Đề tài Phát triển dịch vụ Logistics đối với loại hình doanh nghiệp 3PL ở Việt Nam giai đoạn 2007-2012 và định hướng đến 2015

-Xây dựng và phát triển các loại hình doanh nghiệp Logistics có khả năng cạnh tranh nhằm phát triển bền vững thị trường Logistics ở nước ta trong hội nhập kinh tế quốc tế. -Đào tạo nguồn nhân lực và xây dựng chức danh cán bộ quản lý Logistics, xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý các cấp với phong cách làm việc chuyên nghiệp. -Tăng cường nghiên cứu và học tập bài học kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới có ngành công nghiệp Logistics phát triển.

pdf57 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3417 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển dịch vụ Logistics đối với loại hình doanh nghiệp 3PL ở Việt Nam giai đoạn 2007-2012 và định hướng đến 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ường Lạng SV: Trần Thị Hà May 27 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ LOGISTICS ĐỐI VỚI LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP 3PL Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007-2012 2.1.Chiến lược phát triển 2.1.1.Khuôn khổ pháp lý Hoạt động Logistics đã diễn ra từ lâu ở Việt Nam và luôn gắn liền với lịch sử phát triển của đất nước. Tuy nhiên, đến Luật Thương mại năm 2005 thì Logistics mới lần đầu tiên được định nghĩa trong một Bộ luật của nước ta (từ điều 233 đến điều 240). Tuy nhiên, khái niệm Logistics được đề cập đến ở đây còn chưa đầy đủ và chính xác, chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa Logistics, dịch vụ Logistics, quản trị Logistics, nhưng sự ra đời của Luật đã đáp ứng được yêu cầu cấp bách của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của Việt Nam, phản ánh sự thay đổi nhận thức cơ bản của Việt Nam trong việc thừa nhận dịch vụ Logistics như là hoạt động thương mại. Luật thương mại năm 2005 đã trở thành tiền đề quan trọng, là căn cứ pháp lý chủ yếu để phát triển lĩnh vực Logistics ở Việt Nam. Bên cạnh Luật thương mại, Chính phủ Việt Nam đã cho ban hành các Nghị định và các Luật điều chỉnh hoạt động của các ngành có liên quan để thực hiện điều tiết các hoạt động Logistics cũng như thúc đẩy sự phát triển của ngành dịch vụ còn non trẻ này. Tuy nhiên, một thực tế diễn ra là các văn bản pháp luật này đều chỉ hướng đến đối tượng là các dịch vụ đơn lẻ trong chuỗi Logistics nhằm phát triển ngành Logistics nói chung mà chưa có một Bộ luật nào giành riêng cho việc phát triển ngành Logistics cũng như cho việc phát triển của loại hình doanh nghiệp 3PL. Do đó, hiện nay, các 3PL ở Việt Nam vẫn chịu sự điều tiết của một hệ thống các Luật và văn bản hướng dẫn chồng chéo nhau như những loại hình khác của ngành Logistics. Các văn bản đó bao gồm: Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 28 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E +Nghị định số 140/2007/NĐ-CP ban hành nhằm hướng dẫn chi tiết thực hiện Luật thương mại 2005 +Luật hàng hải Việt Nam năm 2005 +Luật hàng không dân dụng Việt Nam +Luật đường sắt Việt Nam… Theo đánh giá chung về các chính sách của Nhà nước đang áp dụng để thúc đẩy dịch vụ Logistics phát triển thì quy hoạch phát triển theo từng thời kỳ có ảnh hưởng lớn nhất. Biểu đồ 2.1: Các chính sách phát triển dịch vụ Logistics hiện đang áp dụng ở Việt Nam 60.98% 26.87% 26.64% 37.85% 1.64% 0.00% 10.00% 20.00% 30.00% 40.00% 50.00% 60.00% 70.00% Quy hoạch phát triển Pháp luật Chính sách Các công cụ và biện pháp quản lý Chính sách khác Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát về Logistics của Viện Nghiên cứu kinh tế và phát triển, ĐH KTQD, 2011 2.1.2.Chiến lược phát triển 3PL ở Việt Nam Muốn các doanh nghiệp loại hình 3PL phát triển hiệu quả thì nhà nước cần phải xây dựng một chiến lược phát triển dài hạn. Nếu không có một chiến lược phát triển đúng đắn thì sẽ dẫn đến sự tự phát, manh mún, gây lãng phí nguồn tài nguyên có hạn. Một chiến lược định hướng dài hạn sẽ xác định tầm nhìn và sứ mệnh rõ Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 29 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E ràng, có mục tiêu và chiến lược cụ thể, chi tiết cho từng khu vực, từng vùng miền và trong tổng thể quốc gia. Dựa trên các nghiên cứu và sự tham vấn từ các nhà hoạch định chính và nhiều tổ chức liên quan, dự án hỗ trợ phát triển quy hoạch Logistics RETA 6450 về “Tăng cường tạo thuận lợi thương mại và giao thông GMS – Phát triển các kế hoạch Logistics quốc gia và khu vực” do Ngân hàng phát triển châu Á ADB và Bộ Công thương phối hợp thực hiện đã đề ra khung chiến lược cho ngành Logistics Việt Nam. Sơ đồ 2.1 : Mô hình chiến lược phát triển các dịch vụ Logistics ở Việt Nam Sứ mệnh chiến lược Hình thành hệ thống Logistics quốc gia bền vững hỗ trợ tối ưu cho thương mại, đầu tư và phát triển đất nước Mục tiêu chiến lược -Xây dựng hệ thống hạ tầng tối ưu và thể chế pháp lý thông thoáng, đảm bảo an ninh quốc gia cho ngành Logistics. -Xây dựng mạng lưới Logistics với chi phí thấp và khả năng đáp ứng cao nhằm thúc đẩy thương mại đầu tưu trong và ngoài nước. -Tạo giá trị kinh tế từ ngành Logistics và hỗ trợ tối ưu cho các ngành kinh tế khác Các nội dung trọng tâm Phát triển cơ sở hạ tầng Logistics Khung thể chế pháp lý Đào tạo nguồn nhân lực Hỗ trợ cung cấp dịch vụ Các tổ chức sử dụng dịch vụ Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 30 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E 2.2.Thực trạng phát triển 2.2.1.Dịch vụ được cung ứng Thứ nhất, mặc dù lĩnh vực Logistics đã xuất hiện ở Việt Nam khá lâu nhưng tới nay, sự phát triển của ngành dịch vụ này ở nước ta mới chỉ được đánh giá đang ở trong giai đoạn đầu của sự phát triển. Các doanh nghiệp Logistics trong nước hầu như chưa cung ứng tích hợp các dịch vụ giá trị gia tăng mà chủ yếu cung cấp các dịch vụ cơ bản như giao nhận, vận chuyển, bán cước, gom hàng và tích hợp một chuỗi các dịch vụ cơ bản này dưới hình thức dịch vụ trọn gói “door to door”. Mặc dù có một số các doanh nghiệp cung ứng các dịch vụ giá trị gia tăng như hàng công trình, dán nhãn, hàng trả về, thanh toán và dịch vụ khách hàng nhưng các dịch vụ này cũng chỉ được cung ứng một cách riêng lẻ khi khách hàng có nhu cầu chứ không có được hợp đồng dài hạn và tích hợp vào chuỗi cung ứng. Nhìn chung, phần lớn các doanh nghiệp Logistics Việt Nam mới chỉ đảm nhận một khâu, một công đoạn của quá trình Logistics mà chưa phải là một doanh nghiệp 3PL thực sự. Trong báo cáo điều tra hoạt động thuê ngoài dịch vụ Logistics của các doanh nghiệp đang sử dụng thì dịch vụ vận chuyển được thuê ngoài nhiều nhất đạt 90% trong toàn bộ hoạt động vận chuyển của doanh nghiệp. Tiếp đến là hoạt động kho bãi với 74%, sau đó là hoạt động thuê khai hải quan và hoạt động giao nhận với tỷ lệ là 70% và 54% được doanh nghiệp sử dụng. Hoạt động thuê ngoài hiện nay có nhiều khác biệt hơn so với trước đây đòi hỏi nhà cung cấp dịch vụ cung cấp trọn gói dịch vụ Logistics hơn là đơn thuần chỉ dịch vụ cận chuyển hoặc kho bãi. Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 31 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E Biểu đồ 2.2: Loại hình dịch vụ Logistics các doanh nghiệp Logistics Việt Nam đang cung ứng 0.00% 10.00% 20.00% 30.00% 40.00% 50.00% 60.00% 70.00% Dịch vụ vận tải Dịch vụ phân phối hàng hóa Dịch vụ kho bãi Dịch vụ hải quan Dịch vụ tư vấn hỗ trợ Dịch vụ khác Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát về Logistics của Viện Nghiên cứu kinh tế và phát triển, ĐH KTQD, 2011 Thứ hai, dịch vụ cung ứng ở nước ngoài gần như phụ thuộc vào đối tác với tư cách đại lý chứ chưa tự mình hoạt động dưới danh nghĩa hệ thống chi nhánh hay công ty con… Đối với các dịch vụ tích hợp như giao hàng “door to door”, các dịch vụ trong nước do các doanh nghiệp Việt Nam tự thực hiện còn ở bên nước ngoài thì phải nhờ đại lý tiếp tục hoàn thành các công đoạn như vận chuyển, khai hải quan và giao hàng cho khách. Điều này làm giảm chất lượng dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam vì bằng mối liên hệ đại lý lỏng lẻo này, các doanh nghiệp không thể có được đầy đủ các thông tin quy định ở nước ngoài, dẫn đến chi phí phát sinh ngoài dự toán gây khó chịu cho khách hàng và khi có sự cố xảy ra thì khắc phục chậm, không đáp ứng yêu cầu của khách. Thứ ba, dịch vụ cung ứng có giá tương đối rẻ và linh hoạt. So với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chi phí của các doanh nghiệp Việt Nam tương Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 32 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E đối thấp hơn về quản lý, nhân viên, tìm hiểu thị trường. Vì vậy giá dịch vụ của các doanh nghiệp này tương đối rẻ và linh hoạt hơn so với các doanh nghiệp nước ngoài. Trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ thường hạ giá thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh để có nguồn hàng ban đầu. Điều này có lợi cho khách hàng được hưởng giá rẻ hơn nhưng các doanh nghiệp cung ứng lại tự làm yếu mình vì với mức lợi nhuận thấp thì khả năng tái đầu tư thấp và khi có thiệt hại xảy ra thì không thể giải quyết hợp lý theo yêu cầu của khách hàng. Thứ tư, dịch vụ được cung ứng chưa có sự hợp tác giữa các doanh nghiệp trong ngành với nhau và với các ngành liên quan. Các doanh nghiệp nước ta đang lãng phí nguồn lực trong việc cạnh tranh lẫn nhau mà không chú ý đến lợi ích mang lại của sự hợp tác trong ngành thông qua các hiệp hội ngành nghề trong hoạt động cung ứng của mình. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp 3PL cũng chưa hợp tác với các doanh nghiệp ngành liên quan như bảo hiểm và ngân hàng nhằm đi sâu hơn nữa vào quản trị chuỗi cung ứng của khách hàng gây bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động cũng như cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. 2.2.2.Lợi thế cạnh tranh Các doanh nghiệp 3PL Việt Nam chủ yếu cạnh tranh dựa vào giá cả dịch vụ chứ chưa có được lợi thế cạnh tranh về năng lực công nghệ thông tin và dịch vụ giá trị gia tăng. Với năng lực IT thì các doanh nghiệp Việt Nam thực sự yếu kém, trong khi đây là một tiêu chí quan trọng trong cung ứng dịch vụ Logistics hiện nay. Hầu hết các trao đổi thông tin hiện nay ở các doanh nghiệp Logistics Việt Nam chỉ thực hiện bằng biện pháp thủ công như điện thoại, email… mà chưa có chức năng “track and trace” hiệu quả qua website cho khách hàng sử dụng cũng như chưa có hệ thống truyền dữ liệu điện tử EDI. Cạnh tranh bằng giá chỉ có thể mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam nhưng hợp đồng về các dịch vụ cơ bản mà không cung ứng được dịch vụ đi sâu vào quản trị chuỗi cung ứng của khách hàng. Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 33 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E Các doanh nghiệp Việt Nam có lợi thế trong các mối quan hệ nội địa cũng như lợi thế về văn hóa dễ tiếp cận với khách hàng trong nước hơn. So với các doanh nghiệp Logistics nước ngoài thì thị trường Việt Nam là thị trường mà các doanh nghiệp nước ta dễ tiếp cận hơn do có mối quan hệ tốt với khách hàng. Doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng lợi thế này tiếp cận với lượng hàng xuất khẩu có quyền quyết định thuộc về bên chủ hàng Việt Nam hoặc đối với lượng hàng nhập khẩu mà bên Việt Nam có toàn quyền quyết định. Đây là sự thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam khai thác thị trường nội địa một cách hiệu quả. Một lợi thế khác của các doanh nghiệp Việt Nam so với doanh nghiệp nước ngoài tại thị trường 3PL là lợi thế về hệ thống kho bãi. Trên thực tế, các doanh nghiệp nội địa hiện nay đang sở hữu phần lớn hệ thống kho bãi phục vụ trong ngành Logistics nói chung và phục vụ cho hoạt động của các doanh nghiệp 3PL nói riêng. Điều này khiến cho các đa phần các doanh nghiệp có vốn nước ngoài khi thực hiện chuỗi cung ứng đều phải thuê kho hoặc nếu có thì phải liên kết với các doanh nghiệp trong nước. Việc này sẽ đem lại một “điểm cộng” cho các doanh nghiệp 3PL nội địa trong đánh giá của khách hàng cũng như sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp nước ta “chen chân” vào các chuỗi cung ứng mà các doanh nghiệp nước ngoài đang thực hiện. 2.2.3.Thực trạng phát triển Từ năm 2007 đến nay, thị trường dịch vụ 3PL ở Việt Nam đã chuyển biến mạnh mẽ, tạo ra những bước đi ngoạn mục. Ước tính, quy mô thị trường có tổng giá trị khoảng 1,4 tỷ USD năm 2007, chiếm khoảng 2% GDP, gồm phần lớn là dịch vụ vận chuyển. Mặc dù thị trường này có quy nhỏ so với các nước trong khu vực nhưng được dự đoán là sẽ có tốc độ tăng trưởng khoảng 20-25% trong thời gian tới. Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 34 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E Bảng 2.1: Tốc độ tăng trưởng thị trường dịch vụ Logistics tại Việt Nam giai đoạn 2007-2011 Năm Trị giá (tỷ USD) Tốc độ tăng trưởng (%) 2007 1,40 - 2008 1,77 26,4 2009 2,17 22,4 2010 2,56 18,3 2011 3,20 24,7 Nguồn: Tạp chí Vietnam value insight Giá trị thị trường Logistics trong nước được tạo ra từ 4 ngành chủ yếu: bán lẻ hàng tiêu dùng, hàng thiết bị công nghệ cao, thiết bị ô tô và dược phẩm. Bảng 2.2: Giá trị thị trường Logistics từ 4 ngành chủ đạo Ngành hàng Tỷ trọng (%) Trị giá (tỷ USD) Tốc độ tăng trưởng dự báo (%) Bán lẻ hàng tiêu dùng 90,0 1,26 14,7 Hàng điện tử 6,0 0,08 5,7 Thiết bị ô tô 3,0 >10 Dược phẩm 1,0 Nguồn: Tạp chí Vietnam value insight Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, nhu cầu thuê ngoài dịch vụ Logistics vẫn còn hạn chế. Kết quả điều tra của công ty SCM cho thấy, nhu cầu thuê ngoài Logistics tập trung chủ yếu ở các doanh nghiệp tư nhân và thấp nhất là ở các doanh nghiệp nhà nước. Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 35 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E Biểu đồ 2.3: Nhu cầu thuê ngoài theo ngành và theo loại hình công ty Nguồn: Công ty SCM Cũng theo điều tra của công ty SCM, các loại dịch vụ có nhu cầu thuê ngoài nhiều nhất là vận tải nội địa (100% doanh nghiệp), giao nhận hàng hóa (77%), tiếp theo là các dịch vụ kho bãi (73%), khai thuê hải quan (68%) và vận tải quốc tế (59%). Đây đều là các dịch vụ thuộc nhóm dịch vụ cơ bản, đơn giản nhất, cho thấy khả năng cung ứng còn hạn chế cũng như sự sơ khai của thị trường nước ta hiện nay. Tuy nhiên, các dịch vụ thuê ngoài này sẽ tiếp tục tăng lên và có xu hướng đa dạng hóa. Biểu đồ 2.4: Dự đoán tỷ lệ gia tăng các dịch vụ Logistics trong tương lai Nguồn: SCM Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 36 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E Bên cạnh đó, chất lượng dịch vụ Logistics cũng là vấn đề cần phải chú ý. Theo kết quả nghiên cứu từ các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ Logistics thì dịch vụ được cung ứng còn nhiều hạn chế, nhất là than phiền về chất lượng dịch vụ không như cam kết (55%) và thiếu sự cải tiến của nhà cung cấp (55%). Ngoài ra còn những vấn đề về nhân sự, IT, kinh nghiệm thực tế… Nhìn chung, các doanh nghiệp Logistics Việt Nam còn đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển, chỉ dừng ở mức độ thực hiện trong quan hệ khách hàng. Đặc điểm chung dễ nhận thấy là các doanh nghiệp hoạt động không định hướng, không liên kết trong một chỉnh thể thống nhất và hoạt động đơn độc không hợp tác với nhau. Thị trường Logistics nước ta còn rất phân tán, mức độ cạnh tranh ngành rất cao. Tuy nhiên, để tìm ra được hướng đi đúng đắn cần phân tích kỹ hơn các tác động từ môi trường ngoài và những cơ hội, thử thách cần giải quyết. 2.3.Đánh giá tình hình phát triển 2.3.1.Thành công a) Bước đầu hình thành khuôn khổ pháp lý cần thiết để điều chỉnh hoạt động Logistics phát triển Việt Nam đã có những nỗ lực quan trọng trong việc xây dựng hành lang pháp lý để tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp Logistics nói riêng. Luật Thương mại 2005 được đánh giá là bước đột phá mới trong hoạt động Logistics, mở ra cánh cửa cho các doanh nghiệp bước vào kinh doanh lĩnh vực kinh tế quan trọng này, đồng thời có thể tiếp cận gần hơn hoạt động Logistics trên thế giới. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng ban hành nhiều văn bản pháp luật khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động của các doanh nghiệp Logistics, đặc biệt là việc ban hành các Nghị định về vận tải đa phương thức. Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 37 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E b) Cơ sở hạ tầng đã có những bước phát triển nhất định, từng bước đáp ứng được nhu cầu phát triển các hoạt động Logistics Hiện nay, Việt Nam đã xây dựng được hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông phần nào đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành dịch vụ Logistics. Chính phủ cùng các ban nganh cà nhiều địa phương đã chú trọng nghiên cứu xây dựng và thực hiện các quy hoạch về phát triển các lĩnh vực giao thông vận tải đường biển, đường không, đường sắt và đường bộ. Nhờ đó, cùng với sự phát triển kinh tế và tăng trưởng xuất khẩu, ngành vận tải biển Việt Nam đang có bước phát triển vượt bậc. Hiện có khoảng 90% hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam được vận chuyển bằng con đường này. c) Số lượng các doanh nghiệp Logistics ngày càng tăng nhanh cả về số lượng và năng lực kinh doanh Từ năm 2006, số lượng doanh nghiệp Logistics Việt Nam gia tăng nhanh chóng, cao hơn một số quốc gia trong khu vực. Bản thân các doanh nghiệp này, tuy thị pần không lớn, trình độ dịch vụ chưa cao nhưng biết tận dụng các ưu thế trong nước và một phần dựa vào hệ thống đại lý nước ngoài đã phát triển, gặt hái nhiều kinh nghiệm. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã được các chủ đầu tư nước ngoài chỉ định làm tổng thầu vận chuyển và cung ứng dịch vụ Logistics, hoặc ít nhất cũng đảm nhận những công việc chủ yếu trong toàn bộ dây chuyền cung cấp dịch vụ Logistics khi triển khai thực hiện các dự án, công trình ở Việt Nam. Trên thực tế, dịch vụ Logistics theo hướng 3PL đã xâm nhập và đang phát triển tại Việt Nam, tuy thị trường 3PL tại nước ta chủ yếu đang nằm trong tay các doanh nghiệp lớn của nước ngoài hoặc một số công ty liên doanh. Theo VIFAS, có khoảng 10-15% doanh nghiệp là hội viên chính thức của Hiệp hội có khả năng cung ứng dịch vụ 3PL thành công với thế mạnh là sự am hiểu về cơ sở hạ tầng, Luật pháp và văn hóa Việt Nam. Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 38 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E 2.3.2.Hạn chế a) Hệ thống khuôn khổ pháp lý còn nhiều hạn chế, chưa có một cơ chế, chính sách đồng bộ để điều chỉnh hoạt động Logistics phát triển Mặc dù đã xây dựng được một số văn bản pháp luật cơ bản nhưng nhìn chung ở Việt Nam vẫn chưa có được hệ thống pháp lý hoàn chỉnh và đồng bộ điều chỉnh hoạt động kinh doanh dịch vụ Logistics. Có thể nói, hệ thống các quy định về Logistics đã được định hình nhưng nội dung vẫn còn nhiều hạn chế. Logistics mới chỉ được công nhận là một hành vi thương mại trong Luật thương mại 2005 và khái niệm dịch vụ Logistics được nêu trong Luật còn đơn giản, có thể dẫn đến cách hiểu không đầy đủ và chính xác về Logistics và dịch vụ Logistics dẫn tới sự đánh đồng Logistics với hoạt động giao nhận vận tải. Bên cạnh đó, việc các bộ, ngành ban hành những quy định riêng lẻ, thiếu tính thống nhất đã gây ra những trở ngại không nhỏ cho sự phát triển của ngành Logistics. Một số văn bản không có nguồn luật tham chiếu