TÁC ĐỘNG XÃ HỘI CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ GIA NHẬP WTO Ở VIỆT NAM 4
1.1. Hội nhập KTQT đã và đang góp phần đổi mới thể chế và nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước
và trở thành một động lực cho quá trình phát triển đất nước : . 4
1.2. HNKTQT làm gia tăng mức sống của các nhóm dân cư và hỗ trợ công cuộc giảm nghèo 6
1.3. HNKTQT đang làm gia tăng sự phân tầng xã hội, bất bình đẳng xã hội 9
1.4. Vấn đề việc làm, quan hệ lao động, di cư trong quá trình HNKTQT: 12
MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH: 18
2.1 - Lựa chọn ưu tiên các mục tiêu phát triển: 18
2.2 Cần tiếp tục đổi mới thể chế và nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước phù hợp với
tốc độ tăng trưởng kinh tế, biến đổi xã hội và với điều kiện của một nền kinh tế thị trường 19
2.3 - Xây dựng hệ thống an sinh xã hội toàn dân phù hợp với quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang
nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và quá trình HNKTQT . 19
2.4. Xã hội hóa các dịch vụ xã hội cơ bản, nhưng đảm bảo việc tiếp cận dễ dàng đối với các nhóm xã
hội yếu thế 20
3/23
MỞ ĐẦU
Quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) của Việt Nam, như một
bộ phận hữu cơ của công cuộc Đổi mới, kết hợp và hỗ trợ cho quá trình giải phóng lực
lượng sản xuất trong nước, đã đem lại những thành quả to lớn về kinh tế, xã hội trong
hơn 2 thập kỷ vừa qua. Việc gia nhập WTO ngày 7/11/2006 của Việt Nam là mốc quan
trọng của quá trình này.
Với việc gia nhập WTO, nước ta bước vào một giai đoạn phát triển mới với những
cơ hội và thách thức mỚI. Triển vọng phát triển nhanh và bền vững đất nước là nhiều hứa
hẹn, nhưng các thách thức cũng rất đáng kể. Chẳng hạn như cơ hội tiếp cận thị trường
thế giới mà không bị phân biệt đối xử, môi trường kinh doanh sẽ được cải thiện với việc
hoàn thiện hệ thống pháp lý và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý hay
các thách thức về cạnh tranh gay gắt và sâu rộng hơn ở cả cấp độ sản phẩm, doanh
nghiệp, Nhà nước, sự phân tầng xã hội sẽ mạnh mẽ hơn, nguy cơ thất nghiệp và phá sản
một số doanh nghiệp sẽ tăng lên Đặc biệt, về mặt xã hội, những thách thức này có thể
hạn chế quá trình tăng trưởng nhanh của nền kinh tế hoặc gÕy ra những bất ổn về mặt xã
hội.
Mặc dù trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu phục vụ cho việc
hoạch định các chính sách xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng chưa có công
trình nào đánh giá một cách tỔng quát và có hệ thống những tác động xã hội của quá
trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và việc gia nhập WTO ở nước ta.
23 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2733 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động xã hội của hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HXH Việt Nam tiến hành năm 2003-2004, với qui
mô 14.143 hộ ở 63 xã phường thuộc 63 tỉnh, trong đó có chỉ báo “tự đánh giá mức sống”
của các hộ gia đình, cũng cho một kết quả khả quan về sự gia tăng mức sống dân cư.
Bảng 2: Đánh giá mức sống của hộ gia đình
Cả
nước
ĐB
sông
Hồng
Đông
Bắc
TÕY
BẮC
BẮC
TRUN
G BỘ
NAM
TRUN
G BỘ
TÕY
NGUY
ỜN
Đông
Nam
Bộ
ĐB
sông
Cửu
Long
Hộ đánh giá sự thay đổi mức sống so với 3 năm trước (%)
* Như cũ, ít thay
đổi
37,9 22,1 35,0 48,5 30,6 43,5 46,7 34,2 47,2
* Khá hơn 53,8 59,5 61,9 49,9 60,0 50,1 49,0 54,8 42,4
* Kém hơn 8,3 18,4 3,1 1,5 9,4 6,4 4,3 11,0 10,4
Nguồn: 2, 2007
Khi so sánh sự thay đổi mức sống so với 3 năm trước thời điểm điều tra, khoảng
trên 50% số HGĐ cho là “khá hơn trước”, gần 40% cho là “không thay đổi nhiều” và gần
10% cho là giảm sút, kém hơn trước. NghĨa là đa số hộ gia đình tự đánh giá đã có sự gia
tăng mức sống, hoẶC duy trì được mức sống ổn định và chỉ một bộ phận nhỏ bị suy giảm
mức sống trong khoảng thời gian 3 năm. Ở Đồng bằng sông Hồng, số hộ đánh giá là mức
sống kém hơn là 18,4%, ở Đông Nam bộ 11% và Đồng bằng sông Cửu Long 10,4%, Bắc
Trung bộ 9,4%. Có vẻ như ở những vùng mà kinh tế phát triển hơn, thỠ SỰ TỎC động
khuynh đảo của thị trường tới đời sống người dân mạnh hơn và sự không hài lŨNG
CŨNG CÚ Ở MỘT TỈ LỆ LỚN Hơn.
Trong khi đó, ở các vùng miền núi, tỉ lệ hộ cho rằng đời sống kém hơn lại rất nhỏ:
chỉ có 3,1% ở Đông Bắc, 1,5% ở Tây Bắc và 4,3% ở Tây Nguyên. Ở các vùng này, tỉ lệ hộ
cho là mức sống khá hơn cũng cao tương ứng: 35% ở Đông Bắc, 48,5% ở Tây Bắc và
46,7% ở Tây Nguyên. RỪ RàNG Là TỠNH HỠNH đời sống chung của dân cư các vùng
miền núi được cải thiện hơn đáng kể do mặt bằng mức sống xuất phát điểm ở các vùng
này là thấp và mức độ nhạy cảm cao hơn với các tác động can thiệp như XĐGN.
Biểu đồ 1: Đánh giá của các hộ về sự thay đổi mức sống trong 3 năm qua (%)
8/23
Nguồn: 2, 2007
Tiền lương của người lao động trong các doanh nghiệp cũng đang tăng nhanh nhờ
tăng trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế (biểu hiện qua làn sóng đầu tư nước ngoài và sự
thành lập mạnh mẽ các doanh nghiệp trong những năm gần đây). Mức tăng lương trên thị
trường lao động Việt Nam đang tăng cao, từ 8% năm 2004 lên 9,5% năm 2005 và 12,3%
năm 2006 (xem hộp 1).
HỘP 1
06/05/2007 DAN TRI.COM.VN
Cuộc khảo sát của Navigos Group cho thấy mức tăng lương (thu nhập thực
tế) trên thị trường lao động Việt Nam đang ở một tốc độ chóng mặt. Nếu
như năm 2004 con số này là 8% và 2005 là 9,5% thỠ đến 2006 đÓ VỌT
LỜN 12,3%. Điều đáng chú ý nữa là nếu như trong các năm 2004, 2005,
chỉ số tăng lương so với chỉ số lạm phát và GDP chỉ ở mức một chín một
mười thỠ TỚI 2006 CHỈ SỐ Tăng lương đÓ Vượt gần gấp đôi mức lạm
phát và hơn gấp rưỡi mức tăng GDP. Theo phân tích của ông Mikkel
Schônherr Thøgersen, Trưởng phŨNg Dự án khảo sát tiền lương 2007,
chính làn sóng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và số lượng các doanh
nghiệp tăng mạnh trong thời gian gần đây dẫn đến cung cầu lao động mất
cân đối đÓ GÚP PHẦN LàM CUỘC đua tăng lương “nóng” lên. ỄNG
THỨGERSEN CŨNG CHO RẰNG mặc dù mức trả lương bỠNH QUÕN
CHO NHÕN VIỜN TRONG CỎC CỤNG TY Tư nhân trong nước cŨN
THUA XA CỎC DOANH NGHIỆP CÚ VỐN đầu tư nước ngoài (thấp hơn
14%) nhưng tốc độ tăng lương lại đang rất nhanh. Với đà này có thể trong
5-7 năm tới họ sẽ đuổi kịp các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
1.2.2. Giảm nghèo là một TRONG SỐ NHỮNG thành công nổi BẬT nhất
của Việt Nam trong quá trình Đổi mới. Hội nhập quốc tế là yếu tố
quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và trỞ thành động
lực chính để giảm nghèo ở Việt Nam.
