Đề tài Quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng á châu – chi nhánh Sài Gòn

LỜI MỞĐẦU Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng và là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực kinh tế như sản xuất, thương mại, dịch vụ Điều quan tâm của các ngân hàng thương mại đều là mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng dễ gặp rủi ro hơn bất cứ ngành nghề nào khác, và tác hại cũng to lớn hơn những ngành nghề khác. Rủi ro của một ngân hàng có thể làm sụp đổ cả một hệ thống ngân hàng, cả một nền kinh tế chứ không riêng gì ngân hàng đó. Xét bản chất của rủi ro là sự tiềm ẩn, không dự đoán và lường trước được nên người ta không thể nào tiêu diệt được rủi ro. Do đó, quản lý rủi ro là một bộ phận quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Thông qua đó, ngân hàng tìm ra nguyên nhân và các biện pháp hữu hiệu để hạn chế tác hại của rủi ro. Trong bối ảnh đất nước đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới, ngành ngân hàng phải hết sức thận trọng, giảm thiểu rủi ro để có thể đứng vững và tích tụ năng lực cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài. Nhìn thấy tầm quan trọng của ngành ngân hàng trong nền kinh tế và tác hại của rủi ro trong hoạt động ngân hàng, em chọn đề tài “ Quản lý rủi ro tín dụng” nhằm tìm hiểu những giải pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng, quản lý rủi ro hiệu quả hơn, nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN I.TÍN DỤNG 1.Khái niệm: Tín dụng là một phạm trù kinh tế đã tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế xã hội. Về phương diện khoa học, có nhiều khái niệm về tín dụng: · Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, tín dụng là quan hệ vay mượn và sử dụng vốn lẫn nhau giữa người đi vay và người cho vay mà trong đó 2 chủ thể này sẽ thoả thuận với nhau về thời hạn nợ cũng như mức lãi cụ thể mà người đi vay phải trả trong một kỳ trả nợ . · Còn hiểu theo nghĩa rộng thì tín dụng là sự huy động điều tiết vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn trong nền kinh tế. Thuật ngữ tín dụng xuất phát từ tiếng Latinh là Creditium có nghĩa là lòng tin và sự tín nhiệm. Cụ thể hơn trong quan hệ tín dụng, người cho vay tin tưởng người đi vay sẽ hoàn trả đầy đủ cả vốn và lãi cho mình đúng hạn nên đem tài sản tiền bạc của mình ra cho người kia vay ( mặc dù ngày nay khi cho vay không hẳn hoàn toàn chỉ dựa vào lòng tin mà còn phải xét đến nhiều điều kiện khác như mục đích vay, khả năng tài chính, tài sản đảm bảo ) Hoạt động tín dụng được diễn ra qua 3 giai đoạn: · Giai đoạn cấp tín dụng: đây là giai đoạn người cho vay chuyển giao vốn tín dụng cho người đi vay dưới hình thức bằng tiền hoặc bằng hiện vật. · Giai đoạn chuyển giao vốn tín dụng: đây là giai đoạn bên đi vay sử dụng vốn tín dụng vào mục đích kinh doanh, tiêu dùng hoặc các nhu cầu giao dịch khác trong nền kinh tế. · Giai đoạn hoàn trả tín dụng: đây là giai đoạn hoàn trả vốn gốc và lãi cho người cho vay khi hết thời hạn vay. Tính hoàn trả và có lãi chính là đặc trưng cơ bản của tín dụng. Với các khái niệm khác nhau về tín dụng, dù ở phương thức sản xuất nào đi nữa, tín dụng bao giờ cũng có 3 đặc điểm sau: Ø Tín dụng thể hiện sự chuyển giao vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc tài sản từ người cho vay sang người đi vay. Sự chuyển giao này thể hiện bằng sự thoả thuận về việc ứng trước tiền vay. Ø Sự chuyển giao này chỉ mang tính chất tạm thời bởi chỉ chuyển giao quyền sử dụng vốn chứ không làm thay đổi quyền sở hữu vốn của người cho vay. Ø Tín dụng bao giờ cũng có thời hạn và phải được hoàn trả, có nghĩa là sau một thời gian xác định cụ thể thì bên đi vay phải trả cho bên cho vay một số tiền lớn hơn số tiền vay ban đầu, phần chênh lệch hơn này gọi là lợi tức tín dụng hay còn được gọi là “lãi”. Lãi chính là giá cả của khoản vay. Điều này cho thấy giá trị của tín dụng không những được bảo toàn mà còn được nâng cao nhờ lợi tức tín dụng. Từ những phân tích trên cho thấy bản chất tín dụng là hệ thống các quan hệ kinh tế được hình thành thông qua quan hệ vay mượn giữa người đi vay và người cho vay, nhằm điều tiết vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu đáp ứng nhu cầu về vốn cho sự phát triển của nền kinh tế.

doc79 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3992 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng á châu – chi nhánh Sài Gòn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng nên giấy tờ chưa chứng nhận quyền sở hữu trước đây giờ đã thất lạc. Ngoài ra còn có những trường hợp mua bán nhà, đất bằng những hợp đồng trao tay, không có chứng nhận. Hầu hết các Ngân hàng nều từ chối cho vay với những trường hợp thế chấp mà tài sản không có giấy chứng nhận quyền sở hữu rõ ràng, hợp lệ. Điều này gây thiệt thòi rất lớn cho khách hàng vay, nếu nhà, đất của họ không có tranh chấp. Bên cạnh đó còn nhiều bất cập như: pháp luật hiện hành chỉ cho tổ chức sử dụng đất nông nghiệp, lâm nghiệp được thế chấp tài sản có trên đất. Nhưng trong thực tế, nếu tổ chức này không trả được nợ thì tài sản thế chấp và quyền sử dụng đất được phát mại như thế nào? Đối với hộ gia đình, cá nhân khi thế chấp giá trị quyền sử dụng đất nông nghiệp, lâm nghiệp mà diện tích đó được giao để sản xuất trong 20 năm hay 50 năm tùy loại cây trồng mà không trả nợ được, việc phát mại giá trị quyền sử dụng đất này sẽ liên quan đến đời sống của hộ nông dân vì đây là tư liệu sản xuất và là nguồn sống chủ yếu của họ, không chỉ một năm mà từ 20 đến 50 năm, hơn nữa tác động đến mục tiêu đảm bảo cho nông dân có đất sản xuất. 2.5.2 Vướng mắc trong thế chấp cầm cố: Trong các qui định về bảo đảm tiền vay đều buộc việc cầm cố, thế chấp phải được công chứng nhà nước vì sự an toàn của hoạt động NH. Mục đích của công chứng là ngăn không cho một tài sản đem đi thế chấp, cầm cố ở nhiều nơi. Công chứng không chỉ đơn giản là chứng nhận việc ký kết, thỏa thuận giữa các bên mà còn kiểm tra xem có phù hợp với pháp luật không. Chẳng hạn, công chứng viên sẽ kiểm tra xem tài sản đem thế chấp, cầm cố có thực sự thuộc tài sản bên thế chấp, cầm cố… Việc chứng thực của công chứng là cần thiết đối với việc thế chấp, cầm cố và bảo lãnh của doanh nghiệp nhà nước vì tài sản của doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước nên nhà nước cần kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Tuy nhiên các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghịêp có vốn đầu tư nước ngoài và các NHTM đang phàn nàn rất nhiều về thủ tục công chứng quá phức tạp, tốn nhiều thời gian (công chứng viên phải rà từng chữ trong hợp đồng thuế chấp cầm cố) và lệ phí công chứng không hợp lí (0.2% giá trị hợp đồng vay). Việc công chứng thể hiện sự can thiệp quá sâu của nhà nước và quyền tự chủ, tự quyết định về hoạt động kinh doanh của các NH và các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh. Hiện nay chưa có quy định thống nhất về việc sử dụng loại giấy tờ sở hữu nào trong