Đề tài Phát triển công nghiệp phụ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Như đã phân tích ở trên, CNPT và DNVVN đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Chúng có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. CNPT phát triển thúc đẩy các ngành công nghiệp chính phát triển, nhu cầu về các nhà cung cấp gia tăng do đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ có cơ hội phát triển, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, khẳng định vị trí của mình. Ngược lại, khi bộ phận DNVVN tham gia tích cực vào các ngành CNPT thì với lợi thế của mình chúng thúc đẩy sự chuyên môn hoá ngày càng sâu sắc trong các ngành CNPT từ đó đẩy mạnh sự phát triển của công nghệ.

pdf113 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2204 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển công nghiệp phụ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công ty, luật đầu tư, luật phát triển các DNVVN,… nên có thể yên tâm đầu tư mà không lo ngại gì. Hiện nay các chính sách không còn là vấn đề mới đối với bất cứ nền kinh tế nào. Nhưng nếu xét ở giai đoạn những năm 1980 thì có thể nói chính cái nhìn chung, thống nhất về phát triển CNPT của các nhà lãnh đạo đã làm nên bộ mặt mới cho ngành công nghiệp này ở Trung Quốc. 2. Triển khai đồng bộ và nhanh chóng đồng thời các biện pháp hỗ trợ cho các DNVVN tham gia CNPT. Chúng ta đã biết CNPT là ngành đòi hỏi nhiều vốn và trình độ công nghệ cao. Đây lại là những điểm hạn chế nhất của DNVVN. Vì thế để phát triển CNPT cho các DNVVN không thể chỉ giúp vốn hay công nghệ mà phải đồng thời thực hiện nhiều biện pháp hỗ trợ khác nhau. Điều này chính phủ Trung Quốc đã làm rất tốt từ trung ương đến địa phương. Trung Quốc đã đưa ra cùng lúc và triển khai kịp thời các chính sách như hỗ trợ vốn, công nghệ, thông tin,mặt bằng sản xuất, môi trường kinh doanh, thị trường đầu ra … Để thực hiện đồng thời cùng lúc nhiều chính sách như vậy, đòi hỏi Chính phủ phải có tiềm lực lớn và khả năng kiểm soát tốt. Về điều này, nước ta còn nhiều thua kém và hạn chế so với nước bạn. 2.1. Hỗ trợ về vốn Theo kết quả điều tra của Lin Hanchuan thuộc Học viện kinh tế xã hội Trung Quốc, 53,8% doanh nghiệp được hỏi chọn “khan hiếm vốn” là khó khăn lớn nhất đối với sự phát triển của các DNVVN. Các DNVVN khó có điều kiện tiếp cận với các nguồn vốn trên thị trường tài chính và lượng vốn huy động được không cao. Chính Phủ Trung Quốc đã đưa ra nhiều ưu đãi cho các doanh nghiệp phụ trợ vừa và nhỏ. Cụ thể, các DN được hỗ trợ về nguồn Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 79 vốn, lượng vốn vay, các thủ tục để tiếp cận vốn và các biện pháp bảo đảm tín dụng. Về nguồn vốn, Trung Quốc khuyến khích và tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn của ngân hàng, vốn cổ phần tư nhân, vốn trên thị trường chứng khoán. Nhà nước dành 20% tổng số vốn vay của 4 ngân hàng nhà nước lớn trong nguồn tín dụng chính thức cho các DNVVN. Các doanh nghiệp này còn có thể vay vốn từ các tổ chức hợp tác tín dụng nông thôn (RCCs). Kể từ tháng 3/2000, “ Uỷ ban quản lý chứng khoán Trung Quốc” công bố xoá bỏ hạn ngạch về niêm yết. Cho đến nay, Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh việc phát triển thị trường chứng khoán, đưa thị trường này trở thành thị trường hấp dẫn đầu tư nhất ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương trong nhiều năm, góp phần thu hút một lượng vốn khổng lồ về Trung Quốc. Những hỗ trợ đó đã mở rộng các kênh huy động vốn cho các DNVVN, giải quyết những khó khăn ban đầu cho doanh nghiệp. Chính phủ còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được vay với lượng vốn lớn thông qua việc thành lập các tổ chức bảo lãnh tín dụng và các tổ chức đánh giá khả năng tài chính của doanh nghiệp nhằm tạo đảm bảo khả năng thanh toán của các DNVVN này với ngân hàng tạo điều kiện để vay được lượng vốn lớn. Chính phủ đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp để các ngân hàng tin tưởng vào doanh nghiệp mà cho vay thay vì ra quyết định buộc các ngân hàng tạo ưu đãi cho các DNVVN vay vốn lớn như cũ. Đây thực sự là một biện pháp quản lý mang lại hiệu quả cao. Nó thể hiện sự chuyển đổi từ cách quản lý bằng mệnh lệnh hành chính sang cách quản lý dựa trên sự vận động của thị trường. Trung Quốc cũng dành cho các doanh nghiệp này nhiều ưu đãi về lãi suất vốn vay, giá trị tài sản thế chấp, thủ tục đăng ký vay vốn, các tiêu chuẩn đánh giá để được vay. Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 80 Bên cạnh đó, Chính phủ Trung Quốc cũng nỗ lực thu hút các ngân hàng nước ngoài vào Trung Quốc đầu tư và hỗ trợ các DNVVN nước mình. Các DNVVN Trung Quốc hiện bắt đầu được các ngân hàng nước ngoài cung cấp dịch vụ với nhiều ưu đãi. Tập đoàn tài chính lớn nhất thế giới Citigroup đang mong muốn thu hút thêm DNVVN trở thành khách hàng tiềm năng nhân dịp Hội trợ DNVVN. Ngoài Citigroup, các ngân hàng nước ngoài khác như Standard Chartered Bank và HSBC cũng đã bắt đầu cung cấp những dịch vụ với nhiều ưu đãi cho các DNVVN. Trong đó Standard Chartered Bank là ngân hàng nước ngoài đầu tiên ở Thượng Hải cấp những khoản vay không cần thế chấp cho các doanh nghiệp này. Về điểm này Việt Nam chúng ta đã cũng đã có nhiều cố gắng. Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, hiện cơ chế cho vay thương mại đã được chỉnh sửa nhiều, nhất là việc tháo gỡ sự can thiệp hành chính của Nhà nước đối với việc cho vay của các tổ chức tín dụng. Nhằm đẩy mạnh việc đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng của các doanh nghiệp phụ trợ vừa và nhỏ, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các ngân hàng tăng cường huy động vốn trong và ngoài nước bằng nhiều hình thức. Trong một văn bản gửi Bộ kế hoạch và Đầu tư về tình thình thực hiện Nghị định 90 của Chính phủ( trợ giúp phát triển các DNVVN), Ngân hàng Nhà nước cho biết tới đây sẽ tiếp tục nghiên cứu, xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành những văn bản mới về cơ chế cho vay, cơ chế bảo đảm tiển vay thanh toán quản lý ngoại hối… để tạo điều kịên cho các DNVVN tiếp cận vốn vay và sử dụng các dịch vụ ngân hàng được nhiều hơn. Các ngân hàng thương mại cũng đang phối hợp với các quỹ bảo lãnh để mở rộng cho vay với các DNVVN, tiếp tục rà soát các cơ chế chính sách để đơn giản thủ tục cho vay. Hiện nay có nhiều DNVVN hoạt động hiệu quả nhờ phương pháp quản lý- kinh doanh hiện đại, có chiến lược phát triển lâu dài nên thu hút không