Thương mại quốc tế những thập niên gần đây đã có bước tăng trưởng đột biến cả về chất và lượng. Song song với sự tăng trưởng mạnh mẽ này, các khu vực và quốc gia trên thế giới cũng đã và đang tích cực mở cửa thị trường nội địa của mình để phù hợp với xu hướng tự do hoá thương mại - một xu thế khách quan, là nền tảng của sự phát triển, đưa các quốc gia xích lại gần nhau, thân thiện hơn trong quan hệ sản xuất, kinh doanh và chia sẻ thịnh vượng chung. Tuy nhiên, càng thực hiện tự do hoá thương mại, càng mở cửa, thì cạnh tranh giữa các quốc gia, các khu vực cũng theo đó càng gay gắt. Với thực tế đó và để giữ vững quyền lợi của mình, các quốc gia đồng thời thực hiện các chính sách theo hai xu thế trái ngược: một mặt tăng cường đổi mới công nghệ, nâng cao kỹ năng quản lý, tăng chất lượng, giảm giá thành; mặt khác tăng cường bảo hộ trong nước thông qua những hàng rào thương mại. Thực tế cho thấy, không một quốc gia nào, dù là nước có nền kinh tế hùng mạnh như Mỹ hay Nhật Bản lại không có nhu cầu bảo hộ nền sản xuất trong nước cũng như tăng cường xâm nhập thị trường nước ngoài nhằm tối đa hoá lợi ích. Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), kể từ khi được thành lập, đã có những nỗ lực rất lớn trong việc điều chỉnh các rào cản thương mại quốc tế thông qua việc khuyến khích và ép buộc các thành viên giảm thuế, xoá bỏ hàng rào phi thuế. Tuy nhiên, lợi ích kinh tế lại là một điều rất hấp dẫn đối với con người, ở mọi chế độ và thời đại. Vì vậy, bất chấp những nỗ lực của WTO, song song với việc xoá bỏ những rào cản thương mại hữu hình, dễ phát hiện, các nước ngày càng có xu thế tạo nên những rào cản vô hình mà thoạt nhìn qua, nhiều người sẽ lầm tưởng đó là những chính sách, quy định, yêu cầu có vẻ hợp lý nhưng thực chất đó là những biện pháp cạnh tranh không lành mạnh.
Với tinh thần hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, Việt Nam đã gia nhập nhiều tổ chức khu vực và quốc tế như: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hợp tác Á - Âu (ASEM), Hiệp định Thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) . và mới đây nhất là gia nhập WTO. Việc gia nhập WTO đã mang lại cho Việt Nam nhiều thuận lợi trong việc đưa các mặt hàng xuất khẩu chủ lực – trong đó có hàng dệt may - xâm nhập vào các thị trường rộng lớn, nhất là thị trường đầy tiềm năng như Hoa Kỳ. Tuy nhiên, thị trường Hoa Kỳ cũng lại là thị trường chứa đựng nhiều rào cản thương mại phức tạp và đa dạng nhất. Việc nhận biết, hiểu rõ những rào cản thương mại này là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có đối sách phù hợp trong quá trình mở rộng thị trường tại Hoa Kỳ. Mặc dù vậy, hiện nay mới chỉ có những đề tài nghiên cứu về rào cản thương mại trên thế giới nói chung chứ chưa có một đề tài nào tập trung nghiên cứu các rào cản thương mại đối với một mặt hàng xuất khẩu chủ lực như dệt may tại một thị trường khó tính như thị trường Mỹ. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu hoàn thành luận văn thạc sỹ của mình. Đề tài sẽ đề cập đến những kiến thức cơ bản và mới nhất về các rào cản thương mại mà Hoa Kỳ áp dụng đối với các sản phẩm dệt may, đồng thời cũng đưa ra những kiến nghị với chính phủ và các giải pháp thực tiễn, cụ thể cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ RÀO CẢN THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ KINH NGHIỆM VƯỢT QUA RÀO CẢN THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY CỦA MỘT SỐ NƯỚC 5
1.1 Một số vấn đề chung về rào cản trong thương mại quốc tế. 5
1.1.1 Khái niệm rào cản thương mại quốc tế. 5
1.1.2 Sự hình thành các loại rào cản trong thương mại quốc tế. 5
1.1.3 Phân loại các loại rào cản. 5
1.1.4 Xu thế phát triển của các loại rào cản thương mại 6
1.2 Rào cản đối với hàng dệt may trong thương mại quốc tế. 7
1.2.1 Sự hình thành rào cản thương mại đối với hàng dệt may. 7
1.2.2 Đặc điểm của các rào cản đối với hàng dệt may trong thương mại quốc tế. 8
1.3 Sự cần thiết phải vượt qua rào cản thương mại nói chung và rào cản đối với hàng dệt may nói riêng 8
1.3.1 Khái niệm vượt qua rào cản thương mại 9
1.3.2 Sự cần thiết phải vượt qua rào cản thương mại 9
1.4 Kinh nghiệm vượt qua rào cản thương mại đối với hàng dệt may của một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 9
1.4.1 Trung Quốc. 9
1.4.2 Ấn Độ. 9
1.4.3 Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 9
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG VƯỢT QUA RÀO CẢN THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM NHẬP KHẨU VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ 11
2.1 Lịch sử hình thành và phát triển các rào cản thương mại đối với hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường Mỹ. 11
2.2 Thực trạng các rào cản thương mại đối với hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường Mỹ và kết quả nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ Việt Nam 13
2.2.1 Thực trạng các rào cản thương mại đối với hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường Mỹ 13
2.2.2 Tình hình nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam của Mỹ. 22
2.3 Các biện pháp Việt Nam đã áp dụng để vượt qua các rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam 36
2.3.1 Các biện pháp từ phía của Chính phủ. 36
2.3.2 Các biện pháp từ phía Hiệp hội dệt may. 42
2.3.3 Các biện pháp từ phía các doanh nghiệp. 43
2.4 Đánh giá thực trạng trong việc vượt qua rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam 45
2.4.1 Những ưu điểm trong việc vượt qua các rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam 45
2.4.2 Những tồn tại, hạn chế trong việc vượt qua các rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam 46
2.4.3 Nguyên nhân của các tồn tại 48
CHƯƠNG 3 CÁC GIẢI PHÁP VƯỢT QUA RÀO CẢN THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM NHẬP KHẨU VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ 51
3.1 Cơ hội và thách thức của việc Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ khi là thành viên chính thức của WTO 51
3.1.1 Cơ hội xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ. 51
3.1.2 Thách thức đối với xuất khẩu dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ khi Việt Nam là thành viên của WTO 52
3.2 Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến 2015. 53
3.2.1 Quan điểm phát triển của ngành dệt may. 53
3.2.2 Mục tiêu chiến lược của ngành dệt may. 54
3.2.3 Định hướng phát triển cho ngành dệt may. 55
3.3 Dự báo về thị trường dệt may Mỹ đến năm 2010 và những rào cản thương mại đối với hàng dệt may của Mỹ. 56
3.4 Một số quan điểm về vượt qua các rào cản thương mại dệt may của Mỹ đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam 58
3.5 Một số giải pháp vượt qua các rào cản thương mại đối với hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. 59
3.5.1 Giải pháp từ phía Chính phủ. 59
3.5.2 Giải pháp từ phía Hiệp hội dệt may. 62
3.5.3 Giải pháp từ phía doanh nghiệp. 65
KẾT LUẬN 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 73
76 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2915 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợc đầu tư chiều sâu, như các máy văng sấy Monforts, máy nhuộm liên tục Monforts ở Công ty Dệt Việt Thắng; các máy in lưới quay Stork, máy in lưới phẳng Buser ở hai Công ty Dệt- May thắng Lợi và Dệt 8- 3; các máy nhuộm “khí động lực” (Air- Jet) do được chế tạo ở Dệt kim Đông Xuân và Dệt 8-3; máy làm bóng trục mới của Công ty Dệt Nam Định, hệ thống máy xử lý trước- xử lý hoàn tất vải pha len của Công ty Dệt lụa Nam Định và Công ty 28 (Bộ Quốc phòng) v.v... Và gần đây nhất là dây chuyền thiết bị hiện đại của Công ty Nhuộm Yên Mỹ vừa đi vào sản xuất. Tuy nhiên, xét về tổng thể, ngành nhuộm- in hoa- xử lý hoàn tất Việt Nam vẫn còn đang áp dụng các công nghệ và máy móc thiết bị “truyền thống”. Do vậy năng suất chưa cao, chất lượng chưa thật tốt và sử dụng nhiều hoá chất, thuốc nhuộm, tốn nhiều nước và năng lượng, giá thành cao đã làm giảm tính cạnh tranh trên thương trường. Ngoài ra, còn để lại hậu quả là lượng nước thải nhiều và bị ô nhiễm nặng nề, rất tốn kém khi phải xử lý nước thải.