thế chấp, và chưa có hệ thống đăng kí tài sản thế chấp. Khi cần thông tin về sở hữu của tài sản thế chấp, cầm cố, công chứng viên cũng không được cung cấp đầy đủ. Vì vậy, khi chứng nhận hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản, công chứng viên sẽ gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Nếu công chứng viên chỉ kiểm tra giấy tờ về quyền sở hữu tài sản được xuất trình mà không kiểm tra, đối chiếu với tài sản trên thực tế, thì dễ gặp sai sót và việc kiểm tra tính hợp lí của các giấy tờ sở hữu chỉ có ý nghĩa hình thức. Thực tế, đây là hiện tượng phổ biến do thói quen hành chính quan liêu giấy tờ và trình độ của công chứng viên còn hạn hẹp. Đối với tài sản dùng để thế chấp do nhiều khoản vay tại một NH hoặc một tài sản thế chấp do nhiều NH cùng lúc để thực hiện một dự án thì công chứng viên không thể thực hiện việc chứng nhận hợp đồng thế chấp được vì không kiểm soát được hết các khoản vay của bên đi vay. Ngoài ra còn một trở ngại gây phức tạp và lãng phí vì phòng công chứng nhà nước chỉ có thẩm quyền chứng nhận theo lãnh thổ, tức tài sản đang kí quyền sở hữu ở đâu thì việc chứng nhận hợp đồng thế chấp tài sản do phòng công chứng địa phương đó thực hiện. Nếu tài sản của một doanh nghiệp đặt tại nhiều địa phương khác nhau mà cần phải thế chấp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho một khoản vay tại một NH thì phải công chứng hợp đồng công chứng tại nhiều phòng công chứng khác nhau. 2.5.3. Những khó khăn trong xử lý thế chấp cầm cố: Trả nợ gốc và lãi đúng hạn là nguyên tắc gắn liền với bản chất của hệ thống tín dụng. Khi nguyên tắc hoàn trả của tín dụng bị vi phạm thì quan hệ tín dụng sẽ không có lí do gì để tồn tại. Tài sản thế chấp là bất động sản, là điểm mấu chốt của họat động sản xuất kinh doanh của tổ chức kinh tế. Nếu NH xử lí bằng cách xiết nợ tài sản để phát mại thì quy mô sản xuất kinh doanh của con nợ bị thu hẹp ,thậm chí ngừng họat động và có thể sẽ phá sản, kéo theo nhiều hậu quả kinh tế xã hội khác. Vì thế, xiết nợ tài sản thế chấp để phát mãi thu nợ là biện pháp bất đắc dĩ mà NH buộc phải làm để không mất vốn ho vay. Về phía ngân hàng thì xiết nợ để phát mại TS thế chấp chẳng khác gì đoạn tuyệt với khách hàng không may của mình, ngân hàng chỉ thực hiện sau khi đã thẩm định, phân tích khả năng tồn tại để sản xuất kinh doanh của đơn vị vay. Nếu sản phẩm, dịch vụ của đơn vị vẫn được thị trường chấp hành thì đơn vị nên tiếp tục gia hạn nợ hoặc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ . Trong thời gian qua, việc xử lý tài sản bằng hình thức phát mại được thực hiện rất chậm chạp. Những nam 1997-1998 & đầu năm 1999 là thời gian các ngân hàng tồn đọng nợ quá hạn nhiều nhất thì tỉ lệ phát mại thu hồi vốn chỉ đạt từ 3 đến 5% số nợ quá hạn có TS bảo đảm. Với biện pháp đưa ra trung tâm bán đấu giá, khó khăn đầu tiên mà NH gặp phải là nếu trong trường hợp đồng thế chấp, người đi vay đã cam kết với NH là nếu không trả được nợ thì đồng ý để NH phát mại tài sản, trong hợp đồng cũng ghi nhận giá trị tài sản đảm bảo do hai bên thỏa thuận. Hợp đồng được chứng minh nhưng không có giá trị khi đưa ra trung tâm đấu giá. Chủ sở hữu tài sản, tức người thế chấp cầm cố phải đồng ý đưa ra đấu giá và phải thỏa thuận về giá tối thiểu để đấu giá thì mới có giá trị. Vì vậy, một số khách hàng cố tình trì trệ, không ký vào ủy quyền để đưa tài sản ra đấu giá hoặc đồng ý đấu giá nhưng với một mức giá tối thiểu quá cao, không người nào có thể mua được, vấn đề thiết lập giá khởi điểm để đưa ra đấu giá là một vấn đề nan giải, nếu định giá quá cao thì trung tâm không bán được. Ngược lại, nếu định giá thấp thì chủ sở hữu không muốn giao tài sản, vì thế quyền lợi của người mua không được bảo hộ, gây ách tắc trong quan hệ mua bán. Tài sản đảm bảo hiện nay chủ yếu là bất động sản. Một số được định giá vào thời điểm đỉnh cao của cơn sốt nên giá rất cao, đến thời điểm phát mại giá bất động sản hạ. Mặt khác, thị trường bất động sản Việt Nam còn tự phát nên có nhiều vướng mắc về pháp lý. Tài sản thế chấp thuộc sở hữu tư nhân thì việc xử lý dễ dàng hơn vì chủ sở hữu có đầy đủ quyền năng với tài sản. Tuy nhiên, cũng có nhiều khó khăn vì liên quan đến vấn đề đồng sở hữu khi tài sản được tạo bởi nhiều cá nhân như nhà cửa, sổ tiết kiệm, là tài sản gia đình nhưng do một người đứng tên. Nhà ở, đất ở nông thôn, đất sản xuất nông nghiệp có giấy tờ hợp lệ cũng rất khó bán vì người mua là nông dân, yếu tố tình làng nghĩa xóm rất quan trọng, họ không nỡ làm cho đồng hương trắng tay, mất đất, mất nhà, một số người do mê tín cũng không muốn mua lại đất, nhà của người đã phá sản. Đối với cho vay doanh nghiệp nhà nước thì tài sản thế chấp thường là đất đai, máy móc. Doanh nghiệp chỉ có quyền quản lý, sử dụng tài sản. Việc sử dụng tài sản phải có sự tham gia của nhiều ngành, đặc biệt có sự tham gia của Tổng cục Quản lý Vốn và tài sản. Các tài sản chuyên dùng, có giá trị rất lớn, có khi hàng chục, thậm chí hàng trăm tỷ đồng như kho hàng, nhà xưởng, khách sạn lớn thì việc phát mại cực ký khó khăn. Với các tài sản đảm bảo là máy móc, thiết bị đều dễ bị mất giá do hư hỏng, hao mòn vô hình nên việc phát mại rất khó khăn. Bên cạnh đó, mua bán bằng cách đấu giá chưa phổ biến tại Việt Nam. Ngoài ra việc khai thác tài sản bảo đảm đưa vào kinh doanh sẽ liên quan đến thủ tục xin giấy phép, đăng ký kinh doanh. Như vậy sẽ liên quan đến nội dung hoạt động trên giấy phép hoạt động. NH có thể chọn cách thức khởi kiện tại tòa án trong các trường hợp cho vay tín chấp, cầm cố tài sản nhưng các bên thỏa thuận giải quyết bằng cơ quan tòa án. Lúc này, NH có thể gặp khó khăn như thời gian kéo dài qua thủ tục hành chính rườm rà. Thời gian từ khi tòa án nhận đơn đến khi xét xử vụ án là từ 75 đến 80 ngày. Trong khoản thời gian này, NH bị triệu tập nhiều lần để giải quyết và tốn phí. Đến khi tòa án đã tuyên thì thủ tục thi hành án cũng kéo dài. 2.6.Thực trạng tình hình huy động vốn của ACB-SG. 2.6.1.Các sản phẩm dịch vụ dùng để huy động vốn. Để hoạt động huy động vốn đạt hiệu quả cao, ACB cung cấp cho khách hàng các sản phẩm dịch vụ đa dạng như: Dịch vụ tiền gởi tiết kiệm, tiền gởi thanh toán gồm : tiền gởi thanh toán không kỳ hạn, tiền gởi thanh toán có kỳ hạn, tiền gởi ký quỹ… Các phương tiện thanh toán cho khách hàng: cheque, uỷ nhiệm chi, hối phiếu ngân hàng… Chấp nhận các phương tiện thanh toán do nơi khác phát hành: cheque du lịch, thẻ ngân hàng… 2.6.2.Thực trạng hoạt động huy động vốn của ACB-SG. Đơn vị tính: tỷ đồng Loại tiền gửi Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Quý I/05 Chênh lệch 2003-2002 Chênh lệch 2004-2003 Số tiền Số tiền Số tiền Số tiền Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ Tiền gửi thanh toán 175 231 343 380 56 32% 112 48% Doanh nghiệp 73 106 151 166 33 45% 45 42% Cá nhân 102 125 192 214 23 22% 67 54% Tiền gửi tiết kiệm 1630 1664 2154 2370 34 2% 490 29% Tổng 1805 1895 2497 2750 90 5% 602 32% Vốn huy động của ACB-SG tăng ổn định qua từng