Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế mở ra rất nhiều cơ hội phát triển cho các quốc
gia đồng thời cũng mang lại không ít khó khăn và thách thức. Theo xu hướng tự
do hoá thương mại, các rào cản thương mại chủ yếu là các rào cản thuế quan và
một số rào cản phi thuế khác sẽ được dỡ bỏ tạo điều kiện tiếp cận và mở rộng thị
trường cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên không phải các doanh nghiệp sẽ không
gặp khó khăn gì khi tiếp cận và thâm nhập các thị trường nước ngoài bởi các quốc
gia đang có xu hướng sử dụng một loại rào cản thương mại mới: rào cản kỹ thuật
để thay thế cho các rào cản đã bị xoá bỏ. Rào cản kỹ thuật là một hình thức rào
cản thương mại rất tinh vi, phức tạp và rất khó vượt qua ngay cả đối với doanh
nghiệp của các nước phát triển.
102 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4132 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rào cản kỹ thuật trong thương mại của một số nước công nghiệp phát triển và các biện pháp giúp Việt Nam vượt rào cản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng
này sẽ đóng vai trò chủ chốt giúp đẩy mạnh xuất khẩu của nước ta.
Thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong hơn 15 năm qua cũng có nhiều thay
đổi. Trước đây, thị trường xuất khẩu chủ yếu của chúng ta là Liên Xô và các nước
Năm 1998 1999 2000 2001 2002
Giá trị
(triệu USD)
9.360 11.541 14.483 15.029 16.705
(9) Giáo trình Kinh tế Ngoại thương, GS. Bùi Xuân Lưu, ĐH Ngoại thương, 2001
(10) Chỉ thị 22/2000/CT-TTg, ngày 27/10/2000 của Chính phủ
(11) Xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam, Tổng cục Thống kê, NXB Thống kê,
2002
xã hội chủ nghĩa Đông Âu.Khi khối xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã và rơi vào
khủng hoảng thì Việt Nam mất đi thị trường xuất khẩu chủ lực và gặp nhiều khó
khăn. Tuy nhiên, chúng ta đã nhanh chóng chuyển hướng, tiếp cận và thâm nhập
những thị trường mới, nhờ đó mà xuất khẩu của chúng ta thoát khỏi khủng
khoảng và có những bước phát triển mới. Thị trường châu Á và châu Âu chiếm tỷ
lệ ngày càng cao trong cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong khi các
nước Đông Âu và các nước thuộc Liên Xô cũ lại giảm mạnh vào những năm 80
và nửa đầu những năm 90. Xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thuộc châu
Mỹ, châu Đại Dương cũng ngày càng tăng. Trong thời gian tới, châu Á được xác
định là thị trường xuất khẩu chủ lực của chúng ta, đồng thời, chúng ta vẫn tiếp tục
đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường châu Âu và châu Mỹ. Chúng ta đặt mục
tiêu trong giai đoạn 2000-2010, xuất khẩu của nước ta sang các thị trường châu Á
sẽ chiếm 45% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, tỷ lệ xuất khẩu sang
châu Âu và châu Mỹ đều là 25% (10).
Nhìn chung, trong hơn 15 năm qua, xuất khẩu Việt Nam đã đạt được khá nhiều
thành tựu, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất
nước. Và trong những năm tới, đẩy mạnh xuất khẩu vẫn được Đảng và Nhà nước
ta xác định là hướng phát triển chiến lược của nước ta.
2. Những thách thức đối với xuất khẩu của Việt Nam trước rào cản kỹ thuật từ các thị
trường nhập khẩu
Tuy xuất khẩu Việt Nam trong những năm qua đạt được một số thành tích nhất
định nhưng hiện nay, trước xu hướng phát triển mới của thương mại quốc tế, đặc
biệt là xu hướng tăng cường sử dụng các rào cản kỹ thuật đối với thương mại của
các nước công nghiệp phát triển thì xuất khẩu của Việt Nam sẽ gặp không ít khó
khăn.
Xuất khẩu của nước ta hiện nay vẫn dựa chủ yếu vào nhóm hàng có nguồn gốc
thiên nhiên, giá trị gia tăng thấp và phải chịu nhiều các quy định về môi trường và
(10) Chỉ thị 22/2000/CT-TTg, ngày 27/10/2000 của Chính phủ
an toàn vệ sinh của các thị trường nhập khẩu. Cụ thể là hàng xuất khẩu thô và sơ
chế vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu xuất khẩu (năm 2000, tỷ lệ là 44,2%).
Đây là nhóm hàng có nguồn gốc đa dạng sinh học mà việc khai thác chế biến có
nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường, làm mất đi nguồn đa dạng sinh học, tài
nguyên không tái tạo dễ bị các nước hạn chế nhập khẩu vì lý do bảo vệ môi
trường. Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay thì đại
bộ phận là các mặt hàng có nguồn gốc thiên nhiên như thuỷ sản, dầu thô, gạo, cà
phê, rau quả mà việc khai thác, chế biến đang gặp phải các giới hạn về môi
trường như làm thu hẹp diện tích rừng, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm nguồn nước
và đa dạng sinh học. Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay như gạo,
đồ uống, cà phê, rau quả, thuỷ sản, khoáng sản… đang gặp những rào cản kỹ
thuật rất lớn liên quan đến tiêu chuẩn của sản phẩm như tiêu chuẩn và quy định
về vệ sinh an toàn thực phẩm, quá trình chế biến, chất lượng hàng hoá, nhãn môi
trường, bao bì, đóng gói… Kể cả các mặt hàng chế biến đang có kim ngạch ngày
càng tăng như dệt may, giày da, chế biến thuỷ sản…cũng có thể gặp phải các rào
cản kỹ thuật từ các thị trường do công nghệ của chúng ta hiên nay còn thấp kém
so với thế giới.
* Khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn quốc tế của một số mặt hàng xuất
khẩu của Việt Nam
Hàng thuỷ sản: Đến nay, tuy thuỷ sản Việt Nam đã lần lượt vượt qua các rào cản
của EU và cũng được các thị trường khó tính khác như Nhật Bản, Mỹ, Australia
chấp nhận nhưng việc xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vẫn còn gặp phải nhiều
khó khăn trong việc đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm. Chỉ có 78
trong số 264 cơ sở chế biến thuỷ sản chiếm 80% lượng thuỷ sản xuất khẩu được
Bộ thuỷ sản công nhận đạt tiêu chuẩn ngành về điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm còn lại các cơ sở khác đang sản xuất trong điều kiện không đảm bảo
vệ sinh. Công nghệ chế biến và bảo quản sản phẩm thuỷ sản còn lạc hậu do đó
khó có thể đáp ứng các tiêu chuẩn cao về chất lượng cũng như vệ sinh của các thị
trường.
Mặt hàng thịt: Hàng thịt xuất khẩu của Việt Nam mới tiếp cận được những thị
trường có tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm thấp, chưa vào được những thị
trường khó tính như EU, Nhật Bản, Mỹ…Lý do là thịt của nước ta chưa đáp ứng
các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của nước nhập khẩu. Chăn nuôi còn
theo cách thủ công, không tuân thủ các quy định về chế độ ăn uống, chăm sóc y
tế. Khâu chế biến còn lạc hậu, hệ thống quy định về thú y chưa phù hợp với thông
lệ quốc tế. Một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất liên quan đến xuất khẩu
thịt là HACCP. Đây là tiêu chuẩn bắt buộc đối với mặt hàng thịt. Theo báo cáo
của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, đến nay, chưa có một nhà máy nào
của ta được cấp chứng chỉ về tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.
Cà phê: Mặc dù hệ thống tiêu chuẩn của cà phê Việt Nam hiện nay tương đối
hoàn chỉnh nhưng chất lượng cà phê chưa cao do quá trình chăm sóc, thu hái,
phơi sấy, chế biến và đóng gói chưa tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật và
tiêu chuẩn chất lượng. Vệ sinh công nghiệp trong các xưởng chế biến còn yếu.
