt hiện nay đang trong tình trạng rất đáng báo động. Bởi vậy, các cơ quan chức năng, các nhà khoa học cần đề xuất các tỉnh Tây Nguyên phải tăng nhanh diện tích rừng trồng, không nên tăng diện tích trồng cà phê một cách quá nhanh chóng và ồ ạt như hiện nay. Phải chủ động hơn trong việc quy hoạch, khai thác, sử dụng nguồn nước ngầm hợp lý để phục vụ tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn. 4. Vấn đề bảo quản, chế biến cà phê sau thu hoạch: Về kỹ thuật thu hái cà phê: Để có chất lượng thu hoạch cao hơn cần áp dụng mức giá cà phê chuẩn và rồi mức giá này sẽ hạ thấp cho các bao cà phê có nhiều trái xanh và nâng cao hơn cho các bao cà phê có quả đạt chất lượng. Việc làm này giúp cho nông dân thấy được lợi ích của việc thu hoạch có chọn lọc để họ thay đổi thói quen và khuyến khích doanh nghiệp thay đổi chất lượng đầu vào sản phẩm. Về kỹ thuật bảo quản, phơi sấy, chế biến Các doanh nghiệp cần phải đầu tư hệ thống sân phơi, nhà xưởng, dây chuyền chế biến, sàng, phân loại, hệ thống bắn mầu, máy sấy... theo công nghệ hiện đại. Quản lý chặt chẽ quy trình công nghệ, chú trọng công tác an toàn vệ sinh thực phẩm, vệ sinh môi trường; gắn kết nhà máy chế biến với vùng cung cấp nguyên liệu, các cơ sở chế biến chủ động nguồn nguyên liệu, tăng cường thiết bị hiện đại kết hợp với đào tạo nguồn nhân lực quản lý vận hành nhằm từng bước làm tốt công tác kiểm tra, kiểm soát chất lượng sản phẩm. tiến đến đại đa số các cơ sở sản xuất cà phê có thể đăng ký sản phẩm đạt tiêu chuẩn ISO 9000, HACCP góp phần tăng uy tín sản phẩm cà phê trên thị trường trong nước và thế giới. Về chính sách: tăng cường công tác đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, khuyến khích đầu tư thâm canh, đẩy mạnh công tác khuyến nông đối với cây cà phê, giúp nông dân tiếp thu, áp dụng có hiệu quả vào sản xuất các biện pháp kỹ thuật thâm canh, chuyển đổi ghép cải tạo giống; thực hiện tốt Quyết định 80/TTg vế mối liên kết giữa 4 nhà nhà nông – Nhà nước – Nhà khoa học – Nhà doanh nghiệp) trong việc liên kết sản xuất chế biến và xuất khẩu cà phê; tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc liên kết thu mua nguyên liệu, từng bước chiếm lĩnh và mở rộng thị trường tiêu thụ. 5. Chiến lược quy hoạch trong dài: Nước ta đã xuất khẩu cà phê tới hơn 97 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới; năm 2009 sản lượng cà phê xuất khẩu của ta đạt 1,163 triệu tấn, kim ngạch đạt 1,075 tỉ USD; tăng 2,6 % về số lượng nhưng giảm tới 21,3% về giá trị so với năm 2008. Trong số 10 thị trường nhập khẩu cà phê lớn nhất của nước ta, ngoại trừ thị trường Bỉ và Hà Lan, kim ngạch xuất khẩu của ta ở các nước này giảm rõ rệt từ 5%-45% so với năm 2008. Đầu năm 2010, mặc dù có nhiều dự báo tương đối lạc quan về sự hồi phục kinh tế toàn cầu nói chung và tăng trưởng tiêu thụ cà phê nói riêng, nhưng ngành công nghiệp cà phê Việt Nam đã không tăng trưởng như mong đợi. Ba tháng đầu năm 2010, giá cà phê và sản lượng xuất khẩu của nước ta thấp nhất trong vòng ba năm trở lại đây. Cà phê Việt Nam tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn. Vấn đề đặt ra là phải có chiến lược quy hoạch trong dài hạn để có thể phát triển đều và liên tục. Xây dựng thương hiệu của cà phê Việt Nam: Để làm tốt vấn đề thương hiệu cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới không phải là chuyện một sớm một chiều. Tất cả các vấn đề điều có quá trình và chiến lược đúng đắn là vấn để cần quan tâm hơn Ta phải nắm vững các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng sản phẩm trên thị trường quốc tế, sau đó xây dựng và khuyến khích làm theo tiêu chuẩn đó. Chẳng hạn,đánh giá theo tiêu chuẩn cũ 1993 thì cà phê thu