năm qua. Cụ thể : Ngân hàng đã huy động được khốI lượng tiền tệ rất lớn đạt 2497 tỷ đồng vượt mức 132% so với năm 2003. Trong đó, nguồn vốn huy động bằng tiền tiết kiệm tăng nhanh từ 1664 tỷ đồng lên 2154 tỷ đồng với mức độ tăng trưởng 50%. Bên cạnh đó, nguồn huy động từ tiền gửi thanh toán cũng tăng từ 231 tỷ đến 343 tỷ đồng với mức tăng trưởng là 112 tỷ (tỷ lệ tăng là 48,5%) nhưng không đáng kể so với tiền gửi tiết kiệm. Nhìn chung tốc độ tăng trưởng vốn huy động tại ACB-SG trong năm 2004 có biểu hiện ngày càng tăng, nguyên nhân là do: Ngân hàng áp dụng mức lãi suất hấp dẫn đối với khách hàng, ngoái ra còn có chương trình mở thưởng hàng năm cho những khách hàng có tham gia dự thưởng. Uy tín và chất lượng phục vụ của ACB-SG đối với khách hàng ngày càng được nâng cao và càng thể hiện được đây là Ngân hàng TMCP lớn nhất Việt Nam. Năm 2003, vốn huy động tăng 5% (90 tỷ đồng) so với năm 2002. Năm 2004, vốn huy động tăng 32% (602 tỷ đồng) so với năm 2003. Nguồn vốn huy động chủ yếu là nguồn tiền gửi tiết kiệm của khách hàng và đây cũng là nguồn vốn tăng ổn định nhất. Năm 2003, tìên gửi thanh toán tăng 32%(56 tỷ đồng)so với năm 2002. Trong đó, tiền gửi thanh toán doanh nghiệp tăng 45% ( 33 tỷ đồng), tiền gửi thanh toán cá nhân tăng 22% (43 tỷ đồng). Tiền gửi tiết kiệm tăng 2% (34 tỷ đồng) so với năm 2002. Năm 2004, tiền gửi thanh toán tăng 48% (112 tỷ đồng) so với năm 2003.Trong đó, tiền gửi thanh toán doanh nghiệp tăng 42% (45 tỷ đồng), tiền gửi thanh toán cá nhân tăng 54% (67 tỷ đồng). Tiền gửi tiết kiệm tăng 29% (490 tỷ đồng) so với năm 2003. Có thể thấy rằng trong năm 2003, tiền gửi thanh toán doanh nghiệp tăng mạnh là do ngân hàng ACB-SG lập ra phòng khách hàng doanh nghiệp chuyên phục vụ khối khách hàng doanh nghiệp. Qua công tác tiếp thị cũng như khuyến khích doanh nghiệp vay vốn tại ACB-SG sử dụng dịch vụ thanh toán của ACB-SG đã làm tăng lượng tiền gửi thanh toán lên. Đặc biệt, chỉ trong quý I/2005 ACB-SG đã khá thành công trong công cuộc huy động vốn mà cụ thể : Tiền gửi thanh toán trong quý đầu năm 2005 cao hơn cả năm 2004 là 37 tỷ đồng, tiền gửi tiết kiệm huy động được nhiều hơn 216 tỷ đồng.Tiền gửi của khách hàng tăng liên tục qua các năm, đó là thành công của ACB-SG cũng như của ACB trong việc thực hiện chiến lược huy động vốn. ACB cung ứng một hệ thống sản phẩm dịch vụ huy động vốn đa dạng phù hợp với nhu cầu của khách hàng, công tác phục vụ nhiệt tình và năng động, đây chính là nguyên nhân góp phần làm tăng lượng khách hàng của ACB-SG ngày một đông. 2.7 Thực trạng hoạt động cho vay của ACB-SG. 2.7.1. Các sản phẩm dịch vụ. Đối với khách hàng là doanh nghiệp: Cho vay ngắn hạn với mục đích: Bổ sung vốn lưu động thiếu hụt trong quá trình sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ. Tài trợ vốn để sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu theo hợp đồng ngoại thương, L/C xuất khẩu được thanh toán qua ACB. Thanh toán tiền hàng trong nước theo hợp đồng mua bán. Thanh toán tiền hàng nhập khẩu mua nguyên vật liệu, hàng hoá…qua ACB. Cho vay trung dài hạn với mục đích: Thực hiện các phương án mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, hiện đại hoá sản xuất. Thực hiện dự án đầu tư xây dựng mới. Thực hiện các phương án di dời nhà máy vào khu công nghiệp tập trung. Bảo lãnh trong và ngoài nước. Cho vay chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu. Bảo lãnh phát hành thư tín dụng nhập khẩu. Tài trợ vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ nguồn vốn của Nhật Bản (nguồn SMEDF). Mục đích: mua sắm máy móc, thiết bị, công nghệ nhằm nâng cao năng lực sản xuất cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đối với khách hàng cá nhân. ACB-SG cho khách hàng cá nhân vay nhằm mục đích sinh hoạt, tiêu dùng như mua sắm vật dụng gia đình, đóng học phí, cưới hỏi, sữa chữa nhà ở… Các loại sản phẩm dịch vụ: Cho vay trả góp sinh hoạt tiêu dùng. Cho vay trả góp mua nhà, nền nhà. Vay vốn mua nhà, nền nhà tại Việt Nam dành cho Việt kiều và thân nhân của Việt kiều. Cho vay trả góp xây dựng, sữa chữa nhà. Hỗ trợ tài chính cho học sinh du học… 2.7.2. Thực trạng hoạt động cho vay của ACB-SG. Hoạt động tín dụng là khâu chủ lực của hoạt động ngân hàng cho nên ACB-SG luôn nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động tín dụng trong hoạt động kinh doanh của mình, do đó luôn có những chiến lược phát triển hoạt động tín dụng phù hợp để đảm bảo khoản sinh lời cũng như an roàn cho nguồn vốn vay. Hiện nay thế mạnh của ACB-SG là cho vay trả góp phục vụ nhu cầu tiêu dùng mua sắm, sinh hoạt gia đình…Đây là thị trường có tiềm năng rất lớn, đem lại hiệu quả và lợi nhuận cao trong thu hồi vốn và hạn chế rủi ro. Phân theo đối tượng cho vay, mục đích vay: Đơn vị tính: tỷ đồng. Sản phẩm Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Chênh lệch 2003-2002 Chênh lệch 2004-2003 Dư nợ Dư nợ Dư nợ Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ Kinh doanh 65 70 100 5 8% 30 43% Mua bán nhà đất 180 192 215 12 7% 23 12% Xây dựng,sửa chữa nhà 38 48 60 10 26% 12 25% Xe cơ giới 7 9 14 2 28% 5 56% Du học 2 9 10 7 350% 1 11% Sổ tiết kiệm 20 30 35 10 50% 5 17% Sinh hoạt 204 217 254 13 6% 37 17% Tổng cộng 516 575 688 59 11% 113 20% Trong 3 năm qua, hoạt động cho vay của ACB-SG có sự phát triển và ổn định.Mức dư nợ cho vay khách hàng doanh nghiệp và cá nhân đều tăng mạnh. Năm 2003, mức dư nợ cho vay cho mục đích kinh doanh tăng 8% (5 tỷ đồng) so với năm 2002. Năm 2004, mức dư nợ này tăng vượt bậc 43% (30 tỷ đồng). Điều này chứng tỏ ngân hàng làm việc hiệu quả khá cao. Đối với mục đích mua bán nhà đất: mức dư nợ cho vay năm 2003 tăng 7% (12 tỷ đồng) so với năm 2002. Năm 2004, mức tăng này đạt 12% (23 tỷ đồng) so với năm 2003. Đối với cho vay xây dựng sửa chữa nhà, mức cho vay năm 2003 tăng 26% (10 tỷ đồng) so với năm 2002. Năm 2004, mức tăng này đạt 25% (12 tỷ đồng) so với năm 2003. Mức dư nợ cho vay mua xe cơ giới có sự biến động mạnh. Cụ thể, năm 2003, mức dư nợ vay tăng 28% (2 tỷ đồng) so với năm 2002. Đến 2004, mức dư nợ này tăng lên đến 56% (5 tỷ đồng). Cho vay du học được triển khai từ năm 2002, đến nay tình hình nhìn chung là khả quan. Năm 2003, mức dư nợ cho vay du học đạt 9 tỷ đồng tương ứng tăng 350% so với năm 2002. Sang năm 2004, mức dư nợ cho vay đối với loại hình này tăng 11% (1tỷ đồng) so với năm 2003. Cầm cố sổ tiết kiệm tăng tương đối ổn định qua các năm. Mức dư nợ cho vay năm 2003 tăng 50% (10 tỷ đồng) so với năm 2002. Năm 2004, mức tăng này đạt mức 17% (5 tỷ đồng) so với năm 2003. Đây là tài sản của khách hàng vay là cá nhân vay vốn để phục vụ nhu cầu tiêu dùng, kinh doanh cá thể. Trong các biện pháp đảm bảo tiền vay thì cầm cố bằng sổ tiết kiệm, nhất là sổ tiết kiệm do chính ACB phát hành có tỷ lệ an toàn cao nhất vì ngân hàng có thể kiểm tra số dư và phong toả tài khoản để quản lý một cách dễ dàng, lại không tốn chi phí bảo quản. Cho vay sinh hoạt gia đình được triển khai từ đầu năm 2001. Năm 2003, mức dư nợ này tăng 