Một vấn đề cần được đặc biệt quan tâm là độ ẩm của cà phê trong bảo quản, vận
chuyển. Ngành cà phê cần cố gắng hoàn thiện rất nhiều để có thể đáp ứng các yêu
cầu của thị trường nhập khẩu.
Rau quả: Hiện nay, rau quả của Việt Nam mới xuất khẩu chủ yếu sang Trung
Quốc vì các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm và các tiêu chuẩn môi trường
còn dễ dãi. Hàng rau quả xuất sang EU, Nhật Bản, Mỹ, Australia còn rất hạn chế.
Thậm chí ngay trong nước nhu cầu rau quả sạch cũng rất lớn nhưng các nhà sản
xuất cũng chưa đáp ứng được. Thách thức lớn nhất đối với mặt hàng này hiện nay
là các tiêu chuẩn về môi trường, vệ sinh và mức dư lượng các chất kháng sinh
trong sản phẩm.
Ngoài những mặt hàng kể trên thì các mặt hàng xuất khẩu khác của nước ta như
da giày, dệt may, thủ công mỹ nghệ…cũng gặp phải các rào cản kỹ thuật từ phía
thị trường nhập khẩu phát triển.
Các thị trường xuất khẩu chủ yếu của nước ta lại là các nước công nghiệp phát
triển như EU, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc…Hiện nay, xuất khẩu của Việt Nam sang các
thị trường này chiếm tỷ trọng rất lớn trong kim ngạch xuất khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam theo thị trường
Đơn vị: triệu USD
2000 2001 2002
Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ
EU 2845,1 19,6% 3002,9 20,0% 3149,9 18,9%
Nhật Bản 2575,2 17,8% 2509,8 16,7% 2438,1 14,6%
Mỹ 723,8 5,1% 1065,3 7,1% 2421,1 14,5%
Tổng
KNXK
14483,0 100,0% 15029,0 100,0% 16705,0 100,0%
Nguồn: Niên giám thống kê 2002, NXB Thống kê, 2003
Những thị trường xuất khẩu chủ yếu của nước ta là những thị trường khó tính, có
đòi hỏi cao đối với hàng nhập khẩu và thường dùng các rào cản kỹ thuật để hạn
chế nhập khẩu. Do đó, Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc đẩy mạnh xuất
khẩu sang các thị trường chiến lược này. Và thực tế thì xuất khẩu của Việt Nam
cũng đã gặp phải những rào cản kỹ thuật từ phía các thị trường.
Từ đầu năm 2002, EU liên tục thông báo dư lượng chloramphenicol (một loại
kháng sinh bị cấm vì có khả năng gây ung thư ) trong các lô tôm xuất khẩu của
Việt Nam và họ đã giữ lại hoặc thiêu huỷ hàng chục lô tôm của Việt Nam và
quyết định sẽ kiểm tra toàn bộ các lô tôm xuất khẩu của Việt Nam sang EU.
Quyết định này là một rào chắn mà EU thiết lập đối với hàng thuỷ sản của Việt
Nam. Trước đây, Việt Nam và EU có ký kết với nhau các văn bản về kiểm soát
dư lượng độc tố trong các sản phẩm thuỷ sản, thống nhất với nhau về các tiêu
chuẩn cũng như các thiết bị kiểm tra, và Việt Nam đã đáp ứng được các yêu cầu
này. Nhưng đến thời điểm đó, EU lại đơn phương sử dụng thiết bị kiểm tra mới
với tiêu chuẩn khác để phát hiện dư lượng chlramphenicol với tỷ lệ chỉ bằng 2/10
tiêu chuẩn đã thống nhất mà không hề báo trước. Do đó, Việt Nam không kịp ứng
phó và phải chịu thiệt. Vì EU là một thị trường có các tiêu chuẩn nghiêm đối với
vệ sinh và an toàn thực phẩm và được các thị trường khác lấy làm chuẩn mực
trong lĩnh vực này nên sau khi EU đưa ra quyết định trên thì hàng loạt các thị
trường khác cũng vậy. Cơ quan kiểm soát thực phẩm Hàn Quốc cũng tuyên bố sẽ
kiểm tra dư lượng chất chloramphenicol trong các lô tôm sú và cua ghẹ nhập khẩu
của Việt Nam vào thị trường này ít nhất một tháng một lần. Nhật cũng yêu cầu
các lô hàng thuỷ sản nhập khẩu phải có giấy chứng nhận không chứa các chất nói
trên. Mỹ cũng tuyên bố kiểm tra chặt chẽ các lô hàng thuỷ sản nhập khẩu. Riêng
Canada thì quyết định lấy mẫu kiểm tra chất chloramphenicol đối với 100% lô
hàng thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam. Quyết định này của EU và các thị trường
gây cho nước ta thiệt hại không nhỏ do các lô hàng xuất đi bị giữ và thiêu huỷ,
hơn nữa, quyết định này còn làm cho các nhà xuất khẩu e ngại không dám xuất
hàng thực hiện các hợp đồng nữa.
Theo Báo cáo của Tổng cục quản lý thị trường năm 2000 thì từ tháng 2 đến tháng
12 năm 2002 đã có 34% số hàng xuất sang Mỹ bị trả lại vì lỗi về ghi nhãn hàng
hoá. Nguyên nhân là do quy chế ghi nhãn hàng hoá còn chưa hoàn thiện, còn
nhiều bất cập, chồng chéo, chưa phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và các doanh
nghiệp cũng ý thức chưa cao về vấn đề này.
Tháng 11/2001, Mỹ đã ban hành dự luật HR 2330 với điều khoản SA 2000, theo
đó FDA không được sử dụng ngân sách để làm thủ tục nhập khẩu các loại cá da
trơn mang tên catfish trừ khi chúng thuộc họ Ictaluridae. Quy định này là bất hợp
lý vì ngay cả cơ quan FDA của Mỹ cũng khẳng định tất cả các loại cá da trơn đều
được mang tên catfish và ca da trơn của Việt Nam cũng được công nhận mang tên
catfish có kèm theo tính từ để phân biệt với các loại các da trơn khác. Dự luật này
gây khó khăn lớn cho xuất khẩu cá catfish của Việt Nam.
Những rào cản kỹ thuật đó đã hạn chế khả năng xuất khẩu của Việt Nam đồng
thời cũng gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế. Trong tương lai, Việt Nam vẫn
chú trong đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường nói trên và vẫn sẽ gặp phải vô
số các hàng rào kỹ thuật mà các thị trường này sử dụng. EU tuy đã chấm dứt việc
kiểm tra toàn bộ các lô hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam nhưng vẫn rất
nghiêm ngặt trong vấn đề dư lượng kháng sinh trong thực phẩm. EU, Mỹ và các
thị trường khác đã đưa ra quy định “dư lượng bằng không” trong thuỷ sản. Điều
này buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực hơn nữa để giải quyết vấn đề dư
lượng kháng sinh. Ngoài ra, chúng ta còn gặp phải những rào cản môi trường
ngày càng được sử dụng rộng rãi hơn ở EU. Mỹ cũng vừa ban hành Dự luật sẵn
sàng chống khủng bố sinh học nhằm ngăn chặn các hành động khủng bố sinh học
đối với nước này. Các nhà xuất khẩu VIệt Nam sẽ gặp không ít khó khăn với
những quy định của Dự luật này.
