Đề tài Sự di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư đối với quá trình phát triển kinh tế

MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU Lý do hình thành đề tài Mục tiêu nghiên cứu Giới hạn phạm vi nghiên cứu Ý nghĩa thực tiễn của đề tài CỞ SỞ LÝ LUẬN VỀ DI CHUYỂN CHẤT XÁM TỪ KHU VỰC CÔNG SANG KHU VỰC TƯ Khái niệm khu vực công-khu vực tư- tiêu chí phân biệt hai khu vực Khu vực công Khu vực tư Tiêu chí phân biệt khu vực công và khu vực tư Khái niệm về nguồn nhân lực-nguồn nhân lực chất xám Nguồn nhân lực trong nền kinh tế tri thức Một số định nghĩa khác nhau về nguồn nhân lực Nguồn nhân lực chất xám Nguồn nhân lực chất xám trong khu vực công Các lý thuyết về di chuyển nguồn nhân lực Nguyên nhân của việc di chuyển nguồn nhân lực Mô hình lý thuyết về di chuyển nguồn lực 3.2.1Mô hình của Lewis 3.2.2Mô hình Haris-Todaro 3.2.3Lý thuyết “Mới” về di dân Một số lí thuyết về quản lí nguồn nhân lực 3.3.1Thuyết cấp bậc nhu cầu của Maslow 3.3.2Thuyết vê sự công bằng 3.3.3Thuyết hai nhân tố của Herzberg 3.3.4Mô hình động cơ thúc đẩy của Porter và Lawler Vấn đề di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư Kinh nghiệm của một số nước trong việc giải quyết tình trạng chảy máu chất xám từ khu vực công sang khu vực tư ẢNH HƯỞNG CỦA KHU VỰC CÔNG VÀ TƯ ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - HIỆN TƯỢNG DI CHUYỂN CHẤT XÁM TỪ KHU VỰC CÔNG SANG KHU VỰC TƯ HIỆN NAY VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Khái quát về tăng trưởng và quá trình phát triền kinh tế Tăng trưởng và phát triển kinh tế 1.1.1Tăng trưởng kinh tế 1.1.2Phát triển kinh tế 1.1.3Quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế Các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng và phát triển kinh tế 1.2.1Các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng kinh tế 1.2.2Các chỉ tiêu phản ánh phát triển kinh tế Ảnh hưởng của khu vực công và khu vực tư đối với quá trình phát triển kinh tế Khu vực công 2.1.1Vai trò của khu vực công 2.1.2Ảnh hưởng tích cực 2.1.3Ảnh hưởng tiêu cực 2.1.4Ví dụ về sự ảnh hưởng của khu vực công hiện nay Trên thế giới Trong nước Khu vực tư 2.2.1Vai trò của khu vực tư 2.2.2Ảnh hưởng tích cực 2.2.3Ảnh hưởng tiêu cực 2.2.4Ví dụ về sự ảnh hưởng của khu vực tư hiện nay Trên thế giới 54 Trong nước Thực trạng di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư hiện nay Trên thế giới 3.1.1Ở Anh 3.1.2Ở Utah Trong nước Ảnh hưởng của sự di chuyển chất xám đối với quá trình phát triển kinh tế 3.3.1Ảnh hưởng tích cực 3.3.2Ảnh hưởng tiêu cực Giải pháp cho hiện tượng di chuyển chất xám từ công sang tư Một số biện pháp hạn chế sự di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư đang được áp dụng hiện nay tại Việt Nam KẾT LUẬN A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do hình thành đề tài: Trong thời đại hiện nay, khi mà hầu hết các nước trên thế giới đang hướng đến một nền kinh tế năng động và phát triển, nền kinh tế đa thành phần đang là một ưu thế. Ở nền kinh tế đa thành phần đó luôn tồn tại hai khu vực: “khu vực kinh tế Nhà nước”( khu vực công) và khu vực kinh tế Tư nhân( khu vực tư). Trong đó, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ lực và kinh tế tư nhân là động lực phát triển của nền kinh tế. Hai khu vực kinh tế này chính là hai nhân tố chính đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế, cũng như chiếm một tỉ trọng rất cao trong GDP và trong việc giải quyết công ăn việc làm cho những người trong độ tuổi lao động của các nước. Và bao giờ cũng vậy, để phát triển kinh tế thì không thể không nói đến yếu tố “nguồn lao động”. Rõ ràng, đây là một yếu tố có ảnh hưởng rất lớn. Nếu nguồn lao động có chất lượng cao thì quá trình phát triển kinh tế cũng sẽ thuận lợi và dễ dàng hơn. Tuy nhiên, một thực tế đang trở thành vấn nạn hiện nay đó chính là sự di chuyển của các nguồn lao động, đặc biệt là nguồn lao động có chất lượng ( lực lượng tri thức) và chúng ta thường hay nghe với cái tên đó là “hiện tượng chảy máu chất xám”. Có hai luồng di chuyển lao động chính đó là: trên quốc tế và trong nước. Ở phạm vi quốc tế, đó chính là sự di chuyển của những nguồn lao động có tri thức từ các nước kém phát triển hơn đến các nước phát triển hơn. Ở phạm vi trong nước, đó chính là sự di chuyển của lực lượng lao động từ khu vực này sang khu vực khác, hay từ ngành này sang ngành khác Nổi bật nhất vẫn là sự di chuyển của các nguồn lực lao động từ khu vực công ( khu vực kinh tế nhà nước) sang khu vực tư ( khu vực kinh tế tư nhân) hoặc ngược lại. Ở các nước đang phát triển hiện nay, khi mà quá trình tư nhân hóa (privatization) đang được tiến hành mạnh mẽ thì rõ ràng cầu lao động ở khu vực tư sẽ tăng lên một cách đáng kể. Vì thế, việc số lượng công nhân viên chức chuyển việc làm từ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân đang tăng lên dù đã được đề cập trong nhiều năm qua nhưng chưa lúc nào vấn đề này lại gây sự chú ý lớn trong xã hội như bây giờ. Trước đây ở các nước thì có việc làm trong Chính phủ, Nhà nước được coi như là một đặc quyền. Song ngày nay, lực lượng lao động, trí thức lại có xu hướng chuyển sang làm việc cho các doanh nghiệp tư nhân nhất là các sinh viên mới ra trường. Thực tế gần đây cho thấy, tại Việt Nam, đặt biệt là ở khu vực phía Nam, số lượng cán bộ, công nhân viên chức di chuyển sang khu vưc tư nhân đang tăng mạnh. Đây chính là hiện tượng “ chất xám chảy từ khu vực công sang khu vực tư” mà hiện nay cũng đang trở thành thách thức lớn đối với các nước khác trên thế giới, nhất là các nước đang phát triển như Indonesia, Malaysia . Và do đó, thuật ngữ “di chuyển chất xám” đang dần trở nên phổ biến. Theo giáo sư tiến sĩ Phạm Xuân Hằng thành viên của Hội đồng lý luận Trung ương ,vấn đề trên là một hệ quả tự nhiên của sự phát triển. Tất cả chúng ta bao gồm cán bộ công nhân viên chức đều muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn, được phát triển, đóng góp nhiều cho xã hội, vì vậy ở đây không có gì là sai khi họ rời khỏi nhà nước để tạo điều kiện sống tốt hơn cho mình. (Nguồn: Vietnam News). Nhưng nếu việc làm này ngày càng phổ biến, đội ngũ cán bộ công chức hoạt động trong Nhà nước có nguy cơ bị thiếu hụt hay không đảm bào chất lượng thì nó sẽ trở thành một vấn đề lớn cần được quan tâm một cách nghiêm túc. Vì vậy chúng ta phải tự hỏi: tại sao họ lại chuyển từ khu vực công sang khu vực tư ? Những yếu tố nào đã tác động đến họ? Đặc biệt, hiện tượng này có những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực như thế nào đối với quá trình phát triển kinh tế của các nước đang tồn tài vấn nạn này? Để từ đó xem xét xem có giải pháp và chính sách nào để có thể hạn chế hiện tượng này? Để có câu trả lời, nhóm đã tìm hiểu, nghiên cứu thực hiện đề tài: “ Sự di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư ở các nước đối với quá trình phát triển kinh tế”

