Đề tài Số 3: Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và đạo gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Để gìn giữ truyền thống văn hóa tốt đẹp xưa nay của nhân dân ta, chúng ta phải giáo dục con người, phát huy sáng tạo, độc lập tự chủ, chủ trương giáo dục “ Tiên học lễ, hậu học văn “ là những điều cốt yếu của nền giáo dục. Về vấn đề đạo lý giữa cha mẹ và con cái trong gia đình thì những tư tưởng của Nho gia sống mãi và có giá trị trong mọi thời đại. Nho gia dạy ta biết hiều thuận với cha, mẹ, kính trên, nhường dưới. Cha mẹ biết thương yêu, dạy bảo con nên người có đạo đức, có nhân, lý, trí, dũng thành người có ích cho xã hội.

pdf17 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2658 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Số 3: Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và đạo gia ở Trung Quốc thời cổ đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC ---------- TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC Đề tài số3: “SỰ TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆTGIỮA NHO GIA VÀ ĐẠO GIA Ở TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI” GVHD: TS. Bùi Văn Mƣa HVTH:Hà Thị Sen STT :56 Nhóm : 6 Lớp : Cao học Ngày 4 – K22 Tp. Hồ Chí Minh, tháng 12 2012 Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Hà Thị Sen-Nhóm6-K22 Ngày 4 Trang 1 Mục lục LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................. Trang 2 CHƢƠNG I: Giới thiệu về Nho Gia và Đạo gia 1.1. Khái quát về Nho Gia ........................................................................ Trang 3 1.1.1 Lịch sử hình thành .................................................................... ….. Trang 3 1.1.2 Một số tư tưởng triết học cơ bản .................................................... Trang 3 1.2. Khái quát về Đạo Gia ......................................................................... Trang 5 2.1.1 Lịch sử hình thành .......................................................................... Trang 5 2.1.2 Một số tư tưởng triết học cơ bản .................................................... Trang 5 CHƢƠNG II: Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho Gia và Đạo gia .... Trang 8 2.1. Vũ trụ quan và nhân sinh quan ...................................................... Trang 8 2.2. Quan điểm về chính trị - xã hội ...................................................... Trang 11 2.3. Quan điểm về giáo dục ..................................................................... Trang 12 2.4. Một số tƣ tƣởng biện chứng ............................................................ Trang 12 KẾT LUẬN .................................................................................................. Trang 14 Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Hà Thị Sen-Nhóm6-K22 Ngày 4 Trang 2 LỜI MỞ ĐẦU Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất trên thế giới với hơn 4000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ đại trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa học. Bên cạnh những phát minh, phát kiến về khoa học, văn minh Trung Hoa còn là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng đến nền văn minh Châu Á cũng như toàn thế giới. Trong số các học thuyết triết học lớn đó phải kể đến trường phái triết học Nho gia và đạogia. Nho gia và Đạo gia là hai trường phái triết học lớn, được hình thành và phát triển trong thời Xuân thu, Chiến quốc. Hai trường phái triết này có ảnh hưởng lớn đến thế giới quan của Triết học sau này, không những của người Trung Hoa mà cả những nước chịu ảnh hưởng của nền Triết học Trung Hoa, trong đó có Việt Nam. Nho gia đã để lại cho đời những tư tưởng triết học về luân lý, đạo đức chính trị – xã hội rất sâu sắc và vô cùng quý giá. Trong khi đó, Đạo gia đã cung cấp cho chúng ta một số hạt nhân hợp lý về sự tồn tại, vận động và biến đổi không ngừng của thế giới khách quan, độc lập với ý thức con người. Hé lộ cho chúng ta những khát vọng chân chính về một xã hội công bằng, bình đẳng, xóa bỏ mọi bất công, áp bức, bóc lột, con người được sống tự do. Bài viết này sẽ giới thiệu về sự hình thành và phát triển cũng như những tư tưởng cơ bản của hai trường phái triết học Nho gia (nguyên thủy) và Đạo gia, phân tích những nét tương đồng và khác biệt giữa hai trường phái triết học này. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Tài liệu chính người viết sử dụng là cuốn “Triết học phần I – Đại cương về lịch sử triết học dành cho học viên cao học & nghiên cứu sinh” – Tiểu ban triết học, khoa lý luận chính trị trường Đại học Kinh tế TP. HCM; và những kiến thức đã được TS. Bùi Văn Mưa truyền dạy và hướng dẫn. Ngoài ra người viết cũng tham khảo một số tài liệu khác về lịch sử triết học phương Đông, triết học trung Quốc, và một số bài viết về Nho gia và Đạo gia. Tuy nhiên do còn nhiều hạn chế về thông tin, nên bài viết có thể còn nhiều thiếu sót. Mong thầy góp ý để bài tiểu luận được tốt hơn. Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Hà Thị Sen-Nhóm6-K22 Ngày 4 Trang 3 CHƢƠNG I: Giới thiệu chung về Nho gia và Đạo gia 1.1. Khái quát về Nho Gia 1.1.1 Lịch sử hình thành “Nho gia là một trường phái triết học lớn, được hoàn thiện liên tục và có ảnh hưởng sâu rộng, lâu dài đến nền văn hóa tinh thần của Trung Quốc nói riêng và của nhiều quốc gia phương Đông nói chung.” “Khổng tử sang lập ra Nho gia vào cuối thời Xuân Thu, rất quan tâm đến vấn đề đạo đức – chính trị- xã hội. Đến thời Chiến Quốc, do bất đồng về bản tính con người, Nho gia chia thành 8 phái trong đó có phái của Tuân Tử, Mạnh Tử là mạnh nhất. Mạnh Tử đã có nhiều đóng góp đáng kể cho sự phát triển của Nho gia nguyên thủy, ông đã khép lại một giai đoạn quan trọng – giai đoạn hình thành Nho gia, vì vậy nho gia Khổng – Mạnh còn được gọi là Nho gia nguyên thủy hay Nho gia tiên Tần.” (Triết học– Phần 1 cho học viên cao học và nghiên cứu sinh, Bùi Văn Mưa, 2011). Nho gia tiếp tục phát triển qua nhiều triều đại tiếp theo (Hán Nho, Tống Nho…) và tiếp tục chi phối đời sống tư tưởng xã hội Trung Quốc , trở thành hệ tư tưởng chỉ đạo đường lối trị nước ở Trung Quốc trên 2000 năm. Trong phạm vi đề tài này, người viết chỉ tập trung vào sự phát triển của Nho gia trong thời kỳ Xuân Thu- Chiến Quốc, tức thời kỳ Nho gia nguyên thủy. 1.1.2 Một số tư tưởng triết học cơ bản Nho giáo nguyên thủy là triết lý của Khổng Tử, Mạnh Tử về đạo làm người quân tử và cách thức trở thành người quân tử, các cai trị đất nước. Nó được trình bày trong một hệ thống các tư tưởng về đạo đức-chính trị-xã hội có quan hệ chặt chẽ với nhau, được thể hiện ở những tư tưởng chủ yếu sau: Thứ nhất, Nho gia coi các quan hệ chính trị- đạo đức là nền tảng của gia đình- xã hội, đề cao vai trò của những quan hệ ấy và thâu tóm những quan hệ này vào ba rường mối chủ đạo – gọi là tam cương: đó là quan hệ “vua – tôi”, “cha-con”, “vợ-chồng”. Nếu xếp theo tôn ty trên dưới, thì vua ở vị trí cao nhất, nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua – cha- chồng là người làm chủ. Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền, và phụ quyền của Nho gia. Các quan hệ này đuợc nho gia gọi là “đạo”. Nếu các quan hệ này chính danh (tức là vua ra vua, cha ra cha, con ra con, chồng ra Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Hà Thị Sen-Nhóm6-K22 Ngày 4 Trang 4 chồng, vợ ra vợ) thì xã hội ổn định, gia đình yêu vui, và ngược lại… Để thực hiện chính danh, Khổng tử đặc biệt coi trọng nhân trị. Thứ hai, xuất hiện trong thời Xuân Thu Chiến quốc, xã hội loạn lạc, lý tưởng của Nho gia là xây dựng một “xã hội đại đồng”. Đó là xã hội có trật tự trên dưới, có vua sáng – tôi hiền cha từ - con thảo, trong ấm- ngoài êm trên cơ sở địa vì và thân phận của mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân. Trong việc trị nước cũng như tu thân, học đạo sửa mình để đạt được đức nhân, “lễ” được Khổng Tử rất mực chú trọng. “Lễ’ ở đây là những quy phạm nguyên tắc đạo đức. Ông cho rằng vua không giữ đúng đạo vua, cha không giữ đúng đạo cha, con không giữ đúng đạo con nên thiên hạ vô đạo. Phải dùng lễ để khội phục chính danh. Do vậy để xây dựng xã hội đại đồng, Nho gia lấy giáo dục đạo đức là cứu cánh. Thứ ba, Nho gia xây dựng hệ thống phạm trù đạo đức với các quan niệm về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng. Nhân được coi là nguyên ly đạo đức cơ bản, quy định bản tính con người, chi phối mọi quan hệ giữa người với người trong xã