Cuộc đấu tranh đòi độc lập của Ấn Độ do tư sản Ấn Độ lãnh đạo với một con đường hòa bình. Tuy nhiên đường lối bất bạo động của Gandhi khi thâm nhập vào quần chúng đã được họ sử dụng một cách linh hoạt, ra khỏi sự kiểm soát của chính Gandhi. Điều đó có nghĩa là các lực lượng khác trong xã hội Ấn Độ đã sử dụng các hình thức đấu tranh khác phong phú có cả bạo lực. Công nhân và nông dân là hai lực lượng cơ bản tạo thành động lực cuộc đấu tranh. Đảng Quốc Đại đã đoàn kết các lực lượng trong xã hội vào cuộc đấu tranh chung- đó là nhân tố đảm bảo để tư sản Ấn Độ có thể đảm nhiệm sứ mệnh giải phóng dân tộc.
56 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 8581 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phong trào độc lập dân tộc ở Ấn Độ trong những năm 1919-1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u sẽ được tìm thấy trong sự thật là, mặc cho đã trải qua bao nhiêu cuộc chiến tranh trên thế giới này, sức mạnh ấy vẫn còn sống mãi”.
Vì Gandhi nhìn nhận Sức mạnh chân lý là sức mạnh dẫn dắt của tình yêu và chân lý trong vũ trụ, tầm nhìn của Gandhi khi lãnh đạo các phong trào Sức mạnh chân lý không chỉ hướng tới sự thay đổi chính trị, mà còn hướng tới sự thay đổi đạo đức và tâm hồn của từng cá nhân. Ngài khẳng định “sự kết thúc của phong trào Sức mạnh chân lý chỉ có ý nghĩa khi nó khiến những tông đồ của Sức mạnh chân lý trở nên mạnh mẽ hơn so với lúc ban đầu”.
Người soạn tiểu sử cho Gandhi đã nắm bắt được tinh tuý trong các phong trào Sức mạnh chân lý: “Sức mạnh chân lý không nhằm ‘đoạt’ lấy một đối tượng nào, cũng không nhằm ‘nghiền nát’ một đối thủ nào, mà để kích hoạt các sức mạnh có thể dẫn tới sự cải biến tâm tính; bằng chiến lược này, hoàn toàn có thể thua ở tất cả các trận đánh nhưng vẫn là người chiến thắng trong cuộc chiến. Thực ra, chiến thắng hoặc thua cuộc không mô tả chính xác mục đích của phong trào Sức mạnh chân lý: một nền hoà bình đáng trân kính cho cả hai bên.”
Nguyên lí bất bạo lực được ông đề xướng với tên Chấp trì chân lí (hay Sức mạnh chân lí) (sa. Satyāgraha). Đó là cốt lõi của đường lối đấu tranh do Gandhi đề xướng. Nó đã ảnh hưởng đến các phong trào đấu tranh bất bạo động trong và ngoài nước cho đến ngày nay, bao gồm phong trào Vận động Quyền công dân tại Hoa Kỳ (American Civil Rights Movement) được dẫn đầu bởi Martin Luther King, Jr..
Nguyên lí Chấp trì chân lí của Gandhi (có gốc tiếng Phạn: satya là "chân lí" và ā-graha là "nắm lấy", "nắm chặt"), cũng thường được dịch là "con đường chân thật", "truy tầm chân lí", đã cảm kích những người chủ trương hành động giành tự do như Đạtlại Lạtma Đăngchâu Giamụcthố (Tenzin Gyatso), Lech Wałęsa, Stephen Biko, Aung San Suu Kyi và Nelson Mandela. Tuy nhiên, không phải tất cả những nhà lãnh đạo nêu trên đều theo nguyên tắc bất bạo lực và bất kháng cự khắt khe của Gandhi.
Gandhi thường nói là nguyên tắc của ông đơn giản, lấy từ niềm tin truyền thống của Ấn Độ giáo: Chân lí (satya) và bất bạo lực (ahiṃsā). Chính ông nói rằng: "Tôi chẳng có gì mới mẻ để dạy đời. Chân lí và bất bạo lực đều có từ xưa nay".
Điều chú ý là Gandhi kiên quyết chống lại việc áp dụng cho thuật ngữ Satyagraha bằng thuật ngữ "phản kháng thụ động", bởi chúng khác nhau "như cực Bắc khác với cực Nam", đó là sự khác nhau giữa một "vũ khí mạnh mẽ nhất" với một vũ khí yếu ớt. Theo Gandhi, người Ấn Độ cần sử dụng phương thức đấu tranh bất bạo lực, vì: "Nếu chúng ta đối xử với người Anh một cách công bằng và hợp lý, thì ngày giải phóng đất nước Ấn Độ chúng ta càng sớm đến. Trái lại, nếu ta coi họ như thù nghịch, thì ngày đó chưa biết đến bao giờ", vả lại "bản ngã của con người là sự ôn hoà, mực thước" và "người Ấn Độ còn nhiều sứ mệnh cao cả phải theo đuổi chứ đâu chỉ có mục đích trừng trị những kẻ độc ác trên trái đất này", hơn nữa "tôn giáo không dạy ta ghét bỏ người ngoại quốc. Tôi còn để lòng nhân lên trên lòng yêu nước của tôi".
Cùng với tư tưởng bất bạo lực, Gandhi đề ra tư tưởng "bất hợp tác" và xem đó là một trong những biện pháp đảm bảo sự thắng lợi của cuộc đấu tranh. Tẩy chay hàng hoá của người Anh chưa đủ, còn phải tẩy chay các học đường, các toà án, các công sở, tư sở, các huy chương khen tặng của người Anh. Tóm lại, bất hợp tác trong tất cả mọi ngành. Bởi vì "phong trào bất hợp tác không có tính cách tranh đấu tích cực như hội họp và kích thích dân chúng công nhiên kháng Anh, nên không thể gây ra đổ máu được.
Để đảm bảo cho công cuộc giải phòng Ấn Độ theo đường lối "bất hợp tác trong bất bạo lực”, Gandhi chủ trương tiến hành đoàn kết các lực lượng dân tộc. Ông luôn đấu tranh cho sự hoà hợp dân tộc, đặc biệt là vấn đề đẳng cấp và tôn giáo.
Học thuyết của Gandhi về bất bạo lực thể hiện tính chất phức tạp và hai mặt trong lập trường của tư sản Ấn Độ. Một mặt tư sản Ấn Độ muốn thoát khỏi sự lệ thuộc vào tư bản Anh nên ban đầu huy động quần chúng đấu tranh, mặt khác tư sản Ấn Độ cũng không muốn quyền lợi của mình bị đe dọa nên họ đã hạn chế cuộc đấu tranh này trong phạm vi bất bạo lực. Tuy nhiên, trong một xã hội mà sự phân chia đẳng cấp và tôn giáo cùng với ách thống trị thực dân đã làm mờ đi những mâu thuẫn về giai cấp thì đường lối của Gandhi đã được chấp nhận.
Ông là người đã tiến hành "Tổng kết hệ thống qua điểm triết học và đường lối chính trị, xã hội của tư sản Ấn Độ” và được toàn thể nhân dân Ấn Độ gọi bằng cái tên trìu mến Mahatma (Tâm hồn vĩ đại).
Dưới sự thúc đẩy của Gandhi, Đảng Quốc Đại đã trở thành một chính đảng có hệ thống tổ chức ở Trung ương và khắp các địa phương, trở thành một chính đảng mang tính quần chúng có người thành thị và người thôn quê tham gia; sự đấu tranh từ trong vòng nhỏ hẹp của các phần tử tầng lớp trên đã mở rộng ra đến quảng đại quần chúng.
Kiên trì đấu tranh cho mục đích của mình bằng phương pháp hoà bình là nét quán xuyến nổi bật nhất của Đảng Quốc Đại trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Ấn Độ giai đoạn (1919-1950). Đây là thời điểm đặc sắc nhất trong lịch sử phong trào giải phóng dân tộc của Ấn Độ. Tư tưởng đấu tranh hoà bình phản ánh một cách đi riêng, một cách hiểu riêng của người Ấn Độ và con đường tiến tới tự do và tất nhiên cách đi riêng ấy, cách hiểu riêng Ấn Độ được quy định bởi những truyền thống văn hoá, lịch sử của dân tộc Ấn Độ.
