Đề tài Tác động của Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu

Tóm lại, những tác động có lợi của việc gia nhập WTO là có điều kiện, và những tác động tiêu cực cũng không thể loại bỏ hoàn toàn. Mặc dù sức cạnh tranh quốc tế trong nhiều ngành kinh tế của Việt Nam vẫn còn kém, trong khi áp lực cạnh tranh trên thị trường thế giới là vô cùng khốc liệt; nhưng đây lại chính là một cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam biến chính sức ép cạnh tranh đó thành nỗ lực nâng cao hiệu quả hoạt động, củng cố vị thế trê n thị trường, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh. Để đạt được mục tiêu phát triển nền kinh tế hướng tới xuất khẩu, nhà nước cũng như cộng đồng các doanh nghiệp Việt Nam đều phải nắm bắt cơ hội để mở rộng và tăng cường hoạt dộng xuất khẩu. Hiện nay, Việt Nam vẫ n bị coi là nền kinh tế phi thị trường, chính vì thiếu một quy chế kinh tế thị trường cho nên các sản phẩ m xuất khẩu của Việt Nam luôn đứng trước nguy cơ bị kiện chống bán phá giá. Gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam không bị đối xử như vậy nữa tuy rằng chúng ta sẽ phải trải qua một thời gian quá độ mới được coi là nền kinh tế thị trường.

pdf92 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3636 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệt Nam. Theo lộ trình gia nhập WTO, Việt Nam (cũng như bất kỳ quốc gia hay vùng lãnh thổ nào khác muốn gia nhập WTO) sẽ phải cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế quan, áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia đối với các doanh nghiệp nước ngoài trên thị trường Việt Nam. Do vậy, khi thị trưòng được mở cửa, doanh nghiệp nước ngoài sẽ được tự do tham gia kinh doanh, buôn bán hàng hoá và cung cấp dịch vụ như doanh nghiệp trong nước mà không bị phân biệt đối xử. Các doanh nghiệp trong nước sẽ phải đối mặt với sức ép cạnh tranh do có thêm nhiều người cung cấp thêm dịch vụ, hàng hoá và họ lại có tiềm lực tài chính mạnh hơn, hàng hoá chất lượng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn, phân phối và tiếp thị tốt hơn, do đó dễ giành ưu thế hơn doanh nghiệp trong nước. Trong cuộc cạnh tranh giành thị phần thì khu vực dịch vụ sẽ phải cạnh tranh mạnh mẽ hơn. Việt Nam đã cam kết mở cửa 10 ngành dịch vụ với 92 phân ngành nên chắc chắn sư thu hút nhiều hơn nữa các đối tác nước ngoài tham gia cung cấp dịch vụ trên thị trường. Các nước công nghiệp phát triển chủ yếu chú trọng đến các lĩnh vực mà hiện nay nhà nước còn nắm giữ, chưa mở cửa nhiều hoặc các lĩnh vực còn nhiều tính độc quyền như ngân hàng, viễn thông… Đây cũng là những lĩnh vực mà thị trường nội địa có nhiều tiềm năng phát triển, đem lại lợi nhuận cao và đây cũng là những lĩnh vực mà các doanh nghiệp nước ngoài có ưu thế cạnh tranh. Hiện nay sự đóng góp của các ngành dịch vụ trong nền kinh tế của các nước trên thế giới nói chung và các nước thành viên WTO nói riêng là rất lớn. trong khi đó, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đều có quy mô nhỏ, vốn ít, Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 65 khả năng cạnh tranh không cao và vẫn còn tư tưởng trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước, nên sẽ gặp không ít khó khăn trong cuộc chiến với các doanh nghiệp nước ngoài trên thị trường nội địa. Do vậy, nếu các doanh nghiệp Việt Nam không đổi mới và cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng hàng hoá và phương thức quảng bá, marketing sản phẩm thì khi gia nhập WTO, nguy cơ bị chiếm thị phần, thị trường là rất lớn. 3.2.3 Thực hiện bảo hộ sở hữu trí tuệ (SHTT) SHTT đang ngày càng trở thành mối quan tâm của toàn xã hội, bởi hiện tượng xâm phạm QSHTT ở nước ta xảy ra tràn lan với nhiều loại sản phẩm, hàng hoá. Từ tháng 1/2000 đến tháng 6/2003, lực lượng quản lý thị trường trong cả nước đã xử lý khoảng 1500 vụ hàng giả có yếu tố xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, chủ yếu là liên quan đến nhãn hiệu hàng hoá và kiểu dáng công nghiệp. Việc xâm phạm tác quyền thậm chí còn diễn ra phổ biến hơn với nạn sao chép lậu xảy ra với nhiều loại hình như: sách báo, phim ảnh…đặc biệt nhất là phần mềm máy tính. Khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ phải thực hiện QSHTT theo hiệp định về những vấn đề liên quan đến thương mại của QSHTT (Hiệp định TRIPs). Đây là hiệp định đa phương tổng thể nhất về lĩnh vực sở hữu trí tuệ được áp dụng đối với các nước là thành viên WTO. Các đối tượng điều chỉnh của Hiệp định này bao gồm: bản quyền và các quyền có liên quan; nhãn hiệu hàng hoá; chỉ dẫn địa lý; kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp; bảo hộ thông tin bí mật và hạn chế các hoạt động chống cạnh tranh trong các hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng. Cam kết bảo hộ SHTT thực sự là một cản trở đáng kể đối với Việt Nam trong việc tiếp thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật. Đồng thời, những khó khăn trong chi phí chuyển giao công nghệ và bản quyền có ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh nghiệp trong tiến trình đổi mới đưa các doanh nghiệp hội nhập vào thị trường quốc tế. Trong hàng trăm các nước nghèo, chỉ có vài Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 66 nước tập trung ở châu Á đã thành công trên con đường tìm kiếm thịnh vượng, chủ yếu thông qua chiến lược cóp nhặt, đuổi theo, và bắt kịp công nghệ phương Tây. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 67 CHƢƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU THỰC HIỆN NHỮNG CAM KẾT KHI GIA NHẬP WTO I. Quan điểm, mục tiêu và định hƣớng phát triển hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian tới 1.1. Quan điểm 1.1.1. Phát triển xuất nhập khẩu phải gắn với phát triển sản xuất, đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội, phát triển bền vững: - Hoạt động xuất - nhập khẩu phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm mục tiêu cơ bản để định hướng phát triển và là tiêu chuẩn để đánh giá kết quả. - Kết quả hoạt động xuất - nhập khẩu thông qua kết quả sản xuất và phục vụ sản xuất, đời sống và đóng góp trực tiếp vào GDP của nền kinh tế quốc dân. - Hướng hoạt động xuất - nhập khẩu vào phục vụ yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển và cải thiện đời sống nhân dân. - Tránh khuynh hướng chạy theo lợi nhuận đơn thuần, xây dựng định hướng chiến lược và lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm trọng tâm. - Đảm bảo thúc đẩy sản xuất phát triển có hiệu quả, bảo vệ môi trường, bảo vệ người tiêu dùng, chống buôn lậu trốn thuế. 1.1.2. Phát triển xuất - nhập khẩu phải dựa trên sự phối hợp chặt chẽ giữa các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế và vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN - Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước là: phát triển xuất - nhập khẩu nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 68 - Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất - nhập khẩu nhằm khai thác lợi thế và sức mạnh tổng hợp, tạo ra sức cạnh tranh, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng. 1.1.3. Thực hiện tự do hoá, gắn thị trường trong nước và nước ngoài: - Khai thác thị trường trong nước và nước ngoài để định hướng sản xuất hàng hoá. - Mặt khác, cần củng cố thị trường đã có và khai thác mở rộng thị trường mới, đặc biệt là thị trường trọng điểm có khối lượng xuất khẩu lớn. Tăng thu ngoại tệ, nhập công nghệ tiên tiến, nâng sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước… 1.2. Mục tiêu và định hướng 1.2.1 Xuất khẩu Trong những nỗ lực nhằm phát huy tối đa lợi thế cạnh tranh cho phát triển xuất khẩu, thúc đẩy nhanh chóng sự nghiệp CNH, HĐH sau gia nhập WTO, Việt Nam cần phấn đấu hoàn thành vượt mức mục tiêu xuất khẩu đề ra trong Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn từ năm 2006 - 2010 đã được Thủ tướng phê duyệt. Theo đó, phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP. Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng và sản phẩm dịch vụ có lợi thế cạnh tranh đồng thời tích cực phát triển các mặt hàng khác có tiềm năng thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới, theo hướng nâng cao hiệu quả sản xuất. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và tri thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô. - Phấn đấu đưa tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt 68-69 tỷ USD vào năm 2010, và 259 tỷ USD trong 5 năm 2006-2010, tốc độ tăng 16%/năm và gấp 2,3 lần so với 5 năm trước. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 69 - Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân 17,5%/năm và đến năm 2010 đạt khoảng 72,5 tỷ USD. Đến năm 2010, xuất khẩu các mặt hàng nông - lâm - thủy sản chiếm khoảng 13,7%, nhóm hàng nhiên liệu - khoáng sản chiếm khoảng 9,6%, nhóm hàng công nghiệp và công nghệ cao chiếm khoảng 54,0% và nhóm hàng hóa khác chiếm 22,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa. Về cơ cấu địa lý, xuất khẩu hàng hóa sang thị trường châu Á chiếm khoảng 45,0%, thị trường châu Âu chiếm khoảng 23%, thị trường châu Mỹ chiếm khoảng 24%, thị trường châu Đại Dương chiếm khoảng 5,0% và các thị trường khác chiếm khoảng 3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa. Trong 5 năm tới đây, Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục xác định khu vực châu Á - Thái Bình Dương là thị trường trọng điểm, lấy thị trường Trung Quốc làm hạt nhân với mục tiêu duy trì tăng trưởng dương trong suốt thời kỳ; các mặt hàng dầu thô, cao su, rau quả sẽ là những mũi nhọn xuất khẩu vào thị trường đầy tiềm năng này. Đối với Nhật Bản, sẽ cố gắng nâng tỷ trọng xuất khẩu từ 14,4% hiện nay lên 17- 18% với các mặt hàng dệt may, thủy sản và đồ gỗ. Khu vực châu Âu sẽ được xác định trên cơ sở chia thành 2 thị trường lớn là Tây Âu và Đông Âu, trong đó Tây Âu vẫn sẽ là chủ yếu với các mặt hàng dệt may và giày dép. Khu vực Bắc Mỹ sẽ được coi là thị trường có khả năng tăng trưởng cao nhất với các chính sách hợp tác thương mại hợp lý. Từ đó tiến tới cân bằng xuất khẩu - nhập khẩu vào những năm đầu sau năm 2010. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu, dự kiến của khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất khẩu (không kể dầu thô) trong 5 năm tới là 106,5 tỷ USD, tăng 22,3%/năm. Nhiệm vụ phát triển các nhóm và mặt hàng chủ yếu cụ thể như sau: - Nhóm nguyên, nhiên liệu (dầu thô, than đá): dự kiến lượng xuất khẩu sẽ tăng chậm. Lượng xuất khẩu dầu thô thời kỳ 2006-2010 đạt khoảng 87 triệu tấn, than đá 52 triệu tấn. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 70 - Nhóm hàng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản (thuỷ sản, gạo, cà phê, cao su…) đang chiếm gần 28% kim ngạch xuất khẩu sẽ tập trung thúc đẩy phát triển những sản phẩm lợi thế có năng suất cao; đảm bảo chất lượng quốc tế và giá trị gia tăng cao và sẽ lấy thủy sản làm hạt nhân bởi tiềm năng khai thác và nuôi trồng còn nhiều, nhu cầu thế giới lại tăng khá ổn định. Thời kỳ 2006- 2010, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá cả nước có xu hướng giảm dần và đến năm 2010 là 24,1%. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản giai đoạn tới sẽ tăng 12,8%/năm, năm 2010 là 5,0 tỷ USD. Dự kiến lượng gạo xuất khẩu không tăng so với thời kỳ trước, giữ ở mức 4 triệu tấn/năm, và xuất khẩu 0,9 triệu tấn năm 2010. Dự kiến xuất khẩu chè tăng 8,1%/năm, năm 2010 đạt 130 nghìn tấn. Xuất khẩu cao su dự kiến đạt tốc độ tăng 7,7%/năm, năm 2010 đạt 0,85 triệu tấn. Phấn đấu đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hạt điều đạt 1 tỷ USD, hạt tiêu 300 triệu USD, tăng tương ứng là 14,7%/năm và 14,8%/năm. - Nhóm sản phẩm chế biến và chế tạo (dệt may, giày dép, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm gỗ, dây điện và cáp điện, cơ khí đóng tàu, thực phẩm chế biến…) vẫn sẽ coi dệt may và giày dép là chủ đạo. Ngoài ra, cũng cần tăng cường phát triển xuất khẩu các mặt hàng mới như đóng tàu biển, các sản phẩm cơ khí, điện; các sản phẩm có nhiều tiềm năng như thủ công mỹ nghệ; thực phẩm chế biến; sản phẩm gỗ; hoá phẩm tiêu dùng; sản phẩm nhựa... Dự kiến xuất khẩu dệt may 2006-2010 tăng 15,6%/năm, năm 2010 khoảng 10 tỷ USD; giày dép tăng 16,4%/năm, năm 2010 khoảng 6,5 tỷ USD. Sản phẩm gỗ là nhóm hàng cần được khuyến khích, đẩy mạnh xuất khẩu trong những năm tới. Dự kiến giá trị xuất khẩu sản phẩm gỗ nước ta sẽ tăng 26,2%/năm, năm 2010 đạt 5 tỷ USD. Dự kiến tốc độ tăng của nhóm hàng điện tử, vi tính và linh kiện khoảng 23%/năm, năm 2010 đạt kim ngạch 4 tỷ USD. Dự kiến kim ngạch sản xuất, gia công phần mềm đạt trên 600 triệu USD vào năm 2010. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 71 - Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ cả nước bình quân dự kiến đạt 16,3%/năm và đến năm 2010 đạt khoảng 12 tỷ USD. Tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ dự kiến đạt khoảng 8 tỷ USD vào năm 2010 và khoảng 34- 35 tỷ USD cả giai đoạn 2006-2010, trong đó tập trung vào một số lĩnh vực dịch vụ có khả năng thu ngoại tệ như du lịch, sửa chữa tàu biển, xuất khẩu lao động và chuyên gia. 1.2.2 Nhập khẩu Mục tiêu nhập khẩu trong giai đoạn 5 năm tới là: kiềm chế nhập siêu, phấn đấu tiến tới cân bằng hợp lý cán cân xuất - nhập khẩu. Ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến; giữ thế chủ động trong nhập khẩu, tập trung vào nhập thiết bị hiện đại từ các nước có công nghệ nguồn; giảm nhanh và tiến tới hạn chế nhập thiết bị công nghệ lạc hậu hoặc công nghệ trung gian; hạn chế nhập khẩu hàng hoá vật tư thiết bị cũng như hàng tiêu dùng trong nước có thể sản xuất và đáp ứng được. Các nhóm hàng nhập khẩu được ưu tiên cho vật tư, thiết bị và công nghệ phục vụ công nghiệp hóa hoặc sản xuất hàng xuất khẩu, trong khi đó xăng dầu, phân urê, phôi thép sẽ là những mặt hàng được quan tâm để ngày càng giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài. Tốc độ tăng nhập khẩu đạt khoảng 14,7%/năm, tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá tăng từ 36,9 tỷ USD năm 2005 lên 73,5 tỷ USD năm 2010 và 286,5 tỷ USD trong cả 5 năm. Định hướng các mặt hàng nhập khẩu như sau: - Nhóm hàng máy móc, thiết bị và phụ tùng gồm các loại như ô tô, linh kiện ô tô, xe máy và các loại máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng phục vụ sản xuất. Cần ưu tiên nhập khẩu của các nước phát triển có nền công nghiệp chế tạo tiên tiến. Chú trọng dây chuyền công nghệ vừa đáp ứng được chất lượng, giá cả và điều kiện của Việt Nam. Dự kiến 5 năm tới, kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này đạt 93,4 tỷ USD, tăng 15,2%/năm. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 72 - Nhóm nguyên, nhiên, vật liệu bao gồm xăng dầu, phân u-rê, thép thành phẩm và phôi thép; các mặt hàng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất như bông sợi, chất dẻo, giấy, tân dược, hoá chất, nguyên phụ liệu may, giày dép, vải…; dự kiến giảm dần lượng nhập khẩu do khả năng sản xuất trong nước ngày càng tăng. Dự kiến kim ngạch nhập khẩu cả 5 năm đạt 174,2 tỷ USD, chiếm tỷ trọng trên 60,8%, tăng 14,4%/năm. Tập trung nhập khẩu các mặt hàng: xăng dầu tăng 5,1%/năm; phôi thép tăng 9,5%/năm; nguyên phụ liệu dệt, may, da tăng 12%/năm; bông xơ và sợi các loại tăng 13%/năm, chất dẻo tăng 20,6%/năm… - Nhóm hàng tiêu dùng dự kiến kim ngạch nhập khẩu 5 năm là 18,9 tỷ USD, tăng 16,3%/năm. Tổng số nhập siêu 5 năm là 27,8 tỷ USD, bằng 11% tổng kim ngạch xuất khẩu (2001-2005, nhập siêu là 17,4%). II. Một số giải pháp nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của việc Việt Nam gia nhập WTO đối với hoạt động xuất nhập khẩu 2.1. Các giải pháp vĩ mô 2.1.1 Cải cách hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách quản lý nền kinh tế Để gia nhập WTO, thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, Việt Nam bắt buộc phải thực hiện nhanh, tích cực và chủ động hơn việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách trong nước, từ đó đẩy nhanh quá trình cải cách. Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật là một bước đi quan trọng hàng đầu sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Tính tương thích, sự hài hoà giữa hệ thống pháp luật Việt Nam với các nguyên tắc, quy định của WTO và các định chế khác trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; cùng với sự đơn giản, rõ ràng, đồng bộ, dễ dự đoán của hệ thống này là những tiêu chí Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 73 quyết định tính hấp dẫn của môi trường kinh doanh; từ đó lôi cuốn sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài. Công việc này đòi hỏi phải tiến hành nhanh, đồng bộ và đặc biệt là ưu tiên xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật ở một số lĩnh vực quan trọng như: pháp luật về sở hữu trí tuệ, pháp luật về bảo vệ quyền tự do kinh doanh, pháp luật về hỗ trợ kỹ thuật, về xử lý tranh chấp, về tiêu chuẩn môi trường…; đảm bào cho nền kinh tế có thể vận hành có hiệu quả và đồng bộ theo cơ chế thị trường. Chẳng hạn như tại điều 4 Nghị định 150/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam có đưa ra các khái niệm: “nhập khẩu hàng hoá quá mức”, “thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước”, đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước”; nhưng lại chưa đưa ra những tiêu chí để xác định thế nào là “gây thiệt hại nghiêm trọng”, thế nào là “nhập khẩu quá”. Hoặc các quy định về SHTT hiện nay còn nằm rải rác ở nhiều văn bản dưới luật, chưa có một đạo luật toàn diện và thống nhất về QSHTT. Vì vậy, việc hoàn thiện các văn bản pháp lý về các biện pháp tự vệ và QSHTT nói riêng và các văn bản khác nói chung là yêu cầu cấp thiết để đảm bảo hội nhập thành công. Như vậy, thực hiện cải cách các chính sách, hệ thống pháp luật để xây dựng một khung pháp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích đầu tư, kinh doanh hiệu quả, đồng thời hạn chế và giảm bớt các gian lận thương mại; bởi nó sẽ tạo lòng tin ở các nhà đầu tư nước ngoài về một cơ chế chính sách minh bạch, thủ tục hành chính rõ ràng công khai. Chính việc cải cách các chính sách sẽ thiện cảm đối với các đối tác, từ đó nâng cao lợi thế của Việt Nam trong việc lựa chọn địa chỉ đầu tư của các nhà đầu tư. Tuy nhiên, cải cách các chính sách phải đảm bảo tăng cường sự chủ động cho các doanh nghiệp để các chính sách thực sự là những định hướng cho các doanh nghiệp đầu tư, Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 74 kinh doanh, từ đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý phục vụ mục tiêu phát triển đất nước. 2.1.2 Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại (XTTM) Hoạt động XTTM nếu được đẩy mạnh sẽ góp phần kích thích xuất khẩu và thương mại nội địa. Hoạt động XTTM có thể coi là yếu tố nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp vì doanh nghiệp có thể có sản phẩm tốt, chất lượng tốt, nhưng nếu như sản phẩm ấy không đến được tay người tiêu dùng thì bản thân doanh nghiệp ấy cũng không nâng cao tính cạnh tranh được. Vì vậy, muốn nâng cao tính cạnh tranh thì phải thông qua hoạt động xúc tiến thương mại, đặc biệt trong điều kiện thị trường toàn cầu như hiện nay. Trong những năm gần đây, hệ thống XTTM được hình thành một cách nhanh chóng và phủ khắp trên toàn quốc. Tuy nhiên, do năng lực tổ chức thực hiện còn hạn chế nên hiệu quả hoạt động XTTM chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của các doanh nghiệp. Hoạt động xúc tiến thương mại ở các địa phương chưa có tính liên kết, chưa xác định được một mô hình cụ thể. Theo cục XTTM, chỉ có 17,07% số lượng các cơ quan XTTM địa phương có khả năng đáp ứng nhu cầu thông tin thương mại ở mức khá và 7,3% có khả năng đáp ứng nhu cầu này ở mức tốt. Khả năng nghiên cứu thị trường của các cơ quan XTTM địa phương cũng rất yếu kém, chỉ có 14% cơ quan có thể làm tốt công tác này dẫn đến việc tư vấn sản phẩm và định hướng kinh doanh cho doanh nghiệp rất kém. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là phải tổ chức lại hệ thống XTTM từ trung ương đến địa phương để bảo đảm tính liên kết sâu hơn, tính chỉ đạo cao hơn, sự hỗ trợ lẫn nhau của hệ thống tốt hơn. Đối với các trung tâm XTTM ở địa phương, cần tìm ra một mô hình chung với cơ chế hoạt động phù hợp để nâng cao hiệu quả hoạt động XTTM, đẩy mạnh xuất khẩu, tận dụng tốt cơ hội mà hội nhập WTO mang lại. Ngoài ra, cục XTTM có thể xây dựng một website với cơ sở dữ liệu khổng lồ thu thập từ nhiều quốc gia trên thế giới, Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 75 giúp các doanh nghiệp tìm hiểu thông tin về thị trường thế giới, về đối thủ cạnh tranh, cũng như các yêu cầu về số lượng, chất lượng hàng hoá trên thị trường xuất khẩu. Thứ nữa, phải tăng cường liên kết giữa các cơ quan xúc tiến thương mại, hiệp hội ngành hàng, cơ quan đại diện ngoại giao và thương mại của Việt Nam tại nước ngoài, các cơ quan truyền thông báo chí để làm cầu nối giúp doanh nghiệp trong nước tìm hiểu thông tin, thâm nhập thị trường. Bên cạnh đó, tính chuyên nghiệp của hoạt động XTTM cần được nâng cao. Công tác XTTM phải nắm bắt được nhu cầu dài hạn của thị trường, từ đó định hướng cho các nhà sản xuất phát triển sản phẩm thay vì chỉ xúc tiến cho những sản phẩm đã có rồi như hiện nay. Các chương trình xúc tiến thương mại cần phải được thay đổi cơ bản theo hướng thiết kế các chương trình xúc tiến chuyên ngành đối với từng mặt hàng mới (hoặc mặt hàng cần hỗ trợ), mở rộng các thị trường truyền thống, đồng thời tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới. Cũng có thể mở rộng thêm hoạt động gắn kết giữa XTTM, đầu tư và du lịch bằng cách thành lập Quỹ xúc tiến thương mại - đầu tư - du lịch, thay thế cho Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, vừa hỗ trọ các doanh nghiệp mà vẫn phù hợp với qui định của WTO. Đồng thời, có thể triển khai thực hiện một số chiến dịch lớn để quảng bá hình ảnh quốc gia, sản phẩm của Việt Nam trên các phương tiện thông tin, truyền thông ở nước ngoài, đặc biệt trên các kênh truyền hình, tạp chí quốc tế nổi tiếng (CNN, BBC, Economics...) 2.1.3 Xây dựng nền kinh tế thị trường và đổi mới cơ cấu nền kinh tế Việt Nam, cùng với Trung Quốc và một số thành viên khác của WTO, phần lớn là các nền kinh tế chuyển đổi từ kế hoạch tập trung sang cơ chế thị trường, hịên nay vẫn tạm bị coi là nước có nền kinh tế “phi thị trường”. Mà một nền kinh tế đã bị xem là phi thị trường thì sẽ có nguy cơ đối mặt với vô số những hạn định và tranh chấp từ các nước khác; cụ thể doanh nghiệp Việt Nam sẽ khó tự bảo vệ mình trước những cáo buộc phá giá của các nước khác. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 76 Do vậy, yêu cầu cấp bách hiện nay là xây dựng nền kinh tế thị trường; điều đó đòi hỏi trước tiên phải xoá bỏ sự phân biệt giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp dân doanh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dân doanh phát triển, mở rộng hoạt động kinh doanh. Tiếp đến, Nhà nước cũng cần phải xây dựng hệ thống các chính sách minh bạch, khả đoán, vì nó sẽ tạo tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường Việt Nam. Về vấn đề đổi mới cơ cấu nền kinh tế, Nhà nước cần tập trung phát huy các ngành hàng có lợi thế trước mắt và lâu dài, đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu vừa có chất lượng phù hợp với yêu cầu của thị trường thế giới. Lấy ví dụ như Malaysia, mặc dù chỉ có 25 triệu dân nhưng xuất khẩu đến 89 tỷ USD, Thái Lan có 65 triệu dân, xuất khẩu 80 tỷ USD (năm 2003). Việt Nam có 80 triệu dân, do vậy để thực hiện được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì chúng ta sẽ phải xuất khẩu mỗi năm khoảng 100 tỷ USD, tức là phải tăng lên 4 lần so với hiện nay. Để làm được điều đó, cần phải giảm dần sự bảo hộ các ngành thay thế nhập khẩu, đồng thời khuyến khích đầu tư vào các ngành định hướng xuất khẩu. Chính sách bảo hộ có thể vẫn duy trì nhưng trên cơ sở có chọn lọc, chỉ tập trung vào một số ngành và trong một thời gian nhất định. Việc chọn lựa này phải dựa trên cơ sở phân tích các số liệu của ngành về tiềm năng phát triển của ngành và khả năng khai thác các tiềm năng đó. Thêm vào đó, các cơ quan quản lý trong lĩnh vực đầu tư không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động đầu tư cụ thể mà tập trung vào việc dự báo, cung cấp thông tinh kinh tế, định hướng đầu tư, kiểm tra công tác quản lý đầu tư ở cơ sở. Vốn ngân sách Nhà nước nên tập trung vào kết cấu hạ tầng sản xuất. Về nông nghiệp, cần đầu tư vào khâu tạo giống, nhập khẩu giống mới có năng suất cao…, và chú ý áp dụng công nghệ sinh học, hiện đại hoá công nghệ chế biến, nâng cao năng lực chế biến đóng gói, bao bì sản phẩm… Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 77 Về công nghiệp, nên chọn lựa thứ tự đầu tư ưu tiên cho từng thời kỳ; đặc biệt đối với các công trình có lợi thế so sánh, tiêu thụ được sản phẩm, thu hồi được vốn và có khả năng hoàn trả nợ. Về dịch vụ, nhất là các dịch vụ chuyên môn và trí tuệ, tận dụng mọi nguồn lực quốc gia, đồng thời tranh thủ sự hợp tác của thế giới, chấp nhận cạnh tranh trong nước cũng như quốc tế, coi đó là động lực thúc đẩy sự phát tiến bộ của ngành dich vụ. Đặc biệt tập trung vào các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao: dịch vụ tài chính, ngân hàng với nhiều sản phẩm đa dạng, dịch vụ viễn thông, dịch vụ du lịch, các loại dịch vụ tư vấn... 2.1.4 Nhận thức rõ vai trò của khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) và tạo điều kiện phát triển cho khu vực KTTN Trong hơn một thập kỷ qua, khu vực kinh tế tư nhân ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng đối với sự phát triển chung của Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng bình quân của khu vực này trong khoảng 5 năm gần đây đạt trên 10% (cao hơn so với 8% của cả nền kinh tế); đặc biệt đã có rất nhiều công ty tư nhân có mức tăng trưởng về doanh thu lên tới trên 50%/năm. Trong năm 2006, khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam đã chiếm hơn một nửa GDP của cả nước. Trong giai đoạn 2001-2005, khu vực tư nhân đã tạo ra 6,75/7,5 triệu việc làm (chiếm khoảng 90%). Tỷ trọng đầu tư của khu vực này trong nước liên tục tăng và đã vượt tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước, gần bằng tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước và tín dụng nhà nước. Số lượng các doanh nghiệp dân doanh đã phát triển chưa từng có cả về số lượng và quy mô, trong hầu hết các ngành và lĩnh vực của nền kinh tế. Nhờ đó, đã huy động ngày càng nhiều vốn đầu tư, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao hiệu quả nền kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 78 Khi gia nhập WTO, khu vực kinh tế tư nhân càng có vai trò quan trọng hơn và vì vậy cần được tạo điều kiện phát triển. Trước tiên cần phải sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo sự bình đẳng về cơ hội cho mọi tổ chức cá nhân thuộc các thành phần kinh tế. Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử, đảm bảo cơ hội bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế trong việc tiếp cận về vốn, đất đai, lao động, công nghệ trong sản xuất, kinh doanh, và xuất nhập khẩu. Ngoài ra cần khuyến khích thành phần kinh tế tư nhân phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm; đồng thời hợp tác, liên doanh với nhau, với doanh nghiệp nhà nước, hoặc hợp tác với các công ty đa quốc gia cũng như trực tiếp tham gia vào các công ty đa quốc; từ đó mở rộng quy mô, tăng cường tiềm lực, nâng cao năng lực cạnh tranh. Trên thực tế, hiện nay đã xuất hiện nhiều doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp mạnh liên kết với nhau, hoạt động dưới một bộ máy điều hành chung, có một thương hiệu chung tạo ra sự phát triển vượt bậc như: FPT, Hoàng Anh Gia Lai, Đồng Tâm, Kinh Đô... Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một quy định nào rõ ràng cụ thể liên quan đến vấn đề này. Luật doanh nghiệp quy định 4 loại hình doanh nghiệp nhưng không có loại hình tập đoàn, còn trong nghị định hướng dẫn một số điều của Luật doanh nghiệp về đăng ký kinh doanh cũng không đề cập đến vấn đề hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân Việt Nam. Chính vì vây, các tập đoàn vẫn buộc phải mang những cái tên không chính danh như: công ty cổ phần tập đoàn, công ty TNHH tập đoàn...; do đó chưa phản ánh đúng thực tế hoạt động phát triển của mô hình đang có, cũng như không nói lên vị thế của tập đoàn như mong muốn. Do đó, để phát triển khu vực kinh tế tư nhân thành một trong những nhân tố quyết định đến thành công trên con đưòng hội nhập, cần phải sớm có các quy định cụ thể về tính pháp lý, mô hình, nguyên tắc hình thành tập đoàn kinh tế, các tiêu chí cần phải đáp ứng về vốn, quy mô, nhân lực… Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 79 2.1.5 Nâng cao vai trò của hiệp hội các ngành hàng Hiệp hội ngành nghề là một kênh hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển của doanh nghiệp trong việc cung cấp thông tin về thị trường, giá cả, tình hình tài chính... trong và ngoài nước, cũng như công tác tư vấn cho doanh nghiệp, đặc biệt trong điều kiện Nhà nước sẽ không được phép can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khi gia nhập WTO. Hiệp hội chính là tổ chức đại diện hợp pháp về mặt quyền lợi, giúp doanh nghiệp giải quyết những tranh chấp phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như trong buôn bán quốc tế như những vụ kiện về cá tra, cá basa, vụ kiện bật lửa ga, kiện bán phá giá giày da xảy ra vừa qua. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải nâng cao hơn nữa vai trò vị trí của hiệp hội ngành hàng đảm bảo thực sự là cầu nối giữa doanh nghiệp và Nhà nước, cũng như giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài. Về phía Nhà nước, cần tạo điều kiện cho các hiệp hội ngành hàng tham gia hơn nữa vào quá trình hoạch định chính sách có liên quan đến ngành hàng đó với tư cách là đại diện cho quyền lợi của cộng đồng doanh nghiệp. Ví dụ, muốn xây dựng một nhà máy thuộc về lĩnh vực nào thì phải có ý kiến của hiệp hội ngành đó mới được tiến hành chứ không phải chỉ sự đồng ý của địa phương như hiện nay, tránh tình trạng nhiều công trình đầu tư tốn kém rồi hoạt động không hiệu quả, dẫn đến thiệt hại cho Nhà nước. Hiện nay, trong khi Chính phủ khó có thể can thiệp trực tiếp vào các vụ kiện thương mại vì đối tượng của những vụ kiện thương mại thường là các doanh nghiệp chứ không phải Chính phủ; thì vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của hiệp hội trong vai trò là cơ quan bảo vệ quyền lợi chính đáng cũng như lợi ích hài hoà của các hội viên. Vì vậy, Nhà nước cần sớm ban hành chính sách tạo hành lang pháp lý cho hoạt động của hiệp hội, như làm rõ vai trò, chức năng và nhiệm vụ cũng như Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 80 tính đặc thù của các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng so với các hội, hiệp hội là các tổ chức chính trị, xã hội thuần tuý. Về phía các hiệp hội, cần khuyến khích tất cả các doanh nghiệp thuộc trong các lĩnh vực khác nhưng có liên quan đến ngành hàng xuất khẩu cùng tham gia hiệp hội, chẳng hạn như một số doanh nghiệp về giao nhận, giám định chất lượng, bảo hiểm, ngân hàng... ; để tạo ra sự phối hợp giữa các ngành trong việc nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Ngoài ra, để tập hợp và phát huy tối đa được sức mạnh vật chất và tinh thần của cộng đồng doanh nghiệp, cần mở rộng hơn nữa sự tham gia của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) tham gia bình đẳng vào hiệp hội như các doanh nghiệp 100% vốn trong nước, đảm bảo phù hợp với nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia của WTO. Thêm vào đó, cần tích cực xúc tiến và tăng cường phối hợp với các bộ ngành trong việc thực hiện các cam kết của Việt Nam với WTO. Việc liên kết với các chủ thể nước ngoài, nhất là đội ngũ đông đảo Việt kiều, lôi kéo họ tham gia vào quá trình phát triển kinh tế, tham gia vào hệ thống phân phối hàng hóa Việt Nam trên phạm vi toàn cầu; hay hợp tác giữa các hiệp hội ngành hàng Việt Nam với các tổ chức hiệp hội ngành hàng quốc tế nhằm nâng cao vị thế và uy tín của các ngành trong cộng đồng quốc tế cũng là những hoạt động nâng cao hiệu quả hoạt động của hiệp hội. 2.1.6 Tích cực tham gia hơn nữa vào chuỗi giá trị toàn cầu Vị trí của một quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu phản ánh khả năng cạnh tranh của quốc gia đó. Do vậy, liên kết mạng, chuỗi, biến mình trở thành một mắt xích trong mạng, chuỗi khu vực và toàn cầu là một đòi hỏi bức thiết đối với Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng như hịên nay. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 81 Chuỗi quá trình tạo giá trị toàn cầu xét một cách cơ bản nhất có ba phân khúc: Nghiên cứu và phát triển - Sở hữu trí tuệ, Sản xuất, Phân phối - Xây dựng Thương hiệu. Trong đó, hai phân khúc đầu và cuối là các phân khúc tạo ra nhiều giá trị gia tăng và có sức mạnh nhất. Đó là các phân khúc mà các cường quốc đang nắm giữ và bỏ lại phân khúc phải làm nhiều nhưng không tạo ra nhiều giá trị cho các nước đang phát triển. Hiện tại, hầu hết các doanh nghiệp Việt chỉ tham gia vào tạo những giá trị gia tăng rất thấp trong phân khúc sản xuất - phân khúc tạo giá trị thấp nhất, chủ yếu cung cấp sức lao động phổ thông và nguyên vật liệu thô. Vì vậy, vươn lên cạnh tranh ở hai khúc giá trị gia tăng cao là mục tiêu hướng tới của Việt Nam nếu muốn tạo ra nội lực thực sự và nâng cao vị thế của quốc gia trên thị trường quốc tế. Trong điều kiện thực tế Việt Nam hiện nay, chúng ta chưa thể ngay lập tức tham gia vào lĩnh vực nghiên cứu & phát triển - sở hữu trí tuệ, nhưng hoàn toàn có thể tranh đua với thế giới trong hai lĩnh vực thương hiệu. Trên thực tế, sức cạnh tranh các mặt hàng xuất khẩu Việt Nam còn yếu do chưa xây dựng được một nhãn hiệu cạnh tranh. Chẳng hạn nhưcác sản phẩm chè xuất khẩu ở Việt Nam chủ yếu ở dạng thô, hoặc mới chỉ sơ chế và không có nhãn hiệu hay thương hiệu. Nhiều sản phẩm trong số này lại được đóng gói và dán nhãn ở các nước khác nhau và chính những nước thứ 3 này lại được hưởng phần lớn giá trị gia tăng của thành phẩm. Do đó, Nhà nước cũng như bản thân các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một thương hiệu riêng để tăng giá trị của sản phẩm và tạo dựng hình ảnh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường nội địa cũng như quốc tế. Bên cạnh đó, cũng phải tập trung đầu tư vào các khâu từ khâu thiết kế tới khâu sản xuất, tiêu thụ, không nên chỉ phụ thuộc vào vấn đề gia công như hiện nay. 2.2. Các giải pháp vi mô Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 82 Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập WTO thì thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ do những yếu kém của nền kinh tế mà còn do những yếu kém của bản thân doanh nghiệp. Do vậy, điều tất yếu là các doanh nghiệp phải nhận thức rõ những thách thức này đồng thời có những giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trong cuộc cạnh tranh toàn cầu. Sau đây, xin đề xuất một số giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam. 2.2.1.Đổi mới tư duy kinh tế của doanh nghiệp Việt Nam bước sang nền kinh tế thị trường đã gần 20 năm, nhưng nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước vẫn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự bảo hộ của Nhà nước. Các doanh nghiệp tư nhân mà phần lớn có quy mô vừa và nhỏ, thiếu vốn và kinh nghiệm, thì lại có tư tưởng làm ăn chộp giật, theo mùa vụ. Đó thực sự là vấn đề đáng lo ngại đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập. Bởi gia nhập WTO đồng nghĩa với việc bảo hộ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp Nhà nước về cơ hội kinh doanh, thủ tục hành chính, giấy phép, hạn ngạch, các loại thuế… sẽ bị hạn chế và loại bỏ. Hơn nữa, tham gia WTO là tham gia vào thị trường toàn cầu với các đối tác phần lớn là công ty xuyên quốc gia, kinh doanh với họ phải là kinh doanh lớn và làm ăn lâu dài. Như vậy, các doanh nghiệp tất nhiên sẽ phải tự thân vận động nếu muốn đứng vững trong cuộc cạnh tranh vốn đã gay gắt, nay lại càng khốc liệt hơn khi Việt Nam đã tham gia vào một sân chơi lớn với rất nhiều các đối thủ đến từ khắp nơi trên thế giới. Rõ ràng, trước tiên là chính bản thân các doanh nghiệp phải thay đổi tư duy làm ăn kinh tế của mình, đó là sự sống còn và phát triển của doanh nghiệp phải hoàn toàn dựa trên cơ sơ uy tín và năng lực cạnh tranh của bản thân doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp, đổi mới tư duy kinh tế phải xuất phát từ chính những người quản lý, phải quán triệt từ người lãnh đạo cho đến người người Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 83 lao động, có như thế mới đảm bảo hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Lãnh đạo có tư duy kinh tế mới mẻ sẽ vạch ra được đường lối, chiến lược kinh doanh táo bạo, có lợi cho doanh nghiệp và người lao động. Nhân viên có tư duy kinh tế mới thì phải hiểu và ủng hộ các quyết định của lãnh đạo, đồng thời có thể đề xuất các ý kiến mới đóng góp vào sự phát triển của doanh nghiệp. Chỉ có những doanh nghiệp thực sự có tư duy kinh doanh theo nhu cầu thị trường mới có thể tồn tại và phát triển lâu dài, có uy tín và vị thế trên thị trường quốc tế và nội điạ. 2.2.2.Nắm vững các cam kết cụ thể của Việt Nam khi gia nhập WTO Trước hết, các doanh nghiệp cần phải chủ động tìm hiểu luật pháp, các tập quán thương mại của các nước thành viên WTO, đặc biệt là luật chơi của WTO, nghiên cứu kỹ những cam kết song phương, đa phương để tận dụng triệt để những lợi thế của mình khi đã là thành viên WTO. Điểm yếu chung của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là thiếu thông tin thị trường trong và ngoài nước, đối thủ cạnh tranh, hệ thống pháp lý và hệ thống thương mại quốc tế…Theo điều tra của Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), có tới 45% doanh nghiệp chưa có kế hoạch chuẩn bị cho việc thực hiện các yêu cầu của Hiệp định thương mại Việt-Mỹ; 31% doanh nghiệp không biết về WTO… Từ năm 2004 đến nay, Việt Nam đã gặp phải khoảng 20 vụ kiện bán phá giá. Ngoài những vụ kiện bán phá giá cá basa, tôm tại thị trường Mỹ, còn có một số vụ EU kiện Việt Nam bán phá giá xe đạp, bóng đèn huỳnh quang tiết kiệm điện(compact), chốt cài không gỉ và các phụ kiện xuất khẩu. Tất cả cho thấy tầm quan trọng đặc biệt của việc hiểu rõ các thông tin, quy định trong thương mại quốc tế. Như vậy, bên cạnh việc phải nắm bắt các nguyên tắc chung của WTO về thương mại, thông tin về thị trường, thì các doanh nghiệp phải chủ động tìm hiểu các quy định, thù tục pháp lý trong kinh doanh thương mại quốc tế Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 84 mà các nước nhập khẩu đang áp dụng như: các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp, các biện pháp tự vệ, các hàng rào kỹ thuật trong thương mại (các yêu cầu về tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật, đánh giá họp chuẩn, các yêu cầu về nhãn mác, đóng gói, bao bì…). Các doanh nghiệp cũng phải chú ý đến các thoả thuận cụ thể trong ngành, lĩnh vực, mặt hàng mà mình tham gia để đảm bảo không có những vi phạm đáng tiếc nào xảy ra. 2.2.3.