Trong vòng 11 năm (1993-2004) đã có khoảng 24 triệu người thoát nghèo đói,
trong đó một nửa thoát đói nghèo trong giai đoạn 1993-1998 và nửa còn lại trong giai
đoạn 1998-2004. Tỷ lệ nghèo năm 2004 (19,5%) chỉ bằng một phần ba so với năm 1993
(58,1%). Giảm nghèo trong giai đoạn 1993-2004 là rất rõ ràng và không phụ thuộc vào
chuẩn nghèo. Mức thiếu hụt của những người nghèo trong chi tiêu dùng của họ so với
chuẩn nghèo cũng giảm đi đáng kể trong giai đoạn này. Các chỉ số phi thu nhập, phản ánh
các mặt xã hội của cuộc sống trong các hộ gia đình cũng được cải thiện đáng kể trong giai
đoạn trên. Thành tựu giảm nghèo đó có được phần lớn nhờ tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao: ”một phần trăm tăng trưởng của GDP tính trên đầu người đã giúp giảm tỷ lệ nghèo
xuống 0,55 và 0,49 điểm phần trăm tương ứng trong hai giai đoạn 1993-1998 và 1999-
2004” (3, 2006).
Mặt khác, các doanh nghiệp FDI, với hiệu quả kinh tế cao, đã gia tăng mạnh mẽ
việc đóng góp nguồn ngân sách nhà nước (từ 0,2 triệu USD năm 1995 lên tới gần 1,5 tỷ
USD hiện nay). Từ đó tạo cơ sở quan trọng để Nhà nước tăng chi tiêu ngân sách cho các
lĩnh vực xã hội, (chiếm 30% tổng ngân sách), trong đó có các dịch vụ xã hội cơ bản như y
tế, giáo dục, hay XĐGN, hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn. Riêng Chương trỡnh 135 hỗ trợ
9/23
2.374 xã đặc biệt khó khăn, trong giai đoạn 1999-2004, được ngân sách trung ương đầu
tư 7.227,7 tỷ đồng, đã xây dựng được 22 ngàn công trình CSHT, 528 trung tâm cụm xã,
góp phần giảm tỷ lệ nghèo của các xã này từ 60% năm 1999 xuống 23,5% năm 2004 .
Nguồn vốn ODA trong quá trình hội nhập quốc tế cŨng góp phần quan trọng vào
giảm nghèo. Với 24,7 tỷ USD đã ký hiệp định, giải ngân được 15,8 tỷ USD, hoạt động
ODA tập trung vào phát triển hạ tầng KTXH, hoàn thiện thể chế, xóa đói giảm nghèo. Vì
vậy một bộ phận người nghèo, những nhóm xã hội yếu thế đã được hưởng lợi, nâng cao
được ý thức và năng lực quản lý, cải thiện và bảo vệ môi trường. ODA đÓ GÚP PHẦN
QUAN TRỌNG THỲC đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn kết hợp xoá đói giảm
nghèo.. thông qua các dự án, trong đó nguồn vốn ODA đÓ GIỲP NỤNG DÕN NGHèo tiếp
cận nguồn tín dụng để tạo ra các ngành nghề phụ, hỗ trợ phát triển công tác khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư, phát triển giao thông nông thôn, thuỷ lợi, cung cấp nước sạch,
phát triển lưới điện sinh hoạt, trạm y tế, trường học...Nguồn vốn ODA đÓ HỖ TRỢ PHỎT
TRIỂN CỎC TỈNH Và THàNH PHỐ, NHẤT Là HỖ TRỢ XOỎ đói giảm nghèo, phát triển
hạ tầng quy mô nhỏ ở các vùng nông thông miền núi; hầu hết các tỉnh và thành phố có
các dự án hệ thống cấp nước sinh hoạt, trường học, bệnh viện hệ thống thuỷ lợi, một số
dự án thoát nước, phát triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ.(9, 2006; 11, 2005; 12,2006)
Đương nhiên, cũng như bất kỳ lĩnh vực nào khác, thành tựu giảm nghèo của Việt
Nam là do một tổ hợp các nhân tố tác động tạo thành. Trong đó, hội nhập kinh tế quốc tế
như là một tác nhân xuyên suốt, trực tiếp và gián tiếp tạo nên kết quả chủ yếu của tăng
trưởng, giảm nghèo và phát triển xã hội nói chung ở Việt Nam trong suốt 2 thập kỷ qua.
1.3. HNKTQT đang làm gia tăng sự phân tầng xã hội, bất bình đẳng xã
hội
Phân tầng xã hội phản ánh cấu trúc xã hội bất bình đẳng trong quá trình vận động
và phát triển của xã hội. Đối với một xã hội có nền kinh tế chuyển đổi và đang trong quá
trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như nước ta, với tốc độ tăng trưởng kinh tế
tương đối cao, liên tục trong thời gian dài, thì nhiều khả năng phân tầng xã hội ngày càng
gia tăng, trở thành một vấn đề xã hội có tính cấp thiết, thu hút sự quan tâm rộng rãi của
toàn xã hội, từ giới lãnh đạo đến những người dân nghèo khổ nhất. Vấn đề này lại càng
quan trọng khi nước ta xây dựng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, mà công bằng xã hội là mục tiêu hàng đầu.
Phân tầng xã hội trong quá trình Đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng gia tăng,
dù rằng xã hội Việt Nam đang phát triển tương đối công bằng, so với các nước khác có
cùng trình độ phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế (với những đóng góp quan trọng của
FDI và ODA) đã chia sẻ lợi ích cho đông đảo các tầng lớp xã hội, cho đa số người dân ở
mọi vùng đất nước, trong đó có cả người nghèo, các nhóm xã hội yếu thế. Nhưng vẫn còn
những khác biệt, sự không công bằng, khi có những nhóm xã hội được hưởng lợi nhiều
hơn và những nhóm hửơng lợi ít hơn, thậm chí bị rủi ro, mất mát. Hệ số Gini tăng tương
đối ít trong một thời gian dài (từ 0,34 năm 1993, tăng lên 0,35 năm 1998 và 0,37 năm
2004) và dường như bất bình đẳng tương đối ở Việt nam không khác nhiều với các nước
có cùng mức thu nhập bỡnh quõn đầu người dựa trên sức mua tương đương.
Tuy nhiên, bất bình đẳng tuyệt đối đang tăng, nếu so sánh khoảng cách chi tiêu
dùng giữa nhóm 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất. Nếu năm 1993, chi tiêu dùng của các
hộ giầu nhất gấp 5 lần so với các hộ nghèo nhất, thì năm 2004, khoảng cách này đã tăng
lên 6,3 lần. Tỷ lệ của nhóm giầu nhất trong tổng chi tiêu dùng xã hội tăng từ 41,8% năm
1993, tăng lên 44,7% năm 2004, trong khi đó tỷ lệ này của nhóm nghèo nhất lại giảm
tương ứng từ 8,4% xuống còn 7,1% cùng thời kỳ(3,2007)
10/23
Bất bình đẳng giữa các vùng trong quá trình tăng trưởng kinh tế cũng ngày càng
gia tăng. Tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng Tây bắc, Tây nguyên ( hai vùng tập trung đồng bào
dân tộc thiểu số), Bắc trung bộ, đồng bằng sông Cửu long gấp 4,5 lần tỷ lệ hộ nghèo
chung của cả nước.
Nếu so sánh bất bình đẳng về tài sản (nếu đo lường được, trong điều kiện hiện tại)
thì nhiều khả năng khoảng cách giữa nhóm giầu nhất và nghèo nhất có thể gia tăng gấp
nhiều lần so với đo lường bằng các chỉ báo chi tiêu hay thu nhập ở các nghiên cứu đã có.