Từ đối sánh lực lượng tư tưởng đấu tranh bất bạo lực, sự lãnh đạo của tư sản Ấn Độ (Đảng Quốc Đại) đã quy định con đường đấu tranh của nhân dân Ấn Độ-con đường đó là: tự trị-độc lập hoàn toàn. Đó là bước chuyển hoá tuần tự. Đồng thời, chính con đường tiên tiến này (tự trị-độc lập; Swaraj-Purna Swarij) cũng là điều kiện đảm bảo cho nhân dân Ấn Độ tiến hành cuộc đấu tranh một cách hoà bình. Giai cấp tư sản Ấn Độ đã đoàn kết các giai cấp, tầng lớp trong xã hội vào cuộc đấu tranh chung-đó là nhân tố cơ bản để tư sản Ấn Độ có thể đảm nhận sứ mệnh giải phóng dân tộc.
Đảng Quốc Đại-chính đảng của giai cấp tư sản Ấn Độ dù có những hạn chế nhất định đã đóng vai trò của một tổ chức lãnh đạo có thế lực nhất và có ảnh hưởng nhất trong nhân dân, giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng yêu nước Ấn Độ đã tham gia tích cực vào sự nghiệp của toàn dân tộc chống thực dân Anh. Thành tựu vẻ vang của sự nghiệp đấu tranh giải phóng Ấn Độ là kết quả thắng lợi của chủ nghĩa yêu nước dưới ngọn cờ của Đảng Quốc Đại.
IV. Phong trào độc lập dân tộc ở Ấn Độ trong những năm 1919-1945
1. Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ trong những năm 1919 -1922
Như đã thực hiện trong cuộc chiến Nam Phi, Gandhi khuyến khích việc ủng hộ người Anh trong cuộc chiến (Thế chiến thứ nhất) và chủ động khích lệ người Ấn tham gia quân đội. Khác với quan niệm của nhiều người khác, cách biện luận duy lí của ông cho trường hợp này là quyền công dân đầy đủ, tự do và quyền lợi trong Đế quốc Anh, và như vậy thì việc giúp nó phòng vệ không có gì sai. Ông thuyết trình trước Quốc dân Đại hội Ấn Độ, nhưng phần lớn ông cũng chịu ảnh hưởng từ Gopal Krishna Gokhale, nhà lãnh đạo được tôn trọng nhất của Đảng Quốc dân Đại hội bấy giờ.
Những thành tích lớn đầu tiên của Gandhi xảy ra vào năm 1918 với cuộc kích động tại Champaran và phong trào Chấp trì chân lí tại Kheda mặc dù ông chỉ thực hiện trên mặt danh nghĩa trong trường hợp thứ hai và người chính chủ đạo là Sardar Vallabhbhai Patel, cánh tay phải của Gandhi. Tại Champaran, một khu vực nằm trong tiểu bang Bihar, ông tổ chức cuộc kháng cự cùng với hơn 10.000 nông dân không có đất, nông nô và những nông gia nghèo khổ có số lượng đất không đáng kể. Họ bị ép buộc phải trồng indigo và những nông sản bán được trên thị trường thay vì gieo trồng những loại cung cấp thực phẩm cần thiết cho sự sinh tồn của họ. Bị đàn áp bởi dân binh của điền chủ (phần lớn là người Anh), họ được trả công rất ít nên cuộc sống rất vất vả cơ hàn. Thôn làng của họ rất dơ bẩn, thiếu vệ sinh. Những vấn đề như uống rượu, kì thị dân ti tiện (untouchable) và khăn che (purdah) ngày càng lan tràn. Giờ đây, ngay trước một cuộc chống đói kinh hoàng, thực dân Anh lại đưa ra một loại thuế tàn ác, cứ y vào sự gia tăng theo chu kì mà thu thuế. Tình thế rất tuyệt vọng và tại Kheda, bang Gujarat thì sự việc nhìn chung cũng không khác.
Gandhi đã tổ chức một công trình nghiên cứu để có được một tổng quan về các thôn làng, xem xét những sự tàn bạo và những tình tiết thống khổ bao gồm những trạng thái thoái hóa của cuộc sống nói chung. Lập cơ sở trên lòng tự tin của người làng, Gandhi bắt đầu chỉnh lí các thôn xóm, lập trường học và bệnh viện, khuyến khích chủ làng xoá bỏ những việc hủ nát như phân biệt tiện dân, bắt phụ nữ mang khăn che và áp chế họ.
Nhưng cuộc phát động có tổ chức đầu tiên của Gandhi xảy ra khi ông bị cảnh sát bắt giam với lí do gây bạo động và được yêu cầu rời địa phương này. Hàng trăm nghìn người biểu tình chống đối, vây quanh nhà giam, các trạm cảnh sát và quan tòa đòi trả tự do lại cho ông, một sự việc pháp tòa không muốn nhưng sau cũng phải thực hiện. Gandhi đứng đầu những cuộc biểu tình có tổ chức chống lại điền chủ, và họ, dưới sự lãnh đạo của chính quyền Anh, đã kí một hiệp định đảm bảo trả lương cao hơn và kiểm soát việc cho nông dân nghèo địa phương thuê đất, xoá bỏ việc tăng thuế cũng như việc thu thuế đến khi nạn đói chấm dứt. Chính trong thời gian kích động này, Gandhi được quần chúng tôn xưng là Bapu (người cha già dân tộc) và Mahātmā (tâm hồn vĩ đại). Tại Kheda, Patel đại diện các nông gia trong những cuộc thương lượng với chính quyền Anh với kết quả là họ tạm dừng thu thuế, đảm bảo trợ cấp. Tất cả những người bị tù đều được thả ra. Danh tiếng Gandhi từ đây như một ngọn lửa lan truyền khắp nước và ông đã trở thành năng lực ảnh hưởng nhất định trong phong trào chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ.
Dự thảo pháp luật Rowlatt được duyệt năm 1919, cho phép chính phủ bắt giam những người bị vu khống gây loạn mà không cần đưa ra tòa duyệt. Khi Gandhi bắt đầu đề ra phong trào bất hợp tác chống lại Đạo luật Rowlatt, Hội nghị Đảng Quốc Đại ở Calcutta đã thảo luận sôi nổi vấn đề này và tại Hội nghị Nagpur (12/1920) đã thông qua chương trình bất hợp tác theo dự án của M.Gandhi.
Gandhi và đảng Quốc dân Đại hội tổ chức những cuộc biểu tình lớn phản đối và đình công, và tất cả những cuộc phản đối này đều được tổ chức rất hòa bình trên khắp nước. Tất cả những thành phố và thị xã lớn đều đóng cửa; các hoạt động cơ quan chính phủ đều phải được quân đội đảm nhiệm. Hàng nghìn người bị bắt giam, lệnh giới nghiêm được áp dụng ở nhiều vùng của Ấn Độ. Tại Punjab, cuộc đại tàn sát ở Amritsar với 379 người dân bị giết bởi quân đội Anh và Ấn Độ đã gây chấn thương nặng nề cho đất nước, gia tăng phẫn oán nơi quần chúng cũng như những hành vi bạo lực.
Gandhi phê bình cả hai hành vi của người Anh và bạo lực phục thù của người Ấn. Ông viết một bài phân ưu cùng với những nạn nhân Anh và lên án những cuộc bạo động. Bài này ban đầu bị phản đối trong đảng, nhưng được chấp thuận sau một bài thuyết giảng của Gandhi mà trong đó, ông đề cao nguyên tắc là tất cả những hành vi bạo lực đều có hại, không thể được biện minh. Người Ấn không mang tội vì sự kì thị của người Anh, và không nên trừng phạt công dân Anh vô tội.
Nhưng sau cuộc tàn sát lớn và bạo lực này, Gandhi nhận thức được là không chỉ người Ấn chưa được chuẩn bị cho việc kháng cự số đông, mà sự cai trị của người Anh đích thật tàn ác và nó có bản chất là đàn áp. Gandhi giờ đây chú tâm đến việc giành quyền tự trị và quyền quản lí tất cả những cơ quan chính quyền Ấn Độ, vươn đến trạng thái tự chủ (svarāj), nghĩa là sự tự chủ toàn vẹn về mặt cá nhân, tâm linh và chính trị.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Quốc Đại theo đường lối của Gandhi, cuộc đấu tranh chống thực dân Anh đã nổ ra hết sức mạnh mẽ trong những năm 1919-1922. Nét đặc trưng của phong trào đấu tranh trong thời kỳ này là sự tham gia của đông đảo các tầng lớp, từ công nhân đến nông dân, những người buôn bán, người Ấn, người Hồi. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 1920 ở Ấn Độ đã nổ ra 200 cuộc bãi công với 1,5 triệu người tham gia. Công nhân đã thành lập các tổ chức nghiệp đoàn. Năm 1920, Hội Công Liên Ấn Độ được thành lập. Từ những cuộc đấu tranh của công nhân, phong trào đã phát triển mạnh mẽ với sự tham gia của mọi tầng lớp cư dân thành thị và các khu vực nông thôn lân cận nhằm chống lại đạo luật Râulét.