hội. Người có đức nhân thì bên ngoài xã hội luôn cung, khoan, tín, mẫn, huệ… bên trong gia đình thì luôn hiếu, đễ. Theo khổng tử, chỉ có người quân tử tức kẻ cai trị mới có đức nhân, còn người tiểu nhân tức nhân dân lao động, không thể có được đức nhân. Đạo nhân chỉ là đạo của người quân tử. Nghĩa được hiểu là những gì hợp đạo lý mà con người phải làm. Khổng tử chorằng con người muốn sống tốt phải lấy nghĩa để đáp lại lợi, chứ không nên lấy lợi đáp lại lợi. Lễ trước hết được hiểu là những lễ giáo phong kiến, như những phong tục tập quán, thể chế pháp luật của nhà nước…; sau đó được hiểu là luân lý đạo đức như ý thức, thái độ, hành vi ứng xử… Nhân và lễ có quan hệ mật thiết, nhân là nội dung bên trong của lễ, lễ là hình thức biểu hiện nhân ra bên ngoài. Trí là sự sáng suốt nhận thức thấu đáo mọi việc, hiểu đạo trời, đạo người, biết sống hợp với nhân. Muốn có nhân phải có trí, muốn có trí thì phải học. Khi học cần coi trọng mối liên hệ mật thiết giữa: tư- lập – hành. Tínlà lòng ngay dạ thẳng, tín là đức trong mối quan hệ bạn bè. Tín củng cố sự tin cậy giữa người với người, Khổng tử cho rằng, đối với người trị nước, trị dân, nếu dân không tin thì không thể cai trị được. Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Hà Thị Sen-Nhóm6-K22 Ngày 4 Trang 5 Dũnglà sức mạnh tinh thần, lòng can đảm, biết vứt bỏ cái sai để làm theo nhân nghĩa. Thứ tư, những phạm trù đạo đức của Nho gia hướng tới xây dựng mẫu người quân tử. Khổng tử cho rằng, người quân tử có đủ tam đức (trí, nhân, dung), còn Mạnh tử cho rằng người quân tử có đủ tứ đức (nhân, lễ, nghĩa, trí). Muốn trở thành người quân tử phải tu thân. Để tu thân cần phải đạt đạo mà trước hết là đạo quân – thần, phụ - tử, phu – phụ và cần phải đạt đức, đồng thời phải biết thi, lễ nhạc. Người quân tử phải lây tu thân làm gốc, đồng thời phải biết tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Để hành động hiệu quả, người quân tử phải thực hành đường lối nhân trị, và chính danh. Chỉ có như vâỵ người quân tử - giai cấp cai trị mới xây dựng được xã hội đại đồng. Như vậy, Nho gia nguyên thủy làm nổi bật khía cạnh xã hội của con người, tuy nhiên khía cạnh xã hội của con người đã bị hiểu một cách duy tâm. Nho gia nguyên thủy khao khát cải biến xã hội thời Xuân thu – Chiến Quốc từ loạn thành trị, xây dựng xã hội đại đồng. Nhưng chủ trương xây dựng xã hội đại đồng của Nho giáo chỉ dừng lại ở lý tưởng do chủ trương duy tâm, ảo tưởng xa rời thực tế cuộc sống. Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng Nho gia nguyên thủy Khổng Mạnh chứa đựng nhiều giá trị nhân bản và toát lên tinh thần biện chứng sâu sắc. 1.2. Khái quát về Đạo Gia 1.2.1 Lịch sử hình thành Đạo gia là tên gọi với tư cách một trường phái triết học lớn, lấy tên của phạm trù “Đạo”, một phạm trù trung tâm và nền tảng của nó. Nguồn gốc tư tưởng của đạo gia xuất phát từ những quan điểm về vũ trụ luận, thiên địa, ngũ hành, âm dương, kinh dịch… Đạo gia ra đời và phát triển rực rỡ từ cuối thời Xuân Thu đến cuối thời Chiến quốc, và sau đó có tác động to lớn đến nhiều lĩnh vự kinh tế, chính trị, triết học, văn chương, nghệ thuật… ở Trung Quốc và một số nước châu Á khác. Đạo gia được Lão Tử sáng lập ra và sau đó được Trang Tử phát triển thêm vào thời chiến quốc. Các tư tưởng của Đạo gia chủ yếu được tập trung lại trong bộ Đạo Đức kinh và Nam Hoa kinh. 1.2.2 Một số tư tưởng triết học cơ bản Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Hà Thị Sen-Nhóm6-K22 Ngày 4 Trang 6 Về cơ bản, tư tưởng triết học chính yếu của Đạo gia đều thống nhất trên nền tảng các quan điểm về Đạo, tư tưởng biện chứng và quan điểm “vô vi”. Dưới đây xin trình bày khái quan về ba quan điểm triết học đó. Thứ nhất, quan điểm về “Đạo” và “Đức”, “Đạo” là phạm trù triết học để chỉ bản nguyên vô hình, phi cảm tính, phi ngôn từ, sâu kín huyền diệu của vạn vật, vừa để chỉ con đường, quy luật chung của mọi sự sinh thành, biến hóa xảy ra trong thế giới. Còn “Đức” theo Đạo gia là phạm trù triết học dùng để thể hiện sức mạnh tiềm ẩn của đạo, là cái hình thức nhờ đó vạn vật được định hình và phân biệt được với nhau. ((Triết học– Phần 1 cho học viên cao học và nghiên cứu sinh, Bùi Văn Mưa, 2011) “Đạo mà ta có thể nói đến được không