nên thường đưa ra quy định: “Nếu luật quốc tế quy định khác thì áp dụng theo luật quốc tế”. Trong bối cảnh doanh nghiệp chưa nắm vững luật pháp quốc tế, luật pháp các nước liên quan thì đây là một nguy cơ tiềm ẩn khả năng thua thiệt của các doanh nghiệp Logistics nước ta trong khi cung cấp dịch vụ ra nước ngoài. Hiểu biết luật pháp quốc tế để áp dụng là một điều kiện không thể thiếu trong kinh doanh Logistics. b) Chưa xây dựng được chiến lược tổng thể phát triển Logistics ở Việt Nam Là một ngành kinh tế quan trọng và đang tăng trưởng khá nhanh nhưng cho đến nay Việt Nam vẫn chưa xây dựng một chiến lược dài hạn, có tính tổng thể nào nhằm phát triển dịch vụ Logistics. Mặc dầu trong những lĩnh vực riêng lẻ có liên quan như cảng biển, vận tải hàng không… quy hoạch phát triển tổng thể đã được nhà nước xây dựng và thông qua nhưng nếu thiếu một chiến lược tổng thể về phát Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 39 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E triển ngành Logistics thì chắc chắn sự phối hợp giữa các ban ngành liên quan và việc thực thi các quy hoạch nói trên sẽ không được hiệu quả. c) Cơ sở hạ tầng Logistics còn yếu kém dẫn đến chi phí Logistics còn cao Một trong những hạn chế cơ bản đối với phát triển dịch vụ Logistics ở Việt Nam hiện nay là sự yếu kém, quy mô nhỏ và bố trí bất hợp lý của cơ sở hạ tầng Logistics ở cả cấp độ quốc gia, địa phương lẫn các doanh nghiệp Logistics. Nhìn chung, cơ sở hạ tầng Logistics của nước ta chưa đủ khả nang đáp ứng được nhu cầu phục vụ việc lưu chuyển hàng hóa trong khi khối lượng và giá trị hàng hóa tham gia quá trình lưu chuyển ngày càng lớn. Hệ thống cảng biển còn hạn chếm thiếu những cảng nước sâu, các trung tâm Logistics, cảng trung chuyển quốc tế để thu hút tàu biển có trọng tải lớn và hàng hóa trung chuyển giữa các quốc gia vào Việt Nam. Hạ tầng đường bộ cũng chưa hoàn chỉnh, khả năng bảo trì và phát triển đường bộ còn thấp. Hệ thống đường sắt chưa kết nối được nhiều với các trung tâm Logistics, các cảng biển, các khu kinh tế, khu công nghiệp, năng lực vận tải còn kém hiệu quả do chưa được hiện đại hóa. Đường hàng không hiện cũng không đủ phương tiện máy bay phục vụ vận chuyển vào mùa cao điểm. Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 40 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E Bảng 2.3: Đánh giá chất lượng cơ sở hạ tầng Logistics ở Việt Nam Chỉ tiêu Rất tốt Tốt Trung bình Kém Rất kém Tổng cộng Kết cấu hạ tầng giao thông vận tải 11,72% 21,09% 53,52% 11,33% 2,34% 100% Cơ sở hạ tầng kho tàng bến bãi 8,26% 23,97% 61,16% 5,37% 1,24% 100% Cơ sở hạ tầng thông tin truyền thông 12,60% 31,30% 50,41% 5,28% 0,41% 100% Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát về Logistics của Viện NCKH và PT – Trường ĐHKTQD, 2011 Hạ tầng thông tin là điểm yếu của các doanh nghiệp Logistics Việt Nam. Mặc dù các doanh nghiệp này đã có nhiều ý thức trong việc áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh của mình nhưng điều này vẫn còn kém xa so với các công ty Logistics nước ngoài. Hệ thống thông tin Logistics của các doanh nghiệp Logistics Việt Nam còn lạc hậu và kém hiệu quả. Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 41 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E Biểu đồ 2.5: Tỷ lệ các doanh nghiệp không thường xuyên sử dụng các trang thiết bị thông tin 12.56 23.97 42.41 38.87 48.21 62.5 0 10 20 30 40 50 60 70 Mạng nội bộ Internet trong giao dịch Website Phần mềm quản lý kho, bán hàng Giao dịch thương mại điện tử Mạng hệ thống toàn cầu Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát về Logistics của Viện NCKH và PT – Trường ĐHKTQD, 2011 d) Thủ tục hải quan còn nhiều bất cập gây khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp Mặc dù Tổng cục Hải quan đã chú ý đầu tư cho công nghệ thông tin nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp và thủ tục khai hải quan điện tử đã được áp dụng trên cả nước từ năm 2007 nhưng các thủ tục hải quan vẫn còn rườm rà, chưa thật sự công khai, minh bạch. Một số cán bộ công chức hải quan còn quan liêu. Hệ thống hải quan trực tuyến chưa thực sự đem lại tiện ích cho doanh nghiệp trong khi khai báo. Chính những điều này đã làm cho các doanh nghiệp tăng thêm chi phí hoạt động. Hầu như các khâu trong thủ tục thông quan như kê khai, kiểm hóa, phúc tập hồ sơ… đều phải có những chi phí không chính thức. Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 42 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E e) Quy mô doanh nghiệp Logistics chủ yếu là vừa và nhỏ, kinh doanh còn manh mún, hoạt động cơ bản tập trung ở thị trường nội địa Hiện tại cả nước có trên 1200 doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực Logistics, trong đó VIFFAS có 154 thành viên chính thức nhưng số lượng doanh nghiệp đủ sức để tổ chức và điều hành toàn bộ quy trình Logistics lại rất ít. Các doanh nghiệp Việt Nam đa phần đều là doanh nghiệp nhỏ, hạn chế về vốn và trình độ nhân lực, có thể vì thế nên chỉ đủ khả năng làm thuê một vài công đoạn trong cả chuỗi dịch vụ mà các doanh nghiệp nước ngoài giành được ngay trên thị trường Việt Nam. Các doanh nghiệp nước ta mới chỉ phát triển đến cấp độ 2 của Logistics, nghĩa là mới chỉ dừng lại ở việc làm đại lý, trung gian chứ chưa đáp ứng được cả chuỗi Logistics bao gồm cả các MTO và PLP. Hiện nay trên thị trường Việt Nam đang thiếu hẳn những nhà cung cấp dịch vụ 3PL trọn gói thực sự. Việc ứng dụng Logistics ở nước ta chậm hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới trong thời gian dài. Hơn nữa, xuất phát điểm của hoạt động này ở Việt Nam rất thấp nên tới nay, quy mô hoạt động của các doanh nghiệp Logistics Việt Nam còn nhỏ, cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa chứ chưa nói đến thị trường quốc tế. Hiện tại, các doanh nghiệp Logistics Việt Nam chủ yếu hoạt động trong phạm vi nội địa hoặc một số nước trong khu vực; phần lớn các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp lớn vẫn chưa có khả năng thành lập các chi nhánh ở nước ngoài, kể cả ở các nước láng giềng. Chính vì thế, việc khai thác nguồn hàng hay việc gửi và nhận hàng từ nước ngoài về, các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam chủ yếu thông qua mối quan hệ đại lý với các tập đoàn Logistics quốc tế. Điều này là trở ngại cho việc phát triển Logistics của các doanh nghiệp định hướng kinh doanh dịch vụ Logistics toàn cầu. f) Nguồn nhân lực vừa thiếu lại vừa yếu, chưa