doc74 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3539 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư đối với quá trình phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chưa được xây dựng đồng bộ, vận hành suôn sẻ; quản lý nhà nước về kinh tế còn nhiều bất cập; chưa có giải pháp mang tầm đột phá để kinh tế nhà nước thực sự hoàn thành tốt chức năng chủ đạo trong nền kinh tế; kinh tế tập thể còn rất yếu kém; năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thấp; chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường…Lấy ví dụ cụ thể hơn, trong thời gian gần đây, khi mà nền kinh tế nước nhà ở trong tình trạng lạm phát tăng cao, Chỉ trong vòng một thời gian ngắn, việc tăng giá các mặt hàng liên tục đã tạo một sức ép lớn lên chỉ số tiêu dùng (CPI), tuy nhiên chúng ta thấy không nhiều những nỗ lực của các DNNN trong việc bình ổn giá. Đơn cử một vài trường hợp: Chúng ta nghe đến việc các doanh nghiệp xăng dầu kêu lỗ nhưng Tổng công ty xăng dầu Việt Nam khi báo cáo lại có kết quả kinh doanh lãi đến vài trăm tỷ đồng. Chúng ta nghe đến chuyện Tổng công ty Hàng không Việt Nam đề nghị tăng giá vé để bù đắp chi phí nhưng theo thống kê thì tiền lương của các nhân viên trong doanh nghiệp này thuộc loại cao nhất trong các lĩnh vực kinh tế. Hay chuyện Tập đoàn Than Khoáng sản đề nghị tăng giá than vì hiện tại đang bán với giá thấp hơn giá thế giới nhiều nhưng nhiều công ty than niêm yết báo cáo có mức lợi nhuận lên đến 100% vốn điều lệ. Rồi chuyện Tổng công ty Điện lực Việt Nam đề nghị tăng giá để bù lỗ và có nguồn vốn đề đầu tư phát triển dự án điện nhưng lại đề nghị trích một khoản tiền khổng lồ để thưởng cho nhân viên trong khi thu nhập trung bình của ngành điện thuộc loại cao trong nền kinh tế. Mới đây nhất, Tập đoàn dầu khí (PV) lại đề nghị tăng giá 47% sản lượng khí Gaz từ 1/4/2010 cho theo kịp cơ chế thị trường, tăng lợi nhuận cho Công ty con trước khi cổ phần hóa. Trong khi Chính phủ kêu gọi các doanh nghiệp bình ổn giá, nỗ lực kìm chế lạm phát … thì chính giá bán hàng và sản phẩm dịch vụ của các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước lại “tiên phong” xin hoặc thông báo tăng giá. Rõ ràng đây là những bất cập cần đáng lưu ý của khu vực kinh tế nhà nước của Việt Nam chúng ta mà chúng ta cần phải xem xét lại. Khu vực tư Vai trò của khu vực tư Với định nghĩa rõ ràng về khu vực tư nhân ở phía trên, chúng ta có thể thấy rằng, khu vực kinh tế tư nhân được hiểu đơn giản là khu vực kinh tế nằm ngoài “khu vực kinh tế nhà nước-khu vực công”, dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Nó là một bộ phận không thể thiếu được trong nền kinh tế của một đất nước, đặc biệt là hiện nay, khi mà hầu hết các quốc gia đều đang thực hiện nền kinh tế đa dạng nhiều thành phần. và ngày nay, khi mà nền kinh tế của các quốc gia ngày càng được mở rộng và phát triển, quá trình toàn cầu hóa thế giới ngày càng mở rộng thì bộ phận kinh tế này ngay càng chiếm một vị trí quan trọng và tỉ trọng không nhỏ ở các nước. Lấy ví dụ đơn cử ở Trung Quốc, số lượng các doanh nghiêp tư nhân đang tăng lên một cách nhanh chóng từ 90,000 doanh nghiệp trong năm 1989 lên 3 triệu trong năm 2003, tăng hơn 30 lần. Bên cạnh đó, các công ty tư nhân có nguồn vốn từ nước ngoài cũng đã tăng lên từ 16,000 trong năm 1989 lên 226,000 trong năm 2003. Rõ ràng, một sự tăng lên thật đáng kinh ngạc của khu vực tư ở nhà nước Trung Quốc. Trong khi đó, số lượng của các công ty thuộc khu vực công trong giai đoạn này lại giảm từ 1.55 triệu trong năm 1992 xuống 1.05 triệu trong năm 2003. Với tình trạng tăng nhanh như vậy của khu vực tư, có phải thật sự khu vực này đang đóng góp rất nhiều cho quá trình phát triển kinh tế? bên cạnh mặt tích cực của nó, nó còn tồn tại những hạn chế nào? Để giải quyết những câu hỏi đó, chúng ta cần tìm hiều cụ thể về những ảnh hưởng tích cực cũng như những ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với quá trình phát triển kinh tế. Ảnh hưởng tích cực Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giảm tình trạng độc quyền Song song với khu vực kinh tế nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân cũng đã đóng góp không ít vào tỉ trọng GDP của các nước hiện nay. Với cơ cấu kinh tế năng động, lực lượng lao động dồi dào, khu vực tư đã góp phần làm ra một lượng lớn của cải cho xã hội, số lượng hàng hóa, mặt hàng trở nên phong phú và đa dạng hơn. Bên cạnh đó, với sự ra đời lớn mạnh của mình, các công ty, doanh nghiệp tư nhân đã cạnh tranh khốc liệt đối với các doanh nghiệp công cũng như cạnh tranh với nhau trong nội bộ khu vực tư. Chính điều đó đã là động lực rất lớn thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng nâng cao cải tiến kỹ thuật, công nghệ, đổi mới trang thiết bị cũng như nghiên cứu, chế tạo ra các sản phẩm mới…Và từ đó, đời sống xã hội không ngừng được đổi mới và nâng cao. Nếu trong công cuộc cạnh tranh khốc liệt đó, doanh nghiệp nào không chịu chạy theo cho phù hợp với xu thế của thị trường thì tất nhiên, doanh nghiệp đó sẽ bị bỏ lại xa phía sau. Cái kết cục xấu nhất cho sự trì trệ này chính là tình trạng phá sản của hàng loạt các doanh nghiệp. Hơn thế, trong quá trình cạnh tranh với các doanh nghiệp công, các công ty tư nhân đã góp phần giải quyết bớt tình trạng độc quyền ở một số loại mặt hàng mà các công ty nhà nước đang nắm giữ. Trên cơ sở đó, sẽ làm cho giá cả hàng hóa của một số loại mặt hàng được giảm bớt, tránh tình trạng tăng giá quá cao của các công ty độc quyền. Giải quyết tình trạng thất nghiệp Trong nền kinh tế hiện nay, khi mà trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, đòi hỏi một lực lượng lao động ngày càng có chuyên môn kỹ thuật cao hơn, cơ cấu lao động trên thế giới ngày càng biến đổi mạnh, bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường hoạt động diễn biến vô cũng phức tạp, lạm phát diễn ra nhiều nơi…thì quá trình thất nghiệp ngày càng diễn ra dễ dàng hơn. Chỉ cần một biến động nhỏ trên thị trường, cũng có thể dẫn đến tình trạng công nhân bị sa thải, thất nghiệp. và rõ ràng, khi quá trình thất nghiệp diễn ra quá phức tạp thì nó gây ra những hậu quả không ích cho xã hội, không chỉ về mặt kinh tế mà còn về các mặt khác như ảnh hướng văn hóa,nảy sinh các tệ nạn xã hội…Trong bối cảnh đó, khu vực tư là một thành phần quan trọng trong việc giải quyết vấn đề thất nghiệp cũng như quá trình cắt giảm nhân công. Với số lượng các công ty công ngày càng tăng nhanh ở các nước hiện nay, các thành phần kinh tế ngày càng được đa dạng hóa, nhu cầu lao động sẽ tăng lên một cách đáng kể. bên cạnh đó, bản thân người lao động cũng có nhiều chọn lựa hơn cho công việc của mình, không phải nhất thiết tập trung vào khu vực kinh tế công. Như thế, rõ ràng nó sẽ giải quyết rất nhiều cho vấn đề thất nghiệp, một trong những vấn đề không kém phần nan giải của các quốc gia hiện nay. Lấy đơn cử trường hợp ở Trung Quốc, các công ty tư nhân đã tuyển dụng một lực lượng lao động từ các bộ phận, doanh nghiệp thuộc khu vực công cụ thể là tỉnh Jiangshu, năm 2003 có 127.000 công nhân bị sa thải từ khu vực công. Tuy nhiên, nhờ có khu vực kinh tế tư, đã tiêu thụ 503.000 công nhân, giảm tỉ lệ thất nghiệp xuống 0,1% ( theo China Economic News ngày 26/4/2004) Mở rộng cơ hội phát triển kinh tế thông qua sự hợp tác với nhau Ngày nay, khi mà xu hướng toàn thế giới đang hướng đến một thế giới phẳng, không có biên giới giữa các quốc gia, loại hình các công ty tư nhân xuyên quốc gia đang trở nên khá phổ biến. Với loại hình này, các công ty tư nhân đã góp phần rất lớn trong việc tạo ra một lượng lớn của cải vật chất cho toàn xã hội. Các công ty này, dưới nhiều hình thức phát triển đa dạng như : hợp tác giữa các nhà cung cấp với nhau, giữa các nhà phân phối với nhau, hay mô hình franchise, hệ thống các công