Một số công ty cũng rất quan tâm đến các vấn đề liên quan đến trách nhiệm xã hội. Ví dụ, ở công ty May 10, bình quân hàng năm, công ty đón tiếp hàng chục đoàn của các đối tác nước ngoài đến kiểm tra tình hình thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động. Đặc biệt, năm 2003, công ty đón tiếp 40 đoàn; 10 tháng đầu năm 2004 là 50 đoàn. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các đoàn kiểm tra, công ty đã đầu tư hàng trăm triệu đồng trang bị thẻ từ, bảng chấm công điện tử... giúp cho việc kiểm tra số giờ làm thêm của công nhân được dễ dàng và minh bạch. Để kiểm tra việc có sử dụng lao động vị thành niên hay không, trong hồ sơ tuyển dụng lao động, công ty có đầy đủ các loại giấy tờ hợp lệ theo yêu cầu của đối tác nước ngoài như: chứng minh thư nhân dân, giấy khai sinh, sổ hộ khẩu, giấy kiểm tra sức khoẻ... Đối với các phân xưởng sản xuất, công ty đã trang bị đầy đủ hệ thống chiếu sáng, thông gió, thiết bị y tế, phòng cháy chữa cháy, có cửa thoát hiểm cho người lao động khi có sự cố. Về công tác an ninh doanh nghiệp, ngoài hệ thống bảo vệ chặt chẽ nghiêm ngặt, kiểm soát, kiểm tra tỉ mỉ những người ra vào, công ty còn có các giải pháp kiểm tra, giám sát những người làm việc tại các bộ phận quan trọng như kiểm tra chất lượng hàng, đóng gói hàng, nhập - xuất hàng... kiên quyết không xảy ra những sai sót, dù nhỏ trong công tác giao nhận hàng.
Tuy nhiên, những công ty thực sự quan tâm đến vấn đề trách nhiệm xã hội như May 10 còn ít; việc áp dụng và thực hiện các tiêu chuẩn phù hợp với SA 8000 còn rời rạc, chưa có tính đồng bộ và nhất quán
Đánh giá thực trạng trong việc vượt qua rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam
Những ưu điểm trong việc vượt qua các rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam
Từ phía Chính phủ:
Đánh giá được tầm quan trọng của xu hướng tự do hoá thương mại thế giới nên đã tích cực đàm phán, ký kết hiệp định song phương với Mỹ; kiên trì theo đuổi các vòng đàm phán gia nhập WTO
Có các biện pháp đối phó với các rào cản thương mại mà Mỹ dựng nên trong thương mại giữa hai nước qua các thời kỳ.
Hỗ trợ các doanh nghiệp các thông tin về rào cản kỹ thuật theo yêu cầu của WTO
Từ phía Hiệp hội dệt may
Có góp ý, kiến nghị với Chính phủ để bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp thành viên khi Chính phủ đưa ra các biện pháp đối phó với các rào cản đối với hàng dệt may do Mỹ dựng lên như trong việc phân bổ hạn ngạch, việc thành lập Tổ kiểm tra cơ động hàng dệt may.
Tham gia tổ chức quản lý, giám sát hàng dệt may trong nước nhằm giúp các doanh nghiệp dệt may trong nước đi đúng hướng, tránh được các vụ kiện bán phá giá từ phía các doanh nghiệp Mỹ
Mở rộng hoạt động ra quốc tế bằng việc tác động đến Hiệp hội các doanh nghiệp nhập khẩu hàng dệt may, các tổ chức người tiêu dùng của Mỹ để các tổ chức này có tác động ngược lại đến Chính phủ Mỹ trong việc xoá bỏ các chính sách bất hợp lý đối với Việt Nam.
- Từ phía doanh nghiệp: các doanh nghiệp đã chú ý đến việc đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn về môi trường và trách nhiệm xã hội (nêu ví dụ về một số công ty dệt may như dệt Việt Thắng, dệt may Thắng Lợi, may 10)
Những tồn tại, hạn chế trong việc vượt qua các rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam
Từ phía Chính phủ:
Các biện pháp đối phó với các rào cản thương mại do Mỹ dựng nên còn nhiều bất cập. Ví dụ: theo thông tư liên tịch giữa bộ Kế hoạch đầu tư, bộ Công nghiệp và bộ Thương mại ngày 27/05/2003, những doanh nghiệp có thành tích xuất khẩu năm 2002 và 3 tháng đầu 2003 được ưu tiên giao hạn ngạch song thực tế là có các doanh nghiệp (nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) năm 2002 chưa xuất khẩu nhưng đã đầu tư rất nhiều trong năm 2003, nếu áp dụng tiêu chí này thì chắc chắn sẽ bị thiệt. Hơn nữa, chưa có tiêu chí cụ thể để xác định năng lực sản xuất. Con số 3% ưu tiên cho thương nhân ký hợp đồng trực tiếp với nhà nhập khẩu và phân phối lớn của Mỹ tuy nhỏ nhưng gây thắc mắc vì nó dành cho các nhà nhập khẩu Mỹ, trong lúc các nhà xuất khẩu trong nước còn đang thiếu rất nhiều hạn ngạch. Việc hạn ngạch được phân bổ chứ không đấu thầu cũng thúc đẩy nhiều doanh nghiệp đi đường vòng, làm theo cơ chế xin - cho. Tổ phân bổ hạn ngạch cũng chưa đưa công thức, danh sách phân bổ lên mạng để các doanh nghiệp có cơ sở so sánh, đối chiếu cũng như minh bạch hoá quá trình này; hình thức cấp giấy phép nhập khẩu (E/L) để kiểm soát hàng dệt may còn nặng về mặt hành chính, hạn chế khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp;...
Đối với rào cản kỹ thuật về môi trường (hàng rào xanh) thì chính phủ mới chỉ khuyến khích áp dụng các tiêu chuẩn trong sản xuất, chưa xây dựng được một bộ tiêu chuẩn riêng, phù hợp với thông lệ quốc tế cho ngành dệt may. Ngành dệt có gần 200 tiêu chuẩn trong đó có tới 72 tiêu chuẩn cần phải xem xét hoặc thay thế do không còn phù hợp với xu thế chung, 49 tiêu chuẩn cần được xây dựng mới tập trung vào các phương pháp xác định tồn dư kim loại và hóa chất có tác động đến con người; bổ sung thêm các nội dung về quy cách ghi nhãn hàng hóa, bao gói; xây dựng và ban hành danh mục thuốc nhuộm độc hại không được phép sử dụng tại Việt Nam và các quy định không được sử dụng các nguyên liệu dệt có sử dụng thuốc nhuộm trong danh mục này.
Từ phía Hiệp hội dệt may:
Hiệp hội vẫn chưa thực sự có sức cạnh tranh và sự liên kết chặt chẽ. Vẫn còn xảy ra hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh giữa các hội viên (tranh mua, tranh bán). Việc vi phạm nghị quyết của Hiệp hội vẫn còn tồn tại trong khi cơ chế ngăn chặn và xử lý lại kém hiệu quả. Hiệp hội với sự tham gia chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia còn ít và chưa có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia Hiệp hội. Vai trò của Hiệp hội mới dừng ở mức đưa ra ý kiến, góp ý. Tiếng nói của Hiệp hội chưa có sức mạnh đủ để bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp dệt may thành viên.
Từ phía các doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam kém ưu thế hơn doanh nghiệp các nước xuất khẩu của nhóm các nước Caribe, Canada và Mêhicô vì các nước này được hưởng mức thuế quan phổ cập GSP là 0% trong khi mức thuế thông thương của hàng Việt Nam là 15. Các nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan tuy có chung mức thuế với Việt Nam nhưng lại có thế mạnh về nguyên phụ liệu.