Tóm lại, khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế của hàng hoá Việt
Nam còn thấp, các thị trường lại ngày càng sử dụng nhiều các rào cản kỹ thuật
đối với hàng hoá nhập khẩu nên xuất khẩu của Việt Nam đã và sẽ gặp rất nhiều
khó khăn. Việt Nam cần phải có những biện pháp hữu hiệu để có thể vượt qua các
rào cản đó, hội nhập thành công vào thương mại quốc tế và đạt được những mục
tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
II. CÁC GIẢI PHÁP GIÚP VIỆT NAM VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI
1. Các giải pháp cấp Nhà nước
Để giúp hàng hoá và các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam vượt qua được
các rào cản kỹ thuật và đẩy mạnh được xuất khẩu sang các thị trường trọng điểm
thì chúng ta cần tiến hành nhiều biện pháp. Trong đó, ở cấp độ nhà nước, Nhà
nước ta cần thực hiện một số giải pháp sau:
1.1. Ký kết các hiệp định song phương và đa phương về rào cản kỹ thuật trong
thương mại.
Trong tình hình hiện nay, các quốc gia phát triển đang lợi dụng trình độ khoa học
công nghệ vượt trội hơn để đặt ra ngày càng nhiều các rào cản kỹ thuật để hạn
chế nhập khẩu từ các nước khác, đặc biệt là từ các nước đang và kém phát triển.
Do đó, Chính phủ các quốc gia đang và kém phát triển phải thực hiện các biện
pháp cần thiết để bảo vệ quyền lợi của mình. Một trong những biện pháp hữu hiệu
là tham gia vào các diến đàn quốc tế về vấn đề này. Khi tham gia vào các Hiệp
định quốc tế song phương cũng như đa phương về rào cản kỹ thuật thì các nước
sẽ có được sự bảo vệ cũng như giúp đỡ cần thiết từ các bên liên quan nhờ đó sẽ có
được sự công bằng khi tham gia vào thương mại quốc tế. Ví dụ như trong Hiệp
định của WTO về rào cản kỹ thuật trong thương mại có điều khoản 11 về trợ giúp
kỹ thuật cho các thành viên khác quy định các thành viên khi được yêu cầu phải
tư vấn, trợ giúp kỹ thuật cho các thành viên khác là các nước đang phát triển
trong việc soạn thảo các quy định kỹ thuật, thành lập cơ quan tiêu chuẩn hoá hay
tham gia vào các cơ quan tiêu chuẩn hoá quốc tế…Các nước đang phát triển khi
tham gia Hiệp định này còn được hưởng sự đối xử đặc biệt ưu đãi hơn các thành
viên phát triển khác như thành viên đang phát triển được phép “chấp nhận một số
các quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn hoặc các thủ tục đánh giá sự phù hợp nhằm duy
trì công nghệ, sản xuất trong nước phù hợp với nhu cầu phát triển của mình” tuỳ
theo những điều kiện kinh tế – xã hội, công nghệ của mình dù các tiêu chuẩn đó
chưa phù hợp với tiêu chuẩn hay quy định quốc tế. Ngoài ra, trong những tổ chức
quốc tế về rào cản kỹ thuật, các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật mà các quốc gia sử
dụng sẽ được thống nhất, công khai và áp dụng chung cho các thành viên. Vì vậy,
các tiêu chuẩn, quy định sẽ trở nên rõ ràng, minh bạch nhờ đó mà các nhà xuất
khẩu sẽ hiểu được các quy định và sẽ có biện pháp khắc phục tránh tình trạng các
tiêu chuẩn kỹ thuật không rõ ràng, rối rắm gây khó khăn cho các nhà xuất khẩu.
Với tình hình thực tiễn của nước ta hiện nay, khi trình độ kinh tế - xã hội cũng
như khoa học - công nghệ còn thấp so với thế giới, chúng ta cũng gặp nhiều khó
khăn khi phải đối mặt với các rào cản kỹ thuật. Các tiêu chuẩn mà nước ta áp
dụng chưa phù hợp với tiêu chuẩn thế giới và chưa được thế giới công nhận cho
nên hàng xuất khẩu của nước ta chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn mà các nước
nhập khẩu yêu cầu. Để giúp hàng hoá của ta có thể vượt qua được các rào cản kỹ
thuật, thâm nhập vào thị trường toàn thế giới thì Chính phủ ta cần tích cực tham
gia đàm phán, ký kết các hiệp định quốc tế về rào cản kỹ thuật và tiêu chuẩn hoá
song phương cũng như đa phương. Khi ký kết các hiệp định này, nước ta sẽ có
điều kiện rà soát hiệp định, tham gia xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế cho phù hợp
với trình độ phát triển của nước mình và có thể tận dụng quyền nhận xét các tiêu
chuẩn và các quy định quốc tế, bảo vệ được quyền lợi của nước ta cũng như các
nước đang và kém phát triển khác.
Đến nay, Việt Nam cũng đã hội nhập khá tốt trong lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường
chất lượng. Đại diện của Nhà nước về lĩnh vực tiêu chuẩn hoá và chất lường là
Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng đã tham gia vào 15 tổ chức quốc tế và
khu vực như: Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế (ISO), Uỷ ban kỹ thuật điện quốc tế
(IEC – International Electrotechnical Commission), Uỷ ban tư vấn của ASEAN
về tiêu chuẩn chất lượng (ACCSQ – Asean Consultative Committee of Standards
and Quality), Diễn đàn tiêu chuẩn khu vực Thái Bình Dương (PASC – Pacific
Area Standards Congress)…Trong quá trình tham gia các tổ chức này, Việt Nam
cũng đã tranh thủ được sự giúp đỡ ủng hộ của các tổ chức này nhằm thúc đẩy
hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng trong nước. Việt Nam cũng đã ký các
Hiệp định hợp tác trong lĩnh vực tiêu chuẩn hoá, đo lường và chứng nhận, Hiệp
định thừa nhận lẫn nhau các kết quả chứng nhậnvà thử nghiệm với Liên bang
Nga, Trung Quốc, Ucraina… Việt Nam cũng đang trên đường gia nhập tổ chức
thương mại thế giới WTO, từ đó sẽ trở thành thành viên của các Hiệp định của tổ
chức này về tiêu chuẩn, chất lượng và về rào cản kỹ thuật như HIệp định về rào
cản kỹ thuật trong thương mại và Hiệp định về vệ sinh và các biện pháp vệ sinh
thực phẩm. Sau sự kiện EU đưa ra mức dư lượng bằng không đối với
chloramphenicol và nitrofuran trong thuỷ sản nhập khẩu, các nước ASEAN đang
thảo luận về việc thành lập một tổ chức gọi là Codax. Cơ quan thực phẩm này sẽ
đưa ra các tiêu chuẩn chung cho thực phẩm của các nước trong khối và các tiêu
chuẩn này sẽ được EU, Mỹ, Nhật Bản công nhận.
Tuy đã có nhiều cố gắng trong việc hội nhập quốc tế về tiêu chuẩn - chất lượng và
rào cản kỹ thuật nhưng Việt Nam vẫn cần tích cực hơn nữa trong việc đàm phán
ký kết các hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại để bảo vệ quyền lợi
quốc gia khi hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2. Tuyên truyền, giới thiệu cho các doanh nghiệp về rào cản kỹ thuật của các
nước.
Một trong những nguyên nhân khiến cho các rào cản kỹ thuật trở nên khó vượt
qua là vì các rào cản này tồn tại dưới nhiều hình thức đa dạng, phức tạp, khó nhận
biết và thường xuyên thay đổi. Các doanh nghiệp ở các nước đang và kém phát
triển thường gặp khó khăn trong việc tìm hiểu và thu thập thông tin liên quan đến
rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu do hệ thống thông tin còn yếu. Và họ có
rất ít các thông tin cũng như hiểu biết rất hạn chế về rào cản kỹ thuật tại các thị
trường mà họ sẽ xuất hàng sang. Chính vì lý do đó mà các nước đang và kém phát
triển là những nước chịu thiệt thòi nhiều nhất từ các rào cản kỹ thuật.