6% (13 tỷ đồng) so với năm 2002. Năm 2004, tỷ lệ này đạt 17% (37 tỷ) so với năm 2003. Sản phẩm này có mức dư nợ tăng khá ổn định. Cho vay mua xe máy triển khai từ năm 1994 đến năm 2002 thì ngưng cho vay. Hiện nay chỉ còn thu nợ. Như vậy, nhìn tổng quát, dư nợ cho vay của ACB-SG vẫn mở rộng qua từng năm. Số dư các loại cho vay đa số đều tăng qua các năm, đặc biệt là cho vay sinh hoạt, mua nhà và vay kinh doanh. Điều này cho thấy các sản phẩm cho vay đã đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Từ những số liệu trên, ta vẽ được biểu đồ sau: Biểu đồ về tình hình huy động vốn và dư nợ cho vay Nguồn vốn huy động của ACB-SG tăng rất cao nhưng ngược lại dư nợ cho vay thấp vì hầu hết là cho vay mà nguồn trả nợ dựa trên thu nhập hàng tháng của người đi vay nên chủ yếu là cho vay trả góp, vì vậy dư nợ không tăng nhanh dẫn đến tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng vốn huy động còn rất thấp. Nếu xem xét về chất lượng tín dụng thì tình hình cho vay và nợ qua hạn như sau. 2.8. Thực trạng rủi ro tín dụng của ACB-SG. 2. 8.1.Phân tích: Tình hình cho vay và nợ quá hạn: Đơn vị tính: tỷ đồng Ch ỉ tiêu 2002 2003 2004 qu ý 1 / 2005 Dư nợ cho vay 516 575 695 185 Nợ quá hạn 2 1,8 1,5 0,57 Nợ khó đòi 0,017 0,013 0,014 0,014 Tỉ lệ nợ khó đòi / nợ quá hạn 0,0085 0,0072 0,0093 # Tỉ lệ nợ quá hạn / dư nợ cho vay 0,39 % 0,331 % 0,22 % 0.31 % Dựa vào bảng số liệu trên tài sản thấy tình hình nợ quá hạn của ngân hàng diễn ra rất tốt. Mức nợ quá hạn giảm dần qua các năm. Từ 2 tỷ đồng năm 2002 xuống còn 1,8 tỷ năm 2003 rồi giảm còn 1,5 tỷ năm 2004 trong khi mức dư nợ cho vay tăng đều qua các năm. 575-516 516 Trong năm 2003, mức dư nợ cho vay tăng 11,44% so với năm 2002 với mức tăng trưởng 59 tỷ đồng. Bên cạnh đó nợ quá hạn đã giảm 0,2 tỷ đồng so với năm 2002, ứng với tỷ lệ giảm 10%. 695-575 575 Trong năm 2004, mức dư nợ cho vay tăng 20,87% so với năm 2003 với mức tăng trưởng 120 tỷ đồng. Bên cạnh đó nợ quá hạn đã giảm 0,3 tỷ đồng so với năm 2003, ứng với tỷ lệ giảm 6%. Đây cũng là một dấu hiệu tốt. Tỉ lệ nợ khó đòi / nợ quá hạn tính tới cuối năm 2004 là 0,0093 (0,93%). Trên phương diện một ngân hàng thì nguyên tắc hoạy động là luôn cố gắng để đưa tỉ lệ này tiến tới 0%. Vì thế tâm lý người cho vay (ngân hàng) luôn muốn thu hồi lại số vốn mình đã cho vay ( có thể thấy rõ vấn đề này thông qua quá trình xét duyệt cho vay của ngân hàng ). Tuy nhiên với tâm lí của người đi vay thì họ sẽ hành động theo phương cách nào có lợi cho họ kể cả từ chối hoàn trả khoản nợ đã vay nếu có thể. Nếu xảy ra trường hợp vào thời điểm phải hoàn trả lại vốn vay mà chủ thể đi vay không có khả năng trả nợ, và đồng thời tài sản mà họ đem thế chấp cho ngân hàng cũng giảm giá trị trên thị trường, hay chính vào thời điểm này họ cũng đang là chủ nợ của một món nợ khó đòi khác (trường hợp này tồn tại rất nhiều) thì đây rõ ràng là một rủi ro về khả năng không thu hồi lại được vốn của ngân hàng. Nếu như trường hợp này xảy ra thì nó hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát cua ngân hàng , và cũng không phải do nguyên nhân yếu kém về năng lực của cán bộ ngân hàng . Thông số đã được ngân hàng tổng kết vào cuối năm 2004 về tỉ lệ nợ khó đòi / nợ quá hạn là 0,0093 ( 0,93 %) dù đã không thể hieän được mong muốn của ngân hàng nói chung nhưng nếu đem so với tình hình chung của các ngân hàng thì đây hoàn toàn là một tỉ lệ rất thấp và hoàn toàn có thể chấp nhân được. “Tính đến cuối tháng 9/2004 số nợ vốn vay xây dựng cơ bản thuộc 5 ngân hàng thương mại nhà nước đối với các đơn vị thi công khoảng 24.500 tỷ đồng, trong đó nợ quá hạn là 1.344 tỷ đồng . Đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam, đến cuối năm 2004, tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ cho vay đã giảm xuống mức 4%. Tính theo tiêu chuẩn kế toán quốc tế IAS thì tỷ lệ nợ xấu thực tế của các ngân hàng thương mại quốc doanh dao động ở mức 40% tổng dư nợ, gấp 8 lần tiêu chuẩn an toàn cho phép, trong đó 58% là nợ quá hạn không có khả năng thu hồi.” Một yếu tố cũng rất quan trọng cần phải tính đến khi phân tích nợ quá hạn là tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho vay. Tỷ lệ này qua 3 năm đều ở mức rất thấp so với tỷ lệ cho phép là 5%. Có thể thấy rằng tình hình nợ quá hạn của ngân hàng rất an toàn. Hoạt động tín dụng an toàn và hiệu quả. Tỷ lệ nợ quá hạn thấp góp phần làm cho tình hình tài chính của ACB-SG thêm lành mạnh. Làm được điều này là do ACB có cơ chế xét cấp tín dụng chặt chẽ, phán quyết cho vay dựa trên sự thống nhất phê chuẩn của Hội đồng tín dụng. Giữa các khâu thẩm định, đánh giá, xét duyệt trong quy trình tín dụng có sự độc lập và khách quan. Công tác đánh giá tín dụng thường xuyên được thực hiện nhằm giám sát, dự báo rủi ro tín dụng để có các biện pháp ngăn ngừa hoặc xử lý kịp thời. Kết quả đạt được trong năm 2004 cua ngân hàng ACB Sài Gòn càng đáng được trân trọng hơn, khi nền kinh tế Việt Nam trong năm qua bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á làm cho giảm phát mạnh. Vốn của các ngân hàng bị ứ đọng mạnh, nợ quá hạn tăng lên quá cao. Đặc biệt là sau vụ dân chúng đổ xô đi rút tiền tại ngân hàng Á Châu do nguồn tin đồn thất thiệt đã làm cho ngân hàng Á Châu gặp rất nhiều khó khăn. Đây tưởng chừng như đã là điều không thể vượt qua đối với một ngân hàng thương mại cổ phần, thế nhưng ACB đã vượt qua và đứng vững trước khó khăn này. Có thể nói ACB đã tích cực góp phần nâng cao hiệu quả của ngân hàng và thúc đẩy sản xuất kinh doanh trên địa bàn phát triển. Điều này không những đem lại nguồn lợi tài chính mà còn tạo ra tác động tích cực đến sự phát triển của xã hội. 2.8.2. Quy trình đánh giá rủi ro tín dụng của ACB. Một quy trình đánh giá rủi ro tín dụng là một công cụ quan trọng trong quản lý chất lượng tín dụng đối với từng khách hàng cũng như toàn bộ danh mục tín dụng. Hệ thống chấm điểm tín dụng giúp ACB đánh giá rủi ro tiềm tàng của từng khoản tín dụng trên phương pháp đánh giá bằng thang điểm. Sử dụng các thông tin định tính và định lượng liên quan đến khách hàng vay tiềm năng (hay hiện tại) để tính toán điểm tổng hợp. Hệ thống chấm điểm tín dụng giúp cho quá trình ra quyết định cấp tín dụng được thực hiện một cách nhanh chóng, khách quan, đồng thời ngân hàng sẽ theo dõi được những rủi ro tiềm tàng khi khoản vay có những biến động theo chiều hướng xấu thông qua các chỉ tiêu liên quan đến rủi ro tín dụng. Hệ thống chấm điểm tín dụng sử dụng trong các giai đoạn sau của quy trình tín dụng: Giai đoạn đánh giá tín dụng: đây là giai đoạn xem xét, đánh giá rủi ro tín dụng từ các đơn xin vay để từ đó xác định lãi suất, yêu cầu về tài sản đảm bảo và hạn mức tín dụng. Các đơn vay không thỏa các yêu cầu sẽ bị từ chối và cán bộ tín dụng không cần thực hiện thêm một thủ tục nào nữa. Quản lý từng khoản cho vay: việc cho điểm một khách hàng khi cho vay là cơ sở để cán bộ tín dụng có thể đánh giá tình trạng hiện tại của khách hàng vay. Quản lý toàn bộ danh mục cho vay: khi hệ thống cho điểm tín dụng được thực hiện một cách đầy đủ, đây sẽ là công cụ cho phép đánh giá chất lượng của toàn bộ danh mục tín dụng bằng cách phân loại theo điểm tín dụng. Như đã nói, việc chấm điểm tín dụng dựa vào những thông tin định tính và định lượng của khách hàng. Vì vậy phương pháp tính điểm sẽ phụ thuộc vào từng loại khách hàng có những thông tin khác nhau. Bảng chấm điểm tín dụng được lập bởi cán bộ tín dụng khi phân tích tín dụng. Bảng này dùng để lượng hoá các tiêu chí đánh giá về người đi vay và sau đó sử dụng các đánh giá định tính kết hợp với các đánh giá chuyên môn của cán bộ tín dụng để cho điểm tín dụng cuối cùng. Cơ sở dữ liệu để chấm điểm tín dụng là các báo cáo tài chính, các báo cáo quản lý. Các dữ liệu này đồng thời sẽ được lưu lại ngân hàng theo dõi khoản nợ sau khi cho vay. Để hiểu rõ hơn về quy trình chấm điểm tín dụng, xin vui lòng xem phần phụ lục đính kèm trong luận văn này. 2.9. QUY TRÌNH NHẬN VÀ XỬ LÝ HỒ SƠ VAY SINH HOẠT TIÊU DÙNG TẠI ACB-SG Chuẩn bị hồ sơ theo hướng dẫn, bổ sung (nếu có) Trả lại khách hàng Quan tâm đến sản phẩm KHÁCH HÀNG Không đạt - Hướng dẫn chuẩn bị hồ sơ - Lập giấy hẹn (nhận hồ sơ) - Ghi vào sổ nhận / CT vi tính - Nhập thông tin Giải ngân (Khi hoàn tất thủ tục và công chứng) Phỏng vấn, kiềm tra các điều kiện vay Đề nghị qua nhân viên Loan CSR BỘ PHẬN TIẾP XÚC KHÁCH đạt HÀNG Phân bổ cho boä phaän thaåm ñònh Tập hợp giấy hẹn (có sổ theo dõi hoặc chương trình vi tính) TRƯỞNG BỘ PHẬN TD CÁ NHÂN BOÄ PHAÄN Lập tờ trình, trình BTD - Thẩm định tài chính và TS thế chấp - Nhận hồ sơ THAÅM ÑÒNH Phê duyệt BAN TÍN DỤNG PHÁP LÝ Trả hồ sơ cho khách (hồ sơ bị từ chối) - Lập hđtd - Lập hđtc - Hẹn KH đi công chứng - Đăng kí GDĐB CHÚNG TỪ Quy trình cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Á Châu – Sài Gòn: Bước Khách hàng Phòng tín dụng Phòng kế toán Phòng ngân quỹ Giám đốc 1 Nhu cầu tín dụng Tìm hiểu và hướng dẫn khách hàng lập hổ sơ vay vốn 2 Tiếp nhận hồ sơ vay vốn 3 Thẩm định hổ sơ vay vốn của khách hàng Trình ký 4 Hoàn thiện hồ sơ Từ chối cho vay Nhận tài sản đảm bảo Không đồng ý Đồng ý Ký hợp đồng tín dụng với khách hàng Xem xét và quyết định cho vay 5 Giải ngân Hạch toán Giao tiền mặt 6 Theo dõi nợ vay, thu lãi và vốn vay 7 Thanh lý HĐTD PHẦN 3: NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG Á CHÂU – CHI NHÁNH SÀI GÒN. Để góp phần giúp hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam có thể hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh và để hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam tồn tại, hoạt động và phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế thị trường, nhất là trong giai đoạn hiện nay, đất nước tài sản đang trong xu hứơng “khu vực hoá” “toàn cầu hoá” và chuần bị gia nhập WTO, những cơ quan hữu quan phải phát huy tích cực và nhanh chóng vai trò của mình tạo một môi trường pháp lý thông thoáng và mang tính hỗ trợ thuận lợi cho hệ thống ngân hàng Việt Nam trong hoạt động kinh doanh và cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài 3.1 MỘT SỐ ĐỀ XUẤT THUỘC TẦM QUẢN LÝ VĨ MÔ CỦA NHÀ NƯỚC. _ Nhà nước cần sớm ban hành và hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động kinh doanh và phát triển nghiệp vụ của các ngân hàng thương mại. Cụ thể là cần mở rộng việc cấp tín dụng cho hộ kinh tế tư nhân (KTTN). Vì kinh tế tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, là bộ phận hợp thành hữu cơ quan trọng của nền kinh tế đất nước và ngày càng tỏ rõ sự năng động cũng như tính hiệu quả của nó trong nền kinh tế thị trường. Năm 1995, khu vực kinh tế tư nhân chỉ mới nhận được vốn từ hệ thống ngân hàng là 18.198 tỉ đồng; đến năm 1999 lưu lượng vốn đạt được 44.873 tỉ đồng, tăng 146% so với năm 1995; trong khi đó, tín dụng cho doanh nghiệp Nhà nước chỉ tăng 73%. Đến năm 1997, 1998, 1999 tỉ trọng vốn tín dụng cho khu vực KTTN trong tổng số vốn tín dụng cho các khu vực kinh tế khoảng 46% và từ năm 2000 - 2003 tỉ trọng này đã tăng lên đáng kể (năm 2000: 55,7%; năm 2001: 57,8%; năm 2002: 61,3%; năm 2003: 64,5% ; năm 2004 : 65,8%). Tuy nhiên, hiện nay KTTN đang gặp phải một cản trở rất lớn đến sự phát triển sản xuất kinh doanh và là hiện tượng phổ biến đối với toàn bộ các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN đó là tình trạng thiếu vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất. Thực tế những năm gần đây, số doanh nghiệp có vốn sử dụng dưới 10 tỷ đồng chiếm 94,93%, bình quân vốn thực tế sử dụng một doanh nghiệp là 3,7 tỷ đồng. Lao động bình quân của doanh nghiệp tư nhân là 26 người. Mức trang bị tài sản cố định trên 1 lao động của doanh nghiệp tư nhân chỉ có 34,7 triệu đồng. Chỉ tiêu hiệu quả của doanh nghiệp tư nhân rất thấp, tỷ suất lợi nhuận/ vốn rất thấp quá xa so với lãi suất ngân hàng, đặc biệt là của khu vực hộ cá thể còn thấp hơn nữa, chủ yếu là gia công (nếu sản xuất) hoặc đại lý (nếu bán hàng) nên lấy công làm lãi là chính. Điều này chứng tỏ khả năng tích tụ và huy động vốn của KTTN trong toàn xã hội còn thấp. Lượng vốn tự có của các doanh nghiệp chỉ đáp ứng từ 20% đến 30% yêu cầu. Các doanh nghiệp thiếu vốn dẫn đến việc họ không có điều kiện đầu tư khoa học công nghệ hiện đại. Nhiều nhà doanh nghiệp ban đầu có ý định phát triển sản xuất nhưng do thiếu vốn nên đã gặp nhiều khó khăn lúng túng trong việc triển khai và nhiều khi họ phải hủy bỏ hợp đồng đã ký với đối tác. Điều đó giải thích tại sao khu vực KTTN thường tập trung vào lĩnh vực thương mại dịch vụ, những ngành nghề đòi hỏi vốn ít, thời gian thu hồi vốn nhanh, thu lãi ngay chứ chưa đủ sức đầu tư vào những ngành nghề, lĩnh vực quan trọng đòi hỏi nhiều vốn, có công nghệ tiên tiến. Mặc dù khu vực kinh tế tư nhân vay vốn ngân hàng ngày càng tăng, nhưng nhìn chung việc tiếp cận vốn từ khu vực ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn còn không ít khó khăn Một vấn đề cần quan tâm và lưu ý ở đây là Nhà nước chưa quan tâm hỗ trợ đúng mức đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ; kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể còn khó tiếp cận với nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước và vốn tín dụng của ngân hàng thương mại Nhà nước”. Để phần nào khắc phục được tình hình trên về tín dụng để khu vực KTTN phát triển, phát huy vai trò tích cực trong nền kinh tế nước ta thì theo em cần có một số giải pháp như sau: +Thứ nhất, phải xoá bỏ mặc cảm về thành phần kinh tế; nghiên cứu bỏ cụm từ: “thành phần kinh tế”. Các đơn vị thuộc khu vực KTTN, đặc biệt là kinh tế hộ và cá thể phải tự mình tìm giải pháp thoát ra khỏi cảnh thiếu thốn, đói nghèo và thực hiện các biện pháp tạo vốn, đầu tư mở rộng sản xuất - kinh doanh theo hướng nâng cao năng suất và chất lượng. +Thứ hai, Nhà nước cần hoàn thiện cơ sở pháp lý để: * Tạo sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, tạo cho khu vực KTTN (trong đó có các doanh nghiệp) được bình đẳng trong việc tiếp cận vốn, bình đẳng về lãi suất (trong đó có ưu đãi cho diện chính