ty xuyên quốc gia cũng đã góp phần rất lớn trong việc gia tăng thu nhập cũng như của cải của người nghèo. Có thể dễ dàng lý giải cho điều này vì với một hệ thống phân phối lớn và sâu tới nhiều khu vực khắp nơi, các loại mô hình này có thể dễ dàng biết được nhu cầu, của cải cũng như khả năng của người nghèo và từ đó có thể đáp ứng cho họ dễ hơn, từ đó quá trình gắn kết giữa kinh doanh và người nghèo cũng thuận tiện hơn. Bên cạnh đó, các công ty này còn có các chiến lược bổ sung (complementary strategies), góp phần trong việc gia tăng thu nhập đầu người, cải thiện đời sống của người dân thông qua các chương trình huấn luyện, xây dựng các đơn vị chức năng của công ty trong các tổ chức phi chính phủ, chính phủ, các tổ chức kinh doanh ở địa phương. Các công ty này, thông qua việc đầu tư cho xã hội, các tổ chức gây quỹ cho các hoạt động này cũng đã góp phần rất lớn trong việc cải thiện đời sống của dân nghèo, tăng thu nhập đầu người. Lấy ví dụ điển hình một số các tập đoàn lớn trên thế giới hiện nay như là tập đoàn BP đã góp phần đưa nguyên luyện sinh học làm giảm sự ô nhiễm trong nhà đến các gia đình có thu nhập thấp. hay một ví dụ khác đó là từ năm 2001, tập đoàn Abbott’s – Hoa kỳ đã thực hiện chương trình HIV/AIDS ở Tazania, huấn luyện 10,000 chuyên gia và nhân viên y tế cộng đồng để chăm sóc, kiểm tra những bệnh nhân bị nhiễm HIV ở nước này, quản lý bệnh viện, nâng cao kỹ năng và thu nhập của người dân địa phương.( dịch từ tài liệu “The role of private sector in expanding economic opportunity through collaborative action”) Ảnh hưởng tiêu cực: Các doanh nghiệp thường gặp phải tình trạng thiếu vốn dẫn đến khó khăn trong việc cải tiến Hiện nay KTTN đang gặp phải một cản trở rất lớn đến sự phát triển sản xuất kinh doanh và là hiện tượng phổ biến đối với toàn bộ các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN đó là tình trạng thiếu vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất. Quy mô của doanh nghiệp hầu hết là nhỏ, một số ít có quy mô vừa, số có quy mô lớn rất ít. Thực tế những năm gần đây. Chỉ tiêu hiệu quả của doanh nghiệp tư nhân rất thấp, tỷ suất lợi nhuận/ vốn rất thấp quá xa so với lãi suất ngân hàng, đặc biệt là của khu vực hộ cá thể còn thấp hơn nữa, chủ yếu là gia công (nếu sản xuất) hoặc đại lý (nếu bán hàng) nên lấy công làm lãi là chính. Điều này chứng tỏ khả năng tích tụ và huy động vốn của KTTN trong toàn xã hội còn thấp. Hầu hết, lượng vốn tự có của các doanh nghiệp chỉ đáp ứng từ 20% đến 30% yêu cầu. Các doanh nghiệp thiếu vốn dẫn đến việc họ không có điều kiện đầu tư khoa học công nghệ hiện đại. Nhiều nhà doanh nghiệp ban đầu có ý định phát triển sản xuất nhưng do thiếu vốn nên đã gặp nhiều khó khăn lúng túng trong việc triển khai và nhiều khi họ phải hủy bỏ hợp đồng đã ký với đối tác. Điều đó giải thích tại sao khu vực KTTN thường tập trung vào lĩnh vực thương mại dịch vụ, những ngành nghề đòi hỏi vốn ít, thời gian thu hồi vốn nhanh, thu lãi ngay chứ chưa đủ sức đầu tư vào những ngành nghề, lĩnh vực quan trọng đòi hỏi nhiều vốn, có công nghệ tiên tiến. Còn với các nhà sản xuất, trong ba hình thức tổ chức kinh doanh (doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần) thì loại hình doanh nghiệp tư nhân được họ ưa chuộng, phổ biến hơn cả. Tính chất sản xuất nhỏ vẫn tồn tại trong khu vực này. Lý giải cho vấn đề này chủ yếu là do các doanh nghiệp tư nhân đang gặp phải sự khó khăn khi vay vốn từ các ngân hàng thuộc khu vực nhà nước. bởi lẽ, Thứ nhất, về vấn đề thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Theo các quy định hiện hành khi các doanh nghiệp sử dụng tài sản để thế chấp, cầm cố, bảo lãnh thì rất khó khăn trong việc xử lý các thủ tục như: đăng ký quyền sở hữu tài sản, khó khăn trong việc xác định giá trị của tài sản thế chấp nhất là tài sản thế chấp là đất, nhà... Thứ hai, đa số các doanh nghiệp thường không đủ điều kiện để vay vốn tín chấp tại ngân hàng như: chưa có tín nhiệm với ngân hàng trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn (cả gốc và lãi), không ít doanh nghiệp lừa đảo, chây ì trả nợ; hiệu quả sản xuất kinh doanh kém, không rõ ràng về sổ sách... chính vì thế đã dẫn đến tình trạng thiếu vốn trong các doanh nghiệp tư nhân và từ đó gây khó khăn cho họ trong việc cải tiến, đổi mới khoa học kỹ thuật cũng như tiếp cận thị trường, cung ứng sản phẩm mới, khó khăn trong việc linh hoạt cung ứng đến các thị trường nhỏ… Chỉ chấp nhận đầu tư khi thấy lợi Hầu hết, các doanh nghiệp thuộc khu vực tư chỉ chấp nhận đầu tư vào những lĩnh vực mà họ cho là có lợi, khả năng thu được đồng vốn dễ dàng nhất là các ngành thuộc lĩnh vực dịch vụ. Chính điều này cũng đang tạo ra một sự thiếu cân bằng trên thị trường. một số ngành bên cạnh đó lại thiếu sự đầu tư, nhất là các ngành nằm ngoài khu vực dịch vụ và có vốn đầu tư khá cao. Kết quả là các ngành đó vẫn còn trong tình trạng độc quyền từ phía nhà nước hoặc là ít được cạnh tranh nhiều nên giá cả của các loại mặt hàng này vẫn còn cao. Hơn nữa, chính vì mặt lợi nhuận, nên các công ty thuộc khu vực tư ít chú ý đến mặt lợi ích của xã hội. chẳng hạn như các công trình công cộng như đường sá, dịch vụ công cộng như phương tiện giao thông… Vẫn còn rất ít doanh nghiệp tư nhân đầu tư cho lĩnh vực này chứ đừng nói đến là họ sẽ bỏ ra để đóng góp cho xã hội. nếu có đầu tư thì cũng chỉ là một số lượng rất nhỏ, và giá cả của các dịch vụ này vẫn còn rất cao. Vấn đề về lao động Hầu hết các doanh nghiệp trong khu vực tư hiện nay cũng đang gặp phải một bất cập không nhỏ trong vấn đề tuyển lao động. Nếu như ở các nước đang phát triển, vấn đề này được giải thích chủ yếu là do thiếu vốn. Với cơ cấu nền kinh tế ở các nước này chỉ mới chuyển đổi, các doanh nghiệp tư phát triển và ra đời hàng loạt, thì tất nhiên sẽ không tránh khỏi tình trạng có một loạt các công ty nhỏ và quy mô không ổn định. các công ty này, do mới hinh thành không có cơ sở bảo đảm để có thể thế chấp vay vốn nên cũng đã gặp không ít khó khăn trong việc kiếm lương để trả cho công nhân viên. Lương không có, các nhân viên làm tại các công ty này gặp không ít ái ngại. Hơn thế, còn có tình trạng nhiều doanh nghiệp vì muốn hoàn thành chỉ tiêu theo đúng hợp đồng, đã bắt công nhân làm thêm giờ trong khi đó lương thì không trả cho người lao động gây ra một sự phẫn nộ rất lớn thậm chí gây ra đình công, bãi công… Chính vì thế, nhiều người mất niềm tin và không muốn làm cho các doanh nghiệp này, dẫn đến họ bị khủng hoảng về nguồn lao động. Một vấn đề nữa là do không đủ khả năng chi trả nên nhiều doanh nghiệp không thể thuê được những người có khả năng lãnh đạo có chất lượng cao. Lực lượng lãnh đạo là một trong những bộ phận chủ chốt. Lực lượng này giỏi thì doanh nghiệp mới tốt mà trong khi đó, ở các doanh nghiệp này lại thiếu vắng những người tài thì rõ ràng là một hạn chế rất lớn. Tuy nhiên, đó chỉ là tình trạng ở các nước đang phát triển. Vậy còn ở các nước phát triển thì sao? Theo thống kê của nhiều nguồn cho thấy, đa số mọi người dân ở các nước phát triển như Mỹ, Canada… lại rất ít làm cho khu vực tư. Câu trả lời của hầu hết những người này đó là do mức lương, cũng như các dịch vụ khác như ưu đãi cho người lao động như bảo hiểm xã hội, lương hưu…của các công ty tư nhân không bằng ở các công ty thuộc khu vực công. Họ cảm thấy được hưởng nhiều ưu đãi hơn khi làm cho