phải là Đạo thường còn. Danh mà ta có thể gọi được, không phải là Danh thật sự. Vô danh là gốc của thiên địa, hữu danh là mẹ của vạn vật” (Đạo Đức Kinh). Khái niệm đạo được xem là siêu việt, vượt lên trên mọi khái niệm, vì nó là cơ sở của tồn tại và phi tồn tại, ta không thể luận đàm, định nghĩa được. Đạo sinh ra âm dương và nhờ sự chuyển động của âm dương mà phát sinh thế giới thiên hình vạn trạng. “Vạn vật trong trời đất sanh từ hữu, hữu sanh từ vô. Hữu vô đều từ thiên đạo” (Đạo đức kinh). Đạo gia xem đạo là nguồn gốc sinh ra vạn vật, đức nuôi nấng, bảo tồn vạn vật. Đạo sinh ra một (khí thống nhất), một sinh ra hai (âm, dương đối lập), Hai sinh ra Ba (trời, đất, người), Ba sinh ra vạn vật. Thứ hai, quan niệm về tính biện chứng của thế giớikhông tách rời những quan niệm về "Đạo", trong đó bao hàm những tư tưởng chủ yếu sau: Mọi hiện hữu đều biến dịch theo nguyên tắc "bình quân" và "phản phục" (cân bằng và quay trở lại cái ban đầu). ) Các mặt đối lập trong thể thống nhất, quy định lẫn nhau, là điều kiện tồn tại của nhau, trong cái này đã có cái kia. . Do nhấn mạnh nguyên tắc "bình quân" và "phản phục" trong biến dịch nên Đạo gia không nhấn mạnh tư tưởng đấu tranh với tư cách là phương thức giải quyết mâu thuẫn nhằm thực hiện sự phát triển; trái lại, đã đề cao tư tưởng điều hòa mâu thuẫn, coi đó là trạng thái lý tưởng. Bởi vậy triết học Đạo gia không bao hàm tư tưởng về sự phát triển. Thứ ba, Đạo gia xây dựng quan điểm “vô vi” về chính trị xã hội. Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Hà Thị Sen-Nhóm6-K22 Ngày 4 Trang 7 Vô vi theo Đạo gia không có nghĩa là không làm gì, không có hoạt động gì, mà là phải tiến hành các hoạt động một cách tự nhiên, thuần phác, không làm trái với Đạo, không cố gắng hoạt động mang tín giả tạo, gượng ép, thái quá, bất cập. Bởi vì “Đạo đức là cái luật tự nhiên, không cần tranh mà thắng, không cần nói mà ứng nghiệm, không cần mời mà các vật vẫn theo về, lờ mờ mà hay mưu tính”(Đạo đức kinh) Về mặt chính trị xã hội, Đạo gia chủ trương đường lối trị quốc theo đạo “vô vi”, chống lại chủ trương hữu vi, cùng mọi chuẩn mực đạo đức, và thể chế pháp luật, coi đó là sự áp đặt, cưỡng chế, can thiệp vao bản tính tự nhiên của con người. Đó là nguyên nhân gây ra nhiều tội ác và bất ổn. “Nước nào chính sự lờ mờ thì dân thuần thục, nước nào chính sự rành rọt thì dân lao đao”.(Đạo đức kinh). Những tư tưởng sâu sắc và độc đáo về đạo, về đức, về phép biện chứng và về vô vi trong hệ thống triết học của Lão tử đã nâng ông lên vị trí những nhà triết học hàng đầu trong nền triết học Trung Quốc cổ đại. Tuy nhiên cách sống dửng dung, thoát tục, vị ngã của trường phái Đạo gia là một phản ứn tiêu cực trước sự bế tắc của thời cuộc bấy giờ. Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Hà Thị Sen-Nhóm6-K22 Ngày 4 Trang 8 CHƢƠNG II: Sự tƣơng đồng và khác biệt giữa Nho Gia và Đạo gia 2.1. Vũ trụ quan và nhân sinh quan. Hai trường phái tư tưởng này nói chung đều bày tỏ quan điểm về nhân sinh quan và vũ trụ quan. Tuy nhiên, nội dung của Nho gia hầu như đặt trọng tâm ở những vấn đề của thế sự, xã hội. Đó là các vấn đề chính trị, pháp luật, việc trị - loạn, việc bình định xã hội, quan điểm về giá trị đạo đức, thẩm mỹ… Đây đều là những vấn đề về nhân sinh quan. Như vậy Nho gia đặtphần nhân sinh quan làm nội dung nền móng, ngược lại, Đạo gia đặt phần vũ trụ quan làm nền móng. Lão Tử đã xây dựng một học thuyết hoàn chỉnh về vũ trụ quanlàm cơ sở cho một nhân sinh quan và một chính trị quan mới mẻ; nhân sinh quan và chính trị quan chỉ là tự nhiên quy kết của phần vũ trụ quan. * Về vũ trụ quan: - Khởi nguyên vũ trụ: Cả hai trường phái đều đề cập đến khởi nguyên vũ trụ bắt nguồn từ “đạo”. + Nho gia: “Đạo” hay “thiên lý” là cái huyền vi, sâu kín, mầu nhiệm, mạnh mẽ, lưu hành khắp vũ trụ, định phép sống cho vạn vật, con người ta không thể cưỡng lại được nên Khổng Tử gọi đó là “Thiên Mệnh”. Sự hiểu biết được thiên mệnh là điều kiện tiên quyết để trở thành con người hoàn thiện (Bùi Văn Mưa & tiểu ban triết học, Triết học phần I: Đại cương về lịch sử triết học, tr.58, 2010, ĐHKT, HCM).