Ở Việt Nam cũng vậy, các doanh nghiệp có nhận thức rất thấp về rào cản kỹ thuật
và lại càng mơ hồ về các rào cản cụ thể mà các thị trường xuất khẩu của mình
đang áp dụng. Do đó, hàng hoá xuất khẩu của chúng ta bị từ chối nhiều do không
đáp ứng được các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như các tiêu chuẩn vệ sinh,
môi trường mà các thị trường đặt ra cho hàng nhập khẩu. Với điều kiện như của
các doanh nghiệp nước ta hiện nay thì việc tiếp cận với các nguồn thông tin trực
tiếp từ các thị trường về các quy định nói chung và về rào cản kỹ thuật nói riêng
là khó khăn. Vì thế, để giúp đỡ các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, có được đầy đủ các thông tin cần thiết về các thị trường xuất khẩu thì
sự trợ giúp của Nhà nước là cần thiết. Nhà nước cần có những cơ quan chuyên
trách về vấn đề rào cản kỹ thuật trong thương mại có nhiệm vụ tìm hiểu thu thập
các thông tin liên quan đến các quy định, tiêu chuẩn mà các nước đặt ra đối với
hàng nhập khẩu, đặc biệt là đối với những mặt hàng xuất khẩu của nước nhà. Sau
đó, các cơ quan này sẽ tuyên truyền, giới thiệu cho các doanh ngiệp biết về các
quy định cũng như tiêu chuẩn đó, giúp các doanh nghiệp có sự hiểu biết tốt hơn
về những quy định, tiêu chuẩn mà các mặt hàng xuất khẩu của doanh ngiệp mình
sẽ phải thoả mãn khi xuất sang từng thị trường cụ thể, nhất là những thị trường
xuất khẩu chiến lược của ta như EU, Nhật, Mỹ, Australia... Các cơ quan chuyên
trách này nên tổ chức các buổi hội thảo cũng như các buổi tuyên truyền, giới thiệu
định kỳ về rào cản kỹ thuật của các thị trường và có những thông báo bổ sung cần
thiết cho các doanh nghiệp khi các nước thay đổi, bổ sung các quy định, tiêu
chuẩn. Đồng thời, họ cũng có thể gợi ý những giải pháp mà các doanh nghiệp nên
áp dụng để vượt rào cản. Từ đó, doanh nghiệp sẽ có những biện pháp cần thiết để
đổi mới sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo các yêu cầu của thị
trường nhập khẩu và từng bước nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu của
doanh nghiệp nói riêng và của cả nước nói chung.
Hiện nay, nước ta có Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (Vietnam
Chamber of Commerce and Industry - VCCI) là tổ chức hỗ trợ và xúc tiến các
hoạt động thương mại của Việt Nam. Phòng thương mại và công nghiệp Việt
Nam cũng có vai trò đáng kể trong việc tuyên truyền, cung cấp các thông tin cần
thiết về thị trường, trong đó có thông tin về các rào cản kỹ thuật cho các doanh
nghiệp, giúp các doanh nghiệp tiếp cận các thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu.
Ngoài ra, nước ta còn có các có quan đại diện thương mại đóng tại các quốc gia
khác cũng có đóng góp lớn trong việc thu thập và cung cấp các thông tin về các
từng thị trường cụ thể cho các doanh nghiệp, giúp đỡ các doanh nghiệp tiếp cận
và thâm nhập các thị trường...
Tuy nhiên, các doanh nghiệp nước ta hiện nay thực sự vẫn chưa nhận được đầy
đủ các thông tin cần thiết về các thị trường, đặc biệt là các thông tin liên quan đến
các rào cản kỹ thuật trong thương mại nên còn vấp phải những cản trở, những thất
bại khi xuất khẩu hàng hoá, gây thiệt hại, mất uy tín không chỉ cho doanh nghiệp
mà còn cho cả quốc gia. Vì thế mà hoạt động tuyên truyền, giới thiệu về rào cản
kỹ thuật cho các doanh nghiệp là một hoạt động cần thiết mà Nhà nước ta cần tiến
hành để giúp các doanh nghiệp vượt rào cản kỹ thuật khi xuất khẩu.
1.3. Tổ chức đào tạo đội ngũ quản lý chất lượng và kỹ thuật cho các doanh
nghiệp.
Chất lượng của sản phẩm là yếu tố quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà
còn quan trọng đối với cả quốc gia. Những sản phẩm có chất lượng sẽ được người
tiêu dùng chấp nhận và có thể đứng vững trên thị trường. Hiện nay, khi các nước
công nghiệp phát triển tăng cường sử dụng các quy định về chất lượng và các tiêu
chuẩn kỹ thuật của sản phẩm làm rào cản đối với hàng hoá nhập khẩu thì vấn đề
chất lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm trở nên quan trọng hơn bao giờ
hết.
Để nâng cao chất lượng sản phẩm cần huy động rất nhiều yếu tố. Trong đó, yếu tố
con người đóng vai trò vô cùng quan trọng. Các doanh nghiệp cần có những công
nhân kỹ thuật lành nghề, có những nhà quản lý giỏi, hiểu biết về quản lý chất
lượng và ý thức được tầm quan trọng của chất lượng thì mới có thể thành công
được. Nhưng ở nước ta hiện nay còn thiếu vắng những cán bộ giỏi, có năng lực
trong lĩnh vực quản lý chất lượng sản phẩm. Chính sách đào tạo còn chưa thích
hợp. Số lượng các cán bộ quản lý về chất lượng được đào tạo chưa nhiều. Các cán
bộ quản lý của các doanh nghiệp hiện nay cũng chưa có nhận thức sâu sắc về tầm
quan trọng của chất lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật trong việc vượt các rào cản kỹ
thuật của các thị trường. Nhà nước ta cần quan tâm đến việc đào tạo cho các
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu, một đội ngũ cán bộ quản lý
chất lượng và kỹ thuật giỏi và am hiểu về các rào cản kỹ thuật. Các cơ quan
chuyên trách có thể tổ chức các khoá học ngắn hạn cho các nhà quản lý của các
doanh nghiệp về vấn đề chất lượng, các tiêu chuẩn kỹ thuật và các biện pháp vượt
rào cản bằng việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong dài hạn thì nước ta nên
có chính sách thu hút và đào tạo một lực lượng cán bộ quản lý có chuyên môn
cao, có bằng cấp về chất lượng để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp trong
tương lai. Những cán bộ quản lý chất lượng và kỹ thuật này sẽ giúp các doanh
nghiệp lập các kế hoạch ngắn hạn, dài hạn về chất lượng sản phẩm và giám sát
quá trình thực hiện các kế hoạch đó giúp các doanh nghiệp từng bước nâng cao
chất lượng sản phẩm cho doanh nghiệp. Nhờ đó, mà sản phẩm của doanh nghiệp
có thể đáp ứng được các yêu cầu khắt khe của thị trường về chất lượng sản phẩm
và vượt qua được các rào cản kỹ thuật về mặt chất lượng mà các thị trường nhập
khẩu dựng lên.
Chất lượng và các tiêu chuẩn kỹ thuật là một hình thức của rào cản kỹ thuật trong
thương mại. Các doanh nghiệp Việt Nam muốn vượt qua được rào cản này thì cần
không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, làm cho sản phẩm thoả mãn những
yêu cầu nghiêm ngặt đối với sản phẩm của các nước nhập khẩu. Để làm được việc
này, các doanh nghiệp cần có các cán bộ quản lý chất lượng và kỹ thuật giỏi và
Nhà nước cần có chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý này cho các doanh
nghiệp.
1.4. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia cho sản phẩm và thành lập các cơ
quan kiểm tra chất lượng và kỹ thuật đối với hàng xuất khẩu.