Đầu tư vào cơ sở sản xuất để vượt qua các rào cản về môi trường còn ít. Một số nhà quản lý, điều hành doanh nghiệp chưa được trang bị kiến thức hoặc hiểu biết còn hạn chế về những yêu cầu “xanh” đối với những sản phẩm dệt may xuất khẩu. Tình trạng các công ty, xí nghiệp trong dây chuyền nhuộm hoàn tất vẫn còn sử dụng một số hoá chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái, sức khoẻ người lao động và thậm chí đến cả người sử dụng sản phẩm. Điển hình nhất là trong quá trình hồ sợi, do sử dụng nhiều hoá chất độc hại nên ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn nước, làm tăng tải lượng COD trong nước thải khó xử lý vi sinh. Nước thải rũ hồ thông thường chứa 4.000 đến 8.000 mg/l COD. Kỹ thuật giảm trọng polieste bông kiềm được áp dụng phổ biến làm sản sinh một lượng lớn terephtalat và glycol trong nước thải sử dụng 5-6 lần, đưa COD có thể lên tới 80.000mg/l. Nếu như tình hình ô nhiễm môi trường gia tăng do không kiểm soát được thì các doanh nghiệp phải đầu tư rất nhiều kinh phí cho việc xử lý môi trường, đáp ứng được các quy định về môi trường.
Nguyên nhân của các tồn tại
Từ phía Chính phủ
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản dưới luật chưa đầy đủ:
Việc biên soạn, chỉnh sửa các bộ tiêu chuẩn về môi trường trong ngành dệt còn chưa kịp thời
Các quy định về việc áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường còn chung chung
Chưa có chế tài cụ thể đối với một số doanh nghiệp có các tiêu chuẩn sản xuất, tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội thấp; các doanh nghiệp hạ giá cục bộ ảnh hưởng chung đến việc xuất khẩu của ngành.
Các quy định về vai trò, nhiệm vụ, chức năng của Hiệp hội dệt may còn chưa rõ ràng dẫn đến việc các Bộ, ban, ngành chưa hiểu đúng về Hiệp hội, chưa coi trọng vai trò của Hiệp hội trong việc cùng Chính phủ vượt qua các rào cản đối với hàng dệt may của Mỹ.
Chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các bộ, ban, ngành trong việc đưa ra các quy định, các quyết định điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp dệt may trong các tình huống phát sinh như phân bổ hạn ngạch, giám sát hàng dệt may,...
Chưa chủ động, tích cực đối phó với những rào cản thương mại đối với hàng dệt may mà thị trường Mỹ dựng lên. Ví dụ: việc hàng dệt may Việt Nam bị áp dụng chế độ hạn ngạch năm 2003 sau khi Việt Nam và Mỹ ký kết hiệp định thương mại song phương là có thể thấy trước được. Tuy nhiên, việc phân bổ hạn ngạch lại thiếu khoa học, hết sức chậm trễ, chưa có sự chuẩn bị trước.
Việc hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may nâng cao nhận thức về các vấn đề liên quan đến trách nhiệm xã hội và sở hữu trí tuệ còn chưa được quan tâm đúng mức
Từ phía Hiệp hội dệt may
Cơ cấu tổ chức của Hiệp hội còn thiếu chặt chẽ, chưa phát huy được hết hiệu quả hoạt động:
Hiệp hội chưa có bộ phận thông tin riêng để thu thập và xử lý các thông tin về thị trường Mỹ - thị trường hàng dệt may lớn nhất và nhiều tiềm năng nhất của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
Bộ phận hỗ trợ luật pháp chưa nắm bắt các thông tin kịp thời để hướng dẫn và trợ giúp cho các doanh nghiệp khởi kiện và kháng kiện trong các vụ kiện bán phá giá.
Chưa khẳng định được vai trò định hướng của Hiệp hội trong việc điều hoà quy mô sản xuất và xuất khẩu, giá cả sản phẩm dệt may để tránh các vụ kiện bán phá giá, điều tra về trợ cấp
Các hoạt động của Hiệp hội mới chỉ tập trung trong nước, ít mở rộng ảnh hưởng ra phạm vi khu vực và quốc tế nên chưa thể hiện được tầm quan trọng của Hiệp hội.
Từ phía doanh nghiệp
Hiểu biết về luật pháp Mỹ và khả năng thích ứng với môi trường cạnh tranh quốc tế còn ở mức thấp
Hệ thống kế toán, hồ sơ lưu trữ còn chưa khoa học; khó cung cấp thông tin trong trường hợp bị kiện bán phá giá
Chưa chú trọng đến các tiêu chuẩn kỹ thuật, các tiêu chuẩn về môi trường và trách nhiệm xã hội
Tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm xuất khẩu còn thấp nên chưa được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP)
Tóm lại, chương 2 đã nghiên cứu sâu hơn về các rào cản của Mỹ đối với hàng dệt may, ảnh hưởng của các rào cản này đến việc xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ, các biện pháp mà Chính phủ, Hiệp hội dệt may cũng như các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã áp dụng để vượt qua các rào cản. Chương 2 cũng chỉ ra ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại làm cơ sở đưa ra những giải pháp khắc phục ở chương 3.
CÁC GIẢI PHÁP VƯỢT QUA RÀO CẢN THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM NHẬP KHẨU VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ
Sau khi phân tích thực trạng nhập khẩu của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam, các rào cản của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam, rút ra các tồn tại, hạn chế của các biện pháp mà Chính phủ, Hiệp hội và các doanh nghiệp Việt Nam đang nỗ lực thực hiện để vượt qua các rào cản ở chương 2, chương 3 sẽ đề xuất các giải pháp để vượt qua các rào cản đối với hàng dệt may Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Mỹ thông qua việc nghiên cứu chiến lược phát triển dệt may của Chính phủ Việt Nam đến năm 2015, tiềm năng thị trường tiêu thụ hàng dệt may của Mỹ cũng như những thuận lợi và khó khăn mà Việt Nam gặp phải khi gia nhập WTO.
Cơ hội và thách thức của việc Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ khi là thành viên chính thức của WTO
Cơ hội xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ
Khi Việt Nam gia nhập WTO, Mỹ buộc phải bãi bỏ hạn ngạch với hàng dệt may của Việt Nam. Nhờ đó, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này, tăng quy mô sản xuất từ đó hưởng tính lợi ích kinh tế nhờ quy mô
Việc phân bổ hạn ngạch dệt may theo Hiệp định ATC đã làm tăng chi phí xuất khẩu cho doanh nghiệp. Chi phí này chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng chi phí xuất khẩu đối với Việt Nam, chi phí do hạn ngạch sinh ra đối với mặt hàng dệt xuất khẩu sang Mỹ chiếm 6.9% tổng chi phí, đối với mặt hàng may mặc vào thị trường này là 7.1%. Với việc gia nhập WTO, Mỹ phải xoá bỏ hạn ngạch đối với Việt Nam, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sẽ có điều kiện giảm giá xuất khẩu do không phải mất chi phí do việc cấp hạn ngạch gây ra
Theo nguyên tắc minh bạch hóa chính sách, trong quá trình gia nhập WTO, Việt Nam phải minh bạch hoá toàn bộ các chính sách liên quan đến thương mại của mình và thông báo các kế hoạch hành động để tuân thủ dần dần các nguyên tắc của WTO. Thông qua quá trình này, khuôn khổ pháp lý của Việt Nam về ngành dệt may sẽ minh bạch hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh và khuyến khích thương mại, đầu tư cũng như hợp tác về các vấn đề khác với cộng đồng quốc tế. Việt Nam sẽ có cơ hội đàm phán với Mỹ khi có phát sinh tranh chấp theo quy định của WTO. Ví dụ, về bán phá giá, theo quy định của WTO, các nước thành viên có quyền khiếu kiện lên WTO và yêu cầu quốc gia khởi kiện ngồi vào bàn thương lượng nếu nước thành viên đó không chấp nhận kết luận của chính phủ nước khởi kiện. Ngay cả khi không thể thay đổi được những quyết định trừng phạt, sau thời hạn năm năm kể từ ngày bị áp thuế chống phá giá, doanh nghiệp có quyền nộp kháng nghị phúc thẩm. Đây là một lợi ích quan trọng của các thành viên WTO.