Đã tin có mệnh biết mệnh, thì phải sợ mệnh và thuận mệnh. + Đạo gia: “Đạo” là nguồn gốc sinh ra vạn vật. Lão tử nói, Đạo sinh ra nó (vạn vật), Đức chứa đựng nó, rồi thì vật chất khiến nó thành hình, hoàn cảnh khiến nó thành vật. Đạo sinh ra nó, Đức súc tích nó, làm cho nó lớn, làm cho nó sống, làm cho nó hiện ra hình, làm cho thành ra chất, và nuôi nấng che chở nó.(Đạo đức kinh). Đạo là cái bản nguyên, sâu kín, huyền diệu, là thực thể vật chất của khối “hỗn độn”,”mập mờ”, “thấp thoáng”, không có đặc tính, không có hình thể, “nhìn không nhìn thấy, nghe không nghe thấy, bắt không bắt được” (Đạo Đức kinh, chương 14). Như vây, Đạo theo quan điểm của Lão Tử là một phạm trù khái quát, nó không chỉ một sự vật, hiện tượng cụ thể hữu hình mà là tất cả mọi vật từ đó sinh ra, là cái tồn tại vĩnh viễn, bất biến. Vạn vật dù muôn hình, muôn vẻ cũng chỉ là sự biểu hiện khác nhau của một cái duy nhất đó là đạo, và đạo không tồn tại ở đâu ngoài các sự vật hữu Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Hà Thị Sen-Nhóm6-K22 Ngày 4 Trang 9 hình, hữu danh, đa dạng và phong phú vô cùng tận. Vì thế, đạo vừa là duy nhất, vừa thiên hình, vạn trạng; vừa biến hóa, vừa bất biến. Căn cứ vào quan điểm ấy, Lão Tử đả kích quan điểm trời sang tạo ra thế giới và cho rằng, trời không phải là căn cứ của đạo, trái lại đạo có trước thần linh. (Đạo Đức kinh, chương 30). - Cả hai trường phái đều giải thích nguyên nhận sựvận động, biến đổi của vạn vật. + Nho gia: Khổng tử cho rằng, vạn vật không ngừng biến đổi, sinh diệt theo đạo của mình. Đạo đó được ông gọi là“thiên lý”, được hiểu là sự tương tác giữa hai lực âm và dương, là quy luật tự nhiên, cho nên trời chỉ là giới tự nhiên, vận hành theo bốn mùa: “trời có nói gì đâu mà bốn mùa vẫn cứ vận hành, trăm vật sinh ra mãi”. Âm dương sinh ra ngũa hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), từ đó sinh ra mọi biến đổi trong xã hội. +Đạo gia: Lão Tử cho rằng bất cứ sự vật nào cũng là thể thống nhất của hai mặt đối lập, vừa xung khắc, dựa vào nhau vừa liên hệ, ràng buộc, bao hàm lẫn nhau. Ông nói:”Ai cũng biết đẹp là đẹp tức là có cái xấu; hai mặt dài, ngắn tựa vào nhau mới có hình thể, hai mặt cao thấp liên hệ với nhau mới có chênh lệch” (Đạo Đức kinh, chương 2). Và “trong vạn vật, không vật nào không cõng âm, bồng dương” (Đạo Đức kinh, chương 42). Theo đạo gia, âm dương sinh ra ba lực (Thiên, địa, nhân), từ đó sinh ra vạn vật * Về nhân sinh quan Nho gia và Đạo gia đều quan tâm vấn đề “con người”. Đối với Nho gia, “Trong trời đất, con người là quý” (“Thiên địa chi tính nhân vi quý” - Hiếu Kinh, Thánh trị). Đối với Đạo gia, “Đạo lớn, trời lớn, đất lớn, người cũng lớn. Trong vũ trụ có bốn cái lớn, mà người là một trong số đó” (“Đạo đại, thiên đại, địa đại, nhân diệc đại. Vực trung hữu tứ đại, nhi nhân cư kỳ nhất yên” - Chương 25, Lão Tử). Cả hai đều tập trung chủ yếu vào xã hội và con người, xây dựng, đào tạo con người, hướng tới sự thống nhất, hài hòa giữa con người và xã hội. Coi con người là chủ thể của đối tượng nghiên cứu. Việc nghiên cứu hướng vào nội tâm – luôn cố gắng tìm tòi về bản thân con người và xã hội xung quanh, ít quan tâm đến khoa học tự nhiên. - Bản tính nhân loại đều có một tính gốc + Nho Gia: Tính gốc là tính thiện (Khổng Tử, Mạnh Tử) hay tính ác (Tuân Tử). Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Hà Thị Sen-Nhóm6-K22 Ngày 4 Trang 10 Cả Khổng Tử và Mạnh Tử đều cho rằng: “bản tính con gười ta là thiện. Còn như người ta có làm những điều bất thiện, chẳng qua họ theo tự dục của mình, chứ không phải bản tính con người ta là như vậy”(Mạnh Tử, Cáo Tử thượng, 6, 15). Tuân Tử cho rằng bản tính con người là ác (nhân chi sơ tính bổn ác), Tuân Tử viết: “Tính của người là ác, thiện là do người làm ra”(Tuân Tử, Tính ác, chương 13). + Đạo Gia: Tính gốc là sống theo lẽ tự nhiên, với triết lý sống tối ưu là “vô vi”, muốn làm việc gì, phải đi từ điểm đối lập.Vô vi không có nghĩa là hoàn toàn không làm gì, mà là hòa nhập với tự nhiên, đừng làm gì thái quá. - Quan điểm về con người và các mối quan hệ với xã hội + Nho gia: Nhấn mạnh tầm quan trọng của con người và việc thực hiệnnhân sinh trong quan hệ nhân luân. Khổng tử đưa ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, tam tòng, tứ đức để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Con người phải “khắc