Ngày 30/3 và ngày 6/4/1919, ở các thành phố nhân dân đã tiến hành Hartan. Trong quá trình đấu tranh, tình đoàn kết anh em giữa người Ấn và người Hồi được củng cố vững chắc ở phong trào Khaliphát. Trước sự phát triển của phong trào, thực dân Anh đã tiến hành đàn áp hết sức dã man.
Đặc biệt ngày 13/4/1919, dưới sự chỉ huy của Tướng Đaiơ, quân đội đã xả súng bắn vào một đám đông đang tiến hành một cuộc biểu tình ở Amritsa, giết hại khoảng 1.000 người và làm bị thương khoảng 2.000 người . Sự kiện này đã làm cho cuộc đấu tranh của nhân dân Ấn Độ ngày càng mạnh mẽ. Từ Pengiáp, phong trào đấu tranh lan ra các nơi khác như Ahmêdabat, Gutgierat, Bombay, Cancuta, các tỉnh liên hiệp, Biha, Orisa. Cuộc vận động bất hợp tác được triển khai trong toàn quốc. Hoảng sợ, chính quyền thực dân đã bắt tất cả các nhà lãnh đạo nổi tiếng của đảng Quốc đại, trừ Gandhi (1921). Tuy nhiên, phong trào đấu tranh của quần chúng đang phát triển đến đỉnh cao. Giữa lúc đó sự kiện Sauri-Saura và Bácđôli diễn ra.
Tháng 4/1920, Gandhi được bầu làm chủ tịch hội Liên hiệp Tự trị Toàn Ấn Độ (All India Home Rule League). Căn cứ vào tình hình chính trị trong nước, Gandhi quyết định thay đổi đường lối và nhiệm vụ của Liên đoàn Tự trị. Nhằm mục đích đó, đầu tháng 9/1920, một ủy ban nghiên cứu điều lệ và cương lĩnh của Liên đoàn được thành lập. Ngày 3/10/1920, tại Bombay đã tổ chức Hội nghị toàn thể của Liên đoàn, dưới sự chủ tọa của Gandhi. Hội nghị đã thảo luận dự án của Ủy ban nghiên cứu cương lĩnh và điều lệ Liên đoàn với các nội dung chính như sau:
Đổi tên liên đoàn từ Home Rule League thành Svatja Sabha.
Mục đích Svatja Sabha (Liên đoàn tự trị) là phải “đạt được quyền tự trị (Svatja) hoàn toàn ở Ấn Độ để đáp ứng nguyện vọng của nhân dân”.
Việc giải thích từ Svatja (tự trị ) phải phù hợp với điểm I trong Điều lệ của Đảng Quốc Đại Ấn Độ .
Một số các lãnh tụ do M.Jinnah, K.Dwarkadas đứng đầu đã phát biểu chống lại sự thay đổi này. Sau cuộc tranh cãi gay gắt kéo dài Hội nghị đã thông qua dự án với đa số phiếu. Do vậy, 20 thành viên do M.Jinnah đứng đầu đã tuyên bố ra khỏi Đảng Quốc Đại. Từ đây Liên đoàn tự trị đã chấm dứt sự tồn tại độc lập và trở thành một bộ phận của Đảng Quốc Đại.
Đến tháng 12/1921, ông được trao uy quyền chấp hành trong Đảng Quốc dân Đại hội. Dưới sự lãnh đạo của Gandhi, Quốc dân Đại hội được tổ chức lại với một hiến pháp mới có mục đích là tự chủ. Ai cũng có thể trở thành đảng viên sau khi đóng một lệ phí trên danh nghĩa. Một tổ chức có giai cấp của các uỷ ban được thành lập nhằm cải thiện kỉ luật và kiểm soát những phong trào từ trước đến giờ không có định hình và khuếch tán, chuyển biến đảng từ một tổ chức tinh duệ số ít thành một đảng lớn với sức lôi cuốn toàn quốc.
Gandhi mở rộng mặt trận bất bạo lực, bao gồm chính sách "bản quốc" (svadeshi)-nghĩa là tẩy chay những sản phẩm ngoại lai, đặc biệt là những sản phẩm Anh. Liên hệ với chính sách này là sự ủng hộ việc mang y phục tự dệt ở nhà, được gọi là khadi, của ông, khuyên tất cả các người Ấn ăn mặc như vậy thay vì dùng đồ vải của người Anh. Gandhi khuyến cáo toàn dân, nam cũng như nữ, mỗi ngày dành chút thời gian để dệt vải ủng hộ phong trào đấu tranh giành độc lập. Đây là chiến thuật nhằm khắc sâu kỉ luật và sự cống hiến để loại trừ những người không có thiện ý và những người hoài bão, và bao gồm phụ nữ vào phong trào ở một thời điểm mà nhiều người cho rằng, những việc làm như vậy không đáng trọng cho phụ nữ.
Thêm vào việc tẩy chay các sản phẩm Anh, Gandhi cũng khuyến khích dân chúng tẩy chay các cơ quan giáo dục và pháp tòa Anh, từ chức không làm cho chính quyền, từ chối không đóng thuế và huỷ bỏ những danh hiệu, huy chương Anh. Chương trình mới này đã đạt được sức lôi cuốn và thành công rộng lớn, gia lực cho người Ấn chưa từng có từ xưa nay. Nhưng khi phong trào vừa đạt đỉnh điểm thì đã chấm dứt một cách đột ngột vì một cuộc xung đột bạo lực tại thị xã Chauri Chaura, bang Uttar Pradesh vào tháng 2/1922.
Chauri Chaura là một ngôi làng nhỏ ở quận Gorakhpur của bang Uttar Pradesh. Ngày 5/2/1922, cảnh sát ở đó bắn vào một nhóm người biểu tình. Những người biểu tình trả đũa bằng cách đốt cháy đồn cảnh sát, gây ra cái chết của 22 người cảnh sát tại đây. Thực tế này cho thấy đường lối "Bất bạo lực" đã bị vượt qua. Trước tình hình đó, Gandhi vội vã triệu tập Hội nghị Ban chấp hành Đảng Quốc Đại vào ngày 12/2/1922 ở Bácđôli, quyết định đình chỉ phong trào bất hợp tác, thay vào đó là một chương trình "Xây dựng” (kéo sợi, giáo dục) mang tính chất ôn hoà. Quyết định này đã làm cho phong trào đấu tranh bị giảm sút nhanh chóng. G.Nêru cũng thừa nhận là quyết định này "đã phần nào gây ra tình trạng mất tinh thần. Có thể nói rằng việc bóp nghẹt đột ngột phong trào rộng lớn đã góp phần tạo ra một tình hình bi thảm trong nước”. Phải mất 6 năm sau phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ mới phát triển trở lại.
2. Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ từ năm 1923-1928
Sau nghị quyết Bácđôli (1922), thực dân Anh càng tăng cường hơn nữa chính sách đàn áp phong trào đấu tranh, Gandhi bị kết án 6 tháng tù giam (tháng 3/1922). Đây không phải lần đầu Gandhi bị bỏ tù nhưng là lần bị giam cầm lâu nhất. Bắt đầu từ ngày 18/3/1922, ông ngồi tù khoảng hai năm và được thả tháng 2/1924 sau một ca mổ viêm ruột thừa.
Đồng thời với sự đàn áp là chính sách chia rẽ dân tộc, gây thù hằn giữa các tôn giáo, thực dân Anh đã kích động để gây ra những cuộc xung đột máu thê thảm giữa người Ấn và người Hồi vào năm 1925 nhằm phá vỡ tình đoàn kết Ấn-Hồi đã được cũng cố từ năm 1916. Cũng trong thời gian này, thực dân Anh tiến hành đàn áp gắt gao trước hoạt động của những người cộng sản Ấn Độ trên đường tiến đến thành lập Đảng.
Không có nhân cách hùng mạnh của Gandhi để kiềm chế các người đồng sự, Đảng Quốc Đại bắt đầu tan vỡ, phân thành hai phái trong thời gian ông ngồi tù. Một phái được dẫn đầu bởi Chitta Ranjan Das và Motilal Nehru, ủng hộ việc đảng tham dự cơ quan lập pháp. Phái thứ hai được dẫn đầu mởi Chakravarti Rajagopalachari và Sardar Vallabhbhai Patel, phản đối việc này. Thêm vào đó là việc hợp tác giữa tín đồ Ấn Độ giáo và Hồi giáo mạnh mẽ trong những chiến dịch bất bạo động giờ đây sa sút.