Trong giai đoạn 1993-2004, gia tăng bất bình đẳng chung chủ yếu là sự gia tăng
bất bình đẳng giữa đô thị và nông thôn, mặc dù tầm quan trọng của nó trong bất bình
đẳng chung ngày càng giảm dần và sự bất bình đẳng nội vùng ngày càng cao và lớn hơn
sự bất bình đẳng giữa đô thị và nông thôn. Phân tích hệ số bất bình đẳng Theil L cho thấy:
nếu trong giai đoạn 1993-1998, 96% gia tăng bất bình đẳng ở Việt Nam là do gia tăng bất
bình đẳng giữa các vùng thành thị và nông thôn và chỉ có 4% là do bất bình đẳng trong nội
vùng nông thôn hoặc thành thị thì đến giai đoạn 1998-2004, tỷ lệ tương ứng là 39% so với
61% (3, 2007)
Tuy nhiên, phân tầng xã hội cũng tạo ra những cơ hội và kích thích những người
có năng lực, biết nắm bắt các cơ hội thị trường, vươn lên thành đạt hơn trên các thang bậc
xã hội. Nhiều doanh nhân trẻ, người lao động, trí thức... đã trở nên giầu có, có vị thế xã
hội cao hơn trong quá trình HNKTQT và phát triển nền kinh tế thị trường. Tại các đô thị,
đã hình thành một nhóm xã hội giầu có, gắn với hiện tượng cư trú tách biệt và tập trung
tích tụ tài sản. Từ thực trạng sở hữu cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, VnExpres
ngày 23/1/2007, căn cứ vào các bảng cáo bạch của gần 150 công ty, đã cho biết: ”Tổng
giỏ trị tài sản của 650 cỏ nhõn sở hữu cổ phiếu, bao gồm các cổ đông sáng lập, những
người nằm trong hội đồng quản trị, ban kiểm soát, ban tổng giám đốc, và bà con ruột thịt,
tính theo giá cổ phiếu cuối ngày 29/12/2006, đạt trên 37,2 nghỡn tỷ đồng, tương đương
hơn 4% GDP của Việt Nam”. Hiện tượng cư trú tách biệt, chủ yếu dựa trên yếu tố kinh tế,
đã xuất hiện ở những thành phố lớn và các đô thị xung quanh, chỉ trong khoảng 10 năm
hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng. Đầu tư nước ngoài đã phát triển mô hình mẫu này
như Phú Mỹ Hưng, Villa Riviera, Ciputra kích thích làn sóng tiêu dùng nhà ở cao cấp của
các nhóm xã hội giầu có. Tuy nhiên, sự tập trung đầu tư của các doanh nghiệp nước
ngoài và trong nước vào các khu vực bất động sản dành cho “nhà giàu”, có thể lại kéo
theo sự sụt giảm tương đối của việc phát triển nhà ở dành cho người thu nhập thấp ở
thành thị do thiếu nguồn lực tài chính, đất đai. Điều đó làm tăng thêm sự bất bình đẳng xã
hội tại các đô thị lớn đang có xu hướng gia tăng trong quá trình đô thị hóa nhanh, trong bối
cảnh đẩy mạnh CNH-HĐH và hội nhập quốc tế, và có thể kéo theo sự bất ổn xã hội.
Hiện tượng bất bình đẳng nêu trên chịu tác động trực tiếp của hội nhập quốc tế và
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Vốn FDI tập trung vào các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với 57,2% tổng vốn
FDI đăng ký và 49,6% vốn thực hiện của cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc
chiếm khoảng 26% tổng vốn FDI đăng ký và 28,7% vốn thực hiện. FDI trong giai đoạn Đổi
mới vừa qua đã được tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng (62,4% tổng vốn
FDI đăng ký), dịch vụ (31,4% tổng vốn FDI đăng ký), mà phần lớn ở các thành thị. Điều
này góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, tạo nhiều việc làm với thu nhập cao cho
nhóm lao động ở các lĩnh vực có vốn đầu tư nước ngoài, làm gia tăng thêm mức sống ở
đô thị. Từ đó làm dãn rộng bất bình đẳng giữa các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng
khác, giữa nông thôn và thành thị, giữa các nhóm lao động, giữa các ngành nghề, các khu
vực kinh tế.
Bất bình đẳng giữa các vùng có thể được đo bằng tốc độ tăng chi tiêu dùng thực tế
giữa các vùng. Nếu vùng Đông Nam bộ và vùng Đồng bằng sông Hồng (là hai vùng kinh
tế trọng điểm) tăng chi tiêu dùng ở mức 133% và 111% trong giai đoạn 1993-2004 thì tốc
11/23
độ này ở vùng Tây Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long và Nam Trung bộ thấp hơn nhiều, chỉ
là 52%, 63% và 67%. Hay, tỷ lệ tăng chi tiêu dùng ở thành thị so với nông thôn tăng từ
1,91 năm 1993 lên 2,24 năm 2004.
Tác động của FDI về mặt xã hội còn được thể hiện trong vấn đề sử dụng đất (phần
lớn là đất nông nghiệp). Kết quả là một bộ phận không nhỏ nông dân bị mất đất canh tác,
hay một bộ phận dân đô thị mất sinh kế quen thuộc, phải chuyển đổi nghề nghiệp hoặc tái
định cư.
Hiện nay diện tích đất do người nước ngoài (trong đó có các doanh nghiệp FDI) sử
dụng chiếm khoảng 35.105 ha. Tuy nhiên, ảnh hưởng của hội nhập quốc tế đến vấn đề sử
dụng đất lớn hơn con số này rất nhiều. Hội nhập quốc tế kích thích tăng trưởng kinh tế,
mở rộng đô thị, phát triển mạnh mẽ hệ thống cơ sở hạ tầng như giao thông, gia tăng số
lượng các khu công nghiệp, khu đô thị.
Hộp 2
Theo thống kờ cuả Cục Hợp tỏc xó và Phỏt triển nụng thụn ( Thuộc Bộ Nụng
nghiệp và Phỏt triển nụng thụn ) hiện nay, trung bỡnh mỗi hộ nụng dõn cú 1,5 lao
động và mỗi hecta đất bị thu hồi sẽ ảnh hưởng tới việc làm của trên 10 lao động
nông nghiệp. Như vậy, việc thu hồi đất nông nghiệp và đất ở trong 5 năm qua đó
tỏc động tới đời sống của 627.495 hộ gia đỡnh, khoảng 950 ngàn lao động và 2,5
triệu người. Trong đó, vùng Đồng Bằng sông Hồng có số hộ bị ảnh hưởng đất lớn
nhất, với khoảng 300 000 hộ; Đông Nam Bộ với khoảng 108 000 hộ. (Molisanet 7-
8-07)
Hội nhập quốc tế sâu rộng hơn có làm gia tăng bất bình đẳng xã hội?
Sau khi gia nhập WTO, quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ ngày một sâu rộng
hơn, chẳng hạn vốn FDI trong 9 tháng đầu năm 2007 đã đạt 9,6 tỷ USD, xấp xỉ năm 2006
và dự kiến sẽ đạt 13 tỷ USD vào cuối năm nay. Điều đó sẽ thúc đẩy kinh tế tăng trưởng
nhanh hơn, với tốc độ tăng trưởng kinh tế 9 tháng đầu năm nay đạt 8,3%, cao nhất trong
10 năm qua. Khi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn tất yếu sẽ làm thay đổi nhiều về mặt
xã hội, trong đó có thể làm gia tăng bất bình đẳng xã hội bởi sự chênh lệch trong đầu tư
FDI giữa các vùng, bởi cơ hội việc làm và thu nhập là khác nhau giữa nhiều nhóm xã hội,
sự khác biệt về quyền lực, vốn xã hội, về vốn vật chất, vốn tài nguyên, vốn tài chính, vốn
con người giữa các nhóm này, tạo ra các cơ hội sinh kế khác nhau giữa họ. Các nhóm
nông dân thiếu đất hay bị mất đất canh tác, bị tổn thương bởi thiên tai, dịch bệnh, hay các
rủi ro cá nhân, đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa, người di cư tự do vào
các đô thị, người nghèo và cận nghèo, người khuyết tật... là các nhóm dễ rơi xuống đáy
của các thang bậc xã hội và lâm vào cảnh bần cùng hơn.
Hiện trạng bất bình đẳng xã hội gia tăng ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc
tế như vậy có một nguyên nhân là do sự tập trung nguồn lực kinh tế, bao gồm cả FDI,
ODA (phát triển CSHT), Nhà nước (ngân sách, các doanh nghiệp nhà nước) và cả khu
vực tư nhân, vào các vùng kinh tế trọng điểm, trong những nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng
nhanh nhằm giảm nguy cơ tụt hậu và trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Mặc dù
Nhà nước đã có nhiều chính sách xã hội (tạo việc làm, cung cấp các dịch vụ xã hội cơ
bản, an sinh xã hội, XĐGN...) để khắc phục tình trạng này, nhưng vẫn không đủ nguồn lực
để hạn chế sự gia tăng hiện tượng bất bình đẳng xã hội.
Những chính sách kinh tế và xã hội có thể làm giảm thiểu hiện tượng bất bình
đẳng xã hội, làm gia tăng cơ hội và mức sống của các nhóm yếu thế, hạn chế thiệt hại bởi
12/23
các rủi ro cho các nhóm dễ bị tổn thương và điều tiết thu nhập của các nhóm giầu có, khá
giả để tăng nguồn lực thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
Câu hỏi thảo luân:
Xu hướng phân cấp gia tăng có làm tăng thêm khoảng cách chênh lệch về phát
triển giữa các vùng giàu và nghèo hay không ? và
Xã hội hóa các dịch vụ xã hội cơ bản có làm gia tăng sự bất bình đẳng xã hội ?