các công ty công hơn là công ty tư. Như vậy, rõ ràng, với vấn đề lương hướng chưa được giải quyết tốt cho người lao động, các doanh nghiệp thuộc khu vực công đang gặp bất cập rất lớn cho vấn đề lao động. Vấn đề lao động không tốt thì rõ ràng tác động của nó đối với phát triển kinh tế cũng sẽ bị trì trệ, hơn nữa xét về mặt phát triển lâu dài đối với xã hội của vấn đề này thì đời sống xã hội của con người, cụ thể ở đây là bộ phận lao động chưa được chú ý nhiều, chưa tác động nhiều đến quá trình phát triền kinh tế. Ví dụ ta có bảng so sánh lương ở các nước phát triển, cụ thể là Mỹ như sau Ví dụ về ảnh hưởng khu vực tư đối với quá trình phát triển kinh tế Trên thế giới Ở Trung Quốc, trong thời gian gần đây, số lượng các công ty thuộc khu vực tư tăng lên một cách đáng kể. Cụ thể, ta có bảng: Sự gia tăng một khối lượng lớn các công ty thuộc khu vực tư hiện nay cũng đã góp phần tạo ra một lượng lớn thu nhập thuế cho chính phủ. Từ năm 1992 đến năm 2002 tại Trung Quốc, nguồn thuế thu được từ khu vực này trung bình tăng hơn 30% và nó đóng gớp vào hơn tổng thu nhập thuế của cả nước là 10% Trong nước Ở Việt Nam chúng ta hiện nay, khi mà đất nước đang trong quá trình thực hiện nền kinh tế mở cửa, đa dạng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì khu vực tư là một bộ phận có đóng góp không hề nhỏ. Trong những năm gần đây, khu vực kinh tế tư nhân mở rộng và phát triển một cách nhanh chóng. Ước tính đến tháng 1-2005, số doanh nghiệp tư nhân đăng ký ở nước ta là 150.000 doanh nghiệp có mã số thuế, 800.000 doanh nghiệp tư nhân dưới dạng gia đình không có mã số thuế. Theo tính toán thì khu vực kinh tế tư nhân đóng góp vào GDP hơn 50%, 27% tổng đầu tư trên đầu người và 90% lực lượng lao động. Theo tính toán của ngân hàng thế giới vào tháng 8 năm 2005, ta thấy sản lượng làm ra của cả nước có sự thay đổi giữa các thành phần kinh tế. trong những năm của thập niên 90, sự đóng góp của thành phần kinh tế nhà nước( phần màu vàng) vẫn là chủ lực ( hơn 50%) nhưng đến những năm 2000, nó đã có sự chuyển hướng sang các công ty tư nhân (phần màu xanh –các công ty tư nhân trong nước và màu đỏ- các công ty tư nhân nước ngoài). Đến năm 2004, hai bộ phận thuộc đóng góp vào GDP khu vực tư này chiếm hơn 60%. Hơn thế, tỉ lệ đầu tư của các thành phần kinh tế vào GDP của cả nước cũng có sự thay đổi, thể hiện cụ thể qua bản sau: Quan sát trên bảng, ta có thể thấy đống góp của khu vực nhà nước chi là 226 nghìn tỉ VND trong giai đoạn 2001-2005 và dự định tăng lên 336,5 đến 356 nghìn tỉ trong giai đoạn 2006-2010. Trong khi đó, tính cho khu vực tư là 328,5 nghìn tỉ vào 2001-2005, và dự tính sẽ tăng lên 568-607,1 nghìn tỉ trong 5 năm 2006-2010. Đó là chưa tính đến các công ty có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Ta thấy thị phần đóng góp của khu vực tư đã có sự gia tăng từ 20% trong năm 2000 lên ước tính khoảng 27% vào năm 2003. Thậm chí ở một số khu vực, khu vực tư đã trở thành thành phần chủ lực trong quá trình phát triển kinh tế. điển hình là tại thành phố hồ chí minh, các doanh nghiệp tư nhân chiếm đến 38% tổng đầu tư trong năm 2002, cao hơn các doanh nghiệp thuộc khu vực công là 36,5%. Và con số này còn đáng ngạc nhiên hơn khi tính đến năm 2009 thì theo một báo cáo nhanh được thực hiện bởi Tổ công tác thi hành Luật doanh nghiệp và Đầu tư, Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) cho thấy, nếu chỉ tính về số doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh, thì từ số lượng khoảng 31.000 doanh nghiệp vào năm 2000, con số này đã nhanh chóng tăng lên 15 lần trong vẻn vẹn 9 năm. Với hơn 83.000 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh mới trong năm 2009, con số doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh khi cộng dồn lại đến tháng 12 năm 2009 được ước tính đạt 460.000 doanh nghiệp. So sánh với các loại hình doanh nghiệp khác thì khu vực doanh nghiệp tư nhân có số lượng tăng ấn tượng nhất và tạo nên sự tăng trưởng chính về mặt số lượng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Quy mô vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân cũng tăng đáng kể. Tổng vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp tư nhân đã tăng 17 lần từ khoảng 38.700 tỷ đồng vào năm 2000 lên tới 657.000 tỷ vào năm 2008. Tính trung bình, vốn chủ sở hữu bình quân một doanh nghiệp dân doanh hiện nay đạt 5,2 tỷ đồng so với 1,2 tỷ đồng vào năm 2000. Đánh giá một cách toàn diện, việc tăng quy mô vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân đã đi kèm với mức tăng rất ấn tượng về doanh thu thuần (tăng gần 16 lần), lợi nhuận (tăng 27 lần), tổng tài sản (tăng 24 lần) trong giai đoạn 2000-2008. Đặc biệt, tốc độ tăng của tổng tài sản, lợi nhuận đã tăng nhanh hơn rất nhiều so với tốc độ tăng của vốn chủ sở hữu, thể hiện bằng việc nguồn vốn đầu tư của các nhà đầu tư và các cổ đông trong các doanh nghiệp tư nhân đã được sử dụng có hiệu quả. Về khả năng tạo lợi nhuận, vào năm 2000 tính trung bình một doanh nghiệp tư nhân chỉ có thể tạo ra được khoảng 54 triệu đồng lợi nhuận, thì con số này đã tăng lên gấp năm lần là 258 triệu vào năm 2008. Ở góc độ một số chỉ số khác, một doanh nghiệp dân doanh hiện nay cũng có mức tài sản trung bình là 14 tỷ đồng và mức doanh thu thuần trung bình là 17 tỷ đồng, tăng hơn rất nhiều so với những năm đầu thập kỷ. Doanh nghiệp tư nhân là khu vực tạo ra nhiều việc làm, và với việc tăng nhanh về số lượng, đây cũng là khu vực có tốc độ tạo ra việc làm lớn nhất so với các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực đối với quá trình phát triển kinh tế của đất nước, khu vực kinh tế tư nhân cũng đang gặp phải những mặt hạn chế nhất định. Cụ thể: vắng bóng doanh nghiệp lớn, số lượng những doanh nghiệp tư nhân lớn còn quá ít ỏi và các doanh nghiệp quy mô vừa cũng vắng bóng. Trong báo cáo top 500 doanh nghiệp lớn nhất mà VietNam Report và Vietnamnet công bố, vào năm 2009 chỉ có 28,9% trong số các doanh nghiệp này là của khu vực tư nhân. Con số này có tăng so với mức 24% của năm 2008 nhưng phần lớn sự tăng trưởng này và cả tỷ trọng lớn trong số các doanh nghiệp tư nhân lớn này là nhờ số đáng kể là doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa. Số các doanh nghiệp lớn chỉ rất giới hạn trong một vài tên tuổi quen thuộc như Đồng Tâm, Kinh Đô, Trung Nguyên, Hòa Phát, Hoàng Anh Gia Lai, Saigon Invest, SSI, CMC… Và trong danh sách 200 doanh nghiệp lớn nhất do UNDP công bố thì chỉ có 17 doanh nghiệp tư nhân. Báo cáo này cũng cho biết số doanh nghiệp tư nhân thực sự lớn lên từ xuất phát ban đầu là doanh nghiệp tư nhân rất hạn chế. Phần lớn trong số 17 doanh nghiệp tư nhân đó là các doanh nghiệp được cổ phần hóa. Trên thực tế, sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa rất gian nan. Môi trường kinh doanh cũng như những hạn chế về trình độ quản trị, điều hành, vốn, công nghệ... đã khiến cho các doanh nghiệp tư nhân khó có thể nhanh chóng lớn mạnh thành những đầu tàu cho nền kinh tế hoặc cho toàn bộ khu vực tư nhân. Trong giai đoạn cuộc khủng hoảng kinh tế vừa rồi, những tác động với Việt Nam càng thể hiện sự cần thiết và vai trò của các doanh nghiệp lớn để cung cấp nguồn lực và là chỗ dựa để nhà nước triển khai những chính sách chống khủng hoảng kinh tế. Các doanh nghiệp này không nhất thiết phải là các doanh nghiệp nhà nước mà cần phải