kỷ phục lễ”, gò bó trong vòng lễ giáo nhân nghĩa đó.Con người phải học lễ nghĩa, trau dồi tài đức, nói chung phải làm rất nhiều trong việc “tu thân” để hội đủ "Nhân, Nghĩa, Lể, Trí, Tín".Nhân, nghĩa, lễ, trí và tín, để trở thành người quân tử; còn chính danh là yêu cầu đạo đức được đặt trong quan hệ với người khác (với xã hội) để mỗi người đều thực hiện đúng phận sự của mình, làm cho xã hội ổn định, phát triển. Như vậy ở Nho gia nổi bật lên quan điểm “nhập thế” và “hữu vi” nhấn mạnh nghĩa vụ xã hội của con người, con người phải tự rèn luyện, sống theo chuẩn mực và đem ý chí của mình vào sự vật để cải biến xã hội. + Đạo gia: Trái với Nho gia, đạo giađề cao quan điểm “xuât thế” và “vô vi”.Đạo gia nhấn mạnh tính tự nhiên của con người, tính tự chủ, độc lập, tự do của con người. Đạo gia muốn thoát khỏi những trói buộc của luân lý. Trong khi điểm đích của Nho gia là “thành thánh”, thì điểm đích của Đạo gia là “quy chân”.Đạo gia không cho rằng con người không cần phải tu dưỡng những “nhân, nghĩa, lễ” đó, mà trở về với tự nhiên, hợp với Đạo. Con người sống, hoạt động theo lẽ tự nhiên, không can thiệp vào trật tự của tự nhiên, như vậy sẽ làm thiên hạ thái bình, làm cho dân no bụng, xương cốt mạnh mà lòng hư tĩnh.Chương 38 Lão Tử, viết “Người có đức hạnh cao không hành động gì cả, nhưng việc gì cũng có thể thành công; người có đức hạnh thấp luôn hành động, mà luôn mượn lý do, mục đích cho hành động”. Lại nói “Mất đạo mới có đức, mất đức mới có nhân, mất nhân mới có nghĩa, mất nghĩa mới có lễ. Lễ nghi là sản Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Hà Thị Sen-Nhóm6-K22 Ngày 4 Trang 11 phẩm của sự suy đồi trung tín, cũng là khởi đầu của họa loạn”. Như vậy, hành động tu dưỡng là đồng nghĩa với “mất đạo”, là mầm họa loạn. 2.2. Quan điểm về chính trị - xã hội Các học thuyết của Nho gia và Đạo gia đều nhằm hướng tới việc giải quyết những vấn đề thực tiễn xã hội do thời đại đặt ra, giải quyết những mâu thuẫn xã hội và đưa con người đến một lối giải thoát. Tuy nhiên, cách thức giải quyết của hai trường phái lại hoàn toàn khác nhau. - Quan điểm về việc trị quốc: + Nho gia: Theo quan điểm “hữu vi”, trị quốc theo “đức trị” hay “nhân trị”. Nho gia coi trọng giáo dục, phản đối bạo lực và chiến tranh. Giai cấp thống trị phải thương yêu, tôn trọng, chăm lo cho nhân dân. Đồng thời cũng khuyên dân phải an phận, lấy nghèo làm vui, nghèo mà không oán trách. Một số hành động được Nho gia đề ra như phải dạy dỗ dân, tề dân, khiến dân, ngăn cấm dân: thánh nhân trị dân và hóa dân là phải dùng cả chính lẫn hình. Bậc thái thượng “lấy đức dạy dân”, mà “lấy lễ tề dân”. Bậc thứ nhì lấy chính sự mà khiến dân, và lấy hình mà ngăn cấm: hình đặt ra nhưng không dùng đến. Chỉ có lúc hóa dân mà dân không theo, để đến hại nghĩa nát tục, thì bấy giờ mới phải dùng hình vậy” (Khổng Tử gia ngữ: Ngũ hình giải, XXX). Phải làm cho dân nhiều, làm cho dân giàu, và dạy cho dân biết lễ nghĩa: Học trò Nhiễm Hữu hỏi: “(dân) đã đông vậy, lại nên thêm gì nữa?” Khổng trả lời “Làm cho dân giàu”. Học trò lại hỏi tiếp “Đã giàu rồi lại thêm gì nữa?. Khổng trả lời “Phải dạy dân” (Tử Lộ, Luận ngữ); phải nghĩ cho lòng dân: dân ưa thích điều gì, (người cai trị) phải thích theo, dân ghét điều gì phải ghét theo. Thế mới gọi là cha mẹ dân.(Đạc chúng học); v.v.. + Đạo gia: Theo quan điểm “vô vi”: Không cần dùng luật pháp, không cần giáo dục nhân, lễ, nghĩa, trí. Nhấn mạnh bản tính tự nhiên của con người. “Chính phủ yên tĩnh, vô vi thì dân sẽ biến thành chất phác, chính phủ tích cực làm việc thì dân đầy tai họa”. Người trị nước phải rũ bỏ hết những cố gắng nhằm can thiệp vào xã hội. Loại trừ thánh hiền, gạt bỏ trí tuệ, dân chúng mới có được phúc lợi gấp trăm lần; đoạn tuyệt nhân ái, vứt bỏ nghĩa khí, dân chúng mới có thể khôi phục lại hiếu kính và từ ái; triệt Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Hà Thị Sen-Nhóm6-K22 Ngày 4 Trang 12 kỷ xảo, bỏ tài vật, thì đạo tặc mới không còn. (chương 19, Lão Tử). Không phải đặt pháp lệnh, điều cấm kỵ, không phải dùng thủ thuật: Thiên hạ có quá nhiều khuôn phép, thì bách tính càng bần cùng; dân chúng có quá nhiều khí cụ sắc bén, thì nước sẽ càng hỗn loạn; con người nắm được nhiều kỷ xảo thì tranh đấu càng