Những giải pháp cơ bản nào làm hạn chế bất bình đẳng xã hội, đặc biệt giữa các
vùng giàu và vùng nghèo, giữa vùng đô thị phát triển và vùng tập trung đồng bào
DTTS và làm giảm thiểu bất bình đẳng nội vùng ?
1.4. Vấn đề việc làm, quan hệ lao động, di cư trong quá trình HNKTQT:
* Vấn đề việc làm trong quá trình HNKTQT:
Giải quyết việc làm đang là một vấn đề cấp thiết của xã hội nhưng cũng là yếu tố
quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, lành mạnh xã hội,
đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân.
Hiện nay, ở khu vực thành thị thường xuyên có khoảng 588 nghìn người thất
nghiệp và trên 33 triệu lao động ở khu vực nông thôn chỉ có việc làm trong khoảng bốn
phần năm thời gian lao động. Hằng năm Việt nam phải giải quyết việc làm cho khoảng
trên 1,5 triệu người, trong đó khoảng hơn 1 triệu việc làm mới.
Một tác động tích cực quan trọng nhất về mặt xã hội của FDI là tạo việc làm và cải
thiện chất lượng nguồn nhân lực.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần quan trọng vào việc giải quyết vấn đề
việc làm và nâng cao chất lượng lao động ở nước ta. Đến nay, đầu tư trực tiếp nước
ngoài đã tạo việc làm trực tiếp cho trên 1 triệu lao động và khoảng 3-4 triệu lao động gián
tiếp, thu hút khoảng 5% số lao động mới hàng năm (trong khoảng trên 1,2 triệu lao động
mới được giải quyết việc làm hàng năm), nếu tính cả lao động gián tiếp có thể đạt khoảng
20%, so với trung bình nhiều nước khoảng 10%, thì Việt Nam đạt loại trung bình khá (7,
2006)... Hàng vạn cán bộ, nhân viên kỹ thuật Việt Nam được nâng cao kỹ năng chuyên
môn hay có thể thay thế nhân viên nước ngoài trong quản lý điều hành sản xuất kinh
doanh, cũng như làm chủ công nghệ hiện đại.
Tuy nhiên cơ hội việc làm được phân bố không đồng đều do FDI tập trung vào
những ngành Việt Nam có ưu thế về lao động và thị trường như dệt may, da giầy, du lịch,
xe máy hoăc những ngành nước ta chưa hay không có ưu thế cạnh tranh về vốn và công
nghệ như khai thác dầu khí, viễn thông, ô tô, điện tử. Tình trạng thiếu lao động trong các
doanh nghiệp FDI tại các khu công nghiệp, các thành phố lớn đang diễn ra, do sự phân bố
không đồng đều FDI , sự cơ cấu lại về kinh tế của các địa phương và trình độ của lực
lượng lao động.
Vấn đề chất lượng nguồn nhân lực đang là một trở ngại lớn trong quá trình phát
triển kinh tế, thu hút đầu tư nuớc ngoài và giải quyết việc làm.
Chiến lược phát triển kinh tế theo định hướng xuất khẩu và thu hút đầu tư nước
ngoài dựa vào lợi thế nhân công rẻ có thể giúp giải quyết vấn đề việc làm trước mắt,
nhưng có thể không phát huy được vai trò trong trung và dài hạn, thậm chí có thể tạo ra
những trở lực cho phát triển.
13/23
Câu hỏi thảo luân:
Những giải pháp cơ bản nào có thể thúc đẩy việc giải quyết vấn đề việc làm trước mắt và
trung, dài hạn ?
* Quan hệ lao động dưới tác động của hội nhập quốc tế:
Một hiện tượng xã hội mới xuất hiện trong những năm Đổi mới và hội nhập quốc
tế: hàng nghìn cuộc đình công đã diễn ra, mà nguyên nhân chủ yếu từ việc giới sử dụng
lao động vi phạm quyền lợi của người lao động được qui định trong Bộ Luật lao động.
” Thực tế trong tổng số hơn 1.500 cuộc đỡnh cụng xảy ra từ năm 1995 đến nay, có tới
90% nguyên nhân do chủ nhân vi phạm pháp luật lao động (càng vi phạm thỡ người sử
dụng lao động càng có lợi)“ (6, 2007)
Những nguyên nhân của các cuộc đình công có thể là:
- Do thiếu hiểu biết về pháp luật, nhất là pháp luật về lao động, về quan hệ lao
động.
- Do khác biệt giữa văn hóa của người quản lý và người lao động, mâu thuẫn
giữa phong cách người quản lý và tập quán của người lao động.
- Do xung đột lợi ích giữa giới chủ và người lao động.
Những qui định về đình công hiện tại trong Luật Lao động không có tính khả thi, do
các qui đinh đình công khá phức tạp, khó thực hiện. Dường như trong việc soạn thảo Luật
Lao động và tổ chức thực thi luật này còn thể hiện sự lưỡng lự giữa chủ trương khuyến
khích thu hút đầu tư, đặc biệt là FDI, dựa trên ưu thế giá nhân công rẻ và việc bảo vệ
quyền lợi người lao động, trong đó thiên về ưu tiên cho việc thu hút đầu tư để phát triển.
Nhìn rộng hơn, các chính sách phát triển nguồn nhân lực dường như chưa thể
hiện một tầm nhìn chiến lược cho vấn đề này. Để đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế
quốc tế, Việt Nam cần sớm có một Chiến lược phát triển hợp lý nguồn nhân lực quốc gia.
Tuy nhiên, một Chiến lược như vậy để bảo đảm sự cho sự phát triển bền vững nguồn
nhân lực lâu dài của đất nước hầu như vẫn chưa sẵn có. Dường như chúng ta vẫn chưa
đầu tư đầy đủ các nguồn lực để có một nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng những
đòi hỏi của quá trình CNH-HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.
Đây không chỉ là mô hình phát triển và tăng trưởng kinh tế mà còn là chính sách đối
với con người. Nếu áp lực việc làm cũng như những đòi hỏi khác của những người lao
động không giảm xuống, cả hiện nay và trong tương lai, thì nhiều hậu quả xã hội như bất
bình đẳng xã hội, mâu thuẫn, xung đột xã hội, tội phạm và tệ nạn xã hội,... có thể sẽ gia
tăng mà tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đến đâu cũng không thể bù đắp nổi những tổn thất
và hệ lụy xã hội nói trên.
Câu hỏi thảo luân:
Vấn đề đặt ra là làm sao có thể phát triển một thị trường lao động ổn định và cả
người lao động cũng như giới sử dụng lao động đều có thể thỏa mãn về quan hệ lao động
giữa họ ? Có thể xây dựng các thể chế pháp lý và dân sự nào để bảo vệ lợi ích của họ
trong quan hệ với giới chủ, trong điều kiện Việt Nam ?
14/23
* Di cư dưới tác động của hội nhập kinh tế quốc tế:
Quá trình hội nhập quốc tế (với sự gia tăng và tập trung nguồn lực FDI, ODA, kiều
hối, xuất khẩu lao động) thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo ra lực hút mạnh mẽ từ các đô
thị, các vùng kinh tế trọng điểm, đã và đang kéo theo dòng người di cư đông đảo vào các
khu vực này. Di cư đang trở thành một “sinh kế” hay một bộ phận quan trọng trong chiến
lược sống của đông đảo người lao động nông thôn.
Khoảng 2,2 triệu người di cư đủ điều kiện đăng ký thường trú (tạm trú liên tục từ 1
năm trở lên và có chỗ ở hợp pháp) tại các thành phố lớn, trong đó chủ yếu là thành phố
Hồ Chí Minh và Hà Nội.
Điều tra di cư Việt Nam năm 2004 cho thấy 89,1% các loại di cư đều có việc làm,
trong đó 98-99% người di cư, với lý do chuyển đến vì việc làm và lý do cải thiện điều kiện
sống, đã có việc làm. Gần một nửa lực lượng di cư hoạt động lao động giản đơn, 27%
hoạt động kinh doanh và nghề thủ công, 10,7% làm các công việc vận hành máy móc,
4,7% là chuyên gia và lãnh đạo các cấp hay 1,3% trồng trọt... Khu vực kinh tế quan trọng
thu hút nam di cư là khu vực tư bản tư nhân, tập thể và nhà nước, kinh tế có vốn nước
ngoài. Còn đối với nữ di cư 45% tham gia khu vực kinh tế cá thể / tiểu chủ và một phần tư
cho khu vực FDI.