được đào tạo bài bản về Logistics Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 43 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E Logistics là một lĩnh vực khá mới mẻ đối với các công ty của Việt Nam nói chung và các công ty kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải nói riêng. Vì vậy, nguồn nhân lực để phát triển Logistics hiện nay còn thiếu và yếu. Đội ngũ cán bộ quản lý tuy hầu hết đã đạt trình độ đại học và đang được đào tạo hoặc tái đào tạo để đáp ứng nhu cầu quản lý, nhưng vẫn còn tồn tại phong cách quản lý cũ, chưa thích ứng kịp với điều kiện kinh doanh mới, chưa được trang bị toàn diện kiến thức về Logistics cũng như quản trị Logistics. Đội ngũ nhân viên nghiệp vụ phần lớn đã có bằng cấp, nhưng lại chưa được đào tạo chuyên sâu về Logistics, tất cả đều phải tự nâng cao trình độ. Đội ngũ lao động trực tiếp có trình độ học vấn còn thấp nên hầu như không có hiểu biết về hoạt động Logistics. Công việc của họ đơn thuần chỉ là bốc xếp, kiểm đếm, lái xe, giao nhận hàng hóa… và sử dụng sức người nhiều hơn máy móc. Sự yếu kém về nguồn nhân lực như vậy là hạn chế rất lớn tới việc ứng dụng và phát triển công nghệ Logistics tại các doanh nghiệp Việt Nam. g) Thị trường Logistics còn rất hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của đất nước Việt Nam là một đất nước có nhiều lợi thế về vị trí địa lý trong thực hiện dịch vụ Logistics và xuất hiện thêm nhiều các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đang tạo điều kiện cho các doanh nghiệp 3PL mở rộng thị trường của mình. Tuy nhiên, trên thực tế thì các doanh nghiệp 3PL có vốn đầu tư nước ngoài đang chiếm lĩnh thị trường Logistics nước ta với thị phần lên tới 75% mà khách hàng của họ chủ yếu là những công ty nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn chưa nhận thức đúng về vai trò của quản lý chuỗi cung ứng và Logistics trong hoạt động của doanh nghiệp nên việc khai thác thị trường nội địa của các doanh nghiệp 3PL cũng đang gặp khó khăn. Việc các doanh nghiệp hiểu sai và gộp Logistics vào chức năng của phòng kinh doanh xuất nhập khẩu Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 44 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E thay vì tách thành bộ phận chuyên nghiệp riêng đang tạo ra những rào cản đối với các doanh nghiệp 3PL trong việc chào hàng các dịch vụ Logistics giá trị gia tăng. 2.3.3.Nguyên nhân a) Nguyên nhân khách quan Do xuất phát điểm thấp và đi sau của nền kinh tế đối với lĩnh vực Logistics. Theo đánh giá VIFFAS, trình độ công nghệ của Logistics tại Việt Nam còn yếu kém so với thế giới và các nước trong khu vực, nhất là kết cấu hạ tầng, vừa yếu kém, vừa thiếu đồng bộ. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam chủ yếu vẫn bán hàng theo hình thức FOB nên quyền định đoạt về vận tải đều do khách hàng nước ngoài quyết định và thường là họ sẽ chỉ định một công ty của nước mình thực hiện công việc vận tải. Điều này dẫn đến việc các công ty Logistics Việt Nam không thể tham gia vào cung ứng những dịch vụ giá trị gia tăng trong chuỗi Logistics và thị phần có được quá nhỏ so với thị trường quốc gia. a) Nguyên nhân chủ quan Nhận thức về Logistics ở Việt Nam còn chưa đầy đủ, chưa tương xứng với vị trí của nó trong nền kinh tế. Nhận thức của các doanh nhân hoạt động trrong lĩnh vực này thường dừng ở mức kinh nghiệm bản thân, hiểu biết về luật pháp quốc tế, tài chính, chuyên ngành còn thấp dẫn đến tỷ lệ bị phạt hợp đồng còn cao, lãng phí trong tài chính và hoạt động khai thác. Tiềm lực của các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực Logistics còn hạn chế cả về vốn, năng lực hoạt động, dịch vụ cung ứng, cơ sở hạ tầng … nên tầm phủ của các doanh nghiệp Việt Nam còn rất hẹp. Doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ đáp ứng khai thác được một vài mảng nhỏ trong toàn bộ chuỗi cung ứng, chủ yếu là giao nhận, trong khi đó các doanh nghiệp nước ngoài lại cung cấp một chuỗi các dịch vụ trọn gói với giá trị gia tăng cao. Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 45 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E Vai trò định hướng, hỗ trợ của Nhà nước và các Hiệp hội đối với hoạt động Logistics còn hạn chế, chưa thực sự dẫn đường, liên kết và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nội địa phát triển. Bản thân các doanh nghiệp Logistics nói chung và các doanh nghiệp 3PL nói riêng ở Việt Nam chưa có một Hiệp hội đúng nghĩa với dự tham gia của Nhà nước. Trong các chủ trương đường lối lớn của Đảng, Logistics cũng chỉ là một dạng hoạt động của ngành dịch vụ chung. Chưa chú trọng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phục vụ ngành Logistics. Có thể nói một cách chính xác là hiện nay nguồn nhân lực chuyên nghiệp cho ngành Logistics đang thiếu trầm trọng cả về chất lẫn về lượng. Hiện nay, hàu hết nhân sự trong ngành Logistics được chuyển từ các công ty vận tải biển và giao nhận chuyển sang, được sử dụng theo kiểu biết đâu làm đó. Sự đào tạo chính quy từ các trường đại học cũng như các khóa đào taokj nghiệp vụ chưa đầy đủ và phổ biến. Kiến thức đào tạo đi sau thế giới khá xa. Nhân viên trong ngành Logistics nói chung hiện nay còn yếu về trình độ ngoại ngữ, tin học cũng như các kỹ năng nghề nghiệp. Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 46 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E CHƯƠNG 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ LOGISTICS ĐỐI VỚI LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP 3PL Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2015 3.1.Cơ hội và thách thức phát triển 3.1.1.Cơ hội Thứ nhất, quy mô thị trường dịch vụ Logistics nhỏ (khoảng 2-4% GDP) nhưng tốc độ tăng trưởng cao (20-25%/năm). Kim ngạch xuất nhập khẩu và bán lẻ có mức tăng trưởng khá cao. Khối lượng hàng hóa qua cảng biển dự kiến tăng như sau: năm 2015 dự kiến 500-600 triệu tấn, năm 2020 dự kiến 900-1100 triệu tấn, năm 2030 dự kiến 1600-2100 triệu tấn. Như vậy, quy mô của thị trường 3PL sẽ nhanh chóng mở rộng và trở thành một trong những tiêu điểm đầu tư trong thời gian tới. Thứ hai, chính sách hội nhập: Việt Nam đang đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế thông qua những cải cách về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính, xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế và tài chính phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc trở thành thành viên chính thức của WTO đưa nước ta thành một