ít nhà đầu tư nước ngoài đến liên kết, liên doanh, hợp tác Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 81 đầu tư. Đó là đối tượng mà các ngân hàng nhắm đến. Năm 2004, số lượng các DNVVN vay vốn ngân hàng đã tăng lên đáng kể. Trong cơ cấu tín dụng, nhiều ngân hàng đã đầu tư cho khách hàng là cac DNVVN với tỷ lệ ngang bằng các doanh nghiệp quốc doanh. Điển hình như các ngân hàng Incombank, Á Châu, Đông Á, Sacombank,… Để đưa nguồn vốn lớn hơn cho các DNVVN, nhiều ngân hàng đã xây dựng chiến lược cho vay vốn riêng dành cho các đối tượng này như xây dựng cơ chế ưu đãi hơn so với bình thường, thủ tục đảm bảo tiền vay linh hoạt, cho phép doanh nghiệp được thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay. Ngoài ra, niều ngân hàng còn cho doanh nghiệp tự chủ về mức độ thế chấp tài sản, nghĩa là doanh nghiệp không bị động trong việc đánh giá tài sản thế chấp như lâu nay. Những ưu đãi trên cho thấy cái nhìn thoáng hơn của các ngân hàng đối với các DNVVN. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, nguồn vốn của Ngân hàng “bơm” cho các DNVVN vẫn còn rất ít so với nhu cầu, còn khá nhiều doanh nghiệp chưa được vay vốn do lãi suất còn khá cao ở mức 18% đến 20%, thực sự là một gánh nặng đối với các doanh nghiệp này. ở một số địa phương, quỹ bảo lãnh tín dụng đã được thành lập, nhưng đến nay chưa có quỹ nào đi vào hoạt động do một số quy định còn vướng mắc, như yêu cầu về vốn lên đến 30 tỷ đồng, trong đó bắt buộc ngân sách địa phương phải chiếm đến 30%, điều kiện bảo lãnh vay vốn khó khăn( được bảo lãnh 80% tổng số vốn vay, nhưng 70% trong đó phải có tài sản thế chấp). Trong khi còn nhiều gian nan trong việc vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các DNVVN hi vọng tìm kiếm được nguồn vốn từ thị trường chứng khoán( TTCK) . Theo kết quả thăm dò về “ khả năng tham gia TTCK của DNVVN” của UBCKNN mới đây cho thấy, hầu hết các DNVVN đều muốn huy động vốn qua TTCK. Nhưng dường như thị trường này luôn từ chối họ. Theo TS. Vũ Bằng- Phó chủ tịch UBCKNN, hiện nay tổng số các DNVVN cả nước chiếm khoẳng 75% tổng số Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 82 doanh nghiệp và tạo ra 25% GDP hàng năm, do vậy rất cần xây dựng một thị trường chứng khoán cho các DNVVN bởi phần lớn các doanh nghiệp cổ phần, đặc biệt là DNVVN có nhu cầu huy động vốn qua thị trường chứng khoán nhưng vì họ không đủ điều kiện để được niêm yết trên thị trường tập trung nên họ không có khả năng tiếp cận thị trường này. Bên cạnh đó, sau vài năm hoạt động TTCK Việt Nam còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa thực sự phát huy được vai trò tích cực của mình trong việc huy động vốn cho các doanh nghiệp. Do đó, chúng ta cần học hỏi từ Trung Quốc trong việc xây dựng TTCK và hỗ trợ các DNVVN thông qua thị trường này. 2.2. Hỗ trợ về công nghệ Muốn thành công trong CNPT nhất thiết phải ứng dụng công nghệ hiện đại. Nhưng do thiếu vốn nên sở hữu công nghệ tiên tiến là điều rất khó khăn với các DNVVN. Trước tình hình đó, chính phủ Trung Quốc đã tìm mọi cách để có thể giúp đỡ các DNVVN của mình trong ngành CNPT về mặt công nghệ, kỹ năng quản lý- kinh doanh thông qua các quy định trong “ Luật thúc đẩy phát triển DNVVN” và “ Chính sách công nghệ công nghiệp quốc gia”, Trung Quốc tập trung phát huy cả công nghệ nhập và phát triển công nghệ trong nước. 2.2.1. Đối với công nghệ nhập Trung Quốc thực hiện hỗ trợ các DNVVN thông qua một số biện pháp như: -Thu hút đầu tư nước ngoài để thông qua đó giúp các DNVVN chuyển giao công nghệ, học hỏi kinh nghiệm quản lý- kinh doanh hiện đại của các công ty nước ngoài. - Hỗ trợ vốn bằng cách cho vay ưu đãi khi nhập công nghệ, máy móc hiện đại cho ngành sản xuất phụ trợ. Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 83 - Không đánh thuế nhập khẩu đối với trường hợp các doanh nghiệp phụ trợ nhập khẩu máy móc, dây chuyền công nghệ làm tài sản cố định. -Hỗ trợ các DNVVN tìm hiểu và mua công nghệ phù hợp và cải tiến kỹ thuật sau khi du nhập công nghệ về thông qua các Viện nghiên cứu, các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật, các trung tâm tư vấn công nghệ và các trường Đại học. 2.2.2. Đối với công nghệ trong nước. Không chỉ tập trung sử dụng công nghệ nước ngoài mà Trung Quốc còn rất khuyến khích phát triển khoa học công nghệ trong nước. Bên cạnh các chính sách phát triển khoa học công nghệ cả nước trên tất cả các lĩnh vực nói chung, các cấp chính quyền từ địa phương đến Trung ương đều tạo điều kiện phát triển công nghệ trong nước. Cụ thể: - Chính phủ Trung Quốc rất khuyến khích các DNVVN đầu tư phát triển khoa học công nghệ, tạo ra công nghệ của riêng mình phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của doanh nghiệp. - Thành lập các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật, các trung tâm tư vấn công nghệ cho các DN phụ trợ vừa và nhỏ. - Khuyến khích hình thành mối liên kết giữa các tổ chức như các Viện nghiên cứu, các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật, các trung tâm tư vấn công nghệ và các trường Đại học với doanh nghiệp trong việc tìm hiểu, nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới trên cơ sở học hỏi từ trường hợp của các doanh nghiệp hương trấn với các trường đại học địa phương. - Thu hút và điều động lực lượng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào những lĩnh vực phát triển công nghệ CNPT. - Đào tạo nhân lực theo hướng cung cấp nguồn lao động trình độ cao cho các ngành công nghiệp nói chung, CNPT nói riêng. Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 84 - Hỗ trợ các DNVVN trong việc đào tạo kỹ năng quản lý- kinh doanh cho đội ngũ quản lý, công nhân viên. Với những hỗ trợ như vậy các DNVVN trong ngành CNPT Trung Quốc như được tiếp thêm sức mạnh để tăng tốc, đóng góp nhiều hơn nữa cho nền kinh tế. Việt Nam chúng ta thì sao? Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, phần lớn công nghệ đang được sử dụng ở Việt Nam đều lạc hậu nhiều so với các nước tiên tiến trên thế giới, do đó hạn chế khả năng sản xuất những sản phẩm có tính cạnh tranh.Việc đổi mới công nghệ trong các DNVVN của ngành CNPT Việt Nam hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn cần được tháo gỡ. Doanh nghiệp thiếu hiểu biết về thị trường nhưng hành trình tìm mua công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam gần như chưa có sự hỗ trợ nào từ phía Nhà nước. Doanh nghiệp thiếu hiểu biết về công nghệ thích hợp do không tiến hành các nghiên cứu hệ thống về công nghệ, công tác nghiên cứu thị trường còn yếu kém. Trong khi thị trường vốn trung và dài hạn trong nước gần như chưa phát triển lại không được hỗ trợ từ phía chính phủ nên doanh nghiệp gần như phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn vốn ngân hàng với lãi suất cao nên khó lòng mua được những công nghệ hiện đại. Mức trang bị, công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam còn quá thấp. Bình quân một cơ sở sản xuất công nghiệp đầu năm 2005 chỉ có 6,4 lao động; 0,99 tỷ đồng vốn; 0,54 tỷ đồng tài sản cố định; mức trang bị tài sản cố định bình quân 1 lao động chỉ đạt 84,4 triệu đồng. Bên cạnh đó, thủ tục đầu tư phức tạp, mất nhiều thời gian vì cần quá nhiều cấp xét duyệt gây lãng phí tiền bạc, đôi khi mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, trình độ công nghệ của độ ngũ quản lý và người lao động còn yếu kém song chưa nhận được sự giúp đỡ tích cực từ phía các tổ chức đào tạo để nâng cao trình độ. Chính những yếu kém về công nghệ đã làm giảm tính cạnh tranh của các DNVVN ngành CNPT. Xem ra, với trình độ công nghệ như hiện nay thì đây quả là con đường gập ghềnh nhiều gian Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 85 nan cho các DNVVN nội địa làm phụ trợ để có thể bứt phá giữa yêu cầu cao của các hãng chính và thực trạng thấp kém của các DNVVN sản xuất các linh kiện. Chúng ta cần học hỏi nhiều từ Trung Quốc để nâng cao tính cạnh tranh của các DNVVN nước nhà trong ngành CNPT, góp phần thúc đẩy CNPT và các DNVVN cùng phát triển. 2.3. Hỗ trợ về thông tin và thị trường Từ năm 2001 Trung Quốc đã thành lập quỹ phát triển thị trường quốc tế cho các DN phụ trợ vừa và nhỏ. Đồng thời Chính phủ cũng tổ chức nhiều cuộc triển lãm công nghệ ở trong và ngoài nước để họ có điều kiện tìm hiểu thị trường và tạo các cơ hộ kinh doanh, ký kết hợp đồng( Cho đến năm 2004, đã có hơn 2000 cuộc triển lãm được tổ chức hàng năm ở Trung Quốc). Đặc biệt, Nhà nước Trung Quốc luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để thúc đẩy mối liên kết giữa các DNVVN làm CNPT trong nước với các công ty đa quốc gia, các tập đoàn nước ngoài đang đầu tư tại Trung Quốc để tận dụng những lợi thế về công nghệ, kỹ năng kinh doanh của các đối tượng này đồng thời đây cũng là những khách hàng chính của các doanh nghiệp phụ trợ. Các trung tâm thông tin tư vấn và cung cấp thông tin về bên mua, bên bán cũng như cơ sở dữ liệu về các DNVVN trong ngành CNPT được chính quyền các cấp thành lập đã giúp các doanh nghiệp phụ trợ rút ngắn con đường đến với người mua, tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Thông qua Cục xúc tiến thương mại, các trung tâm tư vấn ở trong và ngoài nước, các DN phụ trợ Trung Quốc cũng nhận được nhiều ưu đãi trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Có thể nói, trong thời đại thông tin này thời đại mà chậm một giây là có thể mất đi cơ hội kinh doanh thì chính những thông tin quý báu đó đã góp phần đáng kể giúp các DNVVN ngành CNPT Trung Quốc thành công. Ngược lại, thông tin lại là thứ mà các DNVVN Việt Nam đang rất thiếu. Khoảng 20% DNVVN tiếp cận được thông tin từ các thương vụ; thông tin mà Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 86 các DNVVN có được chủ yếu khai thác từ Internet, do đó chất lượng thông tin chưa cao. Việc triển khai thương mại điện tử còn rất hạn chế. DNVVN cũng gặp không ít khó khăn trong việc tiếp cận thị trường và khai thác thị trường nước ngoài do khả năng tiếp thị kém, trình độ của đội ngũ nhân viên làm công tác xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp này còn thấp. Những doanh nghiệp này, dường như lại không nhận được sự hỗ trợ nào từ phía Chính phủ. Thực tế là chúng ta đã có tổ chức một số cuộc triển lãm công nghệ nhưng chưa thực sự phát huy hiệu quả của chúng. Cách đây 2 năm tại thành phố Hồ Chí Minh cũng đã tổ chức “ hội chợ ngược” lần thứ nhất về CNPT mà ở đó các hãng chính đến và đưa các linh kiện đặt hàng để tìm các doanh nghiệp trong nước của Việt Nam có đủ khả năng sản xuất được thì ký hợp đồng nhưng cho đến nay chưa hợp đồng nào được ký. Cả nhà cung cấp nội địa và lắp ráp, sản xuất nước ngoài đều thừa nhận tình trạng thiếu thông tin và sự hiểu biết lẫn nhau: thiếu kênh thông tin giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài/ nhà lắp ráp và các doanh nghiệp có năng lực trong nước, và các quan hệ hợp tác nước ngoài; thiếu các cơ sở dữ liệu đáng tin cậy về các nhà sản xuất trong nước để cung cấp cho các nhà lắp ráp có vốn đầu tư nước ngoài; cuối cùng và không kém phần quan trọng là thiếu các mối liên kết đa dạng giữa các doanh nghiệp lắp ráp và nhà sản xuất trong nước cung cấp linh kiện, phụ kiện. Trên thực tế là ở Việt Nam, đến các cơ quan hiện hành, hỏi ai phụ trách việc hỗ trợ các DNVVN đều không ai trả lời. Các doanh nghiệp phụ trợ vừa và nhỏ Việt Nam cực kỳ thiếu thông tin nên con đường để các DNVVN làm phụ trợ có thể “ chen chân” vào chuỗi giá trị toàn cầu của các hãng lớn cón rất gập ghềnh. Để hỗ trợ các DNVVN này, theo GS, TS. Phan Đăng Tuất, Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp, Bộ Công thương thì Chính phủ cần nhận diện lại vấn đề, vào cuộc một cách đồng bộ và mạnh mẽ, tham gia tích cực vào cuộc chơi này bằng cách lập ra Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 87 một cơ quan đầu mối để mối lái cho các doanh nghiệp cung cấp chi tiết, linh kiện; chấm dứt tình trạng tổ chức các hội chợ ngược. 2.4. Hỗ trợ về mặt bằng sản xuất. Về điểm này, có thể nói không ở đâu tạo điều kiện thuận lợi như ở Trung Quốc, đặc biệt là trong các đặc khu kinh tế. Các DNVVN luôn khan hiếm vốn nên để thuê hoặc mua được mặt bằng thuận lợi là hết sức khó khăn. Hiểu được điều này Chính phủ Trung Quốc đã tạo rất nhiều ưu đãi cho các DNVVN như đơn giản hoá các thủ tục xin cấp hoặc cho thuê mặt bằng. Chính phủ Trung Quốc trao quyền cho các cấp chính quyền địa phươngđược thẩm tra, xét duyệt các dự án đầu tư nên các thủ tục hành chính được cắt giảm nhiều, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp. Đặc biệt trong các đặc khu kinh tế hoặc các khu trung tâm tập trung DNVVN, các doanh nghiệp được thuê đất với giá rẻ, thời gian lâu dài vì thế tạo tâm lý yên tâm cho doanh nghiệp. Thông qua chính sách “ tam thông nhất bằng” Trung Quốc đã thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài đồng thời cũng thúc đẩy các DNVVN trong nước mạnh dạn mở xưởng sản xuất kinh doanh cung ưúng cho các doanh nghiệp lắp ráp vì đã được đảm bảo cả về mặt bằng sản xuất lẫn đầu ra cho sản phẩm. Ở Việt Nam chúng ta thì ngược lại, đa số các DNVVN hoạt động có hiệu quả mong muốn mở rộng sản xuất kinh doanh nhưng đều nằm trong tình trạng thiếu đất để làm mặt bằng. Theo khảo sát của công ty Tài chính quốc tế (IFC) về kinh nghiệm tiếp cận đất đai của các DNVVN cho thấy cứ 4 doanh nghiệp thì chỉ có 1 doanh nghiệp được giao đất hay thuê đất trực tiếp từ Nhà nước. Đứng trước khó khăn của các DNVVN như vậy nhưng thực sự Nhà nước ta chưa có biện pháp và chính sách hiệu quả để hỗ trợ họ. Quỹ đất, thủ tục cấp đất và quy hoạch sử dụng đất cảu Nhà nước cho các DNVVN đều còn nhiều bất cập. Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 88 Về quỹ đất: Hầu hết các doanh nghiệp đều mong muốn được giao đất từ Nhà nước để yên tâm đầu tư sản xuất nhưng quỹ đất công hạn chế và kênh giao đất hay thuê đất trực tiếp từ chính quyền tỉnh hầu như chỉ dành cho các doanh nghiệp lớn( đa phần là các dự án đầu tư nước ngoài có nhu cầu lớn về diện tích). Không nhiều các DNVVN có đủ năng lực và chiến lược phát triển dài hạn để có thể sử dụng các diện tích đất lớn trong các khu công nghiệp vì vậy họ chủ yếu sử dụng đất sở hữu gia đình hoặc thuê lại của tư nhân hay các doanh nghiệp nhà nước không sử dụng đến với giá cao, thời hạn không đảm bảo và rất dễ bị thu lại. Về thủ tục cấp đất: Quá trình tìm mặt bằng sản xuất là phức tạp nhất, kéo dài nhất và cũng tốn kém không ít trong các thủ tục hành chính để thành lập doanh nghiệp. Việc xin cấp đất, hoặc thuê đất của DNVVN bị cản trở bởi hồ sơ, thủ tục khá phức tạp. Theo một khảo sát của GTZ, thông thường, để được Nhà nước giao đất, doanh nghiệp phải trải qua 7 thủ tục với thời gian trung bình mất khoảng 230 ngày và qua rất nhiều cơ quan liên quan. Bên cạnh đó là quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn quá rườm rà, phức tạp và mất thời gian. Về quy hoạch sử dụng đất: đây cũng là mối lo ngại lớn của các DNVVN Việt Nam. Theo ông Trương Thái Sơn, Phó tổng giám đốc Công ty địa ốc Hoàng Quân, hiện nay công tác quy hoạch chưa tốt vì hệ thống đăng ký và thông tin cơ sở( thông tin kinh tế xã hội, tài nguyên, dự báo phát triển) cho việc ra quyết định quy hoạch là không đầy đủ. việc đưa ra quy hoạch nhiều khi chỉ dựa trên các định hướng từ bên trên và dựa vào báo cáo không chính xác từ bên dưới, không có sự tham vấn với cộng đồng doanh nghiệp cũng như người dân, do đó dẫn đến tình trạng quy hoạch phải thay đổi liên tục, không sát thực tiễn, chạy theo sau nhu cầu của doanh nghiệp. Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 89 Chúng ta muốn thúc đẩy phát triển CNPT cho các DNVVN, chúng ta cố gắng mở ra một con đường cho họ nhưng lại xây quá nhiều rào cản trong vấn đề mặt bằng thì làm sao doanh nghiệp phụ trợ vừa và nhỏ Việt Nam có thể đi lên được. III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CNPT CHO CÁC DNVVN Ở VIỆT NAM Các doanh nghiệp phụ trợ vừa và nhỏ nước ta đang còn quá yếu kém về nhiều mặt, không đủ sức cạnh tranh với các công ty nước ngoài hay những doanh nghiệp lớn. Đặc biệt, khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO, hàng rào thuế quan giảm xuống và các chi tiết cùng linh kiện theo đó cũng được giảm thuế. Chi phí trở nên rẻ hơn, do đó các nhà đầu tư lắp ráp thường đi mua các chi tiết linh kiện từ bên ngoài, cơ hội kinh doanh của các DNVVN ngành CNPT sẽ mất dần. Vậy chúng ta phải làm gì để thúc đẩy sự phát triển của CNPT cho các DNVVN nước nhà? Điều đó đòi hỏi sự vào cuộc mạnh mẽ, đồng bộ của cả 4 chủ thể: Chính phủ, các doanh nghiệp lắp ráp, các DNVVN và các tổ chức hỗ trợ. Căn cứ bài học từ nước bạn Trung Quốc, dưới đây là một số giải pháp đối với 2 chủ thể chính là Chính phủ và các DNVVN nhằm phát triển CNPT cho các DNVVN nước ta. 1. Về phía Chính phủ. Để thực hiện mục tiêu xây dựng một nền CNPT hiện đại và thúc đẩy sự phát triển của CNPT cho các DNVVN, Chính phủ cần phải thống nhất nhận thức từ trung ương đến địa phương cũng như trong tất cả các thành phần kinh tế về CNPT và các DNVVN. Chính phủ có thể đem lại những ảnh hưởng tích cực nhất bằng cách: hoàn thiện hệ thống chính sách và thống nhất nhận thức, hỗ trợ doanh nghiệp và thúc đẩy tinh thần kinh doanh 1.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách và thống nhất nhận thức 1.1.1. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 90 Về nguyên tắc, một môi trường kinh doanh ổn định có nghĩa là ít có sự thay đổi về chính sách. Tuy nhiên, Việt Nam đang trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền nên các chính sách đều chưa hoàn thiện, thêm vào đó làviệc tham gia các cam kết đa phương và song phương nên việc sửa đổi, bổ sung chính sách cho phù hợp với các cam kết đã ký là đòi hỏi mang tính khách quan. Nhưng theo phản ánh của các doanh nghiệp, hiện nay các chính sách thay đổi quá nhanh đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của các doanh nghiệp nhất là những DN phụ trợ vừa và nhỏ vì đây là ngành đòi hỏi đầu tư lớn, chịu ảnh hưởng sâu sắc của các chính sách. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để hạn chế được những ảnh hưởng của việc thay đổi chính sách đối với hoạt động của doanh nghiệp? Lập kế hoạch xây dựng mới và/ hoặc sửa đổi, bổ sung các luật, các văn bản pháp quy,trong đó chi tiết về dự kiến loại văn bản ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung; thời gian ban hành; thời gian văn bản có hiệu lực; hướng sửa đổi bổ sung hoặc ban hành mới; đối tượng điều chỉnh. Kế hoạch này được phổ biến công khai để các đối tượng chịu ảnh hưởng có thể tiên liệu được để họ có thời gian lập kế hoạch điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp cho phù hợp. Trong quá trình xây dựng pháp luật cần có sự tham gia rộng rãi của các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, các nhà khoa học các nhà nghiên cứu và đặc biệt là sự tham gia của các hiệp hội doanh nghiệp, các doanh nghiệp, doanh nhân. Công khai các chính sách, quy định mới và tiến hành đánh giá tác động của các chính sách đó tới các DNVVN 1.1.2. Ban hành chính sách phát triển CNPT một cách đồng bộ và chi tiết Việt Nam phải có quy hoạch tổng thể phát triển ngành CNPT cho từng ngành hàng, trong đó xác định các lĩnh vực ưu tiên. Nếu không có sự quy hoạch rõ ràng, sẽ dễ dẫn đến tình trạng sản xuất không cân đối theo kiểu có Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 91 những sản phẩm doanh nghiệp nào cũng sản xuất trong khi có sản phẩm lại không có doanh nghiệp nào làm cả, từ đó dễ dẫn đến tình trạng làm ăn “ chộp giật” của các DNVVN. Hiện nay, Việt Nam đã có chiến lược phát triển CNPT cho ngành công nghiệp ô tô đến 2020 khá chi tiết và cụ thể song quy hoạch này vẫn chưa thực sự phát huy được hiệu quả. Để các chính sách phát triển CNPT thực sự đi vào hoạt động của các DNVVN thì cần phải có sự phối hợp đồng bộ của các cấp, ngành cũng như có sự tham vấn của chính các DNVVN. Biện pháp đưa ra là Chính phủ cần tổ chức thăm dò ý kiến của các nhà nghiên cứu, các chuyên gia trong và ngoài nước, hiệp hội các DNVVN cũng như có sự nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng trước khi ban hành chính sách, quy hoạch phát triển. 