bao gồm cả các doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, số lượng các doanh nghiệp tư nhân có thể đảm đương được vai trò đó dường như còn quá hạn chế. Đã có một số doanh nghiệp tư nhân, bằng nhiều hình thức khác nhau, nỗ lực xây dựng một thương hiệu Việt nhằm được biết tới trên thị trường quốc tế như Hoàng Anh Gia Lai, Trung Nguyên, Phở 24, Sacombank, CAVICO, nhưng để trở thành một tập đoàn đa quốc gia theo đúng nghĩa thì quả là còn một chặng đường gian nan. Đây cần được coi là một trong những vấn đề chính sách cần được xử lý nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng cũng như vai trò của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế. Tuy nhiên, đã qua 10 năm tính từ năm 2000 khi Luật Doanh nghiệp chính thức có hiệu lực mà các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam vẫn không lớn được. Đó là câu hỏi đầy trăn trở của ông Nguyễn Đình Cung, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, tại một cuộc hội thảo do VCCI tổ chức. Quả thực là như vậy, một điều tra gần đây cho biết, có đến 80% số doanh nghiệp tư nhân Việt Nam có quy mô nhỏ (80% có vốn kinh doanh dưới 5 tỉ đồng và 87% sử dụng dưới 50 lao động). Vấn đề không chỉ dừng lại ở việc đưa ra con số về quy mô doanh nghiệp tư nhân, quan trọng hơn như một chuyên gia kinh tế nhận định: “Khi khu vực doanh nghiệp tư nhân chưa thực sự đủ lớn, việc trở thành động lực thực sự cho sự phát triển kinh tế Việt Nam sẽ vẫn là kế hoạch”. Đã có rất nhiều ý kiến bàn về nguyên nhân của tình trạng “không lớn được” của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam song những nguyên nhân sau đây là cơ bản. Thứ nhất, từ năm 2000 - năm Luật Doanh nghiệp được bắt đầu áp dụng - đến nay, thời gian chưa phải là dài để chúng ta có được những tập đoàn kinh tế tư nhân hùng mạnh. Đó là điều tất yếu khách quan. Thứ hai là những nguyên nhân từ đội ngũ doanh nhân. Một điều tra mới đây của VCCI cho biết, “tầng lớp doanh nhân mới được hình thành trong những năm gần đây, xuất thân từ nhiều tầng lớp lao động xã hội khác nhau, nhiều người chưa được đào tạo kinh doanh bài bản; các doanh nghiệp của doanh nhân Việt Nam chưa có tích lũy lớn về vốn nên sức vươn hạn chế; tinh thần học hỏi của một số doanh nhân chưa cao, dễ thỏa mãn, chưa chú trọng đầu tư thu thập thông tin, nâng cao kiến thức quản lý, kinh doanh; tâm lý ỷ lại của một số doanh nhân vào sự hỗ trợ của Nhà nước vẫn còn tồn tại; một số doanh nhân chưa tuân thủ đúng pháp luật và hưởng thụ quá sớm…”. Thực trạng di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư hiện nay: Như phân tích ở trên ta thấy, rõ ràng khu vực công và khu vực tư có những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực nhất định đối với quá trình phát triển kinh tế. chúng ta không thể nào đứng ở một góc độ nào đó mà quá đề cao khu vực này và phủ nhận vai trò của khu vực còn lại vì như thế là không công bằng. tuy nhiên, hiện nay, có một thực tế mà chúng ta không thể phủ nhận đó là hiện nay, trên thế giới, nhất là ở các nước đang phát triển, cải cách nền kinh tế theo hướng đa dạng hóa các thành phần kinh tế, trong đó có quá trình tư nhân hóa, đang tồn tại một thực trạng đó là có sự di chuyển nguồn nhân lực từ khu vực công sang khu vực tư. Hay chúng ta hay gọi nó dưới cái tên “Sự di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư”. Vậy quá trình này thức chất là như thế nào? Tại sao lại có sự di chuyển như vậy? Nếu để hiểu một cách giản đơn, chúng ta có thể cho rằng đây là hiện tượng mà một số các người lao động trong khu vực nhà nước- những người được gọi là “ công nhân viên chức” rời bỏ vị trí, công việc của mình ở các doanh nghiệp nhà nước và làm cho các công ty tư nhân. Họ rời bỏ cũng có nhiều lý do khác nhau như lương, thu nhập, yếu tố môi trường làm việc, các điều kiện khác… mà như nhóm chúng tôi đã phân tích ở phần cơ sở lý luận. nhưng vấn đề cần xem xét ở đây là thực trạng này đang điễn biến như thế nào? Nó quá phức tạp hay không? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần đi qua xem xét các trường hợp di chuyển này qua các ví dụ cụ thể trên thế giới và trong đó có cả Việt Nam chúng ta. Trên thế giới: Ở Anh Trong những năm trở lại đây, nước Anh cũng đã có tình trạng di chuyển lực lượng lao động từ khu vực công sang khu vực tư. Cụ thể Public Sector Employment 1 in 5 of all workers Nhìn vào biểu đồ ta thấy số lượng lao động trong khu vực công ở nước Anh là 20,4% trong năm 2005 trong khi đó vào tháng 6 năm 1992 là 23,1% và xuống đến mức thấp nhất là vào tháng 6/1999 còn 19,2%. Từ năm 1991 đến 1998, số lượng lao động trong khu vực công giảm hằng năm, khoảng 816.000 lao động cho mỗi kỳ. trong khi đó, lực lượng lao động trong khu vực tư lại tăng lên 1.241.000 ( khoảng 5,7% từ tháng 6 năm 1998 đến tháng 6 năm 2005). Ở Utah Hiện nay, ở đất nước Utah đang có tình trạng hàng loạt các thanh niên trẻ tốt nghiệp từ các trường đại học, cao đẳng nói chung là bộ phận tri thức, tài năng trẻ rời khỏi khu vực công để làm cho khu vực tư bởi công việc ở khu vực tư tốt hơn. Theo ước tính của quốc gia này thì trong bộ phận công chức hiện tại của đất nước này nằm trong độ tuổi tăng vọt về sinh sản là 43,6 %. Điều này đồng nghĩa với việc khi những người thuộc nhóm tuổi này nghỉ hưu trong vòng 25 năm nữa, toàn bộ các công ty thuộc khu vực công, của nhà nước, các quận huyện sẽ mất hầu như là hơn một nửa đội ngũ công nhân của họ và lên đến 75% đội ngũ quản lý trong khi đó khu vực tư nhân vẫn thu hút được đông đảo lực lượng lao động. giải thích về điều này là do các công việc trong khu vực công của nước này không tốt bằng công việc trong khu vực tư và hơn nữa khu vực công có rất ít chiến lược thu hút nhân tài trẻ đặc biệt là trong một số các khu vực như là IT. Hơn nữa các công ty thuộc lĩnh vực nhà nước không thể cạnh tranh với các công ty tư nhân trong việc trả lương cũng như các dịch vụ chăm sóc cho người lao động khác. Đối đầu với vấn đề đó, khu vực nhà nước đang gặp khó khăn rất lớn trong việc những bộ phận chủ lực đang bỏ qua khu vực tư nhân làm việc. (dịch từ tài liệu Utah Brain drain) Trong nước: Việt Nam cũng là một trong những nước đang phải đối đầu với vấn đề chảy máu chất xám từ khu vực công sang khu vực tư hiện nay. Và vấn đề này là một vấn đề gây không ít đau đầu cho các nhà chức trách nước ta. Hiện chưa có thống kê về hiện tượng CMCX trên toàn quốc nhưng rất dễ dàng nhận thấy tình trạng "nhảy việc" diễn ra phổ biến ở khắp nơi. Đối tượng CMCX chủ yếu là giới trí thức, doanh nhân, đặc biệt là những người trẻ tuổi và thường được dùng để chỉ khi nhân lực từ các cơ quan nhà nước ra làm ở các đơn vị phi nhà nước. Thời gian gần đây, nhiều cán bộ nhà nước tại TP.HCM đã xin nghỉ việc để ra "làm dân". Chỉ riêng Sở Bưu chính - viễn thông năm 2007 đã có ba cán bộ chủ chốt và một số chuyên viên xin nghỉ việc, sắp tới một số thạc sĩ thuộc chương trình đào tạo 300 tiến sĩ; thạc sĩ cũng sẽ nghỉ việc sau khi hết thời hạn cam kết phục vụ. Tại Viện Kinh tế TP.HCM, chỉ trong vòng một năm đã có khoảng mười người "ra đi", trong đó có những người có trình độ, bằng cấp cao.Tại các đơn vị khác như Sở Kế hoạch - đầu tư, Sở Giao thông công chính, các cơ quan trực thuộc Thành đoàn TP.HCM cũng có tình trạng cán bộ "ra dân". Đặc biệt, có cán bộ lãnh đạo ở cương vị cao đã xin nghỉ việc như phó giám đốc Sở Kế hoạch - đầu tư, phó giám đốc Sở Giao thông công chính, phó giám đốc Sở Du lịch, phó chủ tịch quận 12, phó tổng biên tập báo Tuổi Trẻ, giám đốc Nhà xuất bản Trẻ... Tại các KCX-KCN TP.HCM cũng đang đối diện với vấn nạn chảy máu chất xám. Lao động có trình độ, kinh nghiệm rời bỏ KCX-KCN, tìm đến các khu vực kinh tế bên ngoài làm việc. Ông Nguyễn Thanh Tùng, giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm các KCX-KCN, cho biết nhu cầu tuyển dụng từ các doanh nghiệp gửi về khoảng 30% là LĐ chất xám. Điều này cho thấy hiện tượng chảy máu chất xám ở khu vực này đang diễn biến theo chiều hướng tăng. Hơn thế nữa, tình trạng bỏ việc nhà nước hiện nay còn xảy ra ở những lĩnh vực như ngân hàng, cơ quan hành chính nhà nước và cả ở những cơ sở y tế. Theo thống kê của Bộ Y tế, năm 2008 cả nước có tổng số gần 290.000 cán bộ y tế đang công tác tại các cơ sở y tế công lập. Tính tỷ lệ bình quân hiện nay là 6,5 bác sĩ/1 vạn dân. Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến thừa nhận, với trung bình 6,5 bác sỹ/10.000 dân như hiện nay là quá ít so với khu vực và thế giới. Chưa kể, nguồn nhân lực y tế lại phân bổ không đều do nhu cầu của thị trường, người học chỉ chú trọng học các chuyên khoa hấp dẫn còn các chuyên khoa như nhi, lao phổi, HIV/AIDS... rất ít người học. Khó khăn nhất là nhân lực y tế tuyến xã, hầu như không có cán bộ y tế chuyên môn giỏi. Trong 5 năm gần đây, số lượng tuyển sinh vào ngành y, dược liên tục tăng, nếu như năm 2008 có 4.390 dược sĩ - bác sĩ tốt nghiệp thì năm 2015 số lượng này sẽ là 7.350 người, tăng 1,67 lần. Tuy nhiên, lại tồn tại một thực tế hết sức mâu thuẫn là việc tuyển dụng bác sĩ vào công tác tại các cơ sở y tế công lập rất khó khăn, dù phần lớn các cơ sở đều thiếu. Bên cạnh đó là sự mất cân bằng nhân lực giữa các vùng miền. Những vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, có khi cả vạn dân chỉ có 2 bác sĩ, chẳng hạn như vùng đồng bằng sông Cửu Long là 2,11 bác sĩ/1 vạn dân, vùng Tây Bắc là 3,5 bác sĩ/1 vạn dân, trong khi ở những khu vực thành phố lớn có tỷ lệ trên 9 bác sĩ/1 vạn dân. Đặc biệt, vấn đề chuyển dịch nhân lực từ y tế công lập ra y tế tư nhân ngày càng “nóng”, dù hiện tại y tế tư nhân chưa có sự tham gia đóng góp trong đào tạo nhân lực. Thứ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến cho rằng, có thể gọi thực trạng các bác sĩ giỏi từ BV công lập chuyển ra BV tư nhân công tác là một hiện tượng chảy máu chất xám y tế ngay trong ngành y tế. Chỉ trong vài năm gần đây, tại các thành phố lớn, nhất là ở khu vực phía Nam đã có hàng trăm bác sĩ, dược sĩ hàng đầu từ các BV công lập xin nghỉ việc để chuyển sang làm BV tư hoặc mở BV tư. Ngành y tế đang chủ trương xã hội hóa, đa dạng hóa các loại hình khám chữa bệnh, song nếu tình trạng nhân lực y tế từ khu vực công “đua” nhau chạy sang khu vực tư thì sẽ dẫn đến những hệ quả tiêu cực như nhiều sinh viên giỏi sau khi tốt nghiệp lại nộp hồ sơ vào BV tư, nhiều bác sĩ ăn lương tại BV công, song nguồn thu nhập chính lại từ BV tư. Nổi bật nhất của tình trạng này vẫn là ở thành phố Hồ Chí Minh, nơi mà dân cư tập trung đông nhất cả nước và cũng là thành phố sầm uất nhất. tại đây, với hơn 8 triệu người, 100.000 doanh nghiệp, 2.500 văn phòng đại diện và 270.000 hộ kinh doanh, đóng gớp 20%GDP, 30% giá trị sản lượng công nghiệp, doanh thu xuất khẩu, đón trên 60% khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam và hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước. cũng chính vì vậy mà đước sở nội vụ thống kê năm 2008 là 10.000 công chức và 90.000 viện chức phần lớn có trình độ Đại học và trên đại học. có thể nói đây là nguồn lực rất lớn trong khu vực công. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, tình trạng công chức nghỉ việc hiện đang là là vấn đề thời sự, xuất hiện nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nếu chỉ trong vòng năm năm trở lại đây, cả nước đã có hơn 16.000 lao động thuộc doanh nghiệp nhà nước rời sang làm việc cho khu vực tư nhân thì chỉ riêng thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 7-2003 đến 31-12-2007 dã có 6.422 cán bộ công chức, viên chức thôi việc. trong đó, khối quản lý nhà nước, kể cả cán bộ, công chức,xã phường: 698 người, khối sự nghiệp giáo dục là 3.034 người, khối sự nghiệp y tế là 849 người và sự nghiệp khác là 1.841 người. đây vẫn là con số thống kê chưa đầy đủ. Như vậy, con số nghỉ việc nếu tính trên tổng số cán bộ công chức toàn thành phố trong những năm vừa qua thì vào khoảng 6,15% bao gồm rất nhiều lĩnh vực, trong đó chủ yếu khối sự nghiệp giáo dục và y tế. nếu tính trung bình thì mỗi năm thành phố có khoảng 1500 cán bộ, công chức, viên chức, của các đơn vị hành chính sự nghiệp Nhà nước chủ động rời bỏ nhiệm sở để chuyển sang làm việc ở khu vực ngoài nhà nước. Như vậy, rõ ràng, tình trạng di chuyển chất xám ở nước ta đang diễn ra hết sức phức tạp, đặc biệt là ở thành phố Hồ chí minh, nơi mà cơ cấu kinh tế khá linh hoạt và đa dạng hơn các nơi khác thì tình trạng này càng diễn ra phổ biến hơn. Vậy, liệu quá trình này ảnh hưởng như thế nào đối với quá trình phát triển kinh tế đất nước, nó có những ưu điểm và những khuyết điểm như thế nào? Để biết điều đó, chúng ta cần xem xét chung ảnh hưởng của sự di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư đối với quá trình phát triển kinh tế. Ảnh hưởng của sự di chuyển chất xám từ công sang tư đối với quá trình phát triển kinh tế: Ảnh hưởng tích cực Là xu thế tất yếu của quá trình phát triển kinh tế Như chúng ta đã phân tích phía trên, khi nói về hiện tượng di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư, chúng ta biết , trên bình diện kinh tế khách quan, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, thì những luồng chảy chất xám chỉ là một cục diện của những giao lưu kinh tế thế giới: các “đầu vào” (inputs) luôn có khuynh hướng “chảy”  từ những công nghiệp, những địa phương có thu hoạch thấp đến những công nghiệp, những địa phương có thu hoạch cao. Theo kinh tế học tân cổ điển thuần tuý, những dòng chảy này càng thông thoáng thì tài nguyên nhân loại càng được phân bố hợp lý, đưa vào những sử dụng có hiệu năng tương đối cao nhất. Nói cách khác, sự di cư chất xám chỉ là hậu quả của quy luật kinh tế. như vậy, sự di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư thực chất chỉ là sự phân bố lại lực lượng lao động giữa các thành phần kinh tế khi các quốc gia đang thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần trong đó phát triển bộ phận kinh tế tư nhân. và khi thành phần kinh tế tư nhân thu hút được nhiều lao động hơn thì khu vực này tất yếu sẽ phát triển hơn. Và một khi khu vực này phát triển, số lượng sản phẩm hàng hóa cũng sẽ nhiều hơn, đóng góp của khu vực kinh tế này cho xã hội cũng nhiều hơn nhất là đóng góp của nó vào thành phần kinh tế nhà nước cũng sẽ nhiều hơn. Thể hiện sự bình đẳng xã hội, quyền căn bản của con người Khi mà đời sống kinh tế càng phát triển, nhu cầu của con người ngày một cao nhất là trong việc chọn lựa công việc cho phù hợp với trình độ của mình thì sự di chuyển công việc từ khu vực này sang khu vực khác là điều tất yếu. con người có quyền chọn cho mình công việc mà có thu nhập cao hơn, môi trưởng làm việc tốt hơn, năng động hơn, thuận tiện cho sự thăng tiến cho mình và hơn nữa là tạo được sự thoải mái, linh động trong