Lúc bấy giờ uy tín của Đảng Quốc Đại Ấn Độ bị giảm sút nghiêm trọng trong quần chúng nhân dân. Số lượng đảng viên từ chỗ 10 triệu người đến năm 1924 chỉ còn khoảng 30 vạn người. Đảng Quốc Đại thực hiện “chương trình xây dựng” do Gandhi đề ra, kêu gọi nhân dân khôi phục các nghề thủ công truyền thống, chống các tệ nạn xã hội (uống rượu, hút thuốc phiện), đấu tranh xoá bỏ chế độ đẳng cấp. Năm 1925, hội những người kéo sợi được thành lập do Gandhi đứng đầu. Hội có nhiệm vụ truyền bá tư tưởng của Gandhi trong nhân dân, góp phần đấu tranh bài trừ hàng ngoại hoá nhằm giúp người lao động thoát khỏi sự bóc lột của chủ nghĩa đế quốc. Trong thực tế, Hội đã có ảnh hưởng rộng rãi trong quần chúng ở nông thôn.
Nhìn chung, phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân đã lắng xuống. Tuy nhiên, đây cũng là thời kỳ chuẩn bị lực lượng cho một cuộc đấu tranh mới.
* Sự ra đời của các Đảng Công nông và sự phát triển của phong trào công nhân-nông dân Ấn Độ
Theo những bản thống kê nǎm 1921, tại Ấn Độ, có 105.510.858 công nhân nam, nữ làm trong nông nghiệp, 346.349 người trong các mỏ, 16.728.373 trong công nghiệp, 5.819.375 trong thương mại. Theo Factory inspection report nǎm 1923, trong thời kỳ này, có 1.418.000 công nhân nữ, nam làm việc trong các nhà máy thực sự là nhà máy so với 1.270.000 người nǎm 1921.
Phần đông những người vô sản nông nghiệp làm việc trong các đồn điền trồng cây công nghiệp (đồn điền cà phê, cao su và cây chàm: 382.300 công nhân; đồn điền chè: 695.100; đồn điền trồng bông: 2.875.122; những đồn điền khác trồng cây có sợi: 15.672.372).
Lương rất thấp, một công nhân có trình độ tay nghề trong ngành dệt lĩnh 29 rupi (bằng 250 phrǎng) mỗi tháng. Một nữ công nhân cũng làm việc như thế chỉ lĩnh một nửa số tiền này. Ngày làm việc rất dài, những người thợ mỏ làm hơn 12 giờ mỗi ngày.
Những điều kiện vệ sinh trong nhà máy cũng như trong nhà ở của công nhân thật tồi tệ. Người ta thường thấy sáu gia đình với tổng số 30 người sống chen chúc trong một nhà dành cho công nhân dài 5 mét và rộng 4 mét. Phần lớn các nghiệp đoàn đều chịu ảnh hưởng chủ nghĩa cải lương của Công Đảng Anh.
Trong thời kì này, phong trào cách mạng thế giới cũng như các thành tựu của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, những tin tức thắng lợi cuộc cách mạng Trung Quốc đang đấu tranh đã tác động mạnh mẽ đến cuộc đấu tranh của nhân dân Ấn Độ.
Từ những nhóm cộng sản đầu tiên xuất hiện vào năm 1922 đến 1924, các nhóm cộng sản đã bí mật hoạt động ở Ấn Độ và ngày càng tăng cường truyền bá các tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin vào Ấn Độ. Năm 1923, nhóm những người cộng sản ở Bombay đã xuất bản tạp chí "Người xã hội chủ nghĩa” do S.A.Dange làm chủ biên. Những người cộng sản Ấn Độ tham gia họat động trong các chi bộ cơ sở của Đảng Quốc Đại và tích cực tiến hành các cuộc đấu tranh cùng với công nhân.
Năm 1926, Đảng Công nông ra đời ở Bengan và tháng 5/1927 đã thông qua một bản cương lĩnh trong đó có những điểm mới đối với Ấn Độ: đấu tranh giành độc lập hoàn toàn cho Ấn Độ, tiến tới thành lập một nước Cộng hoà Dân chủ Ấn Độ, thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của đại địa chủ phong kiến, quốc hữu hoá những xí nghiệp quan trọng có lợi ích công cộng, ban hành luật ngày làm 8 giờ và quy định tiền lương tối thiểu.
Vào nǎm 1926 có 130 cuộc bãi công với 131.655 người tham gia. Nǎm 1927, có 128 cuộc bãi công với 186.811 người tham gia. Như vậy nǎm 1927 có kém nǎm 1926 hai cuộc bãi công, nhưng số người bãi công cao hơn nhiều (hơn 55.156 người) và số ngày bỏ việc nǎm 1927 tǎng gấp đôi nǎm 1926.
Trong quá trình đấu tranh của phong trào công nhân trong thời kỳ này, công nhân Bombay đã dẫn đầu phong trào. Năm 1925, Bombay chiếm 51% tổng số các cuộc bãi công trong toàn quốc. Cũng trong năm 1925 đã diễn ra cuộc bãi công của công nhân đường xe lửa Tây Bắc Ấn Độ. Năm 1926 công nhân đường sắt Bengan-Nátpua đã tiến hành một cuộc bãi công lớn, chính quyền thực dân phải huy động quân đội đến đàn áp.
Nǎm 1928 bắt đầu bằng dấu hiệu phục hồi mạnh mẽ của phong trào công nhân. Không kể những cuộc bãi công chính trị chống Uỷ ban Ximông, số cuộc đấu tranh mang tính chất thuần tuý kinh tế diễn ra trong sáu tuần lễ đầu của nǎm đó như sau: ngày l0/1, bãi công của 22.000 thợ dệt ở Bombay. Ngày 22/1, bãi công của 400 thợ thuyền đường xe hoả tại Nắcpua; 21/1, thợ luyện kim ở Chalima bãi công đòi tǎng lương; 31/l, 700 công nhân xe lửa Cancutta cũng bãi công đòi tǎng lương. Ngày 2/2, bãi công của lái xe tắc xi tại Rangun chống một thứ thuế mới do thống đốc Anh đặt ra; 11/2, bãi công của 2.500 công nhân khuân vác ở Rangun; 16/2, bãi công của 8.000 thợ nhà máy, Kôhinpua ở Bombay; 17/2, bãi công của 1.700 công nhân nhà máy Đarivan.
Trong những năm 1927-1928, nhiều Đảng Công nông khác được thành lập ở Bombay, Biha, các tỉnh biên giới Tây Bắc và nhiều tỉnh khác.
Nhìn chung, các Đảng Công nông chưa phải là đội tiền phong chân chính của công nhân Ấn Độ bởi tính chất phức tạp của nó. Riêng Đảng Công nông Bombay tỏ ra cách mạng nhất với tờ báo "Tia sáng”-một tờ báo chủ yếu tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, giáo dục đường lối cách mạng vô sản cho giai cấp Ấn Độ.
Gandhi trở về địa vị hàng đầu vào năm 1928. Một năm trước đó, chính quyền Anh đề cử một hội đồng cải cách hiến pháp dưới sự lãnh đạo của Sir John Simon mà không có tên một người Ấn nào trong hội đồng. Kết quả của việc này là sự tẩy chay hội đồng của các đảng Ấn Độ. Tại Quốc dân Đại hội Calcutta vào tháng 12/1928, Gandhi đã đề nghị Đại hội thông qua một bản Nghị Quyết đòi chính quyền thuộc địa Anh trong vòng một năm phải công nhận quyền tự trị của người dân Ấn; nếu không sẽ tiến hành một cuộc đấu tranh bất bạo động để giành lại độc lập. Chính quyền thuộc địa Anh hoàn toàn im lặng và đã không quan tâm gì đến yêu sách của Đảng Quốc Đại.
3. Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ trong những năm 1929-1939
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1939 ở các nước tư bản chủ nghĩa đã tác động mạnh mẽ đến Ấn Độ. Nền kinh tế Ấn Độ trở nên hết sức khó khăn. Công nghiệp bị thu hẹp lại. Tiền lương công nhân bị hạ xuống 30-40%, số công nhân bị sa thải ngày càng tăng. Sản xuất nông nghiệp cũng bị giảm sút nghiêm trọng, đời sống của nhân dân trở nên cùng cực. Cũng trong thời gian này, quá trình tập trung và tích tụ tư bản, quá trình thành lập các công ty tư bản Anh-Ấn được đẩy mạnh. Hai ngành công nghiệp mới ở Ấn Độ ra đời là công nghiệp đường và xi măng, phần lớn nằm trong tay tư bản Ấn Độ. Thực tế cuộc khủng hoảng kinh tế ở Ấn Độ đã làm cho mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc và đế quốc Anh càng trở sâu sắc và nó đã tạo ra phong trào đấu tranh sôi nổi trong những năm trước Chiến tranh thế giới thứ hai.
a) Hoạt động đấu tranh của Gandhi và Đảng Quốc Đại
Lúc bấy giờ, trong nội bộ Đảng Quốc Đại đã xuất hiện nhóm "tự trị” với những chủ trương cấp tiến của G.Nêru. Phái tả trong Đảng do G.Nêru đứng đầu gồm những đảng viên trẻ tuổi chủ trương họat động chính trị trong và ngoài nước, liên hệ và tìm sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế trong phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Mục tiêu của phái tả đề ra là "tự trị” hoàn toàn. Đại hội Laho năm 1929 đã bầu Nêru làm Chủ tịch Đảng Quốc Đại. Sự chuyển biến này của Đảng Quốc Đại đánh dấu một bước tiến mới của phong trào đấu tranh đòi độc lập ở Ấn Độ .
Thực tế, sự phục hồi của phong trào quần chúng đã diễn ra từ năm 1928, khi chính phủ Anh cử phái đoàn Simơn đến Ấn Độ để "Nghiên cứu một bản dự thảo Hiến pháp” cho Ấn Độ. Đảng Quốc Đại kêu gọi quần chúng tẩy chay phái đoàn Simơn với khẩu hiệu "Simơn cút đi”.
Với việc Đảng Quốc Đại nêu cao khẩu hiệu "Tự trị hoàn toàn”, phong trào đấu tranh của quần chúng càng phát triển mạnh mẽ. Vào lúc nửa đêm ngày cuối cùng của năm 1929, bước sang năm 1930, Nêru đã trịnh trọng kéo lá cờ 3 sắc (đỏ, trắng, xanh lá cây) được chọn làm Quốc kỳ của nước Ấn Độ độc lập trong tiếng hô vang của các đại biểu Cách mạng muôn năm. Ngay sau đó, nhiều cuộc biểu tình rầm rộ được tổ chức khắp đất nước vào ngày 26/1/1930. Trong các cuộc biểu tình này, người Ấn Độ đã đọc lời thế đấu tranh cho nền độc lập của đất nước. Gandhi đề nghị Đảng Quốc Đại chọn ngày 26/1/1930 làm ngày Kỷ niệm Độc lập. Đề nghị này đã được hầu hết các đảng phái và các nhóm quần chúng ủng hộ mạnh mẽ.
Sau ngày 26 /1/1930, Gandhi đã nêu yêu sách 11 điểm trên tờ “Ấn Độ trẻ” đòi thực dân Anh cải cách kinh tế, trả tù chính trị. Tiếp đó, Gandhi yêu cầu nhà cầm quyền Anh phải bỏ chính sách độc quyền về muối. Chính quyền Anh đã bác bỏ các yêu cầu này và Gandhi chính thức phát động một chiến dịch "phản kháng bất bạo lực” mới gọi là "chấp trì chân lí phản đối thuế muối” vào tháng 2/1930. Cuộc Hành trình muối (Salt March) từ Ahmedabad đến Dandi nổi tiếng kéo dài từ 21/3 đến 6/4/1930. Đây là cuộc hành trình nổi tiếng nhất trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của Ấn Độ do Gandhi hướng dẫn. Ông đã đi bộ 400 cây số để tự lấy nước biển làm muối đem về dùng, chống lại lệnh cấm làm Muối của chính quyền Anh. Hàng ngàn người dân đã đi theo Gandhi đến bờ biển Dandi. Trên đoạn đường này đã có mấy chục ngàn người dân bị bắt, bị cưỡng chế trở về và bị quản chế tại nhà; nhưng hành động đàn áp này đã không làm nao núng, số người tham dự ngày một quá đông.
Tháng 4/1930, Gandhi tiếp tục phát động phong trào "Bất hợp tác” với mục tiêu:
- Không tuân theo luật lệ về độc quyền muối.
- Tẩy chay hàng vải ngoại hoá.
- Tổ chức các đội kiểm soát việc mua bán vải vóc ở các cửa hàng.
- Kiểm soát sự lui tới ở các quán rượu và tiệm hút.
- Bãi bỏ sự đối xử bất công với những người thuộc đẳng cấp "không thể đụng đến”.
- Tổ chức biểu tình chống đế quốc Anh và các cuộc bãi công, bãi khoá của công nhân học sinh sinh viên và viên chức.
Phong trào này được mọi tầng lớp trong xã hội Ấn Độ hưởng ứng đông đảo. Điều này làm cho thực dân Anh hết sức lo sợ. Tháng 5/1930 chính quyền Anh ra lệnh bắt giam Gandhi và sau đó tuyên bố đặt mọi tổ chức, đảng phái chính trị (kể cả Đảng Quốc Đại) ra ngoài vòng pháp luật, chỉ trong năm 1930 có 60.000 người bị bắt.
Sự đàn áp của thực dân Anh càng làm cho phong trào quần chúng trở nên mạnh mẽ quyết liệt. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh vũ trang của nhân dân vùng Sôlaqua, Petsava, các cuộc bãi công ở Bombay, Bengan, Pengiáp, Mađrát. Trong phong trào đấu tranh, các tầng lớp nhân dân đã hình thành một cách tự nhiên mặt trận nhân dân thống nhất chống thực dân Anh. Tuy nhiên các cuộc đấu tranh đều tự phát, thiếu sự lãnh đạo, tổ chức chu đáo nên đã thất bại trước sự đàn áp của chính quyền thực dân.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng, ngày 26/1/1931 thực dân Anh vội thả Gandhi và nhiều lãnh tụ khác của Đảng Quốc Đại. Ngày 5/3/1931, Gandhi ký với Phó vương Irwin một bản "hiệp định Gandhi-Irwin”, Qua hiệp ước này, chính phủ Anh đồng ý trả tự do cho tất cả các tù nhân chính trị, đổi lại Gandhi phải ngưng toàn bộ cuộc đối đầu bất bạo động. Ngoài ra, chính quyền Anh còn mời Gandhi sang London tham dự một Hội nghị bàn tròn với tư cách là người đại diện Đảng Đại Hội Quốc Dân Ấn Độ.
Tại "hội nghị bàn tròn” Gandhi hy vọng đàm phán với chính phủ Anh trên cơ sở "dự án Môtilan Nêru”, còn chính phủ Anh đi đến hội nghị với ý đồ củng cố địa vị thống trị Ấn Độ bằng chính sách chia rẽ các cộng đồng tôn giáo và đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ, do đó hội nghị không đạt được một kết quả nào. Nhưng Gandhi đã không hài lòng với Hội nghị bàn tròn vì chính quyền Anh không thực sự muốn trao trả quyền độc lập lại cho dân Ấn. Hơn thế nữa, sau khi Lord Irwin về hưu người thay thế là Lord Willingdon lại tung ra chính sách đàn áp mạnh mẽ những người lãnh đạo trong các lực lượng đấu tranh giành độc lập nên Gandhi đã tuyên bố tiếp tục thực hiện các cuộc đấu tranh cho đến khi nào chính quyền trao trả độc lập cho Ấn. Chính quyền Anh đã bắt giữ Gandhi và tìm cách cô lập mọi ảnh hưởng của ông đối với phong trào giành độc lập; nhưng mọi nỗ lực của chính quyền thực dân Anh đều thất bại vì tiếng nói của Gandhi đã được hầu hết dân Ấn tin tưởng dù ông ở bất cứ đâu.
Tháng 1/1932, Gandhi về nước và tuyên bố phát động lại phong trào bất hợp tác mới trong toàn quốc. Phong trào bất hợp tác mới kéo dài đến cuối năm 1932 mới kết thúc, tuy nhiên do sự đàn áp mạnh mẽ của chính quyền thực dân nên quy mô của nó không rộng lớn như năm 1930. Ngày 8/5/1933, Gandhi bắt đầu một cuộc tuyệt thực 21 ngày để phản đối sự đàn áp của người Anh tại Ấn Độ. Mùa hè năm 1934, ông ba lần bị mưu hại không thành công.
Mùa hè năm 1933, khi Đảng Quốc Đại thảo luận về việc nên hay không nên tham gia tuyển cử vào quốc hội liên bang, Gandhi thấy là sự hiện hữu của ông ở trong Đảng có thể tạo khó khăn cho việc chọn lựa hướng đi mới của Đảng vào lúc đó; đồng thời tránh sự khai thác tuyên truyền của chính quyền Anh đối với việc Đảng Quốc Đại công nhận quyền lực chính trị của Anh, nên Gandhi đã rút lui khỏi Đảng.