1.1.3. Đẩy mạnh cải cách hành chính Mặc dù đã đạt được một số thành tựu bước đầu trong việc cải cách hành chính nhưng nhìn chung công tác hành chính ở nước ta vẫn tồn tại nhiều bất cập, năng lực của bộ máy quản lý nhà nước vẫn là khâu yếu, chậm thay đổi nhất. Có những công chức, kể cả thành viên Uỷ ban nhân dân các cấp chưa nắm được những thay đổi cơ bản trong nội dung Luật doanh nghiệp, có những cán bộ đầu ngành ở tỉnh cũng không nắm được tác động của việc phát triển CNPT đối với các DNVVN; trong một số cơ quan chức năng, vẫn còn không ít những công chức vừa kém năng lực vừa kém đạo đức đã gây nhiều cản trở đến hoạt động của các doanh nghiệp. Những tồn tại trên đã và đang gây khó khăn và tăng chi phí kinh doanh của doanh nghiệp, đòi hỏi phải được nhìn nhận khách quan để khắc phục nhằm đẩy nhanh hơn, mạnh hơn công tác cải cách hành chính trong thời gian tới theo hướng thân thiện hơn với doanh nghiệp. Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 92 Đẩy mạnh việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp giảm chi phí khởi sự doanh nghiệp đến mức cạnh tranh nhất so với các nước trong khu vực như tổ chức và thường xuyên duy trì đối thoại trực tuyến với doanh nghiệp, qua đó có thể nhận được những tham vấn về kinh doanh, nộp hồ sơ, thựuc hiện thủ tục hoàn thuế và khai thác thông tin sơ cấp một cách nhanh và rẻ nhất; giảm nhẹ thủ tục đăng ký kinh doanh thông qua việc thiết lập hệ thống nối mạng đăng ký kinh doanh toàn quốc. 1.1.4. Hoàn thiện chính sách tài chính Điều chỉnh hệ thống thuế phù hợp nhằm khuyến khích khởi sự doanh nghiệp, khuyến khích phát triển kinh doanh nhỏ và tạo việc làm. Đồng thời, thực hiện đổi mới chế độ kế toán thống kê theo khuynh hướng đơn giản hoá, khuyến khích doanh nghiệp tự kê khai và nộp thuế. Sửa đổi, bổ sung quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng mở rộng đối tượng chịu thuế thu nhập doanh nghiệp, đơn giản hoá phương pháp và căn cứ tính thuế; giảm các trường hợp ưu đãi thuế để đơn giản hoá chính sách ưu đãi, tạo cơ hội cho các DNVVN dễ tiếp cận và hưởng các ưu đãi, thu hẹp khoảng cách giữa đối tượng nộp thuế theo thu nhập, dần hạn chế áp dụng chế độ khoán thuế và tiến tới áp dụng chế độ thuế phù hợp hơn, khuyến khích các hộ kinh doanh thực hiện đăng ký kinh doanh theo Luật doanh nghiệp. Sửa đổi quy định về thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu theo hướng xác định các tiêu chí minh bạch, rõ ràng, phù hợp với các hiệp định song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký. Đặc biệt đối với thuế nhập khẩu linh kiện, bộ phận, chúng ta nên cho nhập khẩu tự do để giảm giá thành sản phẩm, duy trì khả năng cạnh tranh với các nước ASEAN khác, chứ không nên dùng biện pháp hành chính hay thuế quan ép buộc các công ty đa quốc gia tăng tỷ lệ nội địa hoá như lâu nay vẫn làm. Bởi lẽ nếu các doanh nghiệp phụ Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 93 trợ trong nước có đủ khả năng cung cấp các sản phẩm phụ trợ một cách đầy đủ và kịp thời với giá rẻ và chất lượng cao thì tỷ lệ nội địa hoá của các doanh nghiệp lắp ráp tất yếu sẽ tăng. 1.1.5. Cải cách chương trình đào tạo Nước ta cần có những chính sách và giải pháp đồng bộ trong phát triển giáo dục đào tạo nhằm hướng tới hình thành một nguồn nhân lực có tri thức và thể chất đáp ứng yêu cầu phát triển của các ngành công nghiệp và sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Để thúc đẩy phát triển CNPT cho các DNVVN, đặc biệt là nâng cao trình độ công nghệ cho nguồn nhân lực, chúng ta cần: - Nâng cao chất lượng toàn diện các cấp học. Cải cách triệt để đào tạo đại học theo cả 2 hướng, phần cứng và phần mềm hướng đến có một khối lượng lớn kỹ sư có đủ năng lực làm việc trong các ngành CNPT. - Hoàn thiện và nâng câo chất lượng các trường dạy nghề và các trung tâm dạy nghề. Đào tạo nghề cần được coi là trách nhiệm của các cấp, các ngành, các địa phương. - Có chính sách huy động để khai thác khả năng đào tạo nghề của các trường địa học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, các cơ sở đào tạo đặc biệt là trường dạy nghề và cơ sở đào tạo của doanh nghiệp trên địa bàn. - Thành lập hệ thống các trung tâm đào tạo nghề và công nhân kỹ thuật bậc cao, cho phép thành lập các hiệp hội ngành nghề. - Thực hiện chính sách đào tạo hợp tác quốc tế để mở trường đào tạo kỹ sư và cán bộ quản lý, cán bộ công nghệ. Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 94 - Có chính sách đào tạo nghề và sử dụng lao động đã qua đào tạo nghề. Dạy nghề phải gắn với giải quyết việc làm, đào tạo gắn với sử dụng, thu nhập phải tương đương với trình độ đào tạo. - Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách sử dụng nguồn nhân lực như đa dạng hoá hình thức tuyển dụng lao động, thưc hiện chính sách tiền lương gắn với thị trường… - Có chính sách khuyến khích hợp tác, liên kết giữa các DNVVN với các viện nghiên cứu, trường đại học trong việc nghiên cứu và triển khai công nghệ. 1.2. Đồng bộ hệ thống chính sách hỗ trợ doanh nghiệp 1.2.1. Thực hiện chính sách phù hợp để cải thiện tình trạng thiếu mặt bằng sản xuất, đồng thời bảo vệ môi trường. Trong khi nhiều doanh nghiệp nhà nước được giao đất và sử dụng không có hiệu quả , đất đai bỏ hoang hoặc sử dụng không mục đích thì các DNVVN lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm mặt bằng kinh doanh với chi phí rất lớn. Ngay cả khi doanh nghiệp có mặt bằng sản xuất thì việc lo đủ các thủ tục cần thiết để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để có thể thế chấp cầm cố cũng đòi hỏi phải tốn nhiều tiền bạc và công sức. Điều này đã làm hạn chế nguồn vốn đầu tư vốn đã hạn hẹp của các DNVVN. Để tạo điều kiện cho các DN phụ trợ vừa và nhỏ trong việc tiếp cận đất và