Thách thức đối với xuất khẩu dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ khi Việt Nam là thành viên của WTO
Khi Việt Nam gia nhập WTO, lượng hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường Mỹ sẽ tăng mạnh, dẫn tới nguy cơ bị áp dụng các biện pháp tự vệ và chống bán phá giá của Mỹ. Mặc dù so với Trung Quốc, ngành dệt may Việt Nam có năng lực chỉ bằng 1/50 và hiện chỉ chiếm 3% thị phần hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ và Việt Nam đa phần chỉ xuất khẩu hàng may sẵn nhưng ngay khi Việt Nam gia nhập WTO, Mỹ đã áp dụng cơ chế kiểm soát dệt may đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam, một biện pháp nhằm thu thập các số liệu điều tra về bán phá giá của dệt may Việt Nam. Biện pháp này có khả năng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao và ảnh hưởng xấu tới ngành dệt may do đặc thù của ngành là thời gian từ khi ký kết hợp đồng – thu xếp vải, nguyên phụ liệu – sản xuất, giao hàng kéo dài từ 4-5 tháng. Việc các nước nhập khẩu có quyền áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu hàng dệt may vào bất cứ thời điểm nào sẽ làm tăng tính bất ổn và gây thiệt hại nghiêm trọng đối với các nhà xuất khẩu và nhập khẩu do sản xuất bị dở dang. Bên cạnh đó, Việt Nam lại chưa được công nhận là nền kinh tế thị trường nên sẽ có nhiều bất lợi khi Mỹ tiến hành điều tra về việc bán phá giá.
Ngành dệt may chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng do các hình thức trợ cấp hiện tại bị bãi bỏ hoặc cắt giảm: Việt Nam sẽ phải cam kết bãi bỏ ngay từ thời điểm gia nhập hình thức trợ cấp dưới dạng cấp phát tiền trực tiếp cho doanh nghiệp theo doanh số xuất khẩu khi tham gia các chương trình xúc tiến thương mại và trên thực tế Việt Nam đã bỏ hình thức trợ cấp này từ tháng 7/2005. Như vậy, tác động đối với ngành dệt may đến từ việc Việt Nam sẽ phải cắt giảm 3 hình thức ưu đãi còn lại: ưu đãi về tín dụng, ưu đãi về đầu tư, bảo lãnh tín dụng. Như vậy, ngành dệt may sẽ nhận được ít hỗ trợ hơn từ phía Chính phủ, do đó sẽ bị ảnh hưởng sau khi Việt Nam gia nhập. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng cụ thể còn tùy thuộc vào khả năng chủ động, lường trước khó khăn và chủ động điều chỉnh chính sách sản xuất và xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp.
Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến 2015
Ngày 10/03/2008, Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số 36/2008/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược phát triển ngành dệt may đến 2015, định hướng 2020. Chiến lược đã nêu lên quan điểm phát triển, đề ra các mục tiêu, định hướng phát triển và nêu ra các giải pháp thực hiện chiến lược.
Quan điểm phát triển của ngành dệt may
Phát triển ngành Dệt May theo hướng chuyên môn hoá, hiện đại hóa, nhằm tạo ra bước nhảy vọt về chất và lượng sản phẩm. Tạo điều kiện cho ngành Dệt May Việt Nam tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững và hiệu quả. Khắc phục những điểm yếu của ngành dệt may là thương hiệu của các doanh nghiệp còn yếu, mẫu mã thời trang chưa được quan tâm, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, cung cấp nguyên phụ liệu vừa thiếu, vừa không kịp thời.
Lấy xuất khẩu làm mục tiêu cho phát triển của ngành, mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời phát triển tối đa thị trường nội địa. Tập trung phát triển mạnh các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, sản xuất nguyên phụ liệu, giảm nhập siêu, nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm trong ngành.
Phát triển ngành Dệt May phải gắn với bảo vệ môi trường và xu thế dịch chuyển lao động nông nghiệp nông thôn. Di chuyển các cơ sở gây ô nhiễm môi trường vào các Khu, Cụm Công nghiệp tập trung để tạo điều kiện xử lý môi trường. Chuyển các doanh nghiệp Dệt May sử dụng nhiều lao động về các vùng nông thôn, đồng thời phát triển thị trường thời trang Dệt May Việt Nam tại các đô thị và thành phố lớn.
Đa dạng hóa sở hữu và loại hình doanh nghiệp trong ngành Dệt May, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước để đầu tư phát triển Dệt May Việt Nam. Trong đó chú trọng kêu gọi những nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vào những lĩnh vực mà các nhà đầu tư trong nước còn yếu và thiếu kinh nghiệm.
Phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng cho sự phát triển bền vững của ngành Dệt May Việt Nam; Trong đó, chú trọng đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề nhằm tạo ra đội ngũ doanh nhân giỏi, cán bộ, công nhân lành nghề, chuyên sâu.
Mục tiêu chiến lược của ngành dệt may
Mục tiêu tổng quát
Phát triển ngành Dệt May trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới.
Mục tiêu cụ thể của ngành dệt may
Tốc độ tăng trưởng
Giai đoạn 2008-2010
Giai đoạn 2011-2020
- Tăng trưởng sản xuất hàng năm
16 - 18 %
12 - 14 %
- Tăng trưởng xuất khẩu hàng năm
20 %
15 %
Các chỉ tiêu chủ yếu trong Chiến lược phát triển ngành Dệt May Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 như sau:
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Thực hiện
2006
Mục tiêu toàn ngành đến
2010
2015
2020
1. Doanh thu
triệu USD
7.800
14.800
22.500
31.000
2. Xuất khẩu
triệu USD
5.834
12.000
18.000
25.000
3. Sử dụng lao động
nghìn người
2.150
2.500
2.750
3.000
4. Tỷ lệ nội địa hoá
%
32
50
60
70
5. Sản phẩm chính:
- Bông xơ
1000 tấn
8
20
40
60
- Xơ, Sợi tổng hợp
1000 tấn
-
120
210
300
- Sợi các loại
1000 tấn
265
350
500
650
- Vải
triệu m2
575
1.000
1.500
2.000
- Sản phẩm may
triệu SP
1.212
1.800
2.850
4.000
Định hướng phát triển cho ngành dệt may
Nghị định cũng đưa ra những định hướng phát triển cho ngành dệt may. Các định hướng này tập trung vào ba khía cạnh chính: sản phẩm, đầu tư và phát triển sản xuất, bảo vệ môi trường. Trong đó, định hướng về bảo vệ môi trường cho thấy sự quan tâm lớn của chính phủ trong việc vượt qua những rào cản thương mại của các nước nhập khẩu nói chung và của Mỹ nói riêng.
Nội dung của định hướng bảo vệ môi trường:
Xây dựng Báo cáo đánh giá tác động môi trường phù hợp với Chiến lược phát triển ngành Dệt May và các quy định pháp luật về môi trường.
Tập trung xử lý triệt để các cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Triển khai xây dựng các Khu, Cụm Công nghiệp Dệt May có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đạt tiêu chuẩn môi trường để di dời các cơ sở dệt may có nguy cơ gây ô nhiễm vào khu công nghiệp.
Triển khai Chương trình sản xuất sạch hơn trong ngành Dệt May, khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn quản lý môi trường theo ISO 14000, tạo môi trường lao động tốt cho người lao động theo tiêu chuẩn SA 8000.
Xây dựng và thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ trong ngành Dệt May theo hướng thân thiện với môi trường.
Tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học công nghệ về môi trường.
Đáp ứng các yêu cầu về môi trường và rào cản kỹ thuật để hội nhập kinh tế quốc tế.
Dự báo về thị trường dệt may Mỹ đến năm 2010 và những rào cản thương mại đối với hàng dệt may của Mỹ
Mỹ là thị trường khổng lồ với số dân khoảng 300 triệu người và GDP đạt mức 11 nghìn tỷ USD. Hiện tại Mỹ nhập hàng hoá từ 170 quốc gia với đủ chủng loại sản phẩm, từ cao cấp như ôtô, máy bay, các thiết bị điện công nghiệp đến hàng tiêu dùng như quần áo, giấy dép, đồ chơi trẻ em… Do vậy, ngoại thương luôn là nguồn lực quan trọng làm giàu đất nước. Tăng trưởng thương mại và tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước là xu hướng chủ đạo trong nền kinh tế Mỹ trong thập kỷ qua. Xuất nhập khẩu của Mỹ tăng từ 10% GDP năm 1970 lên 25% năm 1997, và một phần ba mức tăng trưởng kinh tế là do mở rộng thương mại. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Mỹ không ngừng tăng lên, trong đó kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá chiếm tỷ trọng trên 80%, còn dịch vụ chỉ chiếm 20%.