Trong điều kiện quốc tế hoá nền kinh tế thế giới như hiện nay thì việc hài hoà hoá
các tiêu chuẩn chất lượng của quốc gia với các tiêu chuẩn quốc tế cũng là một xu
hướng tất yếu. Để hàng hoá của nước mình có thể được chấp nhận và tiêu thụ
được ở mọi thị trường trên thế giới mà không gặp phải các rào cản kỹ thuật thì
các quốc gia đều đang nỗ lực xây dựng cho mình một hệ thống tiêu chuẩn quốc
gia mới sao cho phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và được các nước khác thừa
nhận. Khi hệ thống tiêu chuẩn trong nước phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế thì
các sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước một khi đã đáp ứng được các tiêu
chuẩn trong nước thì vừa có thể tiêu thụ được ở thị trường nội địa vừa có thể tiêu
thụ được ở các thị trường nước ngoài.
Ở Việt Nam hiện nay, theo báo cáo của Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng
năm 2002 thì trong số 5200 TCVN hiện hành mới chỉ có 24% các tiêu chuẩn phù
hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Đây là một tỷ lệ thấp dù hiện giờ việc hài hoà hoá
các TCVN với các tiêu chuẩn quốc tế đã được chú trọng hơn. Vì có sự sai khác
giữa các TCVN và các tiêu chuẩn quốc tế nên phần lớn các sản phẩm của Việt
Nam không đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng và kỹ thuật do các thị trường
nhập khẩu đặt ra. Điều này đã hạn chế khả năng xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt
là xuất khẩu sang các thị trường có trình độ khoa học công nghệ cao vì các thị
trường này đặt ra các tiêu chuẩn rất khắt khe cho hàng hoá mà các TCVN hiện
nay thì chưa đáp ứng được.
Do đó, đổi mới hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam cần được đặc biệt quan tâm và phải
được xác định là một nhiệm vụ trọng tâm trong hội nhập quốc tế. Điều này rất có
ý nghĩa với Việt Nam vì nó sẽ giúp chúng ta vượt qua được các rào cản kỹ thuật
của thị trường các nước công nghiệp phát triển. Chúng ta cần xây dựng một hệ
thống tiêu chuẩn mới thay thế những tiêu chuẩn đã lạc hậu và không phù hợp với
các yêu cầu của hội nhập. Những tiêu chuẩn này sẽ phải được xây dựng trên cơ sở
khoa học, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế và phải tính đến các điều kiện đặc thù
của các doanh nghiệp trong nước. Những tiêu chuẩn mới sẽ phải bao quát hết
những đòi hỏi phổ biến của thế giới đối với hàng hoá như các tiêu chuẩn chất
lượng, tiêu chuẩn môi trường, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm...Giải pháp
này không những giúp hàng hoá Việt Nam có thể vượt qua các rào cản kỹ thuật
mà còn giúp nâng cao chất lượng hàng hoá trong nước, nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân.
Riêng đối với các mặt hàng xuất khẩu, Nhà nước cần thành lập các cơ quan kiểm
tra chất lượng và các tiêu chuẩn kỹ thuật trước khi cho xuất khẩu. Vì hiện nay, vì
việc kiểm soát chất lượng hàng xuất khẩu của chúng ta không chặt chẽ nên số
lượng hàng xuất khẩu không đạt tiêu chuẩn và bị trả lại, bị tiêu huỷ hoặc phải bán
giảm giá vẫn còn cao gây thiệt hại cho doanh nghiệp và mất uy tín cho hàng hoá
Việt Nam. Chính vì vậy mà chúng ta cần tăng cường công tác kiểm tra đối với
các lô hàng xuất khẩu để đảm bảo rằng các lô hàng này thoả mãn những yêu cầu
của thị trường nhập khẩu về chất lượng, các tiêu chuẩn vệ sinh, kiểm dịch..., tránh
tình trạng hàng của chúng ta sẽ bị từ chối khi nhập cảng. Hiện thời, chúng ta đã
thực hiện khá tốt công tác này đối với hàng thuỷ sản xuất khẩu. Năm 1994, Chính
phủ đã ban hành Nghị định 50 CP ngày 21/6/1994 thành lập Trung tâm kiểm tra
chất lượng và vệ sinh thuỷ sản (National Fisheries Inspection and Quality
Assurance Center - NAFIQACEN) nay là Cục quản lý chất lượng, an toàn và thú
y thuỷ sản có chức năng quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh thuỷ sản từ khâu
nuôi trồng, khai thác, đến chế biến và tiêu thụ. Cục còn có trách nhiệm kiểm tra
chất lượng và các điều kiện vệ sinh của các cơ sở sản xuất thuỷ sản, công nhận
các cơ sở đủ điều kiện xuất khẩu sang các thị trường cụ thể và cấp giấy chứng
nhận vệ sinh cho các lô hàng thuỷ sản. Những lô hàng nào được Cục cấp giấy
chứng nhận thì sẽ được phép xuất khẩu và sẽ được thị trường chấp nhận. Nhờ đó,
thuỷ sản Việt Nam đã được nhiều thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật, Hàn
Quốc... chấp nhận. Hiện nay, Cục có 6 chi nhánh trên cả nước với những trang
thiết bị hiện đại, có thể kiểm tra và cấp giấy chứng nhận cho các cơ sở sản xuất,
chế biến và các lô hàng một cách kịp thời, nhanh chóng.
Tuy nhiên đối với các mặt hàng khác thì chúng ta còn chưa thực hiện tốt vấn đề
này. Do vậy, trong thời gian sắp tới, Nhà nước nên thành lập những trung tâm
tương tự cho các mặt hàng khác để đảm bảo chất lượng và các tiêu chuẩn kỹ thuật
khác cho các lô hàng xuất khẩu.
Ngoài các giải pháp trên thì Nhà nước cần hoàn thiện các quy định, thể chế pháp
luật liên quan đến vấn đề chất lượng nhằm đạt được một sự quản lý thống nhất
trên cả nước. Nhà nước cũng cần có chế độ khen thưởng đối với những doanh
nghiệp, tổ chức có thành tựu trong lĩnh vực quản lý chất lượng cũng như cần có
chế độ xử phạt, kỷ luật đối với những doanh nghiệp, tổ chức không chấp hành tốt
các quy định của Nhà nước về vấn đề chất lượng. Nhà nước cần có biện pháp trợ
giúp về kỹ thuật, thông tin... cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để các doanh
nghiệp này có thể vượt qua được các rào cản kỹ thuật. Tóm lại, vì nước ta là một
nước đang phát triển còn bị hạn chế về nhiều mặt, hơn nữa, rào cản kỹ thuật là
một vấn đề phức tạp và khá mới mẻ với nước ta nên Nhà nước cần phải hợp tác
với các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp cần thiết để giúp các doanh nghiệp
Việt Nam vượt rào cản thành công.
2. Các giải pháp ở cấp độ doanh nghiệp
2.1. Nâng cao nhận thức về rào cản kỹ thuật trong thương mại
Rào cản kỹ thuật là một vấn đề khá mới mẻ ở nước ta. Cho nên hiện nay, nhận
thức của các doanh nghiệp về rào cản kỹ thuật là thấp, nhất là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Có doanh nghiệp còn không có chút khái niệm gì về rào cản kỹ thuật.
Có doanh nghiệp thì biết nhưng không ý thức được mức độ ảnh hưởng của rào
cản kỹ thuật đối với bản thân doanh nghiệp cũng như đối với thương mại nói
chung. Vì thế các doanh ngiệp không mấy quan tâm đến việc đổi mới sản xuất
nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh, dịch tễ, đảm bảo các
yêu cầu về đảm bảo môi trường để có thể đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng thị
trường, thâm nhập những thị trường khó tính. Mà các doanh nghiệp hiện nay chỉ
sản xuất theo khả năng vốn có và tiêu thụ ở những thị trường dễ tính chấp nhận
những sản phẩm đó.