có thể sử dụng quyền sử dụng đất làm tài sản thế chấp, cầm cố vay vốn từ các tổ chức tín dụng, trong thời gian tới bên cạnh việc áp dụng Luật đất đai và Nghị định 180/2004/ NĐ- CP cần tập trung giải quyết một số vấn đề: - Đổi mới các thủ tục giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các thủ tục giao dịch có liên quan đến quyền sử dụng đất theo hướng cải cách thủ tục hành chính; thiết lập một hệ thống cơ quan đăng ký đất đai thống nhất trên Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 95 toàn quốc với chức năng đăng ký và đăng ký lại các giao dịch về đất, hoặc khi có sự thay đổi trong hồ sơ địa chính do các quyết định hành chính gây ra. - Hình thành một hệ thống quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đảm bảo tính ổn định, chắc chắn, công khai, minh bạch đáp ứng yêu cầu của người sử dụng đất, đồng thời giúp nhà nước quản lý được đất đai thông qua việc xác định mục đích sử dụng đất; xây dựng được hệ thống tổ chức phát triển quỹ đất, giải quyết những vướng mắc trong giải phóng mặt bằng, đền bù, tái định cư và thu hồi đất đối với những khu vực sử dụng đất sai mục đích, không có hiệu quả, lãng phí tài nguyên đất. 1.2.2. Tăng cường khả năng tiếp cận vốn cho DN phụ trợ vừa và nhỏ Trong khi các ngân hàng thương mại đều cho rằng họ không thiếu vốn để cho vay nhưng có rất nhiều DNVVN không thể xây dựng kế hoạch khả thi thuyết phục được ngân hàng cho vay vốn. Còn các doanh nghiệp thì lại cho rằng họ rất khó khăn trong việc tiếp cận vay vốn tín dụng. Vấn đề ở đây là cung và cầu chưa gặp nhau và vai trò của nhà nước là hỗ trợ tạo điều kiện để cung và cầu về tiền cho sản xuất- kinh doanh gặp được nhau. Cụ thể là: *Về phía Nhà nước: - Xây dựng, phát triển hệ thống các quỹ nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phát triển DNVVN với những tiêu chí riêng đối với DNVVN - Nới lỏng các điều kiện để DNVVN có thể tham gia thị trường chứng khoán nhằm đa dạng hoá hình thức huy động vốn trên thị trường tài chính *Về phía DNVVN: Nhà nước hỗ trợ đào tạo cho doanh nghiệp có khả năng thành lập được những kế hoạch kinh doanh có tính khả thi để thuyết phục các ngân hàng cho Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 96 vay vốn; khuyến khích các doanh nghiệp cùng góp vốn hình thành các quỹ trợ giúp nhau… *Về phía ngân hàng: Nhà nước cần nghiên cứu áp dụng chính sách ưu đãi, bảo đảm lợi nhuận mà các ngân hàng thương mại thu được từ khoản vay của các khách hàng là các DNVVN. Bên cạnh đó, nhà nước có chính sách khuyến khích: thành lập những quỹ, công ty bảo lãnh tín dụng cho DNVVN, các quỹ đầu tư mạo hiểm, phát triển lĩnh vực cho thuê và cho vay không cần thế chấp, phát triển các mô hình tài chính vi mô bền vững về mặt tài chính và được quản lý một cách chuyên nghiệp theo hướng thị trường… 1.2.3. Hỗ trợ doanh nghiệp về công nghệ và đổi mới Công nghệ lạc hậu chính là thực trạng đáng buồn của hầu hết các doanh nghiệp phụ trợ Việt Nam. Vì vậy để hỗ trợ các DNVVN đổi mới công nghệ, chính phủ cần áp dụng một số biện pháp như: - Tạo điều kiện cho các DNVVN vay vốn ưu đãi khi mua công nghệ mới, không đánh thuế nhập khẩu đối với máy móc nhập làm tài sản cố định trong các xí nghiệp phụ trợ. - Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có các dự án chuyển giao công nghệ vào Việt Nam. Hỗ trợ chi phí mua bản quyền cho các DNVVN phát triển CNPT. Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 97 - Khuyến khích các viện nghiên cứu chuyên ngành triển khai nghien cứu thực nghiệm các đề tài, dự án gắn với nhu cầu phát triển sản xuất các chủng loại vật liệu, chi tiết, linh kiện, phụ tùng… phục vụ phát triển CNPT. - Phát triển công nghiệp thượng nguồn để tạo nguồn cung cấp vật tư sản xuất linh kiện. - Thành lập các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật để giúp các DNVVN trong việc tư vấn và cung cấp dịch vụ kỹ thuật( hiện nay nước ta mới chỉ có 3 trung tâm hỗ trợ kỹ thuật đặt tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh) - Xây dựng cơ chế quản lý chất lượng hàng hoá nhằm giúp các doanh nghiệp nhận tức được tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm và rút ngắn tiến tới xoá bỏ khoảng cách chênh lệch về tiêu chuẩn chất lượng giữa doanh nghiệp trong nước và các nhà lắp ráp nước ngoài. 1.2.4. Hỗ trợ về thông tin Các DNVVN rất yếu trong khâu tiếp thị, marketing, nhất là các doanh nghiệp phụ trợ Việt Nam hiện nay rất thụ động trong kinh doanh. Đứng trước những thách thức trong hội nhập chính phủ cần phải hỗ trợ các doanh nghiệp tìm kiếm thông tin bằng cách: -Thành lập một cơ quan đầu mối để mối lái cho các doanh nghiệp phụ trợ trong nước với các nhà lắp ráp. - Tổ chức các triển lãm công nghiệp ở trong và ngoài nước để giới thiệu về sản phẩm và doanh nghiệp phụ trợ trong nước , đặc biêt ưu tiên cho các DNVVN. - Hoàn thiện hệ thống thông thông tin doanh nghiệp bằng cách tăng cường hoạt động của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam(VCCI), Công Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 98 đoàn hiệp hội công nghiệp và thương mại(UAIC), trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư(ITPC). - Trợ giúp các DNVVN tiếp cận thương mại điện tử nhằm giảm chi phí sản xuất, tìm kiếm thông tin để mở rộng thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế - Tăng cường công tác thống kê, xây dựng cơ sở dữ liệu về các doanh nghiệp phụ trợ vừa và nhỏ để làm cơ sở cho việc giới thiệu, tìm kiếm các mối liên kết ngang. - Xúc tiến liên kết giữa DNVVN trong nước với các doanh nghiệp FDI, các công ty đa quốc gia nhằm củng cố và tăng cường mối quan hệ giữa nhà cung cấp và nhà lắp ráp. 1.3. Thúc đẩy tinh thần kinh doanh Bất kỳ chính phủ nào muốn thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ cũng cần thực thi những chính sách giúp doanh nhân ít phải mạo hiểm hơn nhưng lại thu được nhiều lợi hơn. Có như vậy sự thành công của doanh nghiệp nhỏ mới là sự thành công của chính mình, từ đó thúc đẩy mọi người thành lập doanh nghiệp và tích cực trong kinh doanh. Để làm được điều này Chính phủ cần dành nhiều ưu đãi cho DNVVN đồng thời triển khai các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phổ biến tinh thần doanh nghiệp, ý chí kinh doanh và làm giàu tới mọi đối tượng, đặc biệt là thí điểm thực hiện việc đưa các bài học kinh doanh voà chương trình học ở phổ thông, đại học, dạy nghề; đẩy mạnh triển khai trợ giúp đào tạo khởi sự doanh nghiệp; khen thưởng những doanh nghiệp nhỏ thành