công việc. chính vì thế, sự nhảy việc từ khu vực công sang khu vực tư là cũng nằm trong những cách suy nghĩ của người lao đọng trong việc lựa chọn công việc. họ có quyền tự do chọn lựa theo ý kiến của mình. Và một khi họ có thể chuyển việc, điều đó cũng thể hiện sự công bằng trong xã hội, bởi lẽ lúc đó quyền căn bản của con người trong việc chọn lựa công việc được thể hiện rõ ràng nhất. nếu như không có sự tự do này, chắc chắn, các cán bộ công chức nhà nước khó mà có thể nhảy việc dễ dàng như thế. Ảnh hưởng tiêu cực Gây khó khăn cho sự phát triển của khu vực công, mất cân đối trong nền kinh tế Việc một số cán bộ công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước xin ra ngoài biên chế hoặc tự ý bỏ việc có thể ảnh hưởng đến tâm lý cán bộ và gây ra những khó khăn nhất định. Nếu xu thế này tiếp diễn thì sẽ dẫn tới tình trạng các cơ quan nhà nước ngày càng thiếu người có chuyên môn giỏi, gây khó khăn cho việc xây dựng được một đội ngũ cán bộ, công chức có đủ trình độ nghiệp vụ đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới, có đủ bản lĩnh, tâm huyết phục vụ hết mình cho các cơ quan hành chính, các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước. Trên thực tế đã xảy ra tình trạng sử dụng cán bộ chưa đúng, chưa đạt các tiêu chuẩn qui định. Số cán bộ kế cận bị hẫng hụt, không đủ để đưa vào diện qui hoạch cho các chức danh cần thiết. Vì thiếu nguồn cán bộ thay thế dẫn đến tình trạng bố trí cán bộ không đúng năng lực sở trường, không đúng nghiệp vụ chuyên môn và năng lực công tác, do đó kết quả công việc có nhiều hạn chế. Do hạn chế về trình độ chuyên môn và năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn, việc tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật còn chậm, từ đó làm cho công tác tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của bộ phận nhà nước còn nhiều hạn chế. Và từ đó, làm cho sự cân đối giữa hai khu vực công và khu vực tư bị lệch đi, làm mất cân đối trong nền kinh tế của một quốc gia. Tăng thêm những chênh lệch bất công giữa các tầng lớp xã hội trong một quốc gia, nhất là sự phân hoá giàu nghèo trong nội bộ của một quốc gia Giải thích điều này là do có sự chênh lệch lớn về lương hướng của bộ phận lao động giữa hai khu vực công và tư. Sự phân hóa về mức lương càng lớn, khoảng cách chênh lệch giữa những người làm việc càng rõ ràng. Chính điều này, sẽ góp phần làm gia tăng sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội. chỉ lấy ví dụ đơn giản chúng ta có thể thấy được sự chênh lệch này.  Lương của tổng thống Hoa Kỳ vào thời điểm chúng ta đang thảo luận đây vào khoảng 300.000 đô la/năm, lương của một bộ trưởng thì thấp hơn, theo trật tự hành chính của chính phủ Hoa Kỳ. Nhưng một bộ trưởng sau khi về hưu mà làm chủ tịch hoặc tổng giám đốc những tập đoàn như Ford chẳng hạn thì lương tối thiểu là 5 triệu đô la/năm, chưa kể cổ phần. Nếu "đu" với khu vực tư nhân về việc trả lương thì không có chính phủ nào đu nổi, kể cả chính phủ Hoa Kỳ. Hầu hết những chính phủ của các nước phát triển thì lương của khu vực công bao giờ cũng thấp hơn. Lấy ví dụ, hai người tốt nghiệp khoa luật cùng một thời điểm, người được một hãng luật nhận vào làm việc thì lương tối thiểu là 100.000 đô la/năm, còn người làm luật sư công, tức là anh "mõ" toà thì lương chỉ bằng 1/3 của người làm cho hãng luật. Cho nên, thu nhập ở khu vực công bao giờ cũng thấp hơn nhiều so với khu vực tư. Và đó chính là lý do làm cho sự phân hóa trong xã hội ngày càng rõ ràng hơn khi mà sự di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư ngày càng nhiều hơn. Giải pháp cho tình trạng di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư: Tuy có những mặt ưu điểm, tuy nhiên quá trình di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư vẫn có những hạn chế và khuyết điểm. và rõ ràng, cần phải có những biện pháp để hạn chế sự di chuyển ồ ạt này. Tuy nhiên, để hạn chế được sự di chuyển chất xám này không phải là một sớm một chiều mà cần phải có sự kết hợp của nhiều yếu tố khác nhau. Dưới đây là một số biện pháp mà chúng ta có thể tham khảo: Tuyển dụng và bố trí đúng cán bộ: Đây là vấn đề mấu chốt và mang ý nghĩa quyết định sự thành công hay thất bại của sự nghiệp phát triển đất nước nói chung và công tác cải cách hành chính nói riêng. Việc tuyển dụng cán bộ, công chức phải căn cứ vào nhu cầu công việc, vị trí công tác, tiêu chuẩn và số lượng của chức danh thực tế cần tuyển dụng, khắc phục tình trạng vào cơ quan nhà nước rồi mới đưa đi đào tạo và chủ yếu là đào tạo tại chức. Áp dụng thi tuyển đối với một số chức danh lãnh đạo gắn với chuyên môn nghiệp vụ trong bộ máy hành chính nhà nước và các đơn vị sự nghiệp, đồng thời phải đổi mới cơ bản chính sách tiền lương, chế độ đãi ngộ, để tạo sức thu hút những người có tài, tạo cơ chế để thay thế những người không đủ tiêu chuẩn ra khỏi bộ máy Đảng và Nhà nước. Xây dựng và hoàn thiện Quy chế làm việc của cơ quan, đơn vị , nội quy, quy chế quản lý cán bộ, công chức phù hợp với các nội dung của Pháp lệnh cán bộ, công chức. Rà soát, tổ chức, sắp xếp và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn. Xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức. Có kế hoạch thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ cán bộ; kịp thời bổ sung, thay thế những cán bộ, công chức yếu kém và thoái hoá. Thực hiện đúng chính sách tiền lương: Đối với đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nước phải bảo đảm “đủ phẩm chất và năng lực gắn với chế độ hưởng thụ thoả đáng và công bằng”. đây là điều mà đội ngũ cán bộ, công chức chưa được thụ hưởng thoả đáng trong suốt thời gian dài. Qui định về bậc lương và xét nâng lương thiếu cơ sở khoa học làm nản lòng nhiều cán bộ công chức tốt. Chế độ tiền lương của nước ta đã được cải tiến nhưng so với yêu cầu cuộc sống thì chưa giải quyết được căn bản đời sống của người cán bộ, công chức trong khi các doanh nghiệp ở khu vực ngoài nhà nước sẵn sàng trả lương xứng đáng cho những người làm việc có hiệu quả. Nếu không quyết liệt cải cách chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức thì tình trạng bỏ việc ngày càng nhiều, nhất là đối với những người có năng lực. Hiện nay khu vực nhà nước có những chi phí rất lớn. Các nước khoán hành chính bằng cách nhà nước cấp cho mỗi cơ quan một khoản ngân sách nhất định và công chức cùng nhau ngồi bàn xem mua sắm trang thiết bị thế nào để đảm bảo cho hoạt động của họ. Nếu họ sắm máy tính sang trọng thì lương họ thấp đi, còn sắm máy tính đảm bảo công việc thì tiền thừa họ được hưởng. Nâng đời sống công chức bằng cách khoán chi trong hành chính là cách làm tốt. Hiện nay một số nơi đã làm nhưng vẫn nửa vời. Nếu tiết kiệm được chi phí hành chính thì chúng ta sẽ có tiền nâng cao đời sống công chức. Chúng ta cũng phải tính đến việc giảm biên chế. Không giảm biên chế thì không có lương cao được. Muốn giảm biên chế khách quan thì chỉ bằng cách trả tiền cho các cơ quan và tự cơ quan đó định ra lượng người làm việc, tự họ ngồi xếp lương của họ. Nếu họ tài năng thì cần ít người, lương sẽ cao. Nếu không tài năng, cần đông người thì lương thấp. Ngược lại, nếu vẫn cơ chế xin - cho biên chế để có quĩ lương thì đồng lương thấp là đúng. Nếu vẫn chế độ 2-3 năm lên lương một lần thì chẳng ai cần làm tốt hơn. Trong lĩnh vực giáo dục, một số trường đã chuyển sang hạch