Đề tài Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

TBH có vai trò quan trọng với ngành bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. TBH ở Việt Nam tuy mới hình thành với một đại diện chính thức duy nhất là VINARE đã có những thành quả đáng kể là san sẻ rủi ro, tăng mức giữ lại của thị trường nội địa và là cầu nối cho doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và thị trường bảo hiểm, TBH quốc tế. Trong những gần đây, kinh tế Việt Nam đang có những chuyển biến nhanh và tích cực, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đang có những bước tăng trưởng ấn tượng, hoạt động TBH vì vậy có được cơ hội để phát triển và chứng tỏ hơn nữa vai trò của mình với ngành bảo hiểm và cả nền kinh tế. Nhưng bên cạnh những dấu hiệu khả quan của thời kỳ đầu hội nhập, ngành đang phải đối mặt với những thách thức thật sự đó chính là áp lực cạnh tranh với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và cả các doanh nghiệp ở nước ngoài khai thác thị trường bảo hiểm trong nước mà cả hai lực lượng này đều có những thế mạnh vượt trội hơn so với doanh nghiệp bảo hiểm, TBH Việt Nam về cả năng lực tài chính và trình độ nghiệp vụ. TBH Việt Nam với một đại diện chính thức là VINARE chắc chắn phải nỗ lực rất nhiề u mới có thể giữ vững được thị phần và tăng mức giữ lại của bảo hiểm trong nước.

pdf92 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2961 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các doanh nghiệp trong nước và tính chất phức tạp của rủi ro cháy trong những năm gần đây. Phương thức TBH được áp dụng chủ yếu trong nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ và mọi rủi ro tài sản là phương thức TBH cố định mức dôi, các nhà bảo hiểm gốc thường cũng ký thêm các hợp đồng TBH vượt mức bồi thường để đảm bảo cho các tổn thất cháy nổ xảy ra có liên quan đến thiên tai, mang tính thảm họa. 2.2.4 Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu/ Hull and P&I Insurance  Thị trường bảo hiểm gốc. Năm 2006, doanh thu phí bảo hiểm gốc đạt 621,76 tỷ đồng (tăng 18% so với năm 2005) chiếm 10% tổng doanh thu toàn thị trường. Cùng với sự phát triển của ngành hàng hải và đóng tàu Việt Nam trong những năm qua, kinh doanh bảo hiểm thân tàu và TNDS của chủ tàu cũng tăng trưởng tốt nhưng chưa tương xứng. Giá trị bảo hiểm thân tàu tăng từ 50 đến 150% (tùy từng đội tàu) nhưng phí bảo hiểm chỉ tăng có 15 – 20%. Nguyên nhân cũng do tình hình cạnh tranh quyết liệt, các doanh nghiệp bảo hiểm đua nhau hạ phí. Tỷ lệ tổn thất ở nghiệp vụ này thuộc loại cao nhất trong toàn ngành. Tỷ lệ tổn thất năm 2006 là 53,9%; năm 2005 là 62,88% và năm 2004 là 46,31%. Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 65 Với các doanh nghiệp con ít kinh nghiệm trên thị trường, tỷ lệ chi bồi thường còn cao hơn rất nhiều như trường hợp Bảo hiểm Bưu điện (PTI): 115%; Bảo Long 105% (số liệu năm 2005 - Hiệp hội bảo hiểm). Trước tình hình kinh doanh diễn biến xấu như vậy, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng như các hiệp hội bảo hiểm tương hỗ chắc chắn sẽ gây sức ép buộc tăng phí bảo hiểm trong những năm tới.  