công trong ngành CNPT. Bên cạnh đó, ở Việt Nam hiện nay, bên cạnh một bộ phận doanh nghiệp tuy hiểu biết về pháp luật nhưng vẫn cố tình vi phạm thì vẫn còn diễn ra tình trạng một số doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp không có kiến thức về pháp luật Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 99 nên đã vô tình vi phạm pháp luật trong quá trình kinh doanh. Vì vậy, cần phải phát triển văn hoá kinh doanh trong thời gian tới. 2. Về phía các DNVVN trong nước. Với một thực trạng còn chưa sáng sủa của CNPT Việt Nam trong khi sự liên kết giữa các doanh nghiệp còn yếu và yêu cầu về CNPT chính là một nền tảng căn bản nhất cho một nền công nghiệp thực sự phát triển thì có được một quy hoạch tổng thể cho phát triển CNPT và sự hỗ trợ của Chính phủ không thôi chưa đủ mà còn cần sự tham gia tích cực của chính các doanh nghiệp phụ trợ.Thực tế cho thấy, nếu chỉ có quy hoạch tổng thể không thôi thì dù chi tiết đến đâu cũng khó lòng thực hiện khi bản thân doanh nghiệp chưa thực sự xắn tay vào công việc. Kinh nghiệm từ ngành công nghiệp ô tô cho thấy, đã có cả một chiến lược dài hơi đến 2020 và Bộ Công nghiệp cũng đã vạch ra quy hoạch khá chi tiết cho công nghiệp phụ trợ song hiện đa số các dự án được cấp phép hoặc đạng xin phép lại là lắp ráp, tức là bắt đầu đi ngược từ “ngọn”. Nguyên nhân là do quy mô và tiềm lực của đa số doanh nghiệp Việt Nam còn yếu nên dẫn đến một tâm lý chung là doanh nghiệp nào cũng “ ngại” nghĩ đến việc chuyên môn hoá khi phải bỏ vốn đầu tư lớn và rủi ro cao do tuổi đời sản phẩm ngắn. Vì vậy, để có thể phát triển CNPT cho các DNVVN thì chính các doanh nghiệp phải tự cải cách mình. Dưới đây là một số đề xuất đối với các DNVVN làm phụ trợ trong nước: 2.1. Tăng cường chuyên môn hoá Một sản phẩm công nghiệp cần phải có hàng chục thậm chí hàng trăm nhà cung cấp. Ví dụ như chiếc máy tính IBM nhưng ổ cứng là Seagate, màn hình Samsung, main của Intel, chưa kể đến chiếc ốc vít cũng phải có một nhà cung cấp chuyên nghiệp. Mỗi doanh nghiệp chỉ làm chuyên một vài sản phẩm mới có thể cải tiến được với khoản đầu tư không quá sức. Tuy nhiên do thói quen sản xuất tích hợp theo chiều dọc và khả năng hạn chế về vốn và công nghệ Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 100 nên các DNVVN nước ta chưa đẩy mạnh chuyên môn hoá. Để thay đổi tình trạng này các doanh nghiệp cần: - Tăng cường nghiên cứu thị trường, đầu tư công nghệ hiện đại vào sản xuất sản phẩm có được từ kết quả nghiên cứu đó để đáp ứng đúng cái mà thị trường cần. - Liên kết với các doanh nghiệp trong cùng ngành để hợp tác trong việc phân công, chuyên môn hoá hợp lý. - Tham gia tích cực vào các hiệp hội ngành nghề, các câu lạc bộ doanh nghiệp để nắm bắt được thông tin về tình hình các doanh nghiẹp phụ trợ khác từ đó điều chỉnh hướng đi của doanh nghiệp mình cho phù hợp. 2.2. Nỗ lực đầu tư, chuyển giao công nghệ Hiện nay đa số công nghệ sử dụng tại các DNVVN là công nghệ lạc hậu dẫn đến chất lượng sản phẩm kém, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Để có thể đứng vững trên thị trường nhất là trong giai đoạn hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và khu vực, các doanh nghiệp phụ trợ Việt Nam cần phải đổi mới công nghệ thông qua các con đường như: -Tận dụng nguồn công nghệ tiên tiến thông qua liên doanh, liên kết, hợp tác với nước ngoài đặc biệt là các công ty đa quốc gia, các tập đoàn lớn có tiềm lực mạnh về công nghệ và nghiên cứu &triển khai. - Chủ động tìm kiếm và lựa chọn đối tác chuyển giao công nghệ và hợp tác kinh doanh. Không thể bị động trông chờ các đối tác tìm đến với mình mà phải chủ động tìm kiếm đối tác thông qua các kênh thông tin khác nhau từ Internet, Phòng thương mại và công nghiệp,… Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 101 - Tuỳ thuộc vào yêu cầu và hoàn cảnh của doanh nghiệp mà tìm nguồn công nghệ phù hợp chứ không nhất thiết phải là công nghệ hiện đại nhất, đầu tư cao mà không tính đến hiệu quả. - Thường xuyên duy tu bảo trì máy móc, công nghệ đồng thời luôn tìm kiếm, nghiên cứu, sáng tạo những cải tiến kỹ thuật phù hợp với thực tế sản xuất của doanh nghiệp mình. 2.3. Tăng cường xây dựng mối liên kết với các doanh nghiệp lắp ráp. Các nhà lắp ráp là những người đặt ra hợp đồng, đặt ra bài toán và họ là những người có năng lực hỗ trợ các DNVVN nội địa trong việc cung cấp linh kiện. Do vậy, để tận dụng được sự hỗ trợ của bộ phạn này các doanh nghiệp phải xây dựng các chương trình xúc tiến liên kết với các hãng lớn( đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các tập đoàn đa quốc gia) thông qua các cuộc tiếp xúc trực tiếp, chuyến thăm cơ sở, hội chợ, triển lãm… nhằm củng cố, tăng cường mối quan hệ với các nhà lắp ráp đồng thời tạo niềm tin nơi họ. Tuy nhiên, một thực tế đáng buồn là các DNVVN trong ngành CNPT Việt Nam rất thụ động trong việc này. Họ thường chờ đợi các nhà lắp ráp đến hỏi hàng, đặt hàng rồi mới sản xuất, rất hiếm khi thấy các doanh nghiệp phụ trợ Việt Nam đi mời chào sản phẩm của mình. Nguyên nhân là do các DNVVN nước ta còn yếu về khả năng tiếp thị và tiếp cận thông tin. Để thay đổi tình trạng này, các doanh nghiệp phụ trợ vừa và nhỏ nước ta cần: - Chủ động, nhiệt tình thiết lập các mối quan hệ, mối liên kết với các doanh nghiệp lắp ráp. Như ông Tổng Giám đốc công ty Canon đã nhấn mạnh: “ Hiếm khi thấy các công ty Việt Nam đến mời chào sản phẩm của mình. Có thể do yêu cầu của chúng tôi quá chênh lệch với khả năng đáp ứng của doanh Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 102 nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, tôi hi vọng các doanh nghiệp sẽ mạnh dạn và tích cực hơn” - Tích cực tham gia hội chợ, triển lãm, các chương trình liên kết đào tạo ví dụ như chương trình liên kết đào tạo giữa Cơ quan hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) và trường Đại học Công nghiệp Hà Nội. - Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh nhất là đội ngũ marketing, nghiên cứu thị trường. 