hoạch phải có độ ẩm 13%, tạp chất 1%, hạt đen vỡ 5%, hạt trên sàn 13 đạt 90% trong khi theo tiêu chuẩn của thế giới 2004 đánh giá theo cách cân hạt lỗi, nếu là cà phê chè thì bé hơn 81 lỗi trên 300g với độ ẩm nhỏ hơn 8%, nếu là cà phê vối thì 150 lỗi trên 300g với độ ẩm nhỏ hơn 12,5%. Để làm được điều đó,ta phải đổi mới kĩ thuật công nghệ sau thu hoạch, mở rộng tín dụng cho người dân tham gia sản xuất để họ có đủ khả năng làm được điều đó. Quy hoạch phải có chiến lược tốt, đồng bộ, tập trung để tạo những vùng cà phê đồng nhất làm cơ sở cho vấn đề xây dựng thương hiệu. Đạo tạo đội ngũ quảng bá thương hiệu có tầm nhìn quốc tế,năng động nắm bắt thời cơ tốt và hỗ trợ nguồn vốn cho các doanh nghiệp, vấn đề này là điệu kiện đủ để chúng ta có thể xây dựng thương hiệu. Hiện nay, Việt Nam ta cũng có không ít những thương hiệu nổi tiếng trên thương trường quốc tế ,ví dụ như cà phê G7 của Trung Nguyên với thị trường khoảng 40 nước trên thế giới với hình thưc kinh doanh hệ thống bán nhượng quyền thương hiệu đã đem lại thành quả rõ rệt với lối đi đúng,nắm bắt thời cơ.Đây là mô hình để các doanh nghiệp khác phải học hỏi. Ngoài ra, thương hiệu Moment của Vinamilk cũng với hình thưc kinh doanh này nhưng mới thành lập sau cũng đem lại nhiều thành quả khả quan. Chúng ta không thể không nhắc đến Vinacafe thương hiệu có lâu nhất tại VIệt Nam. Mở rộng các cuộc hội thảo,fatsival cà phê mang tầm vóc khu vực cũng là cách quảng bá thương hiệu tốt hiện nay Một số đặc tính sau cần phải tạo ra cho thương hiệu cà phê Việt Nam như: chất lượng tốt, thân thiện với môi trường theo định hướng phát triển bền vững, phối hợp văn hóa Việt Nam với các đặc điểm văn hóa tiêu dùng thế giới, sử dụng các công nghệ và năng lượng sạch. Chính sách của nhà nước. Nhà nước nên có cơ chế, chính sách khuyến khích nông dân tích tụ đất, hình thành các tổ hợp tác, khuyến khích hình thành các doanh nghiệp nông nghiệp trên cơ sở người dân đóng góp cổ phần bằng giá trị quyền sử dụng đất, giá trị vườn cà phê để tổ chức sản xuất lớn theo hướng bền vững, bảo vệ tài sản, cùng hưởng lợi thông qua sản xuất, chế biến, dịch vụ và hỗ trợ của Nhà nước. Ngoài ra, chính phủ nên tổ chức những hiệp hội để bảo vệ người sản xuất. Những hiệp hội này đóng vai trò là cầu nối trung gian giữa chính phủ với những người trồng cà phê. Chính phủ cũng nên chú ý đến vấn đề khoa học công nghệ vì nó đóng vai trò khá quan trọng. Nên tập trung nghiên cứu, chuyển giao giống cà phê đến người dân, nghiên cứu các giải pháp tưới tiết kiệm nước, phổ biến quy trình tái canh cà phê để cải tạo các vườn cà phê có năng suất, chất lượng thấp, đồng thời, thông qua chương trình khuyến nông, tiến hành đào tạo nông dân về quy trình canh tác bền vững, chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật trong sơ chế, bảo quản cà phê thóc. Nâng cao mức tiêu dùng trong nước Việt Nam với dân số hơn 86 triệu người là một thị trường rộng lớn, đầy tiềm năng mà các nhà sản xuất không thể bỏ qua. Để thương hiệu cà phê trong nước được đông đảo người tiêu dùng biết đến và sử dụng thì chúng ta nên tổ chức các lễ hội, tuần lễ văn văn hoá, giao lưu văn hoá cà phê, tháng cà phê… Tăng cường khả năng dự báo thị trường: Chúng ta cần tiếp cận với những thông tin về dự báo thời tiết tại các quốc gia sản xuất cà phê lớn trên thế giới, hiện tượng sương muối, mưa bão, lũ lụt, hạn hán… và từ đó đưa ra những dự báo chính xác cho thị trường cà phê. Để phân tích và xử lý những thông tin này một cách chính xác thật không dễ chút nào mà rất cần có một tổ chức mang tầm quốc gia, tập hợp những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực phân tích và dự báo thị trường để cung cấp những thông