quốc gia mở cửa về thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, có thể tiếp cận được những thị trường rộng lớn hơn với những ưu đãi thương mại để tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ và cung ứng được nguồn nguyên nhiên vật liệu, thiết bị với giá cạnh tranh. Thứ ba, lợi thế về khu vực: Việt Nam có vị trí địa lý rất thuận lợi cho vận tải quốc tế, nằm ở khu vực chiến lược trong vùng Đông Nam Á. Bờ biển trải dài, có nhiều cảng nước sâu, các sân bay quốc tế, hệ thống đường sắt xuyên quốc gia và mạng lưới giao thông là tiền đề khả quan để phát triển Logistics. Thứ tư, toàn cầu hóa đã mở cho Việt Nam những cơ hội phát triển quan hệ đối tác, thị trường xuất khẩu được mở rộng nhờ tự do hóa thương mại. Những thay đổi về cơ cấu ngành trên thế giới tác động theo hướng tích cực đến sự chuyển dịch cơ Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 47 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E cấu kinh tế Việt Nam, tiếp cận tốt hơn với các nguồn tài chính, tín dụng đa dạng cả ở trong lẫn ngoài nước. Thứ năm, lĩnh vực dịch vụ đang được quan tâm phát triển, dịch vụ Logistics mà đặc biệt là đối với loại hình doanh nghiệp 3PL đã bắt đầu thu hút sụ chú ý của các cấp quản lý Nhà nước cũng như của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Như vậy, dưới sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua các chính sách và biện pháp phát triển tầm vĩ mô cũng như sự đầu tư về vốn và công nghệ của các doanh nghiệp quốc tế, các doanh nghiệp Logistics nước ta sẽ có điều kiện để tiếp cận với vốn, công nghệ và đặc biệt là học hỏi kinh nghiệm của các doanh nghiệp nước để phát triển chính doanh nghiệp mình, đem lại sự phát triển chung cho loại hình doanh nghiệp 3PL. Thứ sáu, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin: Việt Nam có nhiều cơ hội được tiếp cận với những khoa học công nghệ mới, góp phần làm tăng năng suất lao động, hiệu quả sản xuất ngày càng tăng, phương thức quản lý tiên tiến để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh. Thứ bảy, thông qua cọ xát, cạnh tranh để học hỏi, tích lũy kinh nghiệm, tri thức và rèn luyện nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ nhân lực. Nhìn chung, các doanh nghiệp được hưởng nhiều lợi ích quan trọng từ quá trình tự do hóa và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng thuận lợi và cạnh tranh bình đẳng. Như vậy, những thay đổi của Việt Nam hiện nay đang mở ra cơ hội phát triển nhanh chóng cho ngành Logistics nói chung và cho các doanh nghiệp 3PL nói riêng, khi mà sự phát triển loại hình doanh nghiệp này đang là xu hướng và chiến lược chủ đạo của sự phát triển Logistics ở nước ta hiện nay. Có thể nói, đây là một bước tiến quan trọng của ngành dịch vụ Việt Nam nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và tái khẳng định lại vị trí quan trọng của các 3PL trong giai đoạn phát triển hiện nay của nền kinh tế. Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 48 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E 3.1.2.Thách thức Thứ nhất, cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh: Hiện nay, cơ sở hạ tầng Việt Nam còn nghèo nàn, quy mô nhỏ, bố trí bất hợp lý, chưa có những cảng nước sâu, cảng trung chuyển quốc tế để thu hút tàu biển có trọng tải lớn và hàng hóa trung chuyển giữa các quốc gia vào cảng nước ta, chưa phát triển vận tải hàng hóa bằng đường hàng không, hạ tầng đường bộ chưa hoàn chỉnh, hệ thống đường sắt chưa kết nối được nhiều cảng biển, khu kinh tế… Thứ hai, doanh nghiệp Logistics Việt Nam quy mô nhỏ và thiếu tính chuyên nghiệp trong quá trình cung cấp dịch vụ. Các doanh nghiệp Việt Nam quy mô nhỏ, thiếu vốn, công nghệ lạc hậu (đặc biệt là đối với hệ thống công nghệ thông tin Logistics), quản lý kém, hàng hóa, sản phẩm thiếu sức cạnh tranh, hoạt động manh mún và chưa liên kết, kinh doanh theo kiểu chụp giật, cạnh tranh thiếu lành mạnh, thi nhau hạ giá dịch vụ để giành được hợp đồng. Thứ ba, môi trường chính sách vĩ mô, hệ thống luật pháp còn nhiều bất cập. Các bộ ngành đã ban hành và sửa đổi nhiều văn bản pháp luật song chưa đầy đủ và kịp thời để đảm bảo tính minh bạch và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp dễ dự đoán chính sách. Thứ tư, thiếu hụt nguồn nhân lực được đào tạo bài bản, có trình độ quản lý lĩnh vực Logistics. Theo VIFFAS, hiện chưa có thống kê chính xác về nguồn nhân lực phục vụ trong ngành. Nếu chỉ tính riêng các công ty là thành viên chính thức của Hiệp hội thì tổng số nhân viên khoảng 5000 người và họ được coi là lao động chuyên nghiệp. Ngoài ra, lực lượng nhân viên Logistics bán chuyên nghiệp cũng được ước tính khoảng 4-5 nghìn người. Nhìn chung thì nguồn nhân lực phục vụ cho ngành Logistics nước ta còn yếu và thiếu. Điều này là do nguồn nhân lực cho Logistics chưa được đào tạo chính thức Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 49 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E trong trường chuyên ngành mà hầu như đều từ các trường đại học kinh tế và ngoại thương, được bổ sung từ các trường hàng hải, giao thông, vận tải... Thứ năm, thiếu cơ chế ưu đãi từ phía Nhà nước cho sự phát triển của các 3PL. Không như các nước khác trong khu vực và trên thế giới, Chính phủ Việt Nam chưa thực sự đưa ra những ưu đãi cần thiết cho sự thành lập và phát triển của các doanh nghiệp 3PL trên thị trường nội địa, thậm chí Nhà nước còn chưa thể chế hóa thị trường 3PL bằng các bộ luật cần thiết cho sự phát triển của loại hình dịch vụ này. Thứ sáu, Logistics là lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro khi hoạt động trên thị trường quốc tế. Đặc biệt, các quốc gia trong khu vực châu Á nói chung và ASEAN nói riêng đều đang có tốc độ tăng trưởng cao. Hơn nữa, sự không hiểu rõ chính sách, luật lệ, thủ tục, sự khác biệt về tiêu chuẩn kỹ thuật, khung khổ pháp lý và cách thức làm ăn tại thị trường và các đối tác nước ngoài là những thách thức lớn đối với Việt Nam trong giai đoạn hội nhập này. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với những doanh nghiệp 3PL có chiến lược thực hiện cung ứng dịch vụ trọn gói hướng ra quốc tế. 3.2.Định hướng và giải pháp phát triển đến năm 2015 3.2.1.