Đại đa số người di cư đều đạt mục tiêu kinh tế. Hai phần ba người di cư có thu
nhập cao hơn so với trước khi di cư, 12% cao hơn nhiều và 13% thu nhập không đổi, tỷ
lệ có thu nhập thấp đi rất nhỏ. Riêng nhóm di cư làm trong khu vực FDI, 88,1% có thu
nhập cao hơn và cao hơn nhiều so với trước di cư. Nguồn tiền gửi về của người di cư
đã góp phần quan trọng vào giảm nghèo và phát triển kinh tế ở nông thôn.
Người lao động được pháp luật bảo vệ quyền làm việc cũng như các lợi ích
khác, thông qua hợp đồng lao động. Chỉ có hai phần năm (42%) người di cư có hợp
đồng lao động trong 6 tháng trước thời điểm điều tra năm 2004. Trong khu vực kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài, cũng như khu vực tư bản tư nhân và khu vực nhà nước có tỷ
lệ người di cư được ký hợp đồng lao động cao, với tỷ lệ tương ứng là 86,9%, 59,8%,
93,6%. Trong khi đó khu vực kinh tế cá thể/tiểu chủ, chỉ có 3,5% người di cư đựoc ký
hợp đồng lao động. Trong khu vực kinh tế nước ngoài, 91,8% người di cư được nhận
một số lợi ích từ nơi làm việc như tiền thưởng, tiền làm thêm giờ, tiền ăn giữa ca....
Đa số những người di cư đang làm việc tại các khu đô thị và công nghiệp không
muốn thay đổi công việc hiện tại, chỉ có 13%-21% tuy từng khu vực muốn có sự thay
đổi, mà chủ yếu là vì muốn có thu nhập cao hơn. Trong khu vực có vốn nước ngoài,
những người di cư không muốn thay đổi công việc vì 66,9% hài lòng với công việc, một
phần ba cho rằng có thu nhập tốt.
Tuy nhiên, 45% người di cư vẫn gặp nhiều khó khăn khi chuyển đến và việc thiếu
chỗ ở thích hợp được cho là khó khăn lớn nhất với khoảng ba phần năm người di cư, sau
đó là thiếu điện, nước và việc làm (khoảng một phần năm ở mỗi lĩnh vực). Khoảng 42%
người di cư không có hộ khẩu và một bộ phận quan trọng trong số này gặp phải các khó
khăn phát sinh về vay vốn, tìm kiếm việc làm, đăng ký xe máy, thuê nhà và học hành của
con cái. (8, 2006)
Nếu nhìn nhận nghèo khổ không chỉ là nghèo về thu nhập và chi tiêu, mà còn là
thiếu khả năng tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản, không có đầy đủ và bình đẳng các
cơ hội trong cuộc sống, thiếu tiếng nói... thì một bộ phận lớn người di cư đang là một
nhóm „nghèo mới“ có số lượng ngày càng tăng ở các đô thị. Vấn đề nghèo khổ đô thị sẽ
là vấn đề xã hội có tính cấp thiết ngày càng cao trong quá trình tăng trưởng kinh tế, hội
nhập quốc tế, cùng với sự bùng nổ của các dòng di dân nông thôn vào đô thị.
15/23
Câu hỏi thảo luân:
Vấn đề đặt ra là làm sao điều tiết các dòng di cư như một sự dịch chuyển lực lượng
lao động để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo ở nông thôn và tạo cơ hội bình đẳng
và sự ổn định cuộc sống cho người di cư ở các đô thị và khu CN?
1.5 . Phát triển con người:
Việt Nam đang phát triển trong tiến trình hội nhập và chuyển đổi sang nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN với mục tiêu trọng tâm là vì con người. Phát triển con
ngưòi VN đã đạt được những thành tựu nhất định, song cũng còn không ít vấn đề cần
phải tiếp tục giải quyết.
Trên bình diện quốc gia, các chỉ số phát triển con người trong giai đoạn 1999-2004,
giai đoạn mở rộng hội nhập quốc tế, bao gồm HDI, HPI, GDI đều đã được cải thiện đáng
kể. Các chỉ số cấu thành của HDI, HPI đều được cải thiện. Chỉ số HDI của Việt nam đã
tăng liên tục từ 0,611 năm 1992, lên 0,689 năm 1999 và 0,731 năm 2004. Chỉ số GDP
bình quân đầu người của Việt Nam tăng nhanh nhất 19%, đóng góp 4,3 điểm % và đóng
góp hai phần ba vào tốc độ tăng của HDI.
Bảng 3: Tốc độ tăng HDI, giảm HPI và đóng góp của các chỉ số cấu thành
Chỉ
số
Chỉ số cấu
thành
1999 2004 Tốc độ tăng
HDI/giảm
HPI
Đóng
góp
(điểm%)
Đóng
góp(%)
GDP(PPP) 0,467 0,556 +19,02 4,30 70,54
Tuổi thọ 0,765 0,782 +2,22 0,82 13,49
Giáo dục 0,835 0,855 +2,41 0,97 15,97
HDI
HDI 0,689 0,731 +6,1
P1 9,7 6,3 -35,5 -1,1 0,04
P2 9,7 7,8 -19,6 -0,6 0,02
P3 29,8 21,3 -28,7 -26,9 0.94
HPI
HPI 21,1 15,1 -28,6
P1- % số người không kỳ vọng sống đến 40 tuổi
P2-Tỷ lệ người lớn không biết chữ
P3- Bần cùng về vật chất (trung bình của tỷ lệ người không được tiếp cận với nước sạch và tỷ lệ trẻ
em có cân nhẹ hơn so với độ tuổi)
Nguồn: Viện KHXH Việt Nam (5 , 2006)
16/23
FDI đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế và qua đó tác động tích cực
đến sự gia tăng của HDI. Bên cạnh đó, FDI đã đóng góp lớn vào việc tăng ngân sách nhà
nước (từ 0,2 triệu USD năm 1995 lên trên 1.000 triệu USD năm 2005) và qua đó góp phần
làm tăng chi tiêu cho các lĩnh vực xã hội như giáo dục, y tế, bảo hiểm, XĐGN, ASXH lên
30% tổng chi ngân sách... (7, 2006).
Việc tăng đầu tư về mặt xã hội góp phần làm tăng các chỉ số cấu thành khác của
HDI: tuổi thọ và giáo dục. Đồng thời các hoạt động đầu tư của ODA, sự tăng cường hợp
tác với các tổ chức quốc tế, các quốc gia về y tế (tiêm phòng, trang bị y tế, đào tạo cán
bộ...), phòng chống HIV/AIDS, dân số và KHHGĐ, giáo dục, nước sạch và VSMT... đã góp
phần làm cải thiện tình hình giáo dục và chăm sóc sức khỏe nhân dân, làm tăng các chỉ số
về giáo dục và tuổi thọ.
Ba chỉ số cấu thành của HPI đều được cải thiện trong giai đoạn 1999-2004. Tỷ lệ
bần cùng về vật chất (P3) giảm mạnh nhất 8,5% xuống còn 21,3%. Đó là do giảm mạnh
cả tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng, lẫn tỷ lệ người không được dùng nước sạch.
Mức độ nghèo khổ của Việt nam, qua chỉ số HPI đã giảm từ 21,1% năm 1999 xuống
15,1% năm 2004, khiến cho giảm nghèo trở thành lĩnh vực thành công nổi bật nhất của
Việt Nam trong hơn 2 thập kỷ qua. Hai chỉ số về tỷ lệ người không kỳ vọng sống đến 40
tuổi và tỷ lệ người lớn không biết chữ thì giảm ở mức độ chậm hơn .
Việc giảm mạnh tỷ lệ bần cùng về vật chất là do có sự đóng góp của các hỗ trợ
quốc tế qua các chương trình nước sạch và vệ sinh nông thôn, cũng như các chương
trình chăm sóc y tế đối với trẻ em. Tỷ lệ người dùng nước sạch ở cả nước tăng gấp đôi
trong 10 năm (1993-2002) từ 26,2% lên 48,5% (10, 2003). Riêng tỷ lệ người dùng nước
sạch nông thôn tăng từ 18,1% năm 1993 lên 39,6% năm 2002 và 54% năm 2003. Các
vùng nghèo nhất như vùng miền núi phía Bắc cũng nâng tỷ lệ dùng nước sạch từ 29% lên
48%, Tây Nguyên từ 31% đạt ngưỡng 46%, trong 5 năm 1999-2003. Vốn tài trợ quốc tế
cho chương trình nước sạch vệ sinh nông thôn chiếm 16% tổng vốn của chương trình
(787 tỷ đồng). Ngoài ra, nhiều chương trình tài trợ song phương cũng hướng đến việc
cung cấp nước sạch cho người dân nông thôn và thành thị như các chương trình nước
Phần Lan, Việt Nam – Lucxemburg, Việt Nam-Hà Lan, … Phần vốn ngân sách nhà nước
trong Chương trình NS &VSNT là 18%, do có sự đóng góp ngân sách tăng cao của FDI
(13,2006).