Xã hội Mỹ là xã hội tiêu thụ bởi vì phần thu nhập dành cho tiêu dùng rất lớn. Thu nhập bình quân tính theo đầu người ở Mỹ là khoảng 36.200 USD năm 2000. Theo thống kê của Bộ Thương mại, Mỹ có khoảng 98 triệu hộ gia đình, trong đó khoảng 1 triệu hộ có tài sản trên 1 triệu USD, 5% số hộ có thu nhập hàng năm trên 10.000 USD. Số hộ còn lại có thể chia thành bốn nhóm: nhóm một: nhóm có thu nhập thấp nhất, khoảng 17000 USD/năm; nhóm hai: gồm những hộ có thu nhập khoảng 30.000 USD/năm; nhóm ba: gồm những hộ có thu nhập khoảng 45.000 USD/năm; và nhóm bốn: nhóm có thu nhập cao nhất, khoảng 67.000 USD/năm.
Qua các số liệu trên, có thể thấy rằng các hộ thuộc nhóm một (nhóm nghèo nhất) chỉ chiếm 15% dân số. Nhưng ngay cả nhóm này cũng có thu nhập cao hơn thu nhập bình quân của Việt Nam tới hơn 40 lần. Họ vẫn có sức mua đáng kể đối với hàng tiêu dùng các loại, đặc biệt là các hàng hoá bình dân có xuất xứ từ các nước đang phát triển. Người dân Mỹ có mức sống rất khác nhau nên nhu cầu tiêu dùng cũng khác nhau. Bởi vậy, hàng hoá nhập vào Mỹ cũng rất đa dạng về chủng loại và chất lượng, có cả hàng cao cấp và bình dân. Mỹ cũng nhập hàng và nguyên liệu từ nhiều nước khác, cả nước phát triển và nước đang phát triển, phục vụ cho những yêu cầu tiêu dùng khác nhau. Mỹ nhập khẩu hàng hoá từ hầu hết các nước trên thế giới. Trong số 170 nước xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ, Việt Nam đứng thứ 72. Các nước đứng đầu về xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ năm 1998 là Canađa, Nhật Bản, Mêhicô, Đức, Trung Quốc, Anh, Hàn Quốc, Đài Loan. Những loại hàng hoá Việt Nam đã xuất sang Mỹ và có tiềm năng khai thác thế mạnh của mình là thuỷ, hải sản, quần áo, giầy dép, hàng mây tre đan, đồ gốm, cao su, cà phê, dầu và khí đốt… Mỗi năm Mỹ nhập khoảng 50 tỷ USD giá trị nông sản; 200 tỷ USD nguyên liệu công nghiệp; 280 tỷ USD máy móc thiết bị; 150 tỷ USD ôtô, xe tải; 220 tỷ USD hàng tiêu dùng. Chỉ riêng hàng tiêu dùng, mỗi năm Mỹ nhập tới khoảng 200 tỷ USD.
Nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ tăng đều đặn trong suốt thời kỳ từ 1990 đến 2007 với tốc độ tăng bình quân khoảng 7,25%/năm. Với tốc độ này, dự báo nhập khẩu hàng dệt may Mỹ trong đến năm 2010 sẽ vào khoảng 103,31 tỷ USD. Hiện nay, nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam mới chỉ chiếm gần 3% kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ. Vì vậy, thị trường Mỹ là một thị trường đầy tiềm năng đối với ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam.
Tuy nhiên, để bảo vệ nền công nghiệp dệt may trong nước cũng như để đạt được những lợi ích về kinh tế, chính trị khác, Mỹ ngày càng đặt ra nhiều loại rào cản tinh vi, khó nhận biết hơn. Xu thế chung vẫn là nâng cao các rào cản về tiêu chuẩn kỹ thuật, bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội; tiếp tục sử dụng các rào cản thông qua các cam kết song phương như buộc nước xuất khẩu tự áp dụng hạn ngạch hay thực hiện cơ chế giám sát; xuất hiện các rào cản về thuế quan và vấn đề tiếp cận thị trường cho những nước không thuộc các khu vực thương mại tự do mà Mỹ tham gia,...
Một số quan điểm về vượt qua các rào cản thương mại dệt may của Mỹ đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam
Việc đối phó với các rào cản thương mại dệt may của Mỹ phải đáp ứng tốt yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Vượt qua các rào cản thương mại dệt may của Mỹ trên cơ sở nâng cao nhận thức của chính phủ, hiệp hội và các doanh nghiệp dệt may Việt Nam về tác động của các loại rào cản thương mại.
Tạo điều kiện nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, các doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Các doanh nghiệp nâng cao khả năng vượt qua các rào cản về kỹ thuật của hàng dệt may Việt Nam bằng cách nâng cao chất lượng tiêu chuẩn sản phẩm, gắn sản xuất với bảo vệ môi trường và quan tâm đến lợi ích của người lao động.
Nỗ lực đàm phán để được công nhận là nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong các vụ kiện bán phá giá và trợ cấp.
Nhanh chóng khắc phục những tồn tại, bất hợp lý của chính sách và cơ chế hiện hành đối với ngành dệt may, đồng thời từng bước chuẩn bị các điều kiện để sẵn sàng và chủ động đối phó với các rào cản mới.
Một số giải pháp vượt qua các rào cản thương mại đối với hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ
Việc gia nhập WTO mang lại cho ngành dệt may nhiều cơ hội cũng như thách thức khi muốn mở rộng thị trường tại Mỹ. Với tốc độ tăng trưởng, mức thu nhập bình quân đầu người cũng như nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm về dệt may ngày càng gia tăng, thị trường Mỹ sẽ là một thị trường đầy tiềm năng đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Dựa trên quan điểm phát triển của Chính phủ Việt Nam là phát triển ngành dệt may thành ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu, việc đề ra những giải pháp để vượt qua các rào cản về hàng dệt may của thị trường Mỹ - thị trường xuất khẩu lớn nhất của dệt may Việt Nam hiện nay là hết sức cần thiết.
Giải pháp từ phía Chính phủ
Căn cứ vào các tiêu chuẩn và các yêu cầu sinh thái của hàng dệt- may nhập khẩu vào thị trường Mỹ, Chính phủ cần xây dựng ngay những tiêu chuẩn cấp nhà nước hoặc cấp Bộ, cấp ngành để làm cơ sở phấn đấu cho các doanh nghiệp xuất khẩu, để nâng cao uy tín và sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam. Những tiêu chuẩn như thế sẽ tạo ra những sức ép “bên trong” nhằm tạo ra các sản phẩm “xanh” phù hợp.
Ban hành những quy định cụ thể về việc áp dụng các tiêu chuẩn môi trường đối với các doanh nghiệp dệt may, đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng nhiều loại hoá chất độc hại trong khâu nhuộm, xử lý vải,… Có chế tài đối với những doanh nghiệp không tuân thủ các quy định đã đề ra về môi trường, trách nhiệm xã hội và những doanh nghiệp cố tình hạ giá thành sản phẩm nhằm thu lợi cục bộ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích toàn ngành, gây ra nguy cơ bị kiện bán phá giá đối với sản phẩm dệt may.
Quy định rõ ràng, cụ thể về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Hiệp hội. Khẳng định Hiệp hội không phải là cơ quan thực hiện các biện pháp của Chính phủ nhằm đối phó với các rào cản thương mại của Mỹ mà là đại diện cho các doanh nghiệp dệt may, cùng chính phủ đưa ra các giải pháp khả thi, đảm bảo lợi ích cho các doanh nghiệp và cho cả quốc gia. Đồng thời, tạo cơ chế thông thoáng để hiệp hội tiếp tục phản ảnh nguyện vọng doanh nghiệp phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước để xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho ngành dệt may, bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp chống lại các rào cản trong khi xâm nhập thị trường quốc tế.
Tăng cường sự liên kết giữa các bộ, ban, ngành trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ. Bộ Công thương cần phối hợp với Tổng cục Hải quan triển khai nối mạng để cung cấp số liệu chi tiết xuất khẩu dệt may sang Hoa Kỳ như: số tờ khai Hải quan, loại hình kinh doanh, cửa khẩu xuất khẩu, mã HTS 10 số theo quy định của Hoa Kỳ, tên hàng, đơn vị tính, đơn giá, trị giá, mã ngoại tệ, mã đơn vị xuất nhập khẩu, địa chỉ, nguồn nhập khẩu... Qua đó, Bộ có thể nắm số liệu xuất khẩu, điều hành 2 chiều phục vụ cho công tác giám sát và quản lý giá.