sách xã hội). * Xem xét về chính sách thuế hiện tại, có thể áp dụng biểu thuế suất luỹ tiến từng phần, đối với thuế thu nhập doanh nghiệp. Mở rộng diện ưu đãi đối với các doanh nghiệp mới thành lập; thực hiện chính sách thuế ưu đãi trong xuất khẩu; tiếp tục cải cách hành chính về thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, tạo thuận lợi cho các đơn vị ngoài quốc doanh... * Tạo cơ sở pháp lý để khu vực KTTN đảm bảo các điều kiện vay vốn ngân hàng và trên cơ sở đó ngân hàng yên tâm cho vay vốn. * Tiến hành sắp xếp lại để các đơn vị thuộc khu vực KTTN, trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ lành mạnh về tổ chức, về tài chính, đủ điều kiện về hạch toán kế toán, thống kê. Thực hiện tốt việc kiểm soát nội bộ, tiến tới thực hiện kiểm toán độc lập theo định kỳ... qua đó tạo sự minh bạch với xã hội và lòng tin đối với ngân hàng và nhà đầu tư. * Có biện pháp giảm thiểu tối đa tình trạng hình sự hóa quan hệ tín dụng sẽ là điều kiện để các ngân hàng tăng cường cho các đối tượng của KTTN vay vốn có thế chấp hoặc tín chấp. +Thứ ba, các ngân hàng thương mại một mặt mở rộng kinh doanh đến mọi đối tượng thuộc khu vực KTTN, đặc biệt chú trọng khu vực nông nghiệp và nông thôn; vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn để mọi người, mọi đơn vị dễ tiếp cận với vốn ngân hàng. Mặt khác, cần có chính sách đào tạo và đào tạo lại nhằm cập nhật nâng cao kiến thức trình độ cho cán bộ, nhân viên. Đặc biệt cần nâng cao trình độ thẩm định các dự án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó làm cơ sở để ngân hàng cho vay vốn có hiệu quả. +Thứ tư, làm mạnh mẽ hơn cải cách hành chính theo hướng đơn giản hóa thủ tục để các đối tượng có thể vay vốn một cách nhanh chóng, kịp thời triển khai các phương án hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác, cần tăng cường các dịch vụ thanh toán, bảo lãnh, tư vấn cho KTTN. +Thứ năm, thúc đẩy nhanh việc triển khai hoạt động các quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. +Thứ sáu, hoàn thiện chính sách kế toán, kiểm toán như: xây dựng chuẩn mực kế toán doanh nghiệp Việt Nam theo chuẩn mực quốc tế; bổ sung, sửa đổi để hoàn thiện Chế độ kế toán đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ... Việc dỡ bỏ những vướng mắc giữa ngân hàng và KTTN, khai thông thế bế tắc của tình trạng “đơn vị thiếu vốn, trong khi ngân hàng không cho vay được” sẽ là một yếu tố quan trọng thúc đẩy KTTN phát triển, đóng góp nhiều hơn nữa vào công cuộc CNH - HĐH của đất nước. Duy trì nền kinh tế phát triển ổn định, vững chắc;Khuyến khích việc hình thành và phát triển các thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán tạo tiền đề thúc đẩy cải tiến và đổi mới công nghệ ngân hàng Việt Nam, từng bước hội nhập vào nền tài chính thế giới _ Thực tế có hiện tượng lập hồ sơ tài sản đảm bảo được công chứng giả để đi vay tiền ở nhiều ngân hàng khác nhau, đến khi sự việc đổ bể ngân hàng không thể thu hồi được vốn cho vay. Bên cạnh đó là hiện tượng trốn thuế, gian lận thuế, nhất là thuế VAT, thuế xuất nhập khẩu… Những hiện tượng trên sẽ là những rủi ro rất lớn cho ngân hàng nếu như những khách hàng vay vốn ngân hàng có dính liếu tới hiện tượng trên. Do đó, chính phủ, ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại phải phối hợp với nhau thực hiện công tác phòng chống nguy cơ rủi ro. Có thể là các ngân hàng có biện pháp thống nhất như không chấp nhận cầm cố giấy tờ công chứng làm biện pháp đảm bảo cho tài sản cho vay. Hay có thể nghĩ đến việc thiết lập một hệ thống mạng vi tính liên thông giữa các ngân hàng với nhau nhằm loại trừ tất cả những tình huống gian lận của những chủ thể đi vay. Và nhà nước có thể ban hành một khung hình phạt nặng nề đối với những ai có hành vi cố tình lừa đảo để vay tiền ngân hàng. _ Cần ban hành chế độ kiểm toán bắt buộc, trước mắt là các doanh nghiệp lớn, các dự án lớn cần phải tiến hành công tác kiểm toán bắt buộc, cung cấp thông tin giữa ngân hàng và các cơ quan nhà nước, áp dụng kỷ luật trong lập báo cáo và cung cấp thông tin. _ Nhà nước nên tạo điều kiện tăng cường và mở rộng hoạt động của ngành bảo hiểm. Cần phải đa dạng hoá các sản phẩm của ngành bảo hiểm góp phần hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, chẳng hạn như bảo hiểm tiền gửi, bảo hiểm tiền vay, bảo hiểm tài sản đảm bảo nợ vay và bảo hiểm cho chính những khoản vay của các ngân hàng. Mặt khác, phải có những quy định bắt buộc các ngân hàng thương mại và khách hàng tham gia bảo hiểm cho những khoản tín dụng có rủi ro cao. _ Cho phép các ngân hàng tự bán các tài sản đảm bảo để xử lý nợ quá hạn không phải qua trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản khi có sự thoả thuận giữa ngân hàng và bên bảo đảm trong việc xử lý nợ quá hạn. Dĩ nhiên là sự cấp phép này vẫn phải đảm bảo được quyền lợi của khách hàng, có thể quy định là trong khoảng thời gian bao lâu sau khi người vay không thể hoàn trả món nợ thì ngân hàng mới được tự bán các tài sản đảm bảo để xử lý nợ, tài sản đem bán phải được định giá một cách chính xác theo giá thị trường vào thời điểm đem bán. _ Chính phủ cần có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các ngân hàng thương mại trong việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới của nền kinh tế đất nước. Chẳng hạn như nhà nước có những chính sách ưu đãi về đầu tư trong nước, về đầu tư hiện đại hoá kỹ thuật công nghệ để phát triển các dịch vụ ngân hàng quan trọng và cần thiết, cho ngân hàng thương mại vay vốn dài hạn để đầu tư, nâng cấp hệ thống thông tin liên thông giữa các ngân hàng, cho phép tăng vốn điều lệ hoặc cấp vốn cho ngân hàng thương mại đầu tư công nghệ hiện đại. 3.2 ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC. Ngân hàng nhà nước cần phải nhanh chóng hoàn thiện các quy chế, thể lệ cũng như những luật lệ liên quan đến các hoạt động của ngân hàng, phải tạo một môi trường pháp lý thuận lợi để các tổ chức tín dụng hoạt động. Ngân hàng nhà nước cần giải quyết những vấn đề sau: - Thống đốc ngân hàng nhà nước cần ban hành những chỉ thị để bổ sung và khắc phục kịp thời một số điều cần sửa đổi liên quan đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhằm đáp ứng kịp thời nhanh chóng nhu cầu của khách hàng. Củng cố, đồng thời tăng cường các quy chế quản lý kinh doanh tiền tệ. Đây là một việc rất cần thiết vì quy chế kinh doanh tiền tệ là một hệ thống đảm bảo an toàn cho vay, chúng quán triệt trong tất cả hoạt động của tất cả các ngân hàng, là định hướng cho các tác nghiệp của ngân hàng. Hoàn thiện các quy chế về cầm cố, thế chấp, bảo lãnh vay vốn ngân hàng. Quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan hành chính trong các công việc liên quan đến thế chấp,cầm cố như quản lý tài sản, quản lý đất đai, quản lý vốn… Đưa ra những chuẩn mực đánh giá chất lượng tín dụng,trong đó có tiêu chuẩn về đảm bảo tiền vay để từ đó đề ra mức rủi ro cho phép đối với mỗi ngân hàng. Hình thành và sử dụng các quỹ dự phòng bù đắp rủi ro một cách hợp lý và phù hợp với tình hình thực tiễn nước ta. Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC). Sau hơn 10 năm thành lập, CIC đã đạt được một số thành tựu quan trọng, góp phần hạn chế được rủi ro tín dụng cho các ngân hàng thương mại, nhưng vẫn còn những mặt hạn chế cần khắc phục: Tính chính xác, đầy đủ, kịp thời của thông tin chưa cao. Chưa thu thập được dư nợ của khách hàng vay tại các tổ chức như Kho bạc nhà nước, Quỹ hỗ trợ đầu tư. Việc thu thập thông tin tài chính của doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn. Để khắc phục những hạn chế, CIC cần phải: Đẩy nhanh mạnh việc áp dụng khoa học công nghệ trong hoạt động thông tin tín dụng đối với tất cả các khâu: thu thập, xử lý, phân tích, dự báo và cung cấp thông tin. Hoàn thiện tổ chức bộ máy và cán bộ của Trung tâm thông tin tín dụng, tăng cường nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Phối hợp với Ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng, các tổ chức thông tin trong và ngoài nước để nâng cao chất lượng thông tin. Ngân hàng nhà nước cần phải tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng, thực hiện thường xuyên công tác thanh tra kiểm soát dưới nhiều hình thức để kịp thời phát hiện và ngăn chặn những vi phạm tiêu cực trong hoạt động tín dụng, kịp thời phát hiện và khắc phục rủi ro, lành mạnh hoá các ngân hàng thương mại, đưa hoạt động tín dụng của ngân hàng vào đúng quỹ đạo pháp luật. Mở rộng đối tượng cho vay ngọai tệ để thanh tóan hàng nhập khẩu, mở rộng cho vay các doanh nghiệp xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có thanh tóan hàng hóa đối với các doanh nghiệp trong khu chế xuất. Cần có cơ chế cho vay đặc thù đối với các doanh nghiệp trong khu chế xuất – khu công nghiệp. Ngân hàng Nhà Nước nghiên cứư trình Quốc hội đưa vào luật các tổ chức tín dụng nội dung quyền được trực tiếp phát mãi tài sản của bên cho vay trong quá trình thu hồi nợ. Tóm lại, trong quá trình hội nhập của nước ta hiện nay. Chính phủ và ngân hàng Nhà nước với vai trò và nhiệm vụ của mình phải kết hợp với nhau thành một thể thống nhất thực hiện các giải pháp trên nhằm góp phần hạn chế rủi ro trong họat động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại đồng thời ghúp các Ngân hàng thương mại Việt Nam đứng vững trong cạnh tranh và ngày càng phát triển. 3.3 NHỮNG GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG Á CHÂU. 3.3.1.Tăng cường các biện pháp phù hợp để xử lý và thu nợ quá hạn, nợ có vấn đề: Khi có khỏan nợ chuyển sang nợ qúa hạn, ngân hàng cần thường xuyên đôn đốc khách hàng trả nợ đồng thời tìm hiểu nguyên nhân tại sao khách hàng không trả được nợ đúng hạn và thái độ của khách hàng như thế nào? Biết được nguyên nhân, Ban xử lý nợ cần có những biện pháp phù hợp tạo điều kiện cho khách hàng khôi phục khả năng trả nợ: Nếu khách hàng đang gặp tình trạng khó khăn tạm thời về tài chính hay tình hình họat động sản xuất kinh doanh, chẳng hạn như: thua lỗ do giá thị trường biến động ngòai dự kiến, sản lượng và doanh thu đạt mức thấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc do ngân hàng định kỳ hạn trả nợ không đúng với chu kỳ kinh doanh. Ngân hàng có thể gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ, hay giản nợ cho khách hàng hoặc tham gia tư vấn góp phần giúp khách hàng tháo gỡ khó khăn. Trong những trường hợp đặc biệt, Ngân hàng có thể “tiếp sức giúp khách hàng vượt cạn”. Nhưng truờng hợp này, Ngân hàng phải hiểu rất rõ về tình hình hiện tại của khách hàng thì mới áp dụng cách xử lý này. Sau khi thoát khỏi khó khăn, khách hàng sẽ khôi phục khả năng trả nợ và sẽ có mối quan hệ lâu dài với Ngân hàng – ân nhân của mình. Ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng gia tăng thêm tài sản đảm bảo. Mặc dù tài sản đảm bảo không phải là nguồn thu nợ chính nhưng trong trường hợp không thu được nợ thì tài sản bảo đảm sẽ góp phần khắc phục những thiệt hại của ngân hàng. Tuy nhiên việc thanh lý tài sản đảm bảo trên thị trường không phải là dễ, nhất là những tài sản có giá trị lớn. Khách hàng không trả được nợ do những nguyên nhân mất khả năng thanh tóan, có biểu hiện vi phạm pháp luật như lừa đảo, sản xuất kinh doanh trái ngành nghề đăng ký… thì ngân hàng cần phải có những biện pháp mạnh để thu hồi nợ: Phát mãi tài sản đảm bảo. Xem xét các yếu tố liên quan đến nguồn tiền mặt để có giải pháp thu nợ thích hợp. Chẳng hạn, buộc khách hàng bán những sản phẩm hàng hóa dễ thu tiền mặt… tìm cách tăng khả năng thanh khỏan của khách hàng tạo điều kiện trả nợ cho ngân hàng. Ngân hàng tiến hành kiện ra tòa đối với những khỏan nợ không còn biện pháp thu hồi. Đối với những khỏan vay có vấn đề nghĩa là chưa đến hạn trả nợ nhưng ngân hàng phát hiện khách hàng có nguy cơ không trả được nợ thì ngân hàng cần tiến hành giám sát, theo dõi những khỏan vay ấy một cách thường xuyên, nhắc nhở và đôn đốc trách nhiệm trả nợ của khách hàng, yêu cầu tăng thêm vốn đầu tư của chủ sở hữư. Trường hợp ngân hàng có bằng chứng chứng minh khách hàng không cón khả năng trả nợ thì có thể áp dụng các biện pháp trên để thu hồi nợ. Những dấu hiệu mà cán bộ tín dụng có thể thấy rủi ro đang phát sinh đối với những khỏan vay đó: Khách hàng chậm trễ trong việc nộp các báo cáo tài chính. Thay đổi kế họach kinh doanh một cách đột ngột. Không thực hiện đúng các điều khỏan ký trong hợp đồng. Liên tục yêu cầu ngân hàng hõan nợ. Chậm trễ trong việc thanh tóan cho nhà cung cấp, cho các chủ nợ khác, trả lương cho nhân viên. Bán tài sản một cách bất thường. Tránh gặp mặt nhân viên ngân hàng khi đến kỳ thu nợ. Khi ngân hàng phát hiện ra những dấu hiệu trên phải tiến hành kiểm tra, giám sát những khoản cho vay ấy kỹ càng đồng thời vạch ra biện pháp phù hợp và kịp thời để thu hồi nợ hạn chế rủi ro. 3.3.2. Đa dạng hóa danh mục đầu tư tín dụng để phân tán rủi ro. Đa dạng hóa danh mục tín dụng theo khách hàng, theo ngành nghề, theo sản phẩm tín dụng. Vì khách hàng khác nhau, ngành nghề khác nhau, sản phẩm tín dụng khác nhau đều thể hiện mức độ rủi ro khác nhau. Ngân hàng cần so sánh danh mục tín dụng với chiến lược tín dụng cần đạt được. Không thể nào triệt tiêu rủi ro vĩnh viễn, chỉ có thể chấp nhận rủi ro ở mức thấp nhất so với mục tiêu đề ra và phải đạt được. Ngân hàng phải giám sát và phân tích danh mục tín dụng để phát hiện xem có hiện tượng tập trung danh mục tín dụng hay không để có biện pháp phân tán nhằm giảm thiểu rủi ro. Vì nếu danh mục tập trung càng nhiều khỏan tín dụng có rủi ro cao thì khả năng gây thất thoát cho ngân hàng càng lớn. Ngân hàng có thể hạn chế rủi ro do tập trung tín dụng trong danh mục bằng cách đánh giá thường xuyên rủi ro trong từng thị trường , từng ngành nghề , từng vị trí địa lý, từng sản phẩm, hình thức thế chấp đảm bảo, lọai tiền tệ…để có được cái nhìn về mức độ rủi ro trong danh mục và có hướng đầu tư phù hợp đảm bảo duy trì một danh mục tín dụng đa dạng hóa hạn chế thấp nhất rủi ro phù hợp với mục tiêu cần đạt. Khi phát hiện có hiện