Tuy nhiên tình hình cải thiện các chỉ số về giáo dục và tuổi thọ chỉ đạt ở mức thấp
hơn nhiều (chỉ bằng 1/8) so với chỉ số tăng trưởng kinh tế và đặt ra những vấn đề về tiếp
tục đẩy mạnh chỉ số phát triển con người. HNKTQT ngày càng sâu rộng, mà việc gia nhập
WTO phải đặt y tế và giáo dục là 2 ngành dịch vụ, việc đẩy mạnh xã hội hóa hai lĩnh vực
này liệu có làm giảm đi chỉ số phát triển con người trên 2 khía cạnh giáo dục và tuổi thọ?
Tiến bộ về Giới ở Việt Nam cũng đạt được ở mức nhất định. Năm 2004, chỉ số
phát triển Giới đạt khá cao: 0,73. Các chỉ số cấu thành như chỉ số bình đẳng giới về thu
nhập, về giáo dục, về tuổi thọ đạt mức trên dưới 0,72. Tuy nhiên, chỉ số phát triển giới
chưa tính đến một số khía cạnh như tỷ lệ người lớn chưa biết chữ của nữ cao hơn nam
khá nhiều (10,2% so với 5,4% năm 2004). Việc trao quyền cho phụ nữ còn nhiều hạn chế.
Chỉ số phát triển con người được cải thiện ở tất cả các tỉnh cùng với mức chênh
lệch giữa các tỉnh được thu hẹp. Tốc độ tăng GDP ở các tỉnh có tác động lớn đến chỉ số
phát triển con người của tỉnh và tốc độ này lại phụ thuộc nhiều vào việc cải thiện môi
trường kinh doanh. 10 thứ hạng đầu tiên trong bảng xếp hạng chỉ số HDI cấp tỉnh đều
thuộc về các tỉnh có FDI lớn như Bà Rịa-Vũng Tàu (có FDI lớn về dầu khí, du lịch) thành
phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Bình Dương, Khánh Hòa,
Đồng Nai, Hải Dương. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế có thể làm gia tăng bất bình đẳng,
với một số tỉnh có tốc độ tăng GDP không tương xứng với xếp hạng HDI. Như thế, sự
nghiệp phát triển con người đòi hỏi ở các cấp phải có sự cải thiện môi trường kinh doanh,
17/23
nâng cao năng lực cạnh tranh cấp quốc gia, cấp vùng cũng như cấp tỉnh. Đồng thời phải
chú trọng thực hiện nhiều giải pháp khác nhằm hạn chế sự gia tăng bất bình đẳng, giảm
nghèo ở nhiều khía cạnh cho các nhóm xã hội yếu thế.
Câu hỏi thảo luân:
Cùng với quá trình hội nhập, phải chăng những lợi thế duy trì và làm tăng HDI của
Việt Nam là 2 lĩnh vực giáo dục và y tế đang bị sút giảm ? GDP bình quân đầu người tăng
nhanh tương đối, nhưng lại không đáng kể về số tuyệt đối khi so với các nước trong khu
vực. Vậy đâu là lợi thế mới, cơ hội mới cho việc duy trì và gia tăng HDI của VN trong
những năm sắp tới ?
18/23
MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH:
2.1 - Lựa chọn ưu tiên các mục tiêu phát triển:
Gia nhập WTO là sự đánh dấu một thời kỳ phát triển mới của Việt nam, với kỳ vọng
đạt được nước có vị thế thu nhập trung bình trong vài năm tới (2010). Dù đó là nhiệm vụ
đầy cam go, trở ngại, nhưng Việt nam hoàn toàn có thể đạt được khi giải quyết thành
công những thách thức trên con đường phát triển. Con đường phát triển mới dù đang
rộng mở, nhưng Việt nam sẽ phải lựa chọn một cách khó khăn trong việc đánh đổi các
mục tiêu phát triển. Chẳng hạn, đó là việc giải quyết mâu thuẫn giữa việc hội nhập hoàn
toàn vào nền kinh tế toàn cầu để tận dụng triệt để các cơ hội thị trường và việc phải chịu
nhiều rủi ro hơn trước các biến động thị trường và suy thoái kinh tế đột biến, như các
nước châu A trong cuộc khủng hoảng tài chính 1997. Điều đó cũng có nghĩa là lựa chọn
sự tăng nhanh thu nhập ở các vùng kinh tế trọng điểm và làm gia tăng sự nghèo khổ
tương đối ở các vùng khác, kéo doãng khoảng cách chênh lệch về thu nhập với các nhóm
xã hội khác, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số hay sẽ quyết định các chính sách điều
tiết giảm thiểu hiện tượng phân tầng xã hội. Một câu hỏi có liên quan đến vấn đề này là:
Việt nam đã cần phải hạn chế và hạn chế ở mức độ nào tốc độ tăng trưởng ``nóng`` hiện
nay, để củng cố các mục tiêu xã hội, mục tiêu con người, bảo đảm chất lượng tăng trưởng
và phát triển bền vững đúng như tôn chỉ mục đích của đất nước đã đặt ra từ nhiều thập kỷ
trước đây hay chưa ?
Có thể có nhiều cách tiếp cận để lựa chọn ưu tiên cho các mục tiêu phát triển.
Cách tiếp cận hướng đến sự phát triển với việc chú trọng chất lượng tăng trưởng hơn
là tốc độ và duy trì các thành tựu đã đạt được cần được lưu ý đến. Việc nâng cao hiệu
quả phân bổ các nguồn lực, còn khá hạn hẹp, trong quá trình phát triển cần được chú
trọng đầu tiên.
Quan điểm về „an dân“, về „công bằng xã hội“ chí ít phải được đặt ngang bằng, thậm
chí cần ưu tiên hơn so với quan điểm „thúc đẩy tăng trưởng kinh tế“, mà các chính sách
chỉ là những phương tiện thực hiện các quan điểm này.. Điều đó là cơ sở để thực hiện
định hướng XHCN trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta. Do vậy,
quan điểm trên cần có sự nhất trí cao trong việc hoạch định các chính sách, soạn thảo các
văn bản pháp qui và tổ chức thực hiện, trong toàn bộ hệ thống chính trị. Sự thiên lệch theo
hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong quá trình hoạch định hay tổ chức thực hiện
chính sách có thể tạo ra một bộ phận lớn các nhóm không được hưởng lợi ích công bằng
của tăng trưởng, làm gia tăng quá mức hiện tượng phân tầng xã hội (bất bình đẳng xã
hội), có thể dẫn đến việc hình thành những hiện tượng tâm lý xã hội bất lợi và tình trạng
bất ổn xã hội không mong muốn. Từ đó có thể kiềm chế trở lại hay kéo lùi quá trình tăng
trưởng.
Bên cạnh đó cần đẩy mạnh tính minh bạch, dân chủ và trách nhiệm giải trình của
các cơ quan nhà nước. Các chính sách về quản lý bền vững môi trường và tài nguyên
thiên nhiên cũng cần được chú trọng để đảm bảo quá trình phát triển bền vững cả về
kinh tế, xã hội và môi trường.
Việc phân tích những tác động xã hội tích cực và tiêu cực, trực tiếp và gián tiếp, đa
dạng và phức hợp của quá trình HNKTQT, gia nhập WTO cho thấy cần lựa chọn một số
ưu tiên trên con đường phát triển tiếp theo để nâng cao chất lượng tăng trưởng và bảo
đảm sự phát triển bền vững. Một số ưu tiên đó có thể là:
- Tiếp tục đổi mới thể chế và nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước
phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế, biến đổi xã hội và với điều kiện của một
nền kinh tế thị trường.
19/23
- Xây dựng hệ thống an sinh xã hội toàn dân phù hợp với quá trình chuyển đổi
nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và quá trình
HNKTQT.
- Xã hội hóa các dịch vụ xã hội cơ bản, nhưng đảm bảo việc tiếp cận dễ dàng đối
với các nhóm xã hội yếu thế.