Nhận thức đúng tác động của các rào cản thương mại của Mỹ đến xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam từ có các biện pháp vượt qua một cách chủ động, tích cực:
Đối với chương trình giám sát hàng dệt may: Có những biện pháp giám sát và quản lý giá bình quân, không để giá giảm đột ngột; tổng hợp số liệu kịp thời của năm nhóm hàng mà Mỹ đặt trong cơ chế giám sát; hạn chế các lô hàng đơn giản, đẳng cấp thấp và giá quá thấp; kiện toàn lại hệ thống sổ sách liên quan đến xuất xứ và chi phí đầu vào của lô hàng xuất khẩu. Bộ Công thương cần làm việc với Bộ thương mại Mỹ theo hướng giảm bớt các tác động, ảnh hưởng của cơ chế giám sát (giảm bớt diện mặt hàng có khả năng sản xuất ra khỏi danh sách bị giám sát) và minh bạch hoá các tiêu chí, điều kiện tự khởi động điều tra chống bán phá giá hàng dệt may Việt Nam của Mỹ để các nhà nhập khẩu nước ngoài và doanh nghiệp yên tâm sản xuất kinh doanh
Đối với các rào cản kỹ thuật: Tiếp tục củng cố điểm hỏi đáp về rào cản kỹ thuật thông qua việc: quy định rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ của điểm hỏi đáp; đảm bảo hỗ trợ đầy đủ về tài chính; nguyên tắc làm việc của điểm hỏi đáp phải rõ ràng, tuân thủ theo một quy trình cụ thể, nghiêm túc; đội ngũ nhân viên được tuyển chọn kỹ lưỡng, có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, trình độ tiếng Anh tốt, phong cách làm việc chuyên nghiệp, được trang bị các thiết bị văn phòng hiện đại; chủ động tham gia vào các cuộc họp của Uỷ ban TBT và các hoạt động có liên quan khác để có thể kịp thời nắm được xu thế và chủ động phối hợp trong công tác TBT, góp phần cập nhật các thông tin chính xác cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu.
Nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về tác động của các rào cản đối với hàng dệt may của Mỹ và hỗ trợ doanh nghiệp để vượt qua các rào cản về trách nhiệm xã hội và sở hữu trí tuệ:
Xây dựng hệ thống thông tin hữu ích về thị trường dệt may Mỹ. Chính phủ cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền và đào tạo để các doanh nghiệp hiểu một cách đầy đủ và sâu sắc về Hiệp định chống bán phá giá của WTO và các quy định về chống bán phá giá của Mỹ
Chính phủ một mặt cần phải lồng ghép vào chương trình phổ biến kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế để nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp về triển khai thực hiện và đăng ký để được cấp chứng chỉ SA 8000, mặt khác Chính phủ cũng cần hỗ trợ và tư vấn pháp luật và điều kiện vật chất để các doanh nghiệp dệt may có thể vượt qua rào cản này một cách tốt nhất
Hiện nay phần lớn hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu thông qua hình thức gia công, ít chịu tác động của rào cản về nhãn hiệu. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu, hàng dệt may Việt Nam trong tương lai sẽ phải sử dụng thương hiệu riêng của mình. Vì vậy, chính phủ cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp theo hướng: nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về nhãn hiệu, thương hiệu và xuất xứ hàng hoá; đơn giản hoá thủ tục, tạo điều kiện để doanh nghiệp có thể đăng ký nhãn hiệu, thương hiệu một cách nhanh chóng nhất; cung cấp thông tin, tư vấn cho doanh nghiệp về xây dựng và quảng bá thương hiệu;…
Giải pháp từ phía Hiệp hội dệt may
Kiện toàn tổ chức để tăng cường hiệu quả hoạt động của Hiệp hội. Trước đây, tất cả công việc đều do Ban thường vụ và Ban chủ tịch giải quyết nên nhiều vấn đề không thể giải quyết một cách triệt để và dứt điểm. Vì vậy, Hiệp hội cần thành lập từng bộ phận chuyên trách để phụ trách từng lĩnh vực trong sự phát triển của ngành dệt may và để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua các rào cản thương mại của thị trường Mỹ như:
Bộ phận chính sách sẽ tập trung vào những vấn đề về chính sách phát triển cho ngành dệt may và đối phó với các chính sách thương mại từ các nước khác, cụ thể là vấn đề chống giám sát hàng dệt may sang Mỹ hiện nay.
Bộ phận thông tin sẽ thu thập và xử lý thông tin có tính chất chuyên ngành về thị trường dệt may Mỹ bao gồm nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ, các rào cản đang tồn tại và dự báo các rào cản có thể sẽ xuất hiện trong thời gian tới, các thủ tục cần biết khi xuất khẩu sang Mỹ,... Một điều đơn giản là muốn cho các doanh nghiệp của ngành dệt may vượt qua được các rào cản trong thương mại quốc tế, đặc biệt là các rào cản ở thị trường Mỹ thì phải biết được rào cản đó là gì, như thế nào và biện pháp khắc phục hay đối phó ra sao? Tuy vậy, Hiệp hội chủ yếu mới chỉ có được các thông tin về thị trường trong nước và các chính sách thương mại nội địa chứ chưa tiếp cận được với các thông tin chuyên sâu phục vụ cho xuất khẩu nói chung và đối phó với các rào cản thương mại nói riêng. Hiện nay, chúng ta còn chưa được công nhận là một nước có nền kinh tế thị trường mà chỉ được công nhận là một nước đang phát triển ở trình độ thấp. Do đó, Hiệp hội cần phải chủ động thu thập thông tin về tình hình thị trường và giá cả ở một nước thứ ba, có trình độ tương đương Việt Nam để có thể chủ động trong việc hầu kiện với các vụ kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp sao cho có lợi cho doanh nghiệp Việt Nam. Bộ phận thông tin cũng sẽ là nơi cung cấp thông tin, chuyển các thông tin đến các thành viên theo định kỳ thông qua các phương tiện thông tin hiện đại như e-mail, internet. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, trang web của Hiệp hội doanh nghiệp còn thường xuyên bị lỗi, khó truy cập, các thông tin đơn giản, thiếu cập nhật. Vì vậy, nhiệm vụ của bộ phận thông tin cũng là phải xây dựng được trang Web của Hiệp hội trở thành nơi cung cấp thông tin và liên lạc trực tuyến giữa Hiệp hội và các doanh nghiệp thành viên.
Bộ phận pháp chế cần đi sâu nghiên cứu các vấn đề về chống bán phá giá và trợ giá, kinh nghiệm khởi kiện, kháng kiện của các nước đang phát triển, đồng thời kết hợp chặt chẽ với các tổ chức tư vấn pháp luật trong nước và quốc tế để sẵn sàng khởi kiện và kháng kiện. Ở hầu hết các nước, việc khởi kiện và kháng kiện đều do các Hiệp hội chủ động phát động chứ không phải do các cơ quan quản lý Nhà nước. Vì vậy, trong thời gian tới, Hiệp hội cần phải chủ động, tích cực hơn nữa và chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua rào cản chống bán phá giá.
Điều hoà quy mô sản xuất và xuất khẩu, giá cả và chất lượng các sản phẩm dệt may để hạn chế các nguy cơ gặp phải các vụ kiện chống bán phá giá. Theo quy định của Hiệp định chống bán phá giá trong khuôn khổ của WTO, nước nhập khẩu chỉ được áp dụng các biện pháp chống bán phá giá khi thoả mãn 3 tiêu chuẩn: Một là, hàng nhập khẩu bị bán phá giá khi biên độ phá giá lớn hơn hoặc bằng 2% giá xuất khẩu và khối lượng hàng nhập khẩu từ mỗi nước lớn hơn hoặc bằng 3% khối lượng nhập khẩu sản phẩm tương tự; Hai là, việc bán phá giá này gây thiệt hại hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước; Ba là, cuộc điều tra phá giá được tiến hành theo đúng thủ tục. Như vậy, để tránh cho các doanh nghiệp gặp phải các rắc rối do vụ kiện chống bán phá giá, Hiệp hội cần phải chủ động tính toán và thảo luận với các doanh nghiệp thành viên để tiến hành các biện pháp điều tiết sản lượng xuất khẩu sao cho không bằng hoặc vượt 3% khối lượng nhập khẩu của nước nhập khẩu. Khi khối lượng đã bằng hoặc vượt quá 3% thì cần chủ động điều tiết giá xuất khẩu để biên độ không bằng hoặc vượt quá 2%. Trường hợp tiêu chuẩn thứ nhất đã không đáp ứng được thì cần chủ động chuẩn bị các tư liệu và minh chứng để biện hộ cho việc chưa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước của bên khởi kiện. Nếu hai tiêu chuẩn trên vẫn chưa đủ lý lẽ để bảo vệ thì Hiệp hội phải chủ động hầu kiện hoặc kháng kiện để sao cho việc áp dụng thuế chống bán phá giá ở mức thấp nhấp có thể.