tin mới nhất cho người sản xuất cũng như doanh nghiệp nhằm định hướng sản xuất và xuất khẩu cho cả ngành cà phê Việt Nam. Tiếp tục xúc tiến mở rộng hoạt động kinh doanh cà phê trong và ngoài nước: Các nhà kinh doanh cà phê của Việt Nam phải chủ động tham gia vào lĩnh vực phân phối, tiêu thụ cà phê thế giới chứ không chỉ tiếp tục chỉ là người cung cấp hàng thô. Phải giảm dần khối lượng cà phê thô cung cấp cho các nhà độc quyền, mở rộng dần thị phần cà phê chế biến của Việt Nam và do người Việt Nam cung cấp, doanh nghiệp cà phê Việt Nam cần tăng mức tiếp cận đến người trực tiếp tiêu thụ cà phê trên thế giới. Muốn vậy, ngoài việc tăng thị phần và nâng cao chất lượng cà phê chế biến, Việt Nam nên xây dựng và phát triển mạng lưới bán hàng toàn cầu. Cà phê Việt Nam không thể đủ uy tín để chinh phục thế giới một khi chưa chinh phục được chính người dân Việt Nam. Nghĩa là, các doanh nghiệp trong nước cần mở rộng mạng lưới tiêu thụ cà phê chính tại Việt Nam. Tạo ra hệ thống liên kết trong kinh doanh cà phê trên thị trường nội địa có thể là một trong những định hướng chiến lược kinh doanh chủ yếu của các doanh nghiệp cà phê Việt Nam trong giai đoạn tới. Ngoài ra, phải quảng bá hình ảnh cà phê Việt đến người tiêu dùng trên thế giới bằng việc tổ chức các lễ hội cà phê như Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột được tổ chức 2 lần vào những năm: 2005, 2008 với các hoạt động hữu ích, cũng đã góp phần nâng cao vị thế của cà phê Việt Nam, đưa các sàn giao dịch cà phê Tây Nguyên đi vào hoạt động. Xây dựng những dự án như “Thủ phủ cà phê toàn cầu”, với giai đoạn đầu là “Làng cà phê Trung Nguyên” nhằm xây dựng, quảng bá và thu hút đối tác, bạn hàng liên quan đến kinh doanh, chế biến… cà phê mang thương hiệu Việt. Từ đó, từng bước khẳng định vị thế hàng đầu của cà phê Việt Nam, cũng như lồng ghép thương hiệu cà phê Tây Nguyên với thương hiệu quốc gia. Bên cạnh “Thủ phủ cà phê toàn cầu”, việc Trung Nguyên vừa khởi công xây dựng nhà máy chế biến cà phê với công nghệ hiện đại nhất thế giới vào tháng 6/2009 là bước tiến quan trọng, tiến dần tới việc khẳng định thương hiệu cà phê Việt. Thêm nữa. Có thể nói, đây chính là những việc làm thiết thực của các doanh nghiệp nói chung trong việc tạo dựng thương hiệu cà phê Việt Nam nói chung và vị thế của cà phê Tây Nguyên nói riêng. KẾT LUẬN Bài viết là sự tổng hợp thông tin về thực trạng cà phê Tây Nguyên hiện nay cũng như nêu lên những vấn đề còn hạn chế, bất cập về các yếu tố tác động đến sự phát triển bền vững của cà phê Tây Nguyên. Qua đó, nêu ra một số định hướng giải pháp nhằm góp phần giải quyết những vấn đề còn hạn chế với mong muốn chất lượng, vị thế của cà phê Việt Nam nói riêng và các nông sản Việt Nam nói chung ngày càng được nâng cao và phát triển liên tục, vững chắc , góp phần trực tiếp vào việc nâng cao mức sống, thu nhập của một bộ phận đông đảo nhân dân trong vùng. Trong quá trình thực hiện bài viết, sẽ còn nhiều thiếu sót, nhóm rất mong nhận được ý kiến đóng góp của giáo viên bộ môn để hoàn thiện kiến thức hơn. Chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Tổng cục Thống kê www.gso.gov.vn 2.Niên giám thống kê các tỉnh Tây Nguyên và Niên giám thống kê 2007 3. Báo Lao Động online 4. Trung tâm phát triển thương mại điện tử Cục Thương Mại Điện Tử và Công Nghệ Thông Tin Bộ Công Thương 5. Trang xúc tiến thương mại- Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn 6.Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn 7.Báo điện tử -Thời Báo Kinh Tế Việt Nam 8. Báo điện tử -Thời Báo Kinh Tế Việt Nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhát triển bền vững ngành cà phê ở Tây Nguyên.doc
Luận văn liên quan