Muốn vượt qua được các rào cản kỹ thuật thì trước hết các doanh nghiệp phải
hiểu rõ rào cản kỹ thuật là gì, các hình thức và tác động của nó. Do đó, giải pháp
đầu tiên và rất quan trọng là phải nâng cao nhận thức về rào cản kỹ thuật cho các
doanh nghiệp, cho các thành viên của doanh nghiệp. Muốn vậy, trước hết, những
nhà quản trị của các doanh nghiệp cần có một nhận thức đầy đủ và sâu sắc về rào
cản kỹ thuật và ảnh hưởng của nó tới thương mại nói chung và tới doanh nghiệp
mình nói riêng. Các nhà quản trị cần nắm rõ các quy định, tiêu chuẩn cụ thể của
từng thị trường nhập khẩu đối với loại hàng hoá của doanh nghiệp mình và các
biện pháp mà doanh nghiệp cần áp dụng. Sau đó, các nhà quản trị sẽ tuyên truyền,
giáo dục cho từng thành viên trong công ty về các rào cản kỹ thuật và lợi ích của
việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế, việc tuân thủ các yêu cầu
về môi trường và vệ sinh đối với doanh nghiệp trong việc giúp doanh nghiệp vượt
rào cản. Một khi từng thành viên trong doanh nghiệp đã hiểu rõ về rào cản kỹ
thuật và tác động của nó tới doanh nghiệp mình thì họ sẽ tự ý thức và nỗ lực để
nâng cao chất lượng hàng hoá của doanh nghiệp mình, đáp ứng các đòi hỏi của thị
trường nhập khẩu.
Tóm lại, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp là một biện pháp rất cần thiết và
hiệu quả giúp doanh nghiệp có thể vượt qua các rào cản kỹ thuật. Vì nó làm cho
từng cá nhân, thành viên trong doanh nghiệp, dù ở vị trí nào cũng có ý thức rõ
ràng về trách nhiệm của mình trong việc giúp doanh nghiệp vượt qua các rào cản
kỹ thuật trong thương mại và cạnh tranh được trên thị trường thế giới.
2.2. Áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.
Trong điều kiện hiện nay, trước tình trạng các doanh nghiệp của các nước đang
phát triển đang phải đối đầu với những đòi hỏi chứng nhận phù hợp với những
yêu cầu về chất lượng, môi trường, vệ sinh và an toàn thực phẩm được quy định
trong các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật đông thời cũng là rào cản của các nước
phát triển, việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế
đã trở thành yêu cầu bắt buộc cho các doanh nghiệp nếu muốn bước chân vào các
thị trường này.
Hiện nay, các doanh nghiệp có thể áp dụng các hệ thống chất lượng được công
nhận rộng rãi trên thế giới như hệ thống quản trị theo tiêu chuẩn của tổ chức quốc
tế ISO 9000, hệ thống quản lý chất lượng đồng bộ TQM, hệ thống quản lý chất
lượng theo HACCP, GMP cho các xí nghiệp sản xuất dược phẩm, thực phẩm,
nông sản và thuỷ sản, hệ thống quản trị môi trường theo ISO 14000... Áp dụng
các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế sẽ giúp các doanh nghiệp cải thiện hình ảnh của
mình, tạo niềm tin cho bạn hàng và người tiêu dùng. Việc áp dùng các hệ thống
này sẽ đem lại cho doanh nghiệp nhiều cái lợi so với sự đầu tư ban đầu.
Tính đến nay, cả nước đã có khoảng 500 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận
hệ thống chất lượng ISO 9000, hơn 40 doanh nghiệp đạt chứng chỉ ISO 14000 và
trong tổng số 264 cơ sở chế biến thuỷ sản thì đã có 78 cơ sở được công nhận đạt
tiêu chuẩn của hệ thống HACCP (12). Đây là những con số đáng mừng cho thấy
các doanh nghiệp Việt Nam đã có ý thức trong việc áp dụng các hệ thống chất
lượng quốc tế. Nhưng những con số này còn thấp so với những doanh nghiệp còn
chưa áp dụng các hệ thống này. Vì không phải doanh nghiệp nào cũng quan tâm
và có điều kiện áp dụng các hệ thống chất lượng đó. Trong số các doanh nghiệp
áp dụng các hệ thống chất lượng thì còn nhiều doanh nghiệp còn chưa thực sự chú
trọng mà chủ yếu nặng về hình thức.
Trong thời gian tới, các doanh nghiệp cần chú trọng hơn nữa tới việc áp dụng các
hệ thống quản lý chất lượng quốc tế ở doanh nghiệp mình vì những hệ thống này
sẽ giúp cho các doanh nghiệp cũng như sản phẩm của doanh nghiệp được công
nhận toàn cầu và có thể vượt qua các quy định về chất lượng, vệ sinh và môi
trường của các nước nhập khẩu đồng thời cũng được người tiêu dùng ưa thích
hơn. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có điều kiện áp dụng các hệ
thống này thì Nhà nước cần có sự hỗ trợ, bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải tự
mình tìm ra các giải pháp thích hợp tuỳ điều kiện của mình. Đầu tư áp dụng các
hệ thống tiêu chuẩn quốc tế không những giúp doanh nghiệp có thể thoả mãn yêu
cầu của những thị trường khó tính mà doanh nghiệp còn có thể kiểm soát, quản lý
chất lượng tốt hơn, giảm những sản phẩm khuyết tật đồng thời tiết kiệm chi phí
kiểm tra, kiểm soát và sửa chữa cho doanh nghiệp.
Có thể nói hiện nay, việc áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế đã trở nên
phổ biến và là một một điều kiện không thể thiếu cho các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu ví dụ như: giấy chứng nhận ISO 9000 được xem là “ngôn ngữ đảm bảo chữ
tín” về chất lượng giữa các doanh nghiệp, ISO 14000 được coi là tấm “hộ chiếu
xanh” cho hàng hoá và HACCP là một tiêu chuẩn bắt buộc đối với thực phẩm để
xuất khẩu sang thị trường các nước phát triển. Vì thế, để có thể tồn tại và phát
triển được trong tương lai thì các doanh nghiệp Việt Nam không còn sự lựa chọn
nào khác là phải áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.
2.3. Gắn “nhãn sinh thái” cho hàng hoá
“Thương mại - môi trường” chính là xu hướng phát triển trong tương lai của
thương mại quốc tế. Các quốc gia ngày càng quan tâm đến việc bảo vệ môi
trường sinh thái nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của quốc gia mình và của
cả thế giới. Một công cụ mà các nước trên thế giới hiện nay đang sử dụng để dung
hoà giữa yêu cầu phát triển thương mại quốc tế và bảo vệ môi trường là “nhãn
sinh thái”.
“Nhãn sinh thái” (hay còn gọi là “nhãn xanh”) là một trong những nội dung quan
trọng của Bộ tiêu chuẩn ISO 14000. Đó là một chứng chỉ được các cơ quan chứng
nhận cấp cho sản phẩm, hàng hoá, chứng nhận sản phẩm, hàng hoá đó ít gây tổn
hại đến môi trường (nói cách khác là “thân thiện với môi trường”). Nhãn sinh thái
là sự khẳng định uy tín của sản phẩm và của nhà sản xuất trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường. Các sản phẩm được gắn nhãn sinh thái rất được người tiêu dùng ưa
chuộng và thường có giá bán cao hơn các sản phẩm cùng loại. Nhãn sinh thái
chính là một yếu tố quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp, nhất là với các doanh nghiệp ngoại thương, đồng thời, nó cũng là công cụ
giúp hàng hoá của các nước đang phát triển vượt qua rào cản kỹ thuật của các thị
trường khó tính. Vì hiện nay, các nước công nghiệp phát triển thường sử dụng các
yêu cầu về bảo vệ môi trường để hạn chế hàng nhập khẩu từ các nước khác. Và
rào cản này thường gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp, nhất là doanh
nghiệp của các nước đang phát triển.