Hiệp hội cần chủ động tham gia vào các tổ chức hoặc hiệp hội ngành hàng quốc tế như Liên đoàn Dệt May ASEAN (AFTEX), Uỷ ban Quốc tế về Dệt May,... Tích cực hưởng ứng và đưa ra các ý kiến đề xuất về hoạt động của các tổ chức này theo hướng nâng cao vai trò, uy tín của ngành dệt may Việt Nam; mở rộng hợp tác với các thành viên của tổ chức trong việc thúc đẩy xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Tác động đến Hiệp hội người tiêu dùng, Hiệp hội các nhà nhập khẩu sản phẩm dệt may của Mỹ và trực tiếp kiến nghị lên chính phủ Mỹ để xoá bỏ cơ chế giám sát đối với hàng dệt may của Việt Nam hiện nay và những chính sách áp đặt vô lý của Mỹ trong thời gian tới.
Giải pháp từ phía doanh nghiệp
Doanh nghiệp cần chủ động, tích cực tìm hiểu để có thể hiểu rõ và hiểu đúng các quy định trong thương mại quốc tế, các quy định về việc chống bán phá giá và trợ giá, các bước điều tra và khởi kiện, hệ thống luật thương mại Mỹ có liên quan đến việc hình thành các rào cản đối với hàng dệt may để không bị động khi vấp phải một trong các rào cản khi xâm nhập vào thị trường Mỹ. Khi bị kiện doanh nghiệp cần khẩn trương liên hệ với Hiệp hội dệt may, tổ chức chuẩn bị các nội dung thống nhất sẽ phải trả lời nước nhập khẩu. Doanh nghiệp cần nêu cao tinh thần đoàn kết, huy động sức mạnh tổng hợp cùng đấu tranh với đơn kiện. Tranh thủ sức mạnh của luật sư trong khi giải quyết đơn kiện.
Đẩy mạnh việc nghiên cứu thị trường Mỹ, xúc tiến thương mại, tìm hiểu các rào cản thương mại đối với hàng dệt may của Mỹ bằng nhiều phương pháp: khảo sát trực tiếp, phân tích số liệu, tìm kiếm thông tin trên internet,... Để có thể chủ động đối phó và vượt qua các rào cản thương mại thì cần phải đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu thị trường để hiểu rõ hơn về thị trường Mỹ và để cho các nhà nhập khẩu hiểu rõ hơn về hàng hoá và doanh nghiệp mình. Chính vì thế, nhiều doanh nghiệp chủ yếu đưa các phái đoàn đi khảo sát thị trường nước ngoài. Việc khảo sát, nghiên cứu này là cần thiết nhưng sẽ phải chịu chi phí đáng kể về thời gian và tiền bạc. Mặt khác, nếu không được chuẩn bị tốt về nội dung, phương pháp này cũng mang lại hiệu quả không cao. Do đó, các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, phạm vi về mặt hàng còn hạn chế có thể sử dụng các kỹ năng và phương pháp nghiên cứu thị trường thông qua các phương pháp phân tích thống kê kinh tế từ các nguồn tài liệu có thể thu thập được trong nước (đặc biệt là qua internet). Đồng thời có thể kết hợp sử dụng các phương pháp chuyên gia, sử dụng các cộng tác viên ở nước ngoài (trong cơ quan kinh tế, thương vụ của Việt Nam) hoặc thuê khoán chuyên gia tư vấn trong Hiệp hội dệt may,…
Đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của doanh nghiệp và các sản phẩm dệt may khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ
Mặc dù nhiều mặt hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam đã xuất khẩu được vào thị trường Mỹ nhưng sản phẩm và các doanh nghiệp Việt Nam có năng lực cạnh tranh còn thấp. Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp phụ thuộc vào các yếu tố: chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, trình độ khoa học công nghệ, sản phẩm của doanh nghiệp, năng suất lao động, chi phí sản xuất và quản lý, đầu tư cho nghiên cứu, triển khai. Muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, vượt qua được các rào cản thương mại cần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua việc thực hiện một chiến lược kinh doanh khoa học, đúng đắn; đổi mới sản phẩm cả về chất lượng, giá cả, mẫu mã hàng hoá; nâng cao trình độ quản lý và kỹ năng của cán bộ công nhân viên;…
Ngoài ra, để tăng tính cạnh tranh, các doanh nghiệp dệt may cần cố gắng giảm giá thành sản phẩm thông qua các biện pháp nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí cố định trong quản lý, giảm tiêu hao năng lượng điện trong sản xuất (ở Việt Nam thường cao hơn 2,4 đến 3,6 lần so với các nước trong khu vực), chia sẻ giữa các doanh nghiệp chi phí tiếp thị, chi phí thông tin thị trường. Triệt để thực hiện chủ trương tiết kiệm 10% chi phí của các doanh nghiệp, coi đó như là cơ sở để tăng khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam so với hàng dệt may Trung Quốc. Chỉ có làm như vậy, các doanh nghiệp dệt may mới tạo được giá cả sản phẩm có tính cạnh tranh trên thị trường và được nhiều người tiêu dùng chấp nhận.
Mở rộng và tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế để nâng cao khả năng thích ứng với môi trường cạnh tranh quốc tế.
Các doanh nghiệp nước ngoài luôn sử dụng lý thuyết về lợi thế theo quy mô và thường có những đơn hàng với khối lượng lớn tới hàng trăm triệu USD. Tuy nhiên, doanh nghiệp dệt may của Việt Nam phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên đã không đáp ứng được yêu cầu này. Vì vậy, cần hình thành và phát triển các doanh nghiệp có quy mô lớn thông qua việc mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp nhà nước với nhau và với các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thực tiễn cho thấy trong các vụ tranh chấp về thương mại có liên quan đến chống bán phá giá, chống trợ cấp,… nếu có yếu tố nước ngoài cùng đứng về phía Việt Nam thì các phán quyết cuối cùng bao giờ cũng có lợi cho Việt Nam. Do đó, muốn vượt rào cản để đẩy mạnh xuất khẩu, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần chủ động liên doanh liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là các công ty đa quốc gia hoặc các tập đoàn kinh tế lớn.
Các doanh nghiệp nên xây dựng hệ thống ghi nhận, lưu trữ hồ sơ sản xuất, xuất nhập khẩu đầy đủ, khoa học, hiện đại nhằm tạo cơ sở sẵn sàng cho việc ứng phó với khả năng phải tham gia các vụ kiện tranh chấp thương mại quốc tế.
Hiện nay có khoảng hơn 2000 doanh nghiệp trong lĩnh vực dệt may trong đó doanh nghiệp nhà nước chiếm 0,5%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 25% còn lại doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần chiếm 74,5%. Như vậy, có thể thấy các công ty có quy mô vừa và nhỏ trong ngành dệt may chiếm tỷ trọng rất lớn. Tuy nhiên, hầu hết các công ty này lại có hệ thống lưu giữ chứng từ, tài liệu sổ sách kế toán theo cách truyền thống là ghi chép, chưa sử dụng các công cụ kế toán hiện đại và internet. Vì vậy, khi có yêu cầu về cung cấp số liệu từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước và Hiệp hội dệt may, các doanh nghiệp thường lúng túng, chậm trễ gây khó khăn cho việc ứng phó với rào cản về bán phá giá mà các nước nhập khẩu dựng lên.
Chủ động áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế và đáp ứng yêu cầu bảo vệ sức khoẻ và môi trường. Do mức sống người dân ở Mỹ rất cao, Hiệp hội người tiêu dùng có vai trò rất lớn trong việc chấp nhận hoặc phản đối về việc nhập khẩu một loại hàng hóa nào đó nếu có những biểu hiện nghi vấn về chất lượng. Vì vậy, để vượt qua được các rào cản, các doanh nghiệp dệt may cần chủ động, khẩn trương xây dựng các hệ thống ISO 9001:2000, ISO 14001:2000, GMP, HACCP, SA 8000... , lựa chọn áp dụng tuỳ theo đặc thù riêng của từng doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể áp dụng cùng lúc các hệ thống ISO 9001:2000, ISO 14001:2000, SA 8000.