Đổi mới công nghệ và dây chuyền sản xuẩt Sức mạnh của một doanh nghiệp thường được đánh giá trước tiên thông qua trình độ công nghệ của sản xuất và dịch vụ, bởi thiết bị đem lại cho doanh nghiệp từ 40-50% năng lực sản xuất. Hơn nữa, khi gia nhập WTO, các sản phẩm của Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ hàng hoá do nước ngoài sản xuất; do đó việc đổi mới, cải tiến, nâng cao trình độ công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm là vô cùng quan trọng. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, tính chung cho các doanh nghiệp, mức độ thiết bị hiện đại chỉ có 10%, mức trung bình 38%, lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 52%. Đặc biệt ở khu vực sản xuất nhỏ, thiết bị ở mức lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 70%. Trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư đổi mới công nghệ ở mức thấp, tính ra chi phí chỉ khoảng 0,2 - 0,3% doanh thu. Con số này ở Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc là 10%. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước có trình độ công nghệ dưới mức trung bình của khu vực và thế giới, máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất lạc hậu so với thế giới từ 10-20 năm, so với khu vực từ 3-4 thế hệ. Khu vực liên doanh với nước ngoài trình độ có khá hơn, song cũng chỉ đạt mức trung bình của khu vực, chủ yếu tập trung ở một số ngành công nghiệp nhẹ như chế biến thực phẩm, đồ gia dụng… Khu vực ngoài quốc doanh, công tư ty nhân thì có trình độ công nghệ còn lạc hậu hơn nữa, nhất là các dây chuyền về dệt, da giầy, thép… Chỉ có một số dây chuyền thiết bị công nghệ về công nghiệp chế biến thực phẩm, nhựa… đạt công nghệ tiên tiến trung bình của khu vực. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 85 Do vậy, các doanh nghiệp cần mạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ và dây chuyền sản xuất, thay thế các công nghệ cũ, năng suất lao động thấp, hoạt động kém hiệu quả để tăng năng suất, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm. Một mặt, đầu tư vào công nghệ mới làm giảm đáng kể giá thành sản xuất, nâng cao tính cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam nên thị trường quốc tế. Mặt khác, nó còn góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng được các tiêu chuẩn của nước nhập khẩu về bao bì đóng gói, an toàn vệ sinh, quy trình chế biến. Như vậy, đầu tư vào công nghệ mới giúp cho các doanh nghiệp có khả năng đáp ứng được các nhu cầu ngày càng cao của thị trường, có đủ khả năng cạnh tranh với các đối thủ khác, từ đó mở rộng thị trường, tăng cường xuất khẩu tiêu thụ hàng hoá. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới công nghệ, cần lưu ý rằng không phải cứ áp dụng công nghệ cao và hiện đại là đã tốt. Vấn đề là ở chỗ doanh nghiệp phải lựa chọn cho mình công nghệ phù hợp với điều kiện và trình độ sản xuất, nếu không sẽ trở thành lãng phí khi công nghệ không được sử dụng khai thác triệt để. Chiến lược công nghệ của doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện nhanh chóng và hiệu quả nếu doanh nghiệp xem đây là khâu đột phá, có tính chất cách mạng, và sẵn sàng đầu tư tài chính xứng đáng cho nó. 2.2.4.Xây dựng và quảng bá thương hiệu sản phẩm Một trong những nhân tố đóng vai trò hết sức quan trọng nhằm đưa hoạt động xuất nhập khẩu phát triển đem lại hiệu quả kinh tế cao, đó là thương hiệu sản phẩm. “Thương hiệu” thể hiện sự thành công của một sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của một doanh nghiệp. Nhưng trên thực tế, ở Việt Nam hiện nay, việc xây dựng và quảng bá thương hiệu ở các doanh nghiệp vẫn còn yếu, và chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì lẽ đó mà trong thời gian vừa qua đã xảy ra một số vụ kiện đối với hàng hoá Việt Nam, chẳng hạn như vụ kiện cá basa bị cấm dùng cái tên “catfish” ở thị trường Mỹ, và một số nhãn hiệu của các thương hiệu khác như nhãn hiệu “Trung Nguyên” Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 86 của công ty cà phê Trung Nguyên, nhãn hiệu “Vinataba” của Tổng công ty thuốc lá… bị đăng ký ở nước ngoài, làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam. Hiện nay, có hơn 80 nước và vùng lãnh thổ có đối tượng sở hữu công nghiệp xin bảo hộ ở Việt Nam, chủ yếu là các nước Anh, Pháp, Đức, Mỹ, Nhật… Trong khi đó, việc đăng ký bảo hộ thương hiệu ở nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam còn rất ít. Theo Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam thì tính từ đầu năm 2005 đến ngày 31 tháng 10 năm 2005, chỉ có 20 đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu ở nước ngoài được cục gửi đi. Chính vì số lượng nhãn hiệu đăng ký bảo hộ ở nước ngoài còn rất ít, cho nên cả nhà nhập khẩu, phân phối hàng hoá ở nước ngoài hầu như chưa biết đến các nhãn hiệu hàng hoá xuất phát từ Việt Nam. Thực tế đã cho thấy các doanh nghiệp phải trả giá rất đắt vì nhận thức thấp về vai trò của thương hiệu. Đó chính là việc hao phí thời gian và công sức vào các vụ kiện tụng đòi lại thương hiệu mà chưa chắc đã thắng lợi. Các doanh nghiệp không những có thể không đòi lại thương hiệu của mình mà còn phải mất tiền mua lại, hoặc mất công thiết kế khuếch trương thương hiệu mới, chấp nhận từ bở thương hiệu cũ. Như vậy, các doanh nghiệp nếu muốn thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, cần nhận thức rõ tầm quan trọng của thương hiệu, và việc đăng ký quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hàng hoá. Nếu doanh nghiệp không có bộ phận chuyên trách về thương hiệu, thì có thể liên hệ với các công ty quảng cáo, các công ty chuyên về xây dựng thương hiệu để được tư vấn về cách xây dựng thương hiệu cho mình sao cho hiệu quả nhất. 2.2.5.