2.2 Cần tiếp tục đổi mới thể chế và nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý
nhà nước phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế, biến đổi xã hội và
với điều kiện của một nền kinh tế thị trường.
Những lĩnh vực thể chế cần được tập trung đổi mới là những lĩnh vực Việt nam còn
yếu kém so với khu vực cũng như chưa đáp ứng được các đòi hỏi của nền kinh tế thị
trường và của HNKTQT như: trong khu vực tài chính, lao động và an sinh xã hội, tính
minh bạch và chống tham nhũng. Những chính sách được nêu trong mục 2.1 như chính
sách đất đai, đền bù, GPMB, luật lao động về đình công, thương lượng tập thể, luật cư
trú... cần được điều chỉnh để điều hòa được lợi ích của tất cả các bên có liên quan, không
thiên lệch theo hướng khuyến khích đầu tư và tăng trưởng và tổ chức thực hiện, giám sát
việc thực hiện một cách nghiêm minh, nhằm đảm bảo công bằng xã hội. Mặt khác khung
pháp luật cũng cần được xây dựng không chỉ phản ánh quá trình chuyển đổi nền kinh tế,
mà còn phải phản ánh mối quan hệ đang thay đổi giữa nhà nước và xã hội, trong đó bao
gồm cả khuôn khổ pháp luật cho các tổ chức xã hội dân sự để họ tham gia vào việc cung
cấp các dịch vụ và đảm bảo dân chủ ở cơ sở. Việc tăng cường tính thực thi và sự nhất
quán của các văn bản pháp luật cũng cần được chú ý. Việc tạo điều kiện dễ dàng để các
nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương có thể tiếp cận với các hỗ trợ pháp lý là một hướng cải
cách tư pháp.
Việc nâng cao hiệu quả của bộ máy nhà nước gắn liền với việc Cải cách hành chính
công, trong đó cần tập trung vào tái cơ cấu tổ chức theo hướng đơn giản hóa và làm rõ
chức năng, đơn giản hóa thủ tục hành chính, thực hiện chính phủ điện tử, cải cách quản lý
và đào tạo cán bộ, công chức, nâng cao trách nhiệm và đạo đức công chức, cải cách tiền
lương, phân bổ ngân sách theo kết quả,.... Việc nâng cao trách nhiệm giải trình của các
cơ quan nhà nước, vai trò phản biện xã hội, giám sát xã hội của các tổ chức xã hội dân sự
và tăng cường sự tham gia của cộng đồng là rất quan trọng và nên thể chế hóa hoạt động
trưng cầu dân ý.
2.3 - Xây dựng hệ thống an sinh xã hội toàn dân phù hợp với quá trình
chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN và quá trình HNKTQT
Giảm nghèo là một thành tựu đầy ấn tượng của Việt nam trong giai đoạn vừa qua,
nhưng tình trạng nghèo ngày càng tập trung vào nhóm dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, quá
trình HNKTQT, phát triển nền kinh tế thị trường, tăng trưởng kinh tế cao, đẩy mạnh đô thị
hóa, CNH đang làm hình thành những nhóm nghèo mới, những nhóm nghèo “cơ cấu”, tạo
nên những cơn sốc rủi ro, tổn thương cho một bộ phận xã hội đông đảo như phá sản,
thất nghiệp, mất việc làm, tai nạn lao động, mất đất sản xuất, biến động giá cả thị trường,
cũng như các tổn thương về sức khỏe, mất lao động trụ cột là tai họa nghiêm trọng cho hộ
gia đình. Sự suy thoái môi trường toàn cầu cũng như ở Việt nam đang làm gia tăng những
thiên tai, dịch bệnh có tác động trên diện rộng về kinh tế, xã hội, môi trường. Tất cả những
điều đó làm cho việc xây dựng một hệ thống an sinh xã hội có tác dụng giảm thiểu rủi ro
cho toàn dân, cũng như cho các nhóm xã hội yếu thế, dễ bị tổn thương và phù hợp với
quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và
qúa trình HNKTQT là hết sức cần thiết.
20/23
Đối với các dân tộc thiểu số, cần tiếp tục hoàn thiện các chương trình mục tiêu quốc
gia, dù đã có nhiều kết quả tốt, nhưng có hiệu quả khác nhau, theo hướng phù hợp với
đặc thù của các dân tộc thiểu số ở các vùng. Những chính sách về giao rừng, giao đất sản
xuất, khuyến nông, khuyến lâm, thông tin thị trường... phù hợp với đặc điểm dân tộc thiểu
số, đặc điểm địa phương, nhằm đảm bảo sinh kế bền vững cho họ là đặc biệt quan trọng.
Thiên tai, dịch bệnh, giá cả thị trường biến động là những thảm họa ngày càng
nghiêm trọng và mở rộng đối tượng chịu tác động. Hàng năm Việt nam có khoảng trên 1
triệu người cần cứu trợ khẩn cấp vì thiên tai. Những biến động giá cả thị trường, đặc biệt
của những hàng hóa chính yếu, trong quá trình HNKTQT cũng như phát triển nền kinh tế
thị trường, làm cho những nông dân sạt nghiệp, lâm cảnh nợ nần như các mía đường, cà
phê, điều, thủy sản... Dịch bệnh như cúm gia cầm, lở mồm long móng, tai xanh ở gia
súc... cũng làm nhiều vạn hộ lao đao. Việc hình thành và phát triển hệ thống bảo hiểm sản
xuất đang trở nên hết sức cấp thiết, nhưng cũng đầy khó khăn.
Việc xây dựng hệ thống BHXH toàn dân là cần thiết theo hướng đa dạng hóa hình
thức bảo hiểm, mở rộng sang khu vực kinh tế không chính thức. Trong bối cảnh đẩy
nhanh CNH-HĐH, đô thị hóa làm tăng mạnh làn sóng di cư và sự gia tăng mô hình gia
đình hạt nhân, thì việc mở rộng BHXH sang khu vực kinh tế không chính thức lại càng cần
thiết. Cần thiết kế lại hệ thống lương hưu nhằm khuyến khích người lao động đóng trong
nhiều năm và khai đúng thu nhập thực tế. Nên có chính sách trợ cấp cho người nghèo và
cận nghèo ở khu vực phi chính thức tham gia đóng BHXH tự nguyện. Do cấu trúc dân số
trẻ và sự mở rộng khu vực làm công ăn lương trong quá trình phát triển kinh tế, nên quĩ
BHXH sẽ có dự trữ lớn và vì thế cần phải có chính sách quản lý chặt chẽ và hiệu quả
nguồn lực này. Việc xây dựng mã số BHXH cho các cá nhân có thể giúp sớm xây dựng hệ
thống BHXH toàn dân và giải quyết nhiều khó khăn khác về BHYT, di chuyển lao động và
nơi cư trú, nơi nhận BHXH ...
Về thị trường lao động, cần sớm tổ chức tốt việc thực hiện trợ cấp thất nghiệp, nhằm
chống đỡ các rủi ro của biến động kinh tế cho người lao động, cũng như việc xây dựng
một quĩ an sinh xã hội và chế độ trợ cấp thích hợp dành cho lao động dôi dư trong các
DNNN trong quá trình sắp xếp lại khu vực kinh tế này, đặc biệt là lao động ở các nông
lâm trường. Kinh nghiệm của việc giải quyết l20.000 lao động dôi dư trong các DNNN vừa
qua với việc ngân sách chi ra 300 triệu USD, đã được thực hiện khá tốt, và cần được phát
huy. Việc tạo điều kiện để duy trì khu vực kinh tế không chính thức ở nông thôn và thành
thị như một công cụ cần thiết để tạo việc làm, chống đỡ các rủi ro cũng cần được chú ý.
Xây dựng cơ chế khuyến khích và tạo điều kiện cho nhóm người tàn tật (khoảng 5 triệu ở
Việt nam) tham gia vào thị trường lao động và hòa nhập xã hội. Cần sớm xây dựng một
cơ chế thương lượng tập thể phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện đại.
2.4. Xã hội hóa các dịch vụ xã hội cơ bản, nhưng đảm bảo việc tiếp cận dễ
dàng đối với các nhóm xã hội yếu thế.
Yêu cầu của việc gia nhập tổ chức WTO là giáo dục, y tế được xem là các ngành kinh
tế dịch vụ. Bên cạnh đó như cầu xã hội và sự phát triển kinh tế đang đòi hởi phải nâng cao
chất lượng các lĩnh vực quan trọng này, đặc biệt khi đất nước đang vươn lên một nước có
vị thế thu nhập trung bình. Xã hội hóa là con đường phát triển và nâng cao chất lượng các
dịch vụ xã hội cơ bản. Tuy nhiên, khi thực hiện xã hội hóa các dịch vụ xã hội cơ bản, gánh
nặng chi phí sẽ ngày càng tăng quá mức chịu đựng của các nhóm xã hội yếu thế. Đây là
một mâu thuẫn phải xử lý và giải quyết phù hợp với đặc thù của từng lĩnh vực dịch vụ,
cũng như của từng loại đối tượng yếu thế.