2.4. Nâng cao ý thức kinh doanh của các doanh nghiệp Tinh thần và ý chí kinh doanh là một yếu tố rất qua trọng quyết định sự thành bại của doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Minh chứng là cách đây 40 năm Sony và Toyota cũngchỉ là những doanh nghiệp nhỏ. Nhưng với sự nỗ lực của bản thân hiện nayhọ đã trở thành những công ty đứng trong hàng ngũ hàng đầu thế giới. Theo ông Kenichi Kohata, chuyên gia của JICA tại cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ: “ ở Nhật bản chúng tôi sự liên kết giữa các DNVVN với các công ty xuyên quốc gia rất chặt chẽ. Để có được điều này thách thức lớn nhất là các doanh nghiệp phải có ý chí kinh doanh và nỗ lực của bản thân”. Do đó muốn phát triển CNPT cho các DNVVN thì chính các doanh nghiệp phải nỗ lực thay đổi chính mình bằng cách chấm dứt kiểu làm ăn chộp giật như hiện nay, tập trung sống chết với sản phẩm của mình, xây dựng niềm tin nơi khách hàng, tạo chữ tín trong kinh doanh và luôn lấy chữ tín làm đầu. Bên cạnh đó, không ngừng trau dồi kiến thức về công nghệ, quản lý, hợp tác và hội nhập, chuyên môn hoá,… để không bị lạc hậu về công nghệ và thông tin. Bên cạnh sự hỗ trợ của Chính phủ và sự nỗ lực của bản thân doanh nghiệp, sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp lắp ráp và các tổ chức hỗ trợ cũng không kém phần quan trọng. Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 103 - Về phía các doanh nghiệp lớn: Các doanh nghiệp lắp ráp cần hết sức kiên nhẫn và tạo điều kiện giúp đỡ các doanh nghiệp phụ trợ vừa và nhỏ Việt Nam vì để có được một nhà cung cấp chuyên nghiệp cần ít nhất 2 năm cho việc chuẩn bị như lên kế hoạch bố trí sản xuất, mua sắm công nghệ trang thiết bị, đào tạo nhân lực,… Các công ty lắp ráp đóng vai trò là người ra đề cho các DNVVN nên trong bối cảnh mà các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều yếu kém như hiện nay, thiết nghĩ các doanh nghiệp lắp ráp nên đặc biệt quan tâm hỗ trợ về mặt công nghệ và cung cấp các thông tin cần thiết cho doanh nghiệp để tăng cường mối liên kết 2 chiều giữa các công ty lắp ráp và các DNVVN ngày càng chặt chẽ hơn. - Về phía các tổ chức hỗ trợ: Bên cạnh các chính sách hỗ trợ của chính phủ, doanh nghiệp rất cần đến sự hỗ trợ từ nhiều phía, trong đó phải kể đến các cơ quan công quyền địa phương nơi doanh nghiệp phụ trợ đang hoạt động, các hiệp hội ngành nghề, các câu lạc bộ doanh nghiệp, các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật, các tổ chức hợp tác nước ngoài và các trung tâm tư vấn,… Chính quyền địa phương các cấp nơi trực tiếp quản lý các DNVVN cần phải có chính sách khuyến công chi tiết cụ thể nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp phụ trợ nhỏ như bài học thành công của chính quyền các đặc khu kinh tế hay khu tập trung DNVVN ở Trung Quốc đã thực hiện; thường xuyên tiếp xúc với các doanh nghiệp nhất là thông qua mạng trực tuyến để giúp cung cấp thông tin và tư vấn cho các doanh nghiệp; học tập phương châm “ dịch vụ một cửa” của Trung Quốc để đơn giản hoá các thủ tục hành chính; đồng thời cần xây dựng hệ thống đánh giá DNVVN ở mỗi quận, huyện và chính quyền của các tỉnh thành trên cả nước. Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 104 Các tổ chức khác cũng cần phát huy hơn nữa vai trò của mình, đặc biệt là các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật, trung tâm tư vấn và các hiệp hội nơi mà các doanh nghiệp chia sẻ với nhau những kinh nghiệm quý báu trong kinh doanh. Lấy mô hình như hiệp hội các DNVVN Hà nội làm mô hình thí điểm để xây dựng nhiều hơn các hiệp hội và câu lạc bộ dạng này. Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 105 KẾT LUẬN Như đã phân tích ở trên, CNPT và DNVVN đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Chúng có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. CNPT phát triển thúc đẩy các ngành công nghiệp chính phát triển, nhu cầu về các nhà cung cấp gia tăng do đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ có cơ hội phát triển, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, khẳng định vị trí của mình. Ngược lại, khi bộ phận DNVVN tham gia tích cực vào các ngành CNPT thì với lợi thế của mình chúng thúc đẩy sự chuyên môn hoá ngày càng sâu sắc trong các ngành CNPT từ đó đẩy mạnh sự phát triển của công nghệ. Từ việc nghiên cứu các chính sách phát triển CNPT cho các DNVVN Trung Quốc trên đây, em hi vọng có thể cung cấp một cái nhìn tổng quan về CNPT, DNVVN cũng như mối liên kết giữa chúng, đồng thời kiến nghị một số giải pháp phát triển CNPT cho các DNVVN Việt Nam bởi lẽ phát triển CNPT cho các DNVVN là mũi đột phá chiến lược trong chiến lược phát triển kinh tế nước ta trong thời gian tới. Phát triển CNPT cho các DNVVN là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam. Hiện tại, tất cả các loịa hình đầu tư và hợp tác sản xuất trong lĩnh vực này được nhà nước khuyến khích. Tuy cho đến nay vẫn chưa có một chính sách lâu dài và ổn định để phát triển ngành CNPTcho các DNVVN nhưng trong thời gian tới chính phủ sẽ tìm được giải pháp hỗ trợ hiệu quả cho ngành sản xuất công nghiệp phụ trợ trong nước. Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 106 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu Tiếng Việt [1]Bộ Công nghiệp, Quyết định phê duyệt Quy hoạch phát triển Công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010 tầm nhìn 2020 [2]Bộ Công nghiệp, Quyết định phê duyệt Quy hoạch phát triển công nghiệp xe máy giai đoạn 2006-2015 có tính đến 2020 [3]Bộ Công nghiệp, Quyết định phê duyệt Quy hoạch tổng thể ngành da- giày đến 2010 [4]Bộ Tài chính, Quyết định về việc ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện khu vực mậu dịch tự do ASEAN- Trung Quốc [5]Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Chính sách phát triển kinh tế kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc [6]Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Chính sách hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp vừa và nhỏ của Trung Quốc [7]Nhà xuất bản thống kê, Chính sách thu hút FDI của Trung Quốc [8]Viện nghiên cứu Chiến lược và chính sách công nghiệp, Xây dựng chiến lược định hướng thị trường xuất khẩu cho sản phẩm công nghiệp Việt Nam giai đoạn đến năm 2015 tầm nhìn đến 2020 Tài liệu Tiếng Anh Kho¸ luËn t«t nghiÖp- Tr-êng §H Ngo¹i Th-¬ng 107 [1] Bộ Công thương Trung Quốc, “Auto Industry Development Policy” [2]Bộ Công thương Trung Quốc, “Automotive Industry Plan for 2006- 2010” [3]Bộ Công thương Trung Quốc, “ Industry Policy” [4] Quốc vụ viện Trung Quốc“ SME Promotion Act” Các trang web [1]www.pioneer [2]www.tchdkh.org.vn [3]www.va21.org [4]www.moi.gov.vn [5]www.mpi.gov.vn [6]www.ncseif.gov.vn [7]www.ciem.org.cn [8]www.china.org.cn [9]www.peopledaily.com [10]www.apecsmesa.org [11]www.nbs.gov.cn [12]www.chinabig.com [13]www.xinhua.net [14]www.business.gov.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf4110_4177.pdf
Luận văn liên quan