TBH thân tàu và TNDS của chủ tàu Tỷ lệ nhượng TBH ra nước ngoài ở nghiệp vụ này vào khoảng 36,87% - tương đối cao và ổn định trong 5 năm trở lại đây. Năm 2006, hoạt động kinh doanh nhượng tái ra nước ngoài ở nghiệp vụ này đạt 229,23 tỷ đồng - chiếm 15% toàn thị trường (trong khi bảo hiểm gốc chỉ chiếm 10% - xem biểu đồ 2.6). Phương thức TBH thường được áp dụng với nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu là TBH vượt mức bồi thường, với những đối tác TBH có tính chất chia sẻ rủi ro thì TBH số thành vẫn được áp dụng. Còn bảo hiểm TNDS của chủ tàu vẫn được thực hiện với các hội bảo hiểm tương hỗ như West of England, London Pool (Anh), Gard (Nauy), thực chất việc “TBH” cho các hội này mang tính chất của đồng bảo hiểm quốc tế hơn là TBH vì các doanh nghiệp bảo hiểm gốc không nhận được hoa hồng khi chuyển phí nhượng tái. Tỷ lệ tái cho các hội bảo hiểm tương hỗ là 52%, còn lại các công ty bảo hiểm gốc có thế tiếp tục nhượng cho các doanh nghiệp kinh doanh TBH khác và nhận hoa hồng bình thường. 2.2.5 Bảo hiểm xây dựng lắp đặt.  Thị trường bảo hiểm gốc Bảo hiểm xây dựng lắp đặt năm 2006 đạt doanh thu hơn 670 tỷ đồng (xem bảng 2.4) (tăng 36,5% so với năm 2005) đóng góp 11% tổn phí bảo hiểm toàn thị trường phi nhân thọ. Tốc độ tăng trưởng này vẫn được giữ vững Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 66 trong những năm qua và được dự báo sẽ còn tiếp tục phát huy trong những năm tới do tốc độ giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và viện trợ phát triển (ODA) vẫn ổn định. Đối tượng của bảo hiểm xây dựng, lắp đặt không chỉ có các công trình trọng điểm quốc gia, mà các dự án khu công nghiệp, khu thương mại, đô thị do khu vực tư nhân đầu tư cũng ngày càng nhiều. Tỷ lệ bồi thường ở mảng nghiệp vụ này năm 2006 là 7,24%; năm 2005 là 12,09% và năm 2004 là 11,14%. Với tỷ lệ bồi thường tương đối thấp như vậy, lẽ ra kết quả kinh doanh ở bảo hiểm xây dựng – lắp dặt là khá khả quan. Nhưng, vấn đề mà ngành gặp phải ở nghiệp vụ này chính là tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Các đơn bảo hiểm cho các dự án lớn thường phải đấu thầu, và các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm gốc thì rất “chiều” khách hàng vì số phí bảo hiểm thường là rất lớn; cũng chính vì vậy mà việc nhiều doanh nghiệp tự ý tăng hoa hồng, trả hoa hồng dưới nhiều hình thức khác nhau, hạ phí bảo hiểm, mở rộng phạm vi bảo hiểm hết mức. Việc kinh doanh bảo hiểm xây dựng, lắp đặt vì vậy ngày càng trở nên khó khăn và tốn kém.  TBH xây dựng lắp đặt Tỷ lệ nhượng TBH ra nước ngoài chiếm khoảng 42%, với tỷ lệ tái cao và doanh thu gốc cũng tương đối lớn, nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng – lắp đặt hiện là mảng nghiệp vụ có lượng phí bảo hiểm tái ra nước ngoài lớn nhất thị trường (chiếm 20% tổng phí nhượng đi). Nguyên nhân của việc tỷ lệ tái đi nhiều như vậy ngoài việc khả năng tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm gốc còn hạn chế và cũng phải kể đến việc TBH chỉ định được áp dụng nhiều trong các hợp đồng bảo hiểm xây dựng – lắp đặt. Khi đấu thầu một đơn bảo hiểm cho một công trình có vốn đầu tư nước ngoài, chủ đầu tư có thể yêu cầu các công ty bảo hiểm tham gia phải tái đi một tỷ lệ nhất định cho bên nhận tái nước ngoài nào đó vì họ tin tưởng vào khả năng tài chính của đối tác nước ngoài, hoặc đối tác đó là đối tác chiến lược của chủ đầu tư. Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 67 Phương tức TBH thường được sử dụng cho các đơn bảo hiểm xây dựng – lắp đặt thường là TBH tạm thời, theo tỷ lệ bởi mỗi công trình có đặc thù riêng, tình hình rủi ro khác nhau, và thời gian cũng khác nhau, các bên tham gia bảo hiểm gốc thường phải ngồi lại cùng với nhà TBH để cùng thống nhất các điều khoản, mức phí. Việc đàm phán nhiều như vậy là khá tốn kém nhưng xứng đáng với các đơn bảo hiểm có giá trị lớn và thời gian bảo hiểm dài như bảo hiểm xây dựng – lắp đặt. 2.2.6 Bảo hiểm dầu khí/ Oil & gas Insurance.  