toán như doanh nghiệp. Nhà nước cũng phải làm thế. Không còn cách nào khác. Tạo môi trường làm việc và cơ hội thăng tiến: Ngoài thu nhập, môi trường làm việc và cơ hội thăng tiến cũng là điều rất quan trọng đối với cán bộ, công chức. Bất kỳ ai, dù làm cho cơ quan nào cũng đều cần lương,  phản ánh đúng năng lực của mỗi người. Song đối với những người có năng lực, tâm huyết thì đồng lương không phải là tất cả. Với năng lực thật sự của mình, họ hoàn toàn có những cách khác để kiếm tiền một cách minh bạch và lương thiện, do vậy lương không phải là chuyện lớn. Sự thăng tiến của bản thân, sự phát triển của cơ quan là một ước mơ cháy bỏng đối với người có tài năng và tâm huyết. Một số biện pháp hạn chế sự di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư đang được áp dụng hiện nay tại Việt Nam: Trong bất cứ giai đoạn nào của sự nghiệp cách mạng, cán bộ và công tác cán bộ cũng đều giữ vị trí đặc biệt quan trọng, cán bộ là một trong những nhân tố cơ bản quyết định thành công hay thất bại của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng lập tổ chức và rèn luyện Đảng ta khẳng định: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Đại hội X của Đảng cũng đã chỉ rõ: một trong những giải pháp nhằm đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là phải “Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ có cơ cấu hợp lý, chất lượng tốt, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững vàng. Có cơ chế, chính sách bảo đảm phát hiện, đánh giá, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng người có đức, có tài, dù là đảng viên hay người ngoài Đảng”. Thực hiện những chủ trương trên của Đảng, trong những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng đã góp phần nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức; từng bước tiêu chuẩn hóa ngạch, bậc theo quy định của nhà nước, đảm bảo cho công tác quy hoạch gắn liền với nhu cầu sử dụng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Tuy nhiên, những kết quả đạt được vẫn chưa theo kịp tốc độ phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới, vẫn còn những bất hợp lý trong việc thực hiện chế độ tiền lương. So với các đơn vị sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các Công ty liên doanh với nước ngoài, thì nguồn thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức còn thấp hơn nhiều, nếu sống chủ yếu bằng nguồn lương Nhà nước; môi trường làm việc và trang thiết bị, cơ sở vật chất còn thiếu, nhất là những nơi vùng sâu, vùng xa. Vì vậy, chưa tạo động lực cho cán bô, công chức, viên chức yên tâm công tác. Trước tình hình đó, chính phủ ta đã áp dụng một số các biện pháp cụ thể như: Thủ tướng CP Nguyễn Tấn Dũng vừa có ý kiến chỉ đạo giao Bộ Nội vụ chủ trì dự thảo Nghị định về chính sách khuyến khích người có tài vào làm việc trong khu vực công ở một số ngành chuyên môn. Ngày 23/7 vừa qua, UBND tỉnh Quảng Nam vừa đề ra một số chính sách thu hút vượt trội nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh từ nay đến năm 2010-2015. Theo đó, để thu hút nhân tài, Quảng Nam trợ cấp 40 triệu đồng để tuyển dụng vào biên chế đối với tiến sĩ, chuyên khoa II; 20 triệu đồng (thạc sĩ, bác sĩ nội trú), 15 triệu đồng/người (chuyên khoa I); 10 triệu đồng (vận động viên đoạt huy chương các loại cấp quốc gia, quốc tế); 7 triệu đồng (sinh viên tốt nghiệp đại học hệ chính quy công lập loại giỏi). Đến nay, hầu hết các địa phương trên cả nước đều có chính sách thu hút nhân tài. Điển hình tại thành phố Đà Nẵng, đang thực hiện chính sách thu hút nhân tài, nhất là ưu tiền cho các sinh viên Đà Nẵng đi học ở những thành phố, nước ngoài về với bằng khá, giỏi trở lên. Những ngưới có năng lực thì thành phố sẽ xem xét đến việc cấp đất và nhà ở... hơn nữa, thành phố còn đưa ra dự án 32. Đó là dự án thành phố hỗ trợ tiền cho học sinh thành phố đi du học tại nước ngoài hoặc là học đại học trong nước với chi phí là 1000$/ tháng cho những học sinh du học và 13 triệu đồng/năm cho học sinh học đại học trong nước. Bên cạnh đó, các sinh viên, học sinh này sẽ phải quay về làm cho thành phố 7 năm. Nếu sinh viên nào không chịu quay về làm sau khi hoàn thành việc học, thì sinh viên đó phải trả lại cho thành phố số tiền gấp 5 lần số tiền thành phố đã bỏ ra để chi trả cho việc học. Đó cũng là một trong những chính sách ngắn chặn tình trạng chảy máu chất xám rất hay của thành phố Đà Nẵng. KẾT LUẬN Với những phần mà nhóm chúng tôi đã phân tích, chúng ta thấy rõ ràng nguồn nhân lực là một nhân tố không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế. tuy nhiên, làm thế nào để cho nhân tố quan trọng này có thể phát huy hết tác dụng của mình lại là một vấn đề khác mà chúng ta cần phải xem xét. Thực tế hiện nay cho thấy đã có một xu hướng di chuyển rất lớn của lực lượng lao động từ khu vực công sang khu vực tư, nhất là trong những năm gần đây, khi mà một loạt các quốc gia đang thực hiện quá trình tư nhân hóa, đa dạng hóa các thành phần kinh tế, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. vì vậy, việc làm rõ bản chất của quá trình di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tư có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn trong quá trình phát triển kinh tê nói chung, cũng như đối với nước Việt Nam chúng ta nói riêng. Nói về hai thành phần kinh tê: khu vực công và khu vực tư, chúng ta thấy rõ ràng mỗi bộ phận kinh tế có một vai trò nhất định trong nền kinh tế. hai bộ phận kinh tế này nếu hỗ trợ tốt với nhau, cùng nhau đóng góp, có những định hướng thống nhất trong quá trình phát triển kinh tế thì nền kinh tế chắc chắn sẽ có những bước tiến rất lớn. tuy nhiên, chúng ta không nên quá chú trọng phát triển một khu vực kinh tế nào quá, bởi vì nó sẽ tạo ra sự mất cân bằng trong nền kinh tế. chính vì thế, làm sao để cân bằng lực lượng lao động trong hai khu vực kinh tế này cũng là một vấn đề rất quan trọng. Tất nhiên, lựa chọn những nơi làm việc cho tốt, phù hợp với hoàn cảnh của mình là sự lựa chọn tự do của những cán bộ công nhân viên chức. tuy nhiên, chúng ta hãy lấy hình cái cân làm ví dụ minh họa. nếu như một cán cân có quá nhiều nhân tài và lực lượng lao động, trong khi một bên lại rất ít thì cán cân đó sẽ rất khập khiểng. đó chính là hậu quả tương tự cho sự phát triển kinh tế nếu như chúng ta cứ để cho cán bộ công nhân viên chức di chuyển ồ ạt từ khu vực công sang khu vực tư. Vì thế, xem xét kỹ lưỡng vấn đề này và đưa ra giải pháp hợp lý là một vấn đề cấp bách cần phải được đưa ra của các quốc gia trong đó có cá Việt Nam chúng ta. TÀI LIỆU THAM KHẢO Niên giám thống kê 2008 Thị trường lao động – Nhà xuất bản Lao động 1998 Cục Tài chính doanh nghiệp Tài liệu Utah Brain drain - dịch Tài liệu “The role of private sector in expanding economic opportunity through collaborative action” - dịch Draft five year socio-economic Development Plan 2006-2010, June 2005 World Bank: Viet Nam Climate Consensus Ecoromics, IMF (2009) China Economic News ngày 26/4/2004 Các trang web tham khảo “Chảy máu chất xám Ngân hàng nhà nước: Người ra đi nói gì” – cập nhật 19/1/2008 - “Đừng ngăn chảy máu chất xám” của Nguyễn Quang A từ www.laodong.com.vn www.tapchicongsan.org.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSự di chuyển chất xám từ khu vực công sang khu vực tưđối với quá trình phát triển kinh tế.doc
Luận văn liên quan