Định hướng phát triển a)Chiến lược phát triển Chiến lược giảm chi phí Logistics ở Việt Nam: can thiệp vào các điểm hạn chế của chuỗi cung ứng như năng suất các cảng, kho bãi và điểm trung chuyển, quy hoạch vận tải đa phương thức thúc đẩy phát triển nhanh hơn các phương thức vận tải hàng hóa có chi phí thấp, xác định các cơ hội cải tạo các sản phẩm xuất khẩu cụ thể. Chiến lược đào tại nguồn nhân lực cho ngành Logistics, một mặt nhằm đáp ứng nhanh nhu cầu nhân lực qua đào tạo cho ngành, mặt khác đẩy mạng chương trình Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 50 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E đào tạo các chuyên gia Logistics có kỹ năng ứng dụng và triển khai thực hành quản trị Logistics và chuỗi cung ứng theo kịp các nước công nghiệp phát triển. Chiến lược tái cấu trúc Logistics, trong đó có kế hoạch thúc đẩy sự tăng trưởng những nhà cung ứng 3PL trong nước, xem đây là tiền đề phát triển thị trường Logistics tại Việt Nam. Chiến lược công nghệ thông tin cho ngành Logistics nhằm thúc đẩy sự gắn kết IT trong ngành, đặc biệt là khâu thủ tục hải quan. b) Một số chương trình Logistics trọng điểm: -Phát triển khu công nghiệp Logistics miền Bắc với quy mô, địa điểm phù hợp nhằm phục vụ nhu cầu trung chuyển hàng hóa cũng như phục vụ các khu công nghiệp sản xuất chế biến xuất khẩu. -Phát triển khu công nghiệp Logistics miền Nam phục vụ vận tải container quốc tế thông qua cảng biển container quốc tế và cảng hàng không quốc tế. -Phát triển khu Logistics cùng với việc cải tạo cửa khẩu Lào Cai thúc đẩy trao đổi thương mại với Trung Quốc. -Phát triển đa dạng các trung tâm phân phối tại các thành phố, đô thị lớn trên cả nước nhằm phục vụ thị trường bán lẻ, các trung tâm Logistics gần các khu công nghiệp sản xuất, chế biến xuất khẩu 3.2.2.Giải pháp tầm vĩ mô a) Giải pháp về xây dựng chiến lược phát triển Logistics của Việt Nam Xây dựng chiến lược Logistics quốc gia cần phải lưu ý đến các vấn đề sau đây: chiến lược phải phát huy tối đa các lợi thế về điều kiện địa lý nhằm mục tiêu phát triển ngành Logistics đồng bộ, toàn diện và phù hợp với sự phát triển kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước và đồng thời thực hiện tốt các cam kết với WTO về Logistics. Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 51 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E Như vậy, nội dung chiến lược phát triển Logistics cần tập trung vào: phát triển dịch vụ khách hàng, nâng cao khả năng quản lý hàng lưu kho, quản lý nguyên vật liệu, quy hoạch giao thông vận tải, phát triển hoạt động kho bãi, đẩy mạnh công nghệ thông tin phục vụ cho hoạt động Logistics. b)Giải pháp về hệ thống pháp luật và quản lý hoạt động Logistics Xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý phát triển dịch vụ Logistics nói chung và dịch vụ Logistics đối với loại hình doanh nghiệp 3PL nói riêng. Hệ thống pháp lý được xây dựng phải đảm bảo phù hợp với tập quán quốc tế cũng như thống nhất giữa các ngành nghề có liên quan, tránh gây chồng chéo hay bất đồng giữa các văn bản pháp luật được ban hành nhằm tạo ra môi trường pháp lý “thân thiện” với sự phát triển của các 3PL. Cần có một cơ quan quản lý dịch vụ Logistics để tạo tính minh bạch, thông suốt cho hoạt động Logistics. Sự tồn tại của một cơ quan quản lý duy nhất sẽ khiến cho mọi hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành đều diễn ra dưới sự điều tiết và giám sát của cơ quan này, tạo sự công bằng, thống nhất giữa các chủ thể tham gia thị trường 3PL. Đồng thời, cơ quan này sẽ đảm nhiệm việc nghiên cứu và đề xuất các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động của các 3PL và đề xuất những ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại áp dụng cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý sẽ là người hỗ trợ việc thành lập và phát triển của các doanh nghiệp tham gia thị trường 3PL theo định hướng và quy hoạch phát triển Logistics quốc gia mà họ đã xây dựng. c) Giải pháp về cơ sở hạ tầng Phát triển cơ sở hạ tầng và phương tiện vật chất kỹ thuật của ngành giao thông vận tải đồng bộ và tiên tiến. Đây là điều kiện tiên quyết không thể thiếu cho sự phát triển Logistics ở bất kỳ nền kinh tế nào. Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải đồng bộ sẽ giải quyết những tồn tại hiện nay do sự xuống cấp của hệ thống giao thông và Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 52 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E mở ra một cơ hội mới để đẩy nhanh sự phát triển của các 3PL, trong đó, cần đặc biệt chú trọng sự liên kết giữa các trục đường giao thông với nhau và với các trung tâm Logistis trên toàn quốc để tạo ra sự thuận lợi cho việc lưu chuyển hàng hóa trong hoạt động của doanh nghiệp. Đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, đặc biệt là hệ thống trao đổi dữ liệu EDI nhằm mang lại năng suất lao động cao, tiết kiệm chi phí, giảm thiểu tình trạng tiêu cực, gian lận trong thương mại, xuất nhập khẩu và hải quan. d) Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Việc đào tạo nguồn nhân lực cần thực hiện ở cả ba cấp độ đối với cán bộ hoạch định chính sách, cán bộ quản lý và cán bộ làm nghiệp vụ cụ thể. Đề nghị mở các bộ môn và khoa Logistics ở các trường đại học, cao đẳng hoặc đào tạo thông qua các dự án hợp tác với đối tác nước ngoài hay các tổ chức quốc tế. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng cần phải kết hợp chặt chẽ với Hiệp hội, thông báo với Hiệp hội nhu cầu đào tạo nhân lực của mình để Hiệp hội có hướng giải quyết. Biểu đồ 3.1: Đào tạo lao động trong các doanh nghiệp Logistics 80.26% 26.32% 3.95% 6.58% 8.77% 0.00% 10.00% 20.00% 30.00% 40.00% 50.00% 60.00% 70.00% 80.00% 90.00% Đào tạo qua công việc Gửi tham gia các khóa đào tạo trong nước Gửi tham gia các khóa đào tạo nước ngoài Thuê chuyên gia đến đào tạo Hình thức khác Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát về Logistics của Viện NCKT và PT – Trường ĐH KTQD, 2011 Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 53 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E 3.2.3.Giải pháp tầm vi mô a) Nâng cao khả năng cạnh tranh của các dịch vụ Logistics Các doanh nghiệp tham gia hoạt động trên thị trường 3PL nói riêng và thị trường Logistics nói chung đều phải thực hiện các biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình bằng những biện pháp thay đổi các yếu tố nội tại của doanh nghiệp như: -Hiểu rõ và nhận thức đúng về quy trình cung cấp các dịch vụ Logistics, đặc biệt là trong quá trình vận tải. -Đào tạo có hệ thống nguồn nhân lực có kinh nghiêm được trang bị đầy đủ những kiến thức chuyên môn, am hiểu luật pháp trong nước và quốc tế. Ngoài ra cũng cần nâng cao trình độ ngoại ngữ để đáp ứng thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế. -Đầu tư cơ sở vật chất, nâng cấp và mở rộng hệ thống kho bãi, các trang thiết bị bốc xếp, vận chuyển chuyên dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác. -Ứng dụng IT trong quá trình hoạt động. Các doanh nghiệp cần làm quen với việc sử dụng những phần mềm hỗ trợ trong hoạt động Logistics. -Liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước để kết nối, mở rộng mạng lưới dịch vụ trong cả nước và trên thế giới để tạo đầu ra cho thị trường ngoài nước và nâng cao khả năng cạnh tranh chuyên môn của cán bộ từ đó nâng cao tính cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh. b)Tăng cường vai trò và sự cộng tác chặt chẽ giữa các Hiệp hội ngành nghề liên quan Các Hiệp hội liên quan bao gồm: VIFFAS, Hiệp hội Chủ tàu Việt Nam (VSA), Hiệp hội Đại lý – Môi giới hàng hải Việt Nam (VISABA), Hiệp hội Cảng biển Việt Nam (VPA), Hiệp hội Vận tải ô tô… cần phát huy vai trò tạo dựng các liên Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 54 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E kết, hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp trong ngành nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ Logistics. c) Xây dựng thương hiệu và chiến lược marketing -Phân khúc thị trường nội địa và quốc tế để lựa chọn thị trường mục tiêu phù hợp với doanh nghiệp. -Đa dạng hóa dịch vụ cung cấp. -Mở rộng mối quan hệ với các văn phòng đại diện và tổ chức kinh tế nước ngoài tại Việt Nam để dễ dàng hơn trong việc quảng bá hình ảnh với các đối tác nước ngoài. -Mở rộng địa bàn hoạt động từng bước một từ quốc gia cho đến quốc tế bằng việc nghiên cứu thị trường, khảo sát tìm tòi và học hỏi kinh nghiệp nhằm xây dựng mạng lưới đại lý doanh nghiệp. 3.3.Các kiến nghị 3.3.1.Kiến nghị đối với Nhà nước -Nâng cao nhận thức vai trò, vị trí của Logistics trong nền kinh tế quốc dân, từ đó tạo nhận thức rộng rãi về Logistics đối với các cơ quan quản lý, các ngành, địa phương ở nước ta. -Cần có quan điểm nhất quán, rõ ràng và phải có kế hoạch, bước đi và biện pháp phát triển các dịch vụ Logistics trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. -Cần thành lập ủy ban về Logistics để xây dựng và triển khai thực hiện chiến lược ngành. -Cần khảo sát thực tiễn kinh doanh và tham khảo ý kiến doanh nghiệp trước khi ban hành các quy định pháp luật liên quan nhằm nâng cao tính khả thi và tránh lãng phí. -Hoàn thiện chính sách đầu tư, cơ chế ưu đãi để phát triển cơ sở hạ tầng Logistics cả “phần cứng” và “phần mềm” trong hoạt động Logistics. Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 55 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E -Xây dựng và phát triển các loại hình doanh nghiệp Logistics có khả năng cạnh tranh nhằm phát triển bền vững thị trường Logistics ở nước ta trong hội nhập kinh tế quốc tế. -Đào tạo nguồn nhân lực và xây dựng chức danh cán bộ quản lý Logistics, xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý các cấp với phong cách làm việc chuyên nghiệp. -Tăng cường nghiên cứu và học tập bài học kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới có ngành công nghiệp Logistics phát triển. 3.3.2.Kiến nghị đối với doanh nghiệp -Nhận thức đúng đắn, đầy đủ về dịch vụ Logistics. -Luôn chú trọng nâng cao trình độ nhân viên và tạo môi trường làm việc tốt phát huy cao nhất sức mạnh tập thể trong hoạt động kinh doanh. -Tuyệt đối xem trọng chất lượng và uy tín trong cung ứng dịch vụ. -Có tầm nhìn chiến lược trong hoạch định kinh doanh và đầu tư. -Tích cực, chủ động đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 56 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E KẾT LUẬN Đề án được thực hiện nhằm tìm hiểu những kiến thức cơ bản về Logistics nói chung và loại hình doanh nghiệp 3PL nói riêng cũng như cập nhật thực trạng hoạt động của các 3PL nói chung ở Việt Nam và định hướng phát triển đối với loại hình doanh nghiệp này đến năm 2015. Đề án cũng đưa ra một số giải pháp, kiến nghị đối với Nhà nước và các doanh nghiệp 3PL nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các 3PL Việt Nam và phát triển thị trường 3PL nước ta. Nội dung chính của đề án được trình bày trong 3 chương sau: Chương 1: Giới thiệu chung về dịch vụ Logistics đối với loại hình doanh nghiệp 3PL. Logistics nói chung và loại hình 3PL nói riêng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Bên cạnh đó, chương cũng giới thiệu những đặc điểm của quá trình phát triển và các yếu tố cần thiết của sự phát triển ngành Logistics nói chung và các doanh nghiệp 3PL nói riêng. Trong chương, em cũng trình bày một số kinh nghiệm phát triển các doanh nghiệp 3PL của một số nước trong khu vực và qua những kinh nghiệm đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong sự phát triển loại hình doanh nghiệp này, đặc biệt là các kinh nghiệm của Trung Quốc. Chương 2: Khái quát chung về thực trạng phát triển các doanh nghiệp 3PL ở Việt Nam trong giai đoạn 2007-2012. Chương đề cập đến khung pháp lý, chiến lược phát triển của các doanh nghiệp 2PL và thực trạng phát triển của loại hình này trong những năm gần đây. Trong chương em cũng đưa ra những đánh giá chung về tình hình phát triển của ngành Logistics nói chung và của các doanh nghiệp 3PL ở Việt Nam nói riêng. Qua những đánh giá này, ta có thể thấy được khả năng phát triển của các doanh nghiệp 3PL và những hạn chế cần khắc phục để thúc đẩy sự phát triển trong tương lai. Đề án môn học GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng SV: Trần Thị Hà May 57 Lớp: Kinh tế quốc tế 51E Chương 3: Đưa ra định hướng và các giải pháp cần cho phát triển dịch vụ Logistics đối với các doanh nghiệp 3PL ở nước ta đến năm 2015. Đầu chương, em đưa ra những cơ hội và thách thức trong giai đoạn sắp tới của các doanh nghiệp 3PL nước ta khi các cam kết WTO được thực hiện theo đúng lịch trình hội nhập. Chương cũng trình bày những định hướng chung cho sự phát triển loại hình doanh nghiệp 3PL dựa trên những định hướng chung cho phát triển Logistics của Nhà nước đến năm 2020. Cuối chương, em đưa ra một số kiến nghị đối với Nhà nước và đối với các doanh nghiệp 3PL để tập trung phát triển trong thời gian tới. Những kiến nghị này được xây dựng dựa trên sự phân tích kiến thức chung về 3PL ở chương 1, thực trạng phát triển 3PL ở chương 2 và những định hướng phát triển được đưa ra trong chương 3.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfde_an_mon_hoc_933.pdf
Luận văn liên quan