Năm 1936, Gandhi phục hoạt trở lại, khi đồng minh của ông là Nehru lên làm chủ tịch Đảng Quốc Đại. Nhưng vào lúc này, Gandhi đối diện với rất nhiều vấn đề phức tạp ở trong Đảng. Đó là ông chỉ muốn chuyên tâm vào con đường đấu tranh giành độc lập và chưa nghĩ nhiều về viễn cảnh xây dưng chính quyền tương lai; nhưng khuynh hướng chung của các nhà lãnh đạo đảng vào lúc đó là muốn đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là Subhas Chandra Bose, một đối thủ chính trị của Nehru cho rằng cách đấu tranh của Gandhi quá chậm và không hiệu quả.
Khi S.Bose lên làm chủ tịch Đảng Quốc Đại, sự tranh cãi về phương thức đấu tranh giữa Gandhi và Bose đã xảy ra một cách khá gay gắt từ năm 1938. Nhiều người đã tuyên bố rút lui khỏi đảng hay từ chức các trách vụ để phản đối Bose đã không thi hành các quan niệm bất bạo động của Gandhi.
b) Hoạt động đấu tranh của Đảng Cộng Sản và công nhân Ấn Độ
Cũng trong thời kỳ này, phong trào công nhân Ấn Độ được củng cố qua các cuộc đấu tranh. Các tiểu tổ cộng sản đã tăng cường các họat động chung và tháng 11/1933, các tiểu tổ cộng sản đã hợp nhất với nhau, thành lập Đảng Cộng sản Ấn Độ, cử ra Ban chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng. Một chương trình hành động chung đã được Ban chấp hành Trung ương lâm thời đưa ra nhằm tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở Ấn Độ. Tuy nhiên, trong điều kiện của xã hội Ấn Độ, cùng với sự đàn áp tàn bạo những người cộng sản của chính quyền thực dân, những họat động của Đảng Cộng sản Ấn Độ được tiến hành trong điều kiện cực kỳ khó khăn. Tháng 7/1934, Đảng Cộng sản Ấn Độ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và mãi đến năm 1943 Đảng mới có thể tiến hành Đại hội lần thứ nhất.
Năm 1933, Nghị viện Anh thông qua một đạo luật mới về việc cai trị Ấn Độ. Và đến năm 1935, nó được công bố cho nhân dân Ấn Độ với tên gọi là "Hiến pháp mới” của Ấn Độ. Thực chất đây là một đạo luật thống trị, không thừa nhận quyền tự trị của nhân dân Ấn Độ. "Hiến pháp mới” đã gây nên một làn sóng phản đối mạnh mẽ ở Ấn Độ, nhân dân Ấn Độ gọi đây là "Hiến pháp nô dịch”, Đảng Quốc Đại tuyên bố sẽ đấu tranh đòi triệu tập Hội nghị lập hiến toàn Ấn Độ. Liên đoàn Hồi giáo cũng lên tiếng phản đối.
Phong trào phản đối bản "Hiến pháp nô dịch” đã đoàn kết được tất cả các lực lượng chính trị thành một mặt trận thống nhất trên thực tế. Biểu hiện rõ nhất là cuộc mít tinh của nhân dân Bombay để phản đối "Hiến pháp mới”, tổ chức ngày 7/2/1935, hầu hết các đảng phái chính trị và tổ chức quần chúng yêu nước đều tham gia tích cực vào cuộc mít tinh này. Tháng 4/1936, Đại hội Tổng nông hội toàn quốc họp tại Lắcnao, kết án "Hiến pháp mới” và kêu gọi nông dân toàn quốc đoàn kết với các lực lượng tiến bộ đấu tranh chống thực dân. Tháng 5/1936, tổng công hội Ấn Độ cũng tiến hành đại hội và ra Nghị quyết thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất, chủ trương hợp tác với Đảng Quốc Đại. Chính trong thời kỳ này Đảng Cộng sản Ấn Độ đã tích cực tuyên truyền và tổ chức cho sự hình thành Mặt trận thống nhất chống đế quốc. Do vậy phong trào công nhân phát triển rất mạnh mẽ. Trong những năm trước Chiến tranh thế giới thứ hai, hàng năm ở Ấn Độ có gần 400 vụ đình công, thu hút từ 40 đến 50 vạn công nhân tham gia, trong số đó có khoảng 1/2 các cuộc đình công kết thúc thắng lợi.
Thực dân Anh đã tìm đủ mọi cách để phá họai sự thống nhất của các lực lượng tiến bộ ở Ấn Độ vào một mặt trận dân tộc phản đế. Chúng ra sức lợi dụng các lãnh tụ phản động của Liên đoàn Hồi giáo và tổ chức Hinđu Mahasabha, gây ra nhiều vụ xung đột giữa người Ấn và người Hồi. Từ năm 1937 đến 1939, ở Ấn Độ đã xảy ra 57 vụ xung đột đổ máu giữa các cộng đồng tôn giáo. Điều này đã làm suy yếu phong trào đấu tranh của quần chúng.
4. Ấn Độ trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945)
Trong những năm trước Chiến tranh thế giới thứ hai, các lực lượng dân chủ trong nước, trong đó có các lãnh tụ Đảng Quốc Đại, đứng đầu là Nêru, đã tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, tỏ tình đoàn kết và ủng hộ nhân dân Tây Ban Nha, nhân dân Abixini (Êtiôpia ngày nay), nhân dân Trung Quốc đang chiến đấu chống bọn phát xít xâm lược Đức, Italia, Nhật Bản. Đồng thời họ cũng ra sức chống lại âm mưu của thực dân Anh muốn lôi kéo Ấn Độ vào cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Mặc dù điều này đã không thành công, nhưng những họat động tích cực của Nêru và Đảng Quốc Đại đã có ý nghĩa lớn trong công cuộc đấu tranh đòi độc lập Ấn Độ ở giai đoạn sau này.
Ngày 1/9/1939, quân đội Đức tấn công Ba Lan. Hai ngày sau thì Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Thế là ba cường quốc ở châu Âu cùng với Ba Lan chính thức tham chiến. Chiến tranh thế giới bắt đầu.
Trong cuộc đại chiến lần thứ hai này chiến trường không chỉ ở phạm vi châu Âu mà còn kéo theo một hệ thống các nước thuộc địa rộng lớn trên toàn thế giới…và trong đó có cả Ấn Độ, một thuộc địa rộng lớn nhất trong hệ thống thuộc địa của thực dân Anh, là đối tượng đầu tiên mà thực dân Anh hướng đến.
Khi thế chiến thứ hai bùng nổ vào năm 1939, Gandhi đưa đề nghị rằng người Ấn sẽ hỗ trợ nước Anh tham chiến nhưng ngược lại chính quyền Anh phải tôn trọng quyền độc lập của người Ấn. Chính phủ Anh không những không chấp nhận đề nghị này của Gandhi mà còn âm mưu gây ra những hiềm khích giữa Ấn Độ Giáo và Hồi Giáo để tạo sự phân hóa.
Tháng 9/1939, chính phủ Anh tự ý tuyên bố Ấn Độ là một nước tham chiến. Quyết định độc đoán này đã gây ra một làn sóng phản đối mạnh mẽ trong nhân dân Ấn Độ. Phong trào đấu tranh bùng lên mạnh mẽ khắp trong nước, đòi thành lập một chính phủ quốc gia Ấn Độ.
Năm 1940 các lãnh tụ Liên đoàn Hồi giáo đòi chia cắt Ấn Độ ra thành 2 quốc gia, một theo người Hồi, một theo người Ấn Độ giáo. Được chính quyền thực dân Anh hậu thuẫn, Liên đoàn Hồi giáo ra sức lôi kéo đông đảo người Hồi về phía mình.
Chính quyền thực dân Anh còn đưa nửa triệu quân sang Ấn Độ, tình hình ở Ấn Độ trở nên căng thẳng, nhân dân căm phẫn vùng lên đấu tranh ở nhiều thành phố lớn như Mađơrát, Bombay, Nagơpua công nhân và học sinh biểu tình phản đối chính sách vơ vét sức người và của cải ở Ấn Độ cung cấp cho mặt trận và chính quyền thực dân (chỉ tinh riêng vùng Bengan đã có gần 4 triệu người chết đói). Phong trào đấu tranh càng lên cao, nhất là mỗi khi giá lương thực, thực phẩm và giá hàng công nghiệp tăng lên.