tượng tập trung tín dụng, ngân hàng cần tiến hành một số biện pháp để giảm bớt sự tập trung: Tăng lãi suất đối với khách hàng vay có tập trung tín dụng. Yêu cầu tăng thêm tài sản đảm bảo đối với khách hàng vay có tập trung tín dụng. Sử dụng biện pháp cho vay hợp vốn, cho vay đồng tài trợ để giảm bớt sự tập trung vốn tín dụng vào một ngành nghề, một khu vực kinh tế, một nhóm khách hàng nhất định. Không tiếp tục cấp tín dụng, không gia hạn để giảm dần dư nợ cho vay ở lĩnh vực đang có hiện tượng tập trung tín dụng. 3.3.3 Tăng cường công tác thẩm định khách hàng, thẩm địng tài sản đảm bảo nợ vay. Ngân hàng cần nâng cao khả năng thu thập và phân tích thông tin của nhân viên tín dụng. Khi thẩm định khách hàng, cán bộ tín dụng cần có một lượng thông tin đủ và chính xác để phân tích một cách chính xác về khách hàng. Thông tin có thể lấy trực tiếp từ người vay, khách hàng của người vay, đối thủ cạnh tranh của người vay, từ hàng xóm láng giềng của người vay, từ CIC, … Cán bộ tín dụng cần phải tới thăm trụ sở, nhà xưởng, cơ sở sản xuất của khách hàng để trực tiếp thấy được tình hình hiện tại, tiềm năng tương lai, nhu cầu tài chính và tư cách của khách hàng mà mình sẽ hoặc đang có quan hệ tín dụng. Công việc này rất quan trọng và thiết thực vì nó giúp cho cán bộ tín dụng bằng khả năng nghiệp vụ của mình có thể cảm nhận được mức độ rủi ro của khỏan cho vay. Áp dụng tiêu chuẩn 5C để tiến hành phân tích một khỏan tín dụng. Truớc khi quyết định cấp tín dụng, nhân viên phân tích phải phân tích uy tín, nguồn trả nợ của khách hàng thông qua các báo cáo tài chính, báo cáo lưư chuyển tiền tệ, chiến lược kinh doanh, khả năng quản lý cũng như kinh nghiệm của ban lãnh đạo của đối tượng xin vay. Qua phân tích sẽ cho ngân hàng đánh giá nguồn thu hồi nợ có chắc chắn không, mức độ rủi ro thấp hay cao. Đối với đầu tư cho vay vào dự án, nhân viên phân tích cần phân tích xem dự án có khả thi không, có phù hợp với chính sách của Nhà nước không, đầu ra của sản phẩm trên thị trường như thế nào để có định hướng nguồn thu nợ sau này. 3.3.4.Thiết lập hệ thống giám sát từng khỏan cho vay và cả danh mục tín dụng một cách thường xuyên nhằm phát hiện sớm những dấu hiệu cảnh báo để có biện pháp khắc phục kịp thời. Bộ phận giám sát của ngân hàng cần phải chủ động quản lý các khỏan cho vay một cách chặt chẽ để đảm bảo và củng cố khả năng trả nợ của khách hàng. Giám sát họat động sản xuất kinh doanh, tình hình sử dụng vốn vay có đúng mục đích không, giám sát những biến động của thị trường đối với khả năng trả nợ, giám sát sự thay đổi trong thành phần ban lãnh đạo… Công tác giám sát nhằm mục đích ngăn ngừa rủi ro phát sinh chứ không để rủi ro xuất hiện rồi tìm cách khắc phục. Sau khi quyết định cấp tín dụng, công việc quan trọng nhất còn lại của nhân viên tín dụng là theo dõi, giám sát các khỏan nợ. Công tác giám sát tín dụng nhằm mục đích: Ngân hàng cập nhật và biết được tình hình tài chính của khách hàng vay. Đảm bảo rằng các khỏan cho vay đều tuân thủ đúng các điều khỏan trong hợp đồng tín dụng. Đảm bảo rằng khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích. Đảm bảo rằng khách hàng sẽ trả được nợ đúng hạn đồng thời có biện pháp kịp thời, phù hợp để thu nợ khi phát hiện ra khách hàng không thể trả nợ đầy đủ và đúng hạn. Đảm bảo rằng gái trị tài sản đảm bảo vẫn đủ khả năng đảm bảo cho khỏan vay của khách hàng. 3.3.5 Nâng cao trình độ chuyên môn cũng như đạo đức trách nhiệm của nhân viên tín dụng trong công việc. Nhân tố con người vẫn là trên hết, mọi biện pháp phòng ngừa xử lý đều do tư duy có cơ sở của con người mà ra. Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ là rất quan trọng vì một đội ngũ nhân viên lành nghề và có trách nhiệm cũng là tài sản vô giá của ngân hàng. Nhân viên tín dụng là rào cản đầu tiên hạn chế rủi ro phát sinh, nhân viên có trình độ chuyên môn càng cao và kinh nghiệm thực tiễn càng nhiều thì công tác thẩm định và phân tích tín dụng càng hạn chế rủi ro hơn. Cần bố trí cán bộ nhân viên trên tinh thần đúng người đúng việc, hình thành mạng lưới quản trị, tham mưu, thừa hành giỏi vể nghiệp vụ từ đó tổ chức nên một hệ thống thật sự có hiệu quả với độ an tòan cao. Giải pháp cho vấn đề này là lập ra một hệ thống tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, thâm niên kinh nghiệm, phẩm chất cá nhân cho từng chức danh cụ thể. Khi đó việc bổ nhiệm cán bộ đã có tiêu chuẩn để xét duyệt nhằm đảm bảo yêu cầu công tác. Bên cạnh việc nâng cao trình độ chuyên môn, ngân hàng cần phải có chế độ thưởng phạt thích đáng để khuyến khích nhân viên làm tròn trách nhiệm của mình và vì lợi ích của ngân hàng. Tránh trường hợp nhân viên thông đồng với khách hàng gây thiệt hại cho ngân hàng. 3.3.6 Xây dựng chiến lược Marketing tín dụng nhằm mục đích mở rộng qui mô tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng ở mức thấp nhất có thể được. Ngân hàng nên chủ động tìm khách hàng nhằm lựa chọn những khách hàng có uy tín, làm ăn kinh doanh có hiệu quả để thiết lập quan hệ tín dụng. Việc tìm kiếm khách hàng và tìm hiểu thông tin về khách hàng trước như vậy sẽ giúp ngân hàng biết được một số thông tin cơ bản về khách hàng (doanh nghiệp có thật hay doanh nghiệp “ma”; doanh nghiệp có vi phạm pháp luật ở hiện tại hay trong quá khứ không), từ đó ngân hàng chấp nhận hay từ chối quan hệ tín dụng khi khách hàng đó có nhu cầu. Ngân hàng sẽ hạn chế được rất nhiều rủi ro trong quan hệ tín dụng. Ngân hàng nên thường xuyên tổ chức hội nghị khách hàng để quảng bá các sản phẩm tín dụng một cách hiệu quả. Công việc này vừa giúp ngân hàng mở rộng được qui mô tín dụng vừa đảm bảo được chất lượng tín dụng hạn chế được rủi ro. 3.3.7. Phát huy tác dụng của hệ thống chấm điểm tín dụng để hỗ trợ cho công tác thẩm định và ra quyết định cấp tín dụng đúng và chính xác. Hệ thống chấm điểm tín dụng của ACB là một công cụ quản lý chất lượng đối với từng khách hàng vay cũng như tòan bộ danh mục tín dụng. Nó giúp ngân hàng trong việc đánh giá rủi ro của từng khoản tín dụng. Hệ thống chấm điểm tín dụng của ACB là một phần mềm Excel và nhân viên chỉ cần nhập đầy đủ các thông tin cần thiết là phần mềm sẽ tự động chấm điểm và ra quyết định cấp tín dụng. Do vậy thông tin làm cơ sở dữ liệu cho việc chấm điểm tín dụng cũng đóng vai trò rất quan trọng, phải hết sức chính xác, cập nhật và đầy đủ. Muốn như thế công tác thu thập và phân tích thông tin phải được thực hiện theo một qui trình chặt chẽ và logic. Đến thăm thực địa của khách hàng để có sự xem xét và so sánh giữa những gì thấy được và những đánh giá trong quá trình phân tích thông tin. Kết hợp giữa phân tích tài liệu và đánh giá thực tế sẽ giúp nhân viên tín dụng có cái nhìn đầy đủ hơn về mức độ rủi ro, khả năng trả nợ… của khách hàng nhằm ra quyết định đúng đắn và phù hợp đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và hạn chế được rủi ro cho ngân hàng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng á châu –chi nhánh sài gòn.doc
Luận văn liên quan