Tích cực sử dụng vải sản xuất trong nước để tăng tỷ lệ nội địa của sản phẩm xuất khẩu, đủ điều kiện được cấp C/O để hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GPS). Theo luật của Mỹ, để được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập hàng hoá phải được nhập khẩu trực tiếp từ nước hưởng lợi vào lãnh thổ hải quan Mỹ và trị giá hàng hoá được tạo ra tại nước hưởng lợi phải đạt ít nhất 35%. Hàng năm, trên cơ sở đề xuất của Đại diện thương mại Mỹ (USTR) sau khi tham khảo ý kiến công chúng, Uỷ ban thương mại Mỹ (ITC) và các cơ quan hành pháp, Tổng thống sẽ quyết định những mặt hàng và những nước được hưởng GSP. Vì vậy, để có thể vượt qua rào cản về thuế quan, các doanh nghiệp cần tăng tỷ lệ nội địa hoá, sử dụng nhiều nguyên, phụ liệu trong nước vào việc sản xuất hàng xuất khẩu.
Xây dựng trang Web của từng doanh nghiệp để thúc đẩy xúc tiến thương mại sang thị trường Mỹ. Hiện nay, chỉ một số ít các doanh nghiệp dệt may có trang web riêng trong khi đó, các đối tác Mỹ thường xuyên tìm kiếm, nghiên cứu và sàng lọc thông tin trước khi liên hệ trực tiếp với khách hàng hoặc các tổ chức xúc tiến thương mại để hỏi thêm chi tiết hoặc kiểm tra thông tin. Vì vậy, trang Web sẽ tạo cho doanh nghiệp nhiều cơ hội hơn được khách hàng Mỹ biết đến. Các doanh nghiệp cần chú ý đến một số điểm khi xây dựng trang Web như:
Tên miền trang web phải dễ đọc, dễ nhớ và dễ viết để thuận tiện cho khách hàng truy cập. Tên miền trang web cũng thường được dùng làm đuôi địa chỉ email của công ty nên không nên quá dài. Không nên dùng tên miền tiếng Việt vì các khách hàng nước ngoài thường không biết và không có phông chữ tiếng Việt để truy cập.
Trang web cần được thiết kế chuyên nghiệp, bắt mắt, dễ sử dụng và không nên phức tạp. Các doanh nhân thường là những người bận rộn vì vậy trang web phải được thiết kế để đảm bảo người sử dụng tìm được những thông tin họ cần nhanh nhất.
Mục đích chủ yếu của trang web là giới thiệu công ty và sản phẩm, thuyết phục người mua mình là nhà xuất khẩu đáng tin cậy, nghiêm túc và khuyến khích họ liên hệ với mình. Để đạt được mục đích này, trên mục giới thiệu về công ty (About us), ngoài những thông tin như tên, địa chỉ giao dịch, lịch sử công ty,… cần phải nêu tên tất cả những hiệp hội doanh nghiệp (nhất là những hiệp hội quốc tế có uy tín) mà công ty là thành viên; các thành tích, danh hiệu, chứng nhận mà công ty hoặc sản phẩm của công ty đã được các tổ chức trong nước và quốc tế chứng nhận hoặc trao tặng.
Mục đích của mục giới thiệu sản phẩm (Product) là để khách hàng có những khái niệm về sản phẩm của mình, do đó trang này nên giới thiệu một số chi tiết nhưng không nên giới thiệu quá nhiều về sản phẩm. Nếu không cung cấp đủ thông tin về sản phẩm thì người mua sẽ không quan tâm hoặc cho rằng công ty không nghiêm túc. Ngược lại, nếu cung cấp quá chi tiết về sản phẩm, nhất là về giá thì khách hàng sẽ không có nhu cầu liên hệ và công ty sẽ không có cơ hội để đàm phán.
Các công ty Mỹ rất muốn quan hệ trực tiếp với nhà sản xuất hơn là các công ty xuất khẩu thuần tuý. Vì vậy, các công ty nên có một số hình ảnh về cơ sở sản xuất trực tiếp trên trang web. Các công ty Mỹ cũng rất quan tâm đến ổn định chất lượng sản phẩm, do vậy mô tả tóm tắt quá trình sản xuất hoặc đăng tải một số hình ảnh kiểm tra chất lượng tại cơ sở cũng sẽ tạo thêm sự quan tâm của khách hàng.
Trang web nhằm khuyến khích các khách hàng liên hệ với công ty. Do vậy, mục liên hệ (Contact us) phải để ở vị trí dễ thấy. Trang web cần phải duy trì thường xuyên để khách hàng tin tưởng nếu họ liên hệ thì sẽ nhận được trả lời.
Tóm lại, chương 3 đã trình bày những cơ hội, thách thức của việc xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ khi là thành viên của WTO, dự báo về thị trường dệt may Mỹ đến năm 2010 và các rào cản mới có thể xuất hiện. Dựa trên những cơ sở đó cũng như căn cứ vào chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2015, chương này cũng đưa ra một số giải pháp vượt qua các rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may từ phía Chính phủ, Hiệp hội dệt may và các doanh nghiệp trong ngành.
KẾT LUẬN
Dệt may là ngành truyền thống và luôn là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Với việc chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào ngày 11/01/2007, dệt may đã có rất nhiều cơ hội để mở rộng thị trường và tháng 9 năm 2007, dệt may đã trở thành ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, trong đó xuất khẩu sang thị trường Mỹ chiếm khoảng 55%. Mỹ là một thị trường rộng lớn, nhiều tiềm năng đối với dệt may Việt Nam. Tuy nhiên, Mỹ cũng là nước có hệ thống luật pháp phức tạp, hệ thống rào cản thương mại đa dạng và hết sức tinh vi, đặc biệt là đối với mặt hàng dệt may, mặt hàng sử dụng hơn 1 triệu lao động ở quốc gia này. Vì vậy, để có thể thúc đẩy xuất khẩu dệt may sang Mỹ một cách hiệu quả, cần có các nghiên cứu chi tiết về các rào cản thương mại đối với hàng dệt may ở thị trường Mỹ.
Để đáp ứng yêu cầu đó, đề tài đã nghiên cứu và trình bày một số giải pháp có tính khả thi cả từ phía chính phủ, Hiệp hội dệt may và doanh nghiệp trong đó nhấn mạnh đến các giải pháp đối với các rào cản thương mại chủ yếu hiện nay là các rào cản kỹ thuật, rào cản về môi trường, trách nhiệm xã hội và chống bán phá giá. Do hình thức của các rào cản đối với hàng dệt may ở thị trường Mỹ ngày càng phức tạp và khó nhận biết nên việc nghiên cứu các tác động của rào cản thương mại đối với hàng dệt may của Mỹ cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục để có thể dự báo và có các biện pháp thích hợp nhằm vượt qua các rào cản này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
Nguyễn Thị Kim Chi (2003), “Chính sách thương mại của Hoa Kỳ thời kỳ sau năm 1990”, Luận văn tiến sỹ kinh tế, Viện kinh tế và chính trị thế giới.
Đinh Quý Độ (chủ biên) (2000), “Chính sách kinh tế của Mỹ đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương sau chiến tranh lạnh”, NXB chính trị quốc gia.
PGS.TS Nguyễn Thị Hường (chủ biên) (2001), “Giáo trình kinh doanh quốc tế”, tập 1, NXB thống kê, Hà Nội.
PGS.TS Nguyễn Thị Hường (chủ biên) (2003), “Giáo trình kinh doanh quốc tế”, tập 2, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.
PGS.TS Võ Thanh Thu (2001), “Chiến lược xâm nhập thị trường Mỹ”, NXB Giáo dục.
Dự án STAR Việt Nam phối hợp cùng viện Quản lý kinh tế trung ương (2003), “Báo cáo kinh tế 2002 – đánh giá tác động kinh tế của hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ”
Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2003), “Việt Nam với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”, NXB thống kê.
Viện nghiên cứu thương mại (2005), “Rào cản trong thương mại quốc tế”, NXB thống kê.
Luật Thương mại 2005.
Trung tâm từ điển học (2007), “Từ điển tiếng Việt 2008”, NXB Đà Nẵng.
Tiếng Anh
Ed: Spencer Henson, John S.Wilson (2005), “The WTO and technical barriers to trade”, Cheltenham – Northampton: Edward Elgar.
World trade organization (2004), “Technical barriers to trade”, Geneva.
WTO (2007), “Best practices & Guide book to the management of notification authorities and National enquiry points under the WTO TBT and SPS agreement”.
Website
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam - Thực trạng và giải pháp.doc