Ở Việt Nam việc sử dụng nhãn sinh thái cho một số mặt hàng ở các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu cũng đã được bắt đầu nghiên cứu, xem xét từ năm 2002. Tuy
nhiên, do hạn chế về mặt nhận thức và thông tin cho nên nhãn sinh thái còn là
một vấn đề hết sức mới mẻ nên nhiều doanh nghiệp còn chưa hiểu được nội dung
cũng như tầm quan trọng của việc áp dụng nhãn sinh thái đối với các sản phẩm
của mình. Để đáp ứng yêu cầu của thị trường về nhãn sinh thái thì các doanh
nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn thử thách. Hiện nay, ở
nước ta, việc áp dụng tiêu chuẩn ISO 9000 đã là một khó khăn đối với doanh
nghiệp chứ chưa nói đến việc áp dụng ISO 14000. Các doanh nghiệp nước ta phải
đối mặt với những thách thức về trình độ quản lý và kinh phí, đặc biệt là ở các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, khi áp dụng nhãn sinh thái. Vì thế, ngoài sự tự nỗ lực
của các doanh nghiệp, Nhà nước cũng cần có những hỗ trợ cần thiết để các doanh
nghiệp có thể từng bước triển khai việc gắn nhãn sinh thái cho hàng hoá.
Trong tương lai, do sức ép của vấn đề môi trường quốc tế, nhãn sinh thái sẽ là
điều kiện bắt buộc đối với mọi hàng hoá nếu muốn thâm nhập các thị trường nước
ngoài. Điều này sẽ cản trở khả năng thâm nhập thị trường của các doanh nghiệp
các nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Do đó mà ngay từ bây giờ, các
doanh nghiệp Việt Nam cần phải tự trang bị cho mình một cách đầy đủ các yêu
cầu về triển khai việc dán nhãn sinh thái và phải coi đó như một yêu cầu tất yếu
cấp bách mà doanh nghiệp phải thực hiện. Từ đó, có những bước chuẩn bị cần
thiết để có thể áp dụng nhãn sinh thái trong một tương lai gần.
2.4. Đổi mới công nghệ và nâng cao trình độ quản lý kỹ thuật để nâng cao chất
lượng sản phẩm.
Khi các nước công nghiệp phát triển sử dụng các rào cản kỹ thuật về chất lượng,
môi trường, vệ sinh để bảo hộ thị trường trong nước thì các doanh nghiệp của các
nước đang phát triển gặp phải nhiều khó khăn. Do trình độ phát triển kinh tế - xã
hội thấp, máy móc, thiết bị lạc hậu, trình độ quản lý không cao nên sản phẩm sản
xuất ra không thoả mãn các yêu cầu chất lượng và kỹ thuật khắt khe các thị
trường phát triển đặt ra. Công nghệ lạc hậu lại không có kinh phí để lắp đặt các
thiết bị xử lý nước thải, rác thải, khí thải gây ô nhiễm môi trường nên hàng hoá bị
người tiêu dùng các nước phát triển tẩy chay cũng như không đáp ứng được các
tiêu chuẩn bảo vệ môi trường của các nước phát triển. Vì thế mà hàng hoá của các
doanh nghiệp các nước đang phát triển như nước ta không thâm nhập được vào
các thị trường khó tính.
Để vượt qua các rào cản đó và đẩy mạnh xuất khẩu, các doanh nghiệp cần đầu tư
đổi mới công nghệ, mua sắm mới máy móc thiết bị. Điều này một mặt làm giảm
giá thành sản xuất, mặt khác nâng cao chất lượng hàng hoá, đáp ứng các yêu cầu
của các nước nhập khẩu về bao bì, đóng gói, an toàn vệ sinh, quy trình chế
biến...Những công nghệ mới ít gây ô nhiễm môi trường vừa bảo vệ môi trường
các nước sản xuất vừa giúp doanh nghiệp vượt quan rào cản về môi trường trong
thương mại. Tuy nhiên với điều kiện tài chính của các doanh nghiệp nước ta như
hiện nay thì không phải doanh nghiệp nào cũng có điều kiện để đổi mới hoàn toàn
công nghệ và máy móc mà các doanh nghiệp cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của
doanh nghiệp mình lập kế hoạch thay thế, đổi mới cho phù hợp. Các doanh
nghiệp cũng nên khuyến khích các sáng kiến đổi mới công nghệ, các giải pháp
hữu ích cho sản xuất của công nhân và cán bộ kỹ thuật trong doanh nghiệp. Biện
pháp này giúp doanh nghiệp có thể tiết kiệm chi phí mà vẫn có thể đổi mới
phương pháp sản xuất một cách hiệu quả.
Song song với đổi mới công nghệ, doanh nghiệp cũng cần chú trọng việc nâng
cao trình độ kỹ thuật và quản lý kỹ thuật trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần
liên tục đào tạo nâng cao tay nghề cho các công nhân kỹ thuật của doanh nghiệp
để họ có thể nắm bắt, sử dụng những công nghệ và thiết bị sản xuất mới hiện đại.
Đặc biệt, doanh nghiệp cần có những cán bộ quản lý kỹ thuật có trình độ, có khả
năng tiếp thu khoa học công nghệ mới. Những cán bộ kỹ thuật giỏi này sẽ là
những người tiếp xúc và nắm bắt công nghệ mới đầu tiên sau đó họ sẽ giúp hướng
dẫn, đào tạo các công nhân kỹ thuật cho doanh nghiệp. Những cán bộ kỹ thuật
cũng cần hiểu biết rõ về những quy định, tiêu chuẩn trong nước cũng như ngoài
nước đối với sản phẩm của công ty và đưa ra được các giải pháp để sản phẩm có
thể đấp ứng được các quy định, tiêu chuẩn đó. Để có được đội ngũ cán bộ kỹ
thuật có trình độ cao thì doanh nghiệp cần có chính sách đào tạo và bồi dưỡng
nhân tài phù hợp. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần có chế độ đãi ngộ đặc biệt đối
với họ. Những cán bộ kỹ thuật này sẽ là nòng cốt giúp doanh nghiệp từng bước
nâng cao trình độ kỹ thuật và năng lực sản xuất trong toàn doanh nghiệp. Nhờ đó,
các sản phẩm của doanh nghiệp sẽ có chất lượng ngày càng cao và đáp ứng các
tiêu chuẩn khắt khe của thị trường trong và ngoài nước.
Đổi mới công nghệ và đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật giỏi rất cần thiết đối với
mỗi doanh nghiệp. Biện pháp này không những giúp doanh nghiệp vượt qua được
các rào cản thương mại mà còn giúp tăng chất lượng hàng hoá, tăng năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp trên cả thị trường trong và ngoài nước.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cần có những biện pháp như xây dựng chiến lược
kinh doanh dài hạn có tính đến các tác động của rào cản kỹ thuật; chủ động trong
việc tiếp cận các nguồn thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng,
hệ thống truyền thông quốc tế, các tổ chức trong nước và quốc tế, các bạn
hàng...để tìm hiểu về các rào cản kỹ thuật trong thương mại. Tóm lại, doanh
nghiệp cần phải có những sự chuẩn bị kỹ càng để có thể vượt qua các rào cản
thương mại đó.