21/23
*Về xã hội hóa giáo dục:
Cần đảm bảo miễn phí học tập đối với các cấp phổ cập giáo dục tại các trường
công lập, đồng thời khuyến khích phát triển hệ thống giáo dục tư nhân.
Để nâng cao chất lượng giáo dục nên thực hiện tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả hoạt
động của ngành giáo dục, đồng thời mở rộng việc áp dụng bắt buộc chế độ học ngày 2
buổi ở cấp tiểu học và dần dần sang cấp THCS. Việc áp dụng bắt buộc chế độ học ngày 2
buổi vừa khắc phục điểm yếu của giáo dục Việt nam là giờ giảng dạy thấp, góp phần nâng
cao chất lượng học tập, vừa giảm được chi phí đóng góp của các hộ gia đình nghèo (chế
độ học bắt buộc 1 buổi thì học sinh phải đóng góp chi phí cho buổi học thứ hai và đó là
khoản chi phí lớn đối với hộ nghèo), giảm được tình trạng bất bình đẳng trong việc tiếp
cận giáo dục. Tuy nhiên chế độ học 2 buổi/ ngày sẽ buộc phải phân bố lại kinh phí giáo
dục, trong đó phải tăng chi cho xây dựng cơ sở trường, lớp. Hiện nay việc thực hiện chế
độ bắt buộc này có thuận lợi là xu hướng số trẻ em trong độ tuổi đi học ngày càng giảm
nhanh. Bên cạnh đó cần tập trung hỗ trợ cho trẻ em không được đi học, trong đó có trẻ em
dân tộc thiểu số, trẻ em nghèo, trẻ em không có hộ khẩu thường trú tại các đô thị, trẻ em
khuyết tật. Cần chú ý thực hiện tiêu chuẩn xây dựng trường học đáp ứng yêu cầu của trẻ
em khuyết tật, cung cấp các thiết bị hỗ trợ, đào tạo giáo viên phù hợp với các nhóm trẻ em
khuyết tật.
Đối với giáo dục đại học và dạy nghề, việc nâng cao chất lượng đào tạo và sự phù
hợp với nhu cầu của thị trường lao động, cần có sự tham gia của khu vực ngoài công lập
và tăng tính tự chủ của các trường đại học công lập. Việc tăng cường tính tự chủ, cần thay
đổi cơ chế khuyến khích và công tác điều hành ở các trường đại học công lập, gần giống
như sự thay đổi ở các DNNN. Nên liên kết giữa các doanh nghiệp và các trường đại học
bằng các hình thức khác nhau nhằm tăng thu tài chính cho các trường, đồng thời nhà
nước cần tiếp tục duy trì kinh phí nghiên cứu, phòng thí nghiệm, thư viện, và các khoa
kiến thức đại cương, hay các ngành khoa học cơ bản. Nên xây dựng cơ chế khuyến khích
các nhà khoa học nước ngoài và việt kiều đóng góp cho đất nước, các trường đại học,
dạy nghề nước ngoài đầu tư vào Việt nam.
Việc tăng thu học phí sẽ là một nguồn lực quan trọng của giáo dục đại học và dạy
nghề. Cần xóa bỏ mọi loại phí ngoài học phí. Nhà nước cần có cơ chế học bổng, tín dụng
ưu đãi cho học sinh nghèo, như Thủ tuớng chính phủ đã ban hành các quyết định có liên
quan về vấn đề này. Việc tổ chức thực thi và đánh giá nhằm điều chỉnh các qui định để
đảm bảo hỗ trợ thực sự cho học sinh sinh viên nghèo có thể học tập là việc làm cần thiết.
*Về xã hội hóa y tế:
Dù đạt được những thành tựu ấn tượng trong việc thực hiện các mục tiêu thiên kỷ,
cũng như làm gia tăng chỉ số phát triển con người, hiện tượng phân tầng xã hội (bất bình
đẳng xã hội) trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe đang có xu hướng ngày càng tăng. Các
hoạt động miễn giảm chi phí y tế, chưa thực sự bảo vệ được người nghèo. Dù chính phủ
đã tăng chi cho cho y tế từ 5% ngân sách năm 2005 lên 8% ngân sách năm 2008, nhưng
do chi phí y tế ngày càng tăng cao bởi những thay đổi từ nhu cầu xã hội, cơ cấu bệnh tật
và dân số già đi, nên ngành y tế sẽ cần nhiều nguồn lực hơn nữa. Xã hội hóa ngành y tế
là con đường tất yếu để cung cấp thêm nguồn lực cho dịch vụ xã hội quan trọng này.
Cần có chiến lược mở rộng từng bước hệ thống BHYT cho toàn dân và chuyển
dịch việc tài trợ cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe từ cung sang cầu.
Khó khăn hiện nay là xác định mức phí hợp lý cho chương trình BHYT. Nếu tăng
phí cao để cân đối tài chính, chuyển gánh nặng cho người sử dụng lao động và người lao
động, có thể sẽ làm mất đi động lục chính thức hóa việc làm và sẽ dẫn đến giảm tỷ lệ
tham gia BHXH. Nên khảo sát nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế của các nhóm dân cư khác
22/23
nhau, sự thay đổi nhu cầu khi tham gia BHYT, chi phí thực tế của các dịch vụ và dự báo
xu hướng chi cho y tế để thiết kế chương trình BHYT cho phù hợp. Cần xây dựng cơ chế
thanh toán dịch vụ khuyến khích tiết kiệm chi phí, nhưng đảm bảo việc điều trị đầy đủ theo
bệnh lý. Nên xây dựng cơ chế đánh giá, phản hồi của người tiêu dùng dịch vụ, nhằm bổ
trợ cho việc theo dõi về chuyên môn. Xây dựng cơ chế để BHXH thành nhà mua sỉ trọn
gói BHYT, tạo sự cạnh tranh cung cấp dịch vụ y tế.
Bên cạnh đó, việc mở rộng diện tham gia chương trình BHYT tự nguyện phải có
sự tham gia rộng rãi của các tổ chức xã hội như Hội nông dân, Hội phụ nữ..., nhằm đảm
bảo khả năng tài chính của chương trình. Nhà nước cần tiếp tục cung cấp kinh phí chăm
sóc sức khỏe cho đối tượng nghèo, cận nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, cũng như phát
triển hệ thống y tế dự phòng ở các địa phương.
Cần nghiên cứu xây dựng quĩ y tế và cơ chế đối phó với các thảm họa ngày càng
có nguy cơ cao.
23/23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. WB. Báo cáo phát triển Việt nam 2007. 12/2006
2. Vũ Tuấn Anh-Nguyễn Xuân Mai. Những biến đổi kinh tế-xã hội của hộ gia đình.
NXBKHXH, 2007-10-09
3. Viện KHXH Việt Nam. Báo cáo cập nhập nghèo 2006. Nghèo và giảm nghèo ở
Việt nam giai đoạn 1993-2004. NXB CTQG. Hà Nội. 2007.
4. Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010. Hà Nội. 7/2006
5. Viện KHXH Việt Nam. Phát triển con người Việt nam 1999-2004. Những thay
đổi và xu hướng chủ yếu. NXBCTQG. Hà Nội. 2006
6. Vũ Quang Việt. Vào WTO - đỡnh cụng cú tăng? TBKTSG 1-2007
7. Viện Nghiên cứu QLKT TW. Báo cáo đánh giá chính sách khuyến khích đầu tư
trực tiếp nước ngoài từ góc độ phát triển bền vững. Hà Nội. 2006
8. TCTK, UNFPA. Điều tra di cư Việt nam năm 2004: Chất lượng cuộc sống của
người di cư.
9. Viện Nghiên cứu QLKT TW. Tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam. Hà Nội. 2006
10. NHTG. Nghèo. Hà Nội. 2003
11. BCĐTW Chương trình 135. Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình 135
giai đoạn 1999-2004. Hà Nội. 2005
12. Tình hình vận động và sử dụng ODA thời kỳ 2001-2005 và những bài học
rút ra. HN, 2006.
13. Viện Nghiên cứu QLKT TW. Đầu tư nước ngoài tại Việt nam hậu WTO.
2007. MPI.Gov.Vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tác động xã hội của hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO ở Việt Nam.pdf