Gandhi đã vận động các lực lượng chống Anh ra một quyết nghị chung đòi chính quyền phải rút khỏi Ấn Độ. Đương nhiên, một số tổ chức và chính trị gia thân Anh đã bị chính quyền Anh xúi giục ra thông tư phản đối nghị quyết của Gandhi, cho rằng những đòi hỏi mạnh mẽ như kiểu này không phù hợp vào lúc này. Tuy nhiên, nghị quyết đòi người Anh rút về nước, đã tạo một tác động tâm lý rất lớn trong lòng dân Ấn, với nhiều cuộc biểu tình, mít tinh được tổ chức ở nhiều nơi và đã dấy lên phong trào giành độc lập mạnh mẽ hơn lúc nào hết.
Cũng như trong những năm Chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản Ấn Độ lợi dụng tình thế này và phát triển nhanh chóng. Mặc dù vậy, những lực lượng dân chủ và tiến bộ trong nước ngày càng lớn mạnh. Trong những năm chiến tranh, giai cấp công nhân lớn mạnh hơn trước, số lượng công nhân trong toàn quốc tăng từ 5 triệu lên 6 triệu, các tổ chức nông dân cũng không ngừng phát triển.
Năm 1942 Đảng cộng sản Ấn Độ được hoạt động công khai và sử dụng hình thức hợp tác để mở rộng ảnh hưởng của mình trong quần chúng, số lượng đảng viên là 16.000 năm 1943 (năm 1946 là 53.000 người). Ảnh hưởng của Đảng cộng sản ngày càng sâu rộng trong quần chúng nhân dân, trong các tầng lớp công nhân, nông dân, học sinh, trí thức…
Chính quyền thực dân Anh một mặt theo đuổi chính sách “chia để trị” giữa người Ấn Độ giáo và Hồi giáo, mặt khác ra sức vơ vét lương thực của Ấn Độ làm cho phong trào đấu tranh trong nước càng sôi sục hơn. Bên cạnh đó nhiều tổ chức giới trí thức cũng xuất hiện và phát triển mạnh như: Hội Liên hiệp sinh viên và học sinh toàn quốc, hội nhà văn…
Tháng 8/1942 Đảng Quốc đại một lần nữa đòi thành lập chính phủ quốc gia Ấn Độ. Để đối phó với yêu sách này, chính quyền Anh đã ra lệnh công an và sử dụng cả quân đội để đàn áp khiến cho hàng ngàn người bị bắt và bị giết. Gandhi kêu gọi mọi người đấu tranh trong ôn hòa, bất bạo động và kiên quyết lập trường đấu tranh vì tự do của Ần Độ, cho đến khi chính quyền Anh phải thừa nhận độc lập. Gandhi và nhiều lãnh tụ Đảng Quốc Đại bị bắt, trong đó có Gandhi, Nêru, Abun Kalam, Ađát…, đã bị bắt giữ vào ngày 9/8/1942 tại Mumbai.
Sau khi xảy ra vụ bắt bớ các lãnh tụ của Đảng Quốc Đại, một phong trào đấu tranh chính trị lại bùng lên ở Ấn Độ nhằm phản đối chính sách của thực dân Anh. Ở nhiều nơi đã diễn ra những cuộc bạo động tự phát của quần chúng chống chính quyền. Trước tình hình đó, thực dân Anh đã thẳng tay đàn áp phong trào, bắt giam hàng nghìn người. Phong trào đấu tranh của quần chúng tạm thời lắng xuống.
Sau khi bị bắt giam vào tháng 8/1942, Gandhi bị giam hai năm trong điện Aga Khan tại Pune. Do ảnh hưởng cái chết của vợ của ông là bà Kasturbai và người thư ký mà ông coi như con ruột là Mahadev Desai, trong thời kỳ này, khiến sức khoẻ của ông suy kiệt đột ngột, chính quyền Anh sợ ông chết trong tù nên đã phải trả tự do cho ông vào năm 1944.
Mặc dù chính quyền Anh đã đàn áp và khống chế được phong trào giành độc lập nhưng thái độ của họ đã thay đổi khá nhiều vào lúc này. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt, chính quyền Anh đã tự động trả tự do cho hơn 100 ngàn tù chính trị và nhất là đưa ra những tín hiệu sẵn sàng thương lượng với các nhà lãnh đạo Ần trong quốc hội để trao trả độc lập.
Có thể dễ nhận thấy rằng phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) được tiến hành với mục tiêu chủ yếu là đòi thành lập một chính phủ quốc gia ở Ấn Độ. Dù rằng những kết quả cụ thể còn bị hạn chế bởi các chính sách của thực dân Anh cũng như sự rạn nứt trong quan hệ giữa Đảng Quốc đại và Liên đoàn Hội giáo. Tuy nhiên sau Chiến tranh thới giới thứ hai kết thúc, cuộc đấu tranh của nhân dân Ấn Độ chuyển sang một giai đoạn mới mạnh mẽ, quyết liệt hơn và đã buộc thực dân Anh phải thừa nhận độc lập ở Ấn Độ.
KẾT LUẬN
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Gandhi "đã đặt viên đá đầu tiên để xây dựng lên thuyết bất hợp tác và bất bạo động". "Bất hợp tác" và "bất bạo động" đều là những tư tưởng phương pháp đấu tranh trong con đường cứu nước Ấn Độ đó là sự sáng tạo tuyệt vời của Gandhi. Học thuyết "bất bạo động" của M.Gandhi có cội rễ từ lịch sử tôn giáo ở Ấn Độ mà trực tiếp là Ấn Độ giáo.
Gia đình M.Gandhi và bản thân M.Gandhi đều theo Ấn Độ giáo, thuộc phái Jain. Giáo lý của giáo phái này được xây dựng chủ yếu trên hai nguyên tắc: thứ nhất là "Ahimsa" tức là không làm điều ác, không được sát sinh; thứ hai là "Satyagraha" nghĩa là kiên trì chân lý, giữ vững lòng tin. Có thực hiện được hai điều này, con người mới được siêu thoát và lên cõi Niết bàn. Ở mộtt xứ sở có nhiều tôn giáo như Ấn Độ, M.Gandhi đã tìm đến cái chung giữa các tôn giáo để đoàn kết lực lượng, đó là Đức tin và cái Thiện. Con đường đấu tranh hoà bình "bất bạo động" đã phù hợp với tình hình Ấn Độ nó được quần chúng nhân dân Ấn Độ chấp nhận và nó đã chỉ đường cho nhân dân Ấn Độ đi đến thắng lợi cuối cùng.
Bằng "lòng nhân ái" của mình, Gandhi đã "thức tỉnh" đoàn kết nhân dân Ấn Độ vì một mục tiêu nhất quán. Đó là giải phóng dân tộc Ấn Độ ra khỏi ách áp bức của chế độ thực dân. Sự tài tình của ông là đã giải quyết rất thành công vấn đề ở một xứ sở "đa dạng và phức tạp" về tôn giáo.
Tư tưởng "bất bạo động" đã được nhân dân Ấn Độ theo đuổi một cách thắng lợi. Con đường cứu nước mà Gandhi đưa ra, phần nào đấy đã quy định con đường đấu tranh của nhân dân Ấn Độ, con đường chuyển hoá tuần tự: tự trị - độc lập hoàn toàn.
Đường lối cách mạng của Gandhi đã được thực tiễn cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Ấn Độ kiểm nghiệm và chứng minh. Công lao lớn nhất của Gandi là đoàn kết đông đảo quần chúng, kêu gọi củng cố tình hữu nghị giữa các dân tộc, khẳng định những mối quan hệ bình đẳng giữa các quốc gia và giải quyết mọi xung đột quốc tế bằng đàm phán hoà bình.
Như vậy, với một tinh thần kiên trì bất khuất đã theo đuổi sự nghiệp giải phóng dân tộc của Ấn Độ. Trong cuộc đời củaông từng 17 lần ngồi tù và lần dài nhất là 6 năm, ông đã tuyệt thực 17 lần và lần dài nhất 21 ngày. Cho dù như thế, ông chưa bao giờ buông bỏ mục tiêu thực hiện sự tự trị và độc lập của Ấn Độ. Chính vậy mà ông được nhân dân Ấn Độ xem là bậc "thánh".
Có thể nói mỗi một dân tộc đều có những con người kiệt xuất. Với dân tộc Ấn Độ, Gandhi là con người kiệt xuất, có đực hi sinh cao cả đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cứu nước vì dân. Ông không những đã đề ra đường lối mà còn lãnh đạo trực tiếp cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Ấn Độ. Gandhi là người mở cửa cho Ấn Độ bước vào thời kỳ mới. Thời kỳ xây dựng và phát triển, thời kỳ làm chủ thực sự của dân tộc Ấn Độ.