KẾT LUẬN
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế mở ra rất nhiều cơ hội phát triển cho các quốc
gia đồng thời cũng mang lại không ít khó khăn và thách thức. Theo xu hướng tự
do hoá thương mại, các rào cản thương mại chủ yếu là các rào cản thuế quan và
một số rào cản phi thuế khác sẽ được dỡ bỏ tạo điều kiện tiếp cận và mở rộng thị
trường cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên không phải các doanh nghiệp sẽ không
gặp khó khăn gì khi tiếp cận và thâm nhập các thị trường nước ngoài bởi các quốc
gia đang có xu hướng sử dụng một loại rào cản thương mại mới: rào cản kỹ thuật
để thay thế cho các rào cản đã bị xoá bỏ. Rào cản kỹ thuật là một hình thức rào
cản thương mại rất tinh vi, phức tạp và rất khó vượt qua ngay cả đối với doanh
nghiệp của các nước phát triển. Các quốc gia mà hiện nay chủ yếu là các nước
công nghiệp phát triển đã sử dụng các tiêu chuẩn, quy định về chất lượng, vệ sinh
và môi trường hết sức khắt khe để ngăn cản hàng hoá của các nước khác nhập
khẩu vào lãnh thổ nước mình. Các rào cản kỹ thuật này đã gây cản trở lớn cho
thương mại thế giới, thậm chí còn gây ra cả những vụ xung đột thương mại giữa
các quốc gia. Tương tương lai, khi các rào cản thương mại khác đã dược dỡ bỏ
hoàn toàn thì rào cản kỹ thuật sẽ được sử dụng ngày càng rộng rãi hơn và sẽ tác
động đến phần lớn thương mại thế giới. Do đó, các quốc gia trên thế giới đã tiến
hành ký kết nhiều Hiệp định song phương và đa phương về rào cản kỹ thuật nhằm
hạn chế những tác động tiêu cực của nó đến thương mại quốc tế. Các quốc gia
đang và kém phát triển, trong đó có Việt Nam là những nước chịu tác động của
rào cản kỹ thuật nhiều nhất.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, rào cản kỹ thuật là một vấn đề khá mới mẻ
và chưa được các doanh nghiệp quan tâm, chú ý nhiều. Tuy nhiên, trên thực tế thì
thương mại Việt Nam cũng đã chịu những thiệt hại không nhỏ do rào cản kỹ thuật
từ các nước công nghiệp phát triển gây ra. Và trong tương lai khi rào cản kỹ thuật
được sử dụng một cách rộng rãi thì xuất khẩu của Việt Nam sẽ đứng trước những
khó khăn thách thức lớn. Hiện nay, do các doanh nghiệp Việt Nam chưa ý thức
được tầm quan trọng và mức độ ảnh hưởng của rào cản kỹ thuật đối với bản thân
doanh nghiệp cũng như đối với thương mại nói chung nên chưa chú tâm tìm hiểu
kỹ càng về rào cản kỹ thuật và các biện pháp để vượt qua các rào cản đó. Cũng
như các nước đang phát triển khác, các doanh nghiệp Việt Nam cũng bị hạn chế
về trình độ khoa học công nghệ , khả năng tài chính và thiếu thông tin nên rất khó
vượt qua được các rào cản kỹ thuật mà các nước công nghiệp phát triển đã dựng
lên. Điều này sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng xuất khẩu của Việt Nam cũng
như tốc độ phát triển của nền kinh tế vì xuất khẩu đóng một vai trò quan trọng
trong nền kinh tế nước ta. Trong thời gian tới, để hoàn thành mục tiêu tăng trưởng
xuất khẩu với tốc độ trung bình 15%/năm trong giai đoạn 2000-2010 mà Đảng và
Nhà nước đã đặt ra thì bản thân các doanh nghiệp cũng như Nhà nước ta cần nỗ
lực nhiều hơn nữa. Trong đó, các doanh nghiệp ngoại thương phải cần tích cực
tăng cường năng lực cạnh tranh, nâng cao chất lượng sản phẩm để có thể đáp ứng
các yêu cầu mà các thị trường nhập khẩu đặt ra. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần
thực hiện các giải pháp ở cấp vĩ mô để giúp các doanh nghiệp vượt rào cản.
Tóm lại, rào cản kỹ thuật là một hình thức mới của rào cản thương mại và có tác
động to lớn tới thương mại quốc tế. Các doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện
ngay những biện pháp cần thiết để vượt qua các rào cản kỹ thuật này, tiếp cận và
mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu góp phần phát triển nền kinh tế đất nước.
PHỤ LỤC
(1) Những biện pháp cấp bách hạn chế dư lượng kháng sinh trong thuỷ hải sản
xuất khẩu – Thanh Thuý, Tạp chí Doanh nghiệp thương mại, số 160, 2002
(2) Foodmarketexchange, 19/11/2002
(3) www.nationmaster.com/country/eu/economy
(4) Báo cáo của Eurostat, 2003
(5) www.cia.gov/cia/publications/factbook/goes/us
(6) www.nationmaster.com/country/ja/economy
(7) www.exim-pro.com/kinhte/thitruong/nhatban
(8) www.exim-pro.com/kinhte/thitruong/hanquoc
(9) Giáo trình Kinh tế Ngoại thương, GS. Bùi Xuân Lưu, ĐH Ngoại thương, 2001
(10) Niên giám thống kê 2002, NXB Thống kê, 2003
(11) Xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam, Tổng cục Thống kê, NXB Thống
kê, 2002
(12) http//khoahoc.vnn.vn/iso/ds
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Viện nghiên cứu chiến lược, Việt Nam trên đường hội nhập và thị
trường
chính sách công nghiệp, thế giới – NXB Thanh niên, 2003
Tạp chí công nghiệp
2. Trung tâm tư vấn và đào tạo Thị trường Nhật Bản - NXB Thanh niên,
kinh tế thương mại (ICTC) 1997
Tổ chức xúc tiến thương mại
Nhật Bản (JETRO)
3. G.S. Bùi Xuân Lưu Giáo trình Kinh tế Ngoại thương - ĐH
Ngoại thương, Hà Nội, 2001
4.T.S. Bùi Hữu Đạo Hệ thống rào cản môi trường trong thương
mại quốc tế và một số giải pháp đối với
hàng xuất khẩu của Việt Nam - Tạp chí
Thương mại, số 26/2003
5. Nguyễn Thanh Bình Một số vấn đề cần chú ý đối với hàng
hoánhập khẩu vào EU – Tạp chí Thương
mại, số 26/2003
6. Trần Sửu Một số điều cần biết khi xuất khẩu sản
phẩm vào Mỹ – Kỷ yếu Hội nghị khoa
học, Khoa QTKD, ĐH Ngoại thương,
2000
7. Trần Thanh Lâm Nhãn sinh thái hàng hoá và phát triển
thương mại bền vững trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam – Tạp chí
Kinh tế và phát triển, số 15/2003
8. Nguyễn Huyền Trâm ISO 9000 – Kỷ yếu hội nghị khoa học,
Khoa QTKD, ĐH Ngoại thương, 2000
9. T.S. Bùi Hữu Đạo Hệ thống quản lý chất lượng- công cụ để
nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp-
Tạp chí Thương mại, số 17/2003
10. Thanh Thuý Những biện pháp cấp bách hạn chế dư
lượng kháng sinh trong sản phẩm thuỷ sản
– Báo Doanh nghiệp thương mại, số
160/2002
11. Nguyễn Thanh Bình Thị trường Nhật Bản-Một số vấn đề cần
lưu
ý khi thâm nhập - Kỷ yếu Hội nghị khoa
học Khoa KTNT, ĐH Ngoại thương, 2000
12. PV Để xuất khẩu hải sản vào Australia – Báo
Doanh nghiệp thương mại, số 185/2003
13. T.S. Hồ Tất Thắng Hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng
với hội nhập kinh tế quốc tế – Tạp chí Tiêu
chuẩn đo lường chất lượng, số 11/2002
14. T.S. Đinh Công Tuấn Vấn đề bảo hộ đối với sản phẩm nông ,lâm,
thuỷ sản ở thị trường EU - Nghiên cứu
châu
Âu, số 3/2003
15. Các trang web www.dongnai-industry.gov.vn
www.customs.gov
www.exim-pro.com/kinhte/thitruong
www.tcvn.gov.vn/wtcvn/newsraocan
www.vneconomy.com.vn
www.cia.gov/cia/publication/factbook
www.natonmaster.com/country
www.jisc.org
www.standards.com.au
www.smenet.com.vn/tiengviet/eu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dao_t_t_huong_1552.pdf