nhiều; pháp lệnh quy định càng rõ ràng thì đạo tặc càng nhiều. (chương 57, Lão Tử). Và trên hết, Lão Tử khẳng định “hữu vi” không có tác dụng trong làm chính trị: Người có mưu đồ hành động làm thay đổi, nhất định thất bại; người có mưu đồ chiếm giữ, nhất định sẽ mất (Chương 29 Lão Tử). - Quan điểm về xây dựng đất nước +Nho gia chủ trương xây dựng nước lớn, dân đông, xã hội đại đồng, nhấn mạnh vai trò của nhà nước. + Đạo gia chủ trương xây dựng nước nhỏ, dân ít, hạn chế quyền lực của nhà nước, để dân sống chất phác như thời nguyên thủy, nhà nước chẳng phải nhọc lòng làm gì mà dân vẫn sống yên lành. 2.3. Quan điểm về giáo dục + Nho gia đề cao việc học tập, tu dưỡng đạo đức. Đề cao vai trò của giáo dục: làm cho con người mở mang trí thức, hình thành nhân cách đầy đủ cả ba mặt nhân, trí, dũng. Trong nội dung dạy học, Khổng tử rất coi trọng giáo dục đạo đức, dùng đạo đức để thi hành chính sự. Mẫu hình con người mà Khổng tử đào tạo là những người quân tử, có thể hành đạo ở đời. + Đạo gia: Trái với Nho gia, Đạo gia chủ trương thực hiện triệt để chính sách ngu dân. “Không làm cho dân sáng mà làm cho dân ngu” “Trí tuệ sinh thì có đại ngụy”. Bởi hiểu biết càng nhiều thì ham muốn càng nhiều, càng muốn tranh đoạt và xâm phạm lẫn nhau, làm trái với đạo tự nhiên. Con người càng theo học thì càng nhiều thì càng phiền phức, mà theo đạo thì ngày càng bớt, bớt rồi thì lại bớt, bớt đến mức vô vi” (Đạo đức kinh, chương 48). 2.4. Một số tƣ tƣởng biện chứng Triết học của Nho gia và Đạo gia đều mang tính duy tâm. Tuy nhiên ở hai trường phái này đã thể hiện một số tư tưởng biện chứng. Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Hà Thị Sen-Nhóm6-K22 Ngày 4 Trang 13 + Nho gia cho rằng vạn vật không ngừng biến hóa theo một trật tự không gì cưỡng lại được. Tư tưởng này cũng thể hiện ở Đạo gia với quan niệm của Lão tử về đạo: Đạo vừa mang tính khách quan, vừa mang tính phổ biến. Khổng tử tìm cách kết hợp văn minh nông nghiệp với văn minh gốc du mục. Ông đặt cơ sở lập luận trên sự quan sát các xã hội thực tế và trên sự chấp nhận những truyền thống được lưu truyền trong dân chúng. Tự xem mình chỉ là kẻ trình bày chi tiết các lời giảng cổ truyền, đặc biệt những gì thu thập được trong quá khứ, và phản ánh sinh hoạt thời sơ Chu. + Đạo gia: Theo Lão Tử, sự biến đổi của vạn vật tuân theo hai quy luật phổ biến là luật Quân bình và luật Phản phục. Luật Quân bình giữ cho các sự vật biến đổi theo xu hướng trở về trạng thái cân bằng. Luật phản phục làm cho sự biến đổi diễn ra trong một vòng tròn khép kín, lặp đi lặp lại không ngừng” (Đồng Văn Quân, Lịch sử triết học, tr.36). Tư tưởng biện chứng của Lão Tử còn được thể hiện ở việc thừa nhận tính mâu thuẫn của hiện thực. Mỗi sự vật đều là thể thồng nhất của các mặt đối lập.Các mặt đối lập vừa xung khắc với nhau, vừa nương tựa vào nhau, chuyển hoá vào nhau “Ai cũng biết đẹp là đẹp tức là còn có cái xấu...hoạ là chỗ tựa của phúc, phúc là chỗ náu của hoạ”. Nhu thắng cương, mềm thắng cứng: trong thiên hạ cái cực mềm là nước, nước chế ngự được cái cứng là đá (nước chảy đá mòn). Người lúc sống thì thân hình mềm dẻo, chết thì cứng đơ. Trong cuộc sống, lời nói khiêm tốn, dịu dàng bao giờ cũng được mến chuộng, người nóng tính, lời thô bạo thường bị phê phán và chuốc lấy thất bại. Lão Tử thấm nhuần sâu sắc tinh thần biện chứng âm dương. Được chi phối bởi luật quân bình âm dương, vạn vật tồn tại theo lẽ tự nhiên một cách rất hợp lý, công bằng, chu đáo, và do vậy mà mầu nhiệm. Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Hà Thị Sen-Nhóm6-K22 Ngày 4 Trang 14 KẾT LUẬN Việc nghiên cứu những tư tưởng triết học của Nho gia và Đạo gia, những nét tương đồng và khác biệt của hai trường phái triết học này đã cho chúng ta những ý nghĩa vô cùng thiết thực về phương pháp luận trong nhận thức và thực tiễn..  