Hiện nay, trong công cuộc xây dựng đất nước, vấn đề xây dựng một cộng đồng bền vững gắn kết các dân tộc, tôn giáo đẳng cấp Ấn Độ luôn là vấn đề có tính thời sự nóng bỏng, đặc biệt là vấn đề xung đột Ấn-Hồi, có ảnh hưởng quyết định tới quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tư tưởng và hành động của Gandhi luôn là kinh nghiệm lịch sử quý báu với nhân dân và những nhà lãnh đạo Ấn Độ.
Cuộc đấu tranh đòi độc lập của nhân dân Ấn Độ được tiến hành dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Quốc Đại- đại diện cho tư sản Ấn Độ. Đảng ra đời năm 1885 theo ý muốn của chính quyền thực dân, nhưng ngay sau 10 năm sau đó nó đã bắt đầu có tiếng nói riêng của mình và đến những năm 1917-1920 nó đã có một đường lối chính trị vững chắc đó là chủ nghĩa Găngđi. Có thể nói chủ nghĩa Gandhi là sự kết hợp những truyền thống văn hóa Ấn Độ với quyền lợi của tư sản và dân tộc Ấn. Chính từ tư tưởng của Gandhi mà tư sản Ấn Độ đã thành công trong cuộc đấu tranh đòi độc lập.
Cuộc đấu tranh đòi độc lập của nhân dân Ấn Độ diễn ra theo con đường của Gandhi- con đường hòa bình. Tư tưởng đấu tranh hòa bình phản ánh một cách đi riêng, một cách biểu diễn riêng của người Ấn về con đường đi tới tự do và tất nhiên cách đi riêng ấy được quy định bởi những truyền thống văn hóa lịch sử Ấn Độ. Về văn hóa Ấn Độ là xứ sở của tôn giáo và đó là cơ sở để Gandhi đề ra tư tưởng bất bạo lực (giáo lí Ahimsa), Ấn Độ có nền văn minh phát triển từ sớm, được kết tinh trong các trường phái triết học, mà chủ yếu là tìm hiểu bản ngã của nó đó là cơ sở lý thuyết của bất hợp tác. Về lịch sử Ấn Độ là “đế quốc hướng nội”, đã chịu nhiều cuộc xâm lăng từ bên ngoài nhưng người Ấn Độ luôn chiến thắng bởi đặc điểm thu hút vào vòng ôm của họ những khác biệt để tạo nên sự thống nhất trong đa dạng.
Tư tưởng đấu tranh bất bạo lực, sự lãnh đạo của tư sản Ấn cũng như từ đối sánh lực lượng đã quy định con đường đấu tranh của nhân dân Ấn Độ đó là: Tự trị-độc lập hoàn toàn. Tất nhiên giữa “tự trị” và “độc lập” là những bước chuyển hóa tuần tự. Chính con đường đi tịnh tiến từ tự trị đến độc lập là một điều kiện để đảm bảo cho nhân dân Ấn Độ tiến hành đấu tranh một cách hòa bình và ngược lại con đường đấu tranh bất bạo động cùng với sự lãnh đạo của tư sản Ấn Độ cũng như so sánh lực lượng xã hội đã quy định con đường tịnh tiến từ tự trị đến độc lập
Cuộc đấu tranh đòi độc lập của Ấn Độ do tư sản Ấn Độ lãnh đạo với một con đường hòa bình. Tuy nhiên đường lối bất bạo động của Gandhi khi thâm nhập vào quần chúng đã được họ sử dụng một cách linh hoạt, ra khỏi sự kiểm soát của chính Gandhi. Điều đó có nghĩa là các lực lượng khác trong xã hội Ấn Độ đã sử dụng các hình thức đấu tranh khác phong phú có cả bạo lực. Công nhân và nông dân là hai lực lượng cơ bản tạo thành động lực cuộc đấu tranh. Đảng Quốc Đại đã đoàn kết các lực lượng trong xã hội vào cuộc đấu tranh chung- đó là nhân tố đảm bảo để tư sản Ấn Độ có thể đảm nhiệm sứ mệnh giải phóng dân tộc. Nhưng trong điều kiện cụ thể của xã hội Ấn Độ, đường lối đoàn kết của Đảng Quốc Đại là đường lối đoàn kết các cộng đồng tôn giáo và các đẳng cấp trong xã hội, vấn đề giai cấp vì thế mà không được chú trọng. Mặc dù còn hạn chế nhưng Đảng Quốc Đại đã thành công trong cuộc đấu tranh đòi quyền tự trị cho Ấn Độ và đòi độc lập.
Con đường giải phóng dân tộc ở Ấn Độ khác rất nhiều so với phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Châu Á khác như: Trung Quốc, Việt Nam, Inđônêxia. Điều kiện đặc biệt của lịch sử Ấn Độ đã quy định con đường đấu tranh rất đặc sắc của Ấn Độ: Đấu tranh bằng phương pháp hoà bình dưới sự lãnh đạo của Đảng Quốc Đại-thực tế cuộc đấu tranh đòi độc lập ở Ấn Độ cho thấy Đảng Quốc đại đã đấu tranh hết sức kiên quyết cho mục tiêu của dân tộc Ấn Độ, đồng thời cũng hết sức nhất quán với tư tưởng đấu tranh "bất bạo lực" của mình. Sự kiên quyết nhất quán trong mục tiêu và đường lối cũng như sự linh hoạt, sáng tạo của con đường đi đến độc lập mà Đảng Quốc Đại vạch ra đã đảm bảo cho thắng lợi. Như vậy, việc nhận định tư sản Ấn Độ là "hai mặt", "hèn nhát" đều tỏ ra quá chật hẹp và thiếu khách quan.
Phong trào giải phóng dân tộc Ấn Độ với con đường rất riêng đã cho thấy: Mỗi dân tộc tùy theo điều kiện, hoàn cảnh của mình mà tìm đến một con đường thích hợp cho dân tộc mình để tiến tới nền độc lập.
PHỤ LỤC
Gandhi năm 1876
Gandhi năm 1918
Gandhi ngồi quay sợi vào cuối năm 1920
Gandhi với công nhân dệt may tại Darwen, Lancashire, Anh, 26/9/1931
Gandhi năm 1930
Gandhi tại một cuộc biểu tình trong Satyagraha (1930)
Cuộc biểu tình phản đối chống thuế muối của thực dân Anh
(Salt Satyagraha-1930)
Bức tượng về Salt Satyagraha ở New Delhi-Ấn Độ
Cuộc biểu tình của nhân dân Chauri-Chaura năm 1922
Gandhi vào năm 1940
Gandhi và Jinnah ở Bombay, tháng 9-1944
Gandhi và Nehru năm 1942
Gandhi nói chuyện với Chakravarthi Rajagopalachari trong các cuộc đàm phán
Gandhi-Jinnah tại Birla House-Bombay, tháng 9/1944
Chitta Ranjan Das
Sardar Vallabhbhai Patel
Rajagopalachari tại một cuộc mít tinh ở Ootacamund, 1939
Motilal Nehru
Gandhi tại Hội nghị bàn tròn ở London, năm 1931
Quân đội Ấn Độ nằm trong quân đội Anh đang hành quân trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945)
Đảng kì Đảng Quốc Đại
Chữ kí của M.Gandhi
TÀI LIỆU THAM KHẢO
F SÁCH:
Đỗ Thanh Bình, Lịch sử phong trào giải phóng dân tộc thế kỉ XX-một cách tiếp cận, NXB Đại học Sư phạm, 2006.
Nguyễn Anh Thái (Chủ biên), Lịch sử thế giới hiện đại, Nhà xuất bản giáo dục, 2009.
F TRANG WEB:
F ĐƯỜNG LINK VIDEO:
Phong trào Satyagraha Salt năm 1930.
Bộ phim về cuộc đời và cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc Ấn Độ của M.Gandhi.
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 3-SP SỬ 2B_K37
1
Đinh Thị Minh Chóch
K37.602.012
2
Võ Thị Ngọc Điệp
K37.602.020
3
Trần Bích Dịu
K37.602.022
4
Hoàng Thị Liên
K37.602. 047
5
Trần Thị Mùi
K37.602.057
6
Trương Nhất Nương
K37.602.072
7
Hồ Minh Thành
K37.602.087
8
Cao Thị Thu
K37.602.090
9
Đỗ Thị Kim Thúy
K37.602.091
10
Nguyễn Thị Thùy Trang
K37.602.104
11
Nguyễn Đình Vũ
K37.602.120
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- an_do_phong_trao_dau_tranh_gianh_doc_lap_3895.doc