Ứng dụng thương mại điện tử vào hoạt động kinh doanh Theo những khảo sát gần đây, có đến hơn 90% doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có thói quen đưa các ứng dụng CNTT vào quản lý sản xuất – kinh doanh, chưa quan tâm đến giao dịch thương mại điện tử. Trong khi đó, lợi ích Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 87 của hương mại điện tử là rất rõ ràng như nâng cao khả năng tìm kiếm và tiếp xúc khách hàng, tiếp cận các nguồn thông tin, mở rộng thị trường,…; từ đó có thể giảm chi phí bán hàng trung gian, chi phí trong quá trình tìm kiếm khách hàng, giới thiệu sản phẩm, thương thảo hợp đồng, tăng khả năng bán hàng trực tiếp đến các thị trường, Do đó, để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường toàn cầu đặc biệt trong thời đại công nghệ thông tin như hiện nay, các doanh nghiệp cần áp dụng ngay thương mại điện tử vào kinh doanh. Do đó, các doanh nghiệp sẽ phải tăng chi phí đầu tư cho công nghệ. Tuy nhiên, do thương mại điện tử là việc kinh doanh trên các thiết bị điện tử nên nó sẽ bị tác động theo sự thay đổi của công nghệ. Vì vậy người tham gia kinh doanh không những phải có khả năng sử dụng công nghệ thông tin một cách thành thạo mà còn phải luôn học hỏi để theo kịp sự thay đổi đó. Vấn đề còn lại chính là sự hỗ trợ từ phía Nhà nước với các điều kiện pháp lý cụ thể để các doanh nghiệp có thể yên tâm với một phương thức kinh doanh hiện đại mới, mở rộng cánh cửa đưa sản phẩm Việt Nam tiến ra thị trường thế giới. Chẳng hạn các vụ tranh chấp về tên miền cho thấy cần có quy chế quản lý thích hợp với loại tài nguyên đặc biệt này, việc gửi thư điện tử quảng cáo thương mại với số lượng lớn đòi hỏi phải có biện pháp bảo vệ người tiêu dùng, v.v. Do đó cần xây dựng văn bản quy phạm pháp luật mới liên quan tới thương mại điện tử, đồng thời rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản đã ban hành. Nhà nước cũng nên xây dựng một tổ chức chứng nhận những website thương mại điện tử uy tín, giúp người tiêu dùng có lòng tin khi tham gia mua bán, từ đó khuyến khích phát triển loại hình giao dịch hiện đại này. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 88 KẾT LUẬN Tóm lại, những tác động có lợi của việc gia nhập WTO là có điều kiện, và những tác động tiêu cực cũng không thể loại bỏ hoàn toàn. Mặc dù sức cạnh tranh quốc tế trong nhiều ngành kinh tế của Việt Nam vẫn còn kém, trong khi áp lực cạnh tranh trên thị trường thế giới là vô cùng khốc liệt; nhưng đây lại chính là một cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam biến chính sức ép cạnh tranh đó thành nỗ lực nâng cao hiệu quả hoạt động, củng cố vị thế trên thị trường, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh. Để đạt được mục tiêu phát triển nền kinh tế hướng tới xuất khẩu, nhà nước cũng như cộng đồng các doanh nghiệp Việt Nam đều phải nắm bắt cơ hội để mở rộng và tăng cường hoạt dộng xuất khẩu. Hiện nay, Việt Nam vẫn bị coi là nền kinh tế phi thị trường, chính vì thiếu một quy chế kinh tế thị trường cho nên các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam luôn đứng trước nguy cơ bị kiện chống bán phá giá. Gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam không bị đối xử như vậy nữa tuy rằng chúng ta sẽ phải trải qua một thời gian quá độ mới được coi là nền kinh tế thị trường. Trong điều kiện hội nhập, thị trường được mở rộng và các rào cản thương mại dần được dỡ bỏ, Việt Nam nên tranh thủ đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, tăng thêm thị phần ở các thị trường lớn và quan trọng, đồng thời đẩy mạnh tìm kiếm và khai thác các thị trường mới tiềm năng. Một điều đáng lưu ý nữa, đó là cần tăng nhanh tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao, giàu hàm lượng công nghệ và có sức cạnh tranh cao. Đồng thời, cần tạo thêm nhiều sản phẩm chủ lực, mũi nhọn mới, hạn chế tiến tới chấm dứt xuất khẩu các sản phẩm thô, chưa qua chế biến; hạn chế và thu hẹp tình trạng nhập siêu, đặc biệt là đối với hàng tiêu dùng. Để thực hiện thành công đòi hỏi phải có sự phôi hợp giữa các cấp các ngành với toàn dân. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 89 Mặt khác, chúng ta cũng phải nhận rõ những thách thức và tác động tiêu cực do hội nhập đem lại, đặc biệt là học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước để tránh tình trạng đi theo vết xe đổ của các nước đi trước. Trên đây là những nghiên cứu về tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu. Trong quá trình thực hiện đề tài, do có sự hạn chế về trình độ lý luận và khó khăn trong việc thu thập tài liệu nên những phân tích đánh giá có thể chưa thật sâu sắc và bao quát đầy đủ toàn bộ vấn đề. Tuy nhiên, với đề tài này mong rằng sẽ giúp cho người đọc có cái nhìn khái quát về tác động của WTO đối với kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO Các loại sách 1. Bùi Xuân Lưu, Nguyễn Hữu Khải (2006), Giáo trình kinh tế ngoại thương, Trường Đại học Ngoại Thương 2. Nguyễn Hữu Khải (chủ biên) (2007), Quản lý hoạt động nhập khẩu, cơ chế, chính sách và biện pháp, NXB Thống kê 3. Võ Đại Lược (chủ biên) (2006) , Trung Quốc sau khi gia nhập WTO, thành công và thách thức, NXB Thế giới 4. Trần Thanh Hải (2006), Hỏi đáp về WTO, Dự án hỗ trợ thương mại đa biên 5. Nguyễn Văn Thường, Nguyễn Kế Tuấn (2006), Kinh tế Việt Nam năm 2005: trước ngưỡng cửa của tổ chức Thương mại thế giới, Đại học kinh tế quốc dân 6. Việt Nam tham gia tổ chức thương mại thế giới: thời cơ và thách thức (2006), NXB Lao động 7. WTO - những quy tắc cơ bản (2006), NXB Lao động 8. Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới - những điều cần biết (2006), NXB Lao động Các loại tạp chí 1. Tạp chí kinh tế đối ngoại - số 22 & 23 (2007); 20 &18 (2006) 2. Tạp chí thương mại - số 23/2007 3. Con số và sự kiện - số T9/2007; 2+3/2007; 6/2007 4. Kinh tế và dự báo - số 398 (6/2006) 5. Kinh tế và phát triển - số 121 (T7/2007) 6. Những vấn đề kinh tế thế giới - 6(122) (T6/2006) 7. Những vấn đề kinh tế và chính trị - 6(134) (T6/2007) 8. Ngoại thương - số 26 Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu 91 Các trang web: 1. Sukien/Co_hoi_va_thach_thuc_cua_doanh_nghiep_sau_khi_gia_nhap_WTO 2. 3. 4. 42558 5. 6. 7. =2032&ID=58180 8. id=73a965546f9c86 9. D=439 10. 11. 12. 13. 14. tt/news_page.dot?inode=29311 15. 16.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3859_3572.pdf