Ý nghĩa phƣơng pháp luậntrong hoạt động nhận thức: - Nho gia Những tư tưởng triết học của Nho gia đã để lại cho đời những tư tưởng triết học về luân lý, đạo đức và chính trị – xã hội rất sâu sắc và vô cùng quý giá. Những tư tưởng về chữ Nhânvà việc giáo dục đạo đức, nhân cách sống …của con người có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục lối sống cho thế hệ trẻ hiện nay. Những quan điểm về gia đình, và các mối quan hệ trong gia đình có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng một gia đình hạnh phúc. Thực tế những lý tưởng nhân đạo, khát vọng hoà bình của Nho giáo cũng là lý tưởng và khát vọng của chúng ta hiện nay. Do đó, kế thừa các tư tưởng nhân văn trong ứng xử và giao tiếp giữa người với người của Nho giáo là một việc làm hết sức cần thiết. - Đạo gia Đạo gia cung cấp cho chúng ta một số hạt nhân hợp lý về sự tồn tại, vận động và biến đổi không ngừng của thế giới khách quan, độc lập với ý thức con người. Do đó, trong hoạt động nhận thức, con người cần tránh lối tư duy gán ghép, máy móc, siêu hình, áp đặt chủ quan đối với mọi sự vật hiện tượng tự nhiên… Mà phải nhận thức cái khách quan, cái bản tính tự nhiên thuần phác, vốn có của nó. Đồng thời, thông qua luật “quân bình” (bù trừ) và luật "phản phục”, Đạo gia đã cung cấp nhân sinh quan và nghệ thuật sống mang tính nhân văn sâu sắc, có tác dụng an ủi con người hài lòng và hạnh phúc với những gì mình có trong cuộc sống, không nên ham muốn, mơ tưởng hão huyền. Mặc dù quan điểm “vô vi” về chính trị - xã hội của Đạo gia mong muốn quay ngược bánh xe lịch sử trở về chế độ công xã nguyên thủy ở giai đoạn cuối, nhưng đã hé lộ cho chúng ta những khát vọng chân chính về một xã hội công bằng, bình Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Hà Thị Sen-Nhóm6-K22 Ngày 4 Trang 15 đẳng, xóa bỏ mọi bất công, áp bức, bóc lột, không còn chế độ tư hữu và nhà nước, con người được sống tự do…  Ý nghĩa phƣơng pháp luận trong hoạt động thực tiễn: - Nho gia Để gìn giữ truyền thống văn hóa tốt đẹp xưa nay của nhân dân ta, chúng ta phải giáo dục con người, phát huy sáng tạo, độc lập tự chủ, chủ trương giáo dục “ Tiên học lễ, hậu học văn “ là những điều cốt yếu của nền giáo dục. Về vấn đề đạo lý giữa cha mẹ và con cái trong gia đình thì những tư tưởng của Nho gia sống mãi và có giá trị trong mọi thời đại. Nho gia dạy ta biết hiều thuận với cha, mẹ, kính trên, nhường dưới. Cha mẹ biết thương yêu, dạy bảo con nên người có đạo đức, có nhân, lý, trí, dũng… thành người có ích cho xã hội. Trong mối quan hệ thầy trò, mối quan hệ giữa người với người trong xã hội, chữ “lễ”, chữ “nghĩa” đôi khi đã bị xem nhẹ. Do vậy, vận dụng những tư tưởng đạo đức của Nho gia vào việc giáo dục con người là hết sức cần thiết. Trong hoạt động kinh doanh, cần đặt chữ Tín lên hàng đầu. - Đạo gia Những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia cho ta thấy rằng, trong hoạt động thực tiễn, con người cần phải tôn trọng quy luật khách quan, nắm vững và vận dụng phù hợp các quy luật tự nhiên vào cuộc sống. Bên cạnh đó, với việc chỉ ra luật quân bình (bù trừ) và luật phản phục, Đạo gia đòi hỏi con người cần tránh mọi cực đoan, thái quá, nóng vội, chủ quan duy ý chí… Mà phải luôn luôn tạo dựng sự cân bằng, hợp lý, tự nhiên; khách quan nhưng không ỷ lại, thụ động trước các điều kiện khách quan. Đạo gia còn dạy con người phải biết sống khiêm tốn, giản dị, mà vẫn ung dung, tự tại, không lo sợ, không đau buồn… trước mọi biến động xảy ra; không tham lam, vụ lợi, giả dối; không đấu tranh, giành giật; không đua đòi, bon chen, đố kỵ… Mà cần phải sống hòa nhã, trung dung, ngay thẳng, tự nhiên thuần phác. Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Hà Thị Sen-Nhóm6-K22 Ngày 4 Trang 16 TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách tham khảo: 1. GVC.TS Bùi Văn Mưa, Đề cương chi tiết môn Triết học, Trường đại học kinh tế Tp.HCM. 2. Tiểu ban Triết học, Triết học (Phần I & II, dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), LHNB Trường ĐH Kinh tế TP.HCM, 2010. 3. Hoàng Trung, Phần II: triết học Trung Quốc cổ- Trung đại 4. Vũ Ngọc Pha & Doãn Chính chủ biên, Triết học, 1, tr.83, 2003, NXB Chính trị Quốc gia, HN 5. Doãn Chính, Lịch sử triết học Phương Đông, NXB Chính trị quốc gia. 6. Lịch sử triết học phương Đông (5 tập). Tác giả Nguyễn Đăng Thục, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2000. 7. Bùi Thanh Quất - Vũ Tình, Lịch sử triết học, Nxb Giáo dục, 2000. Tài liệu từ Internet : nho-gia-ve-chinh-tri-dao-duc.html

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf56_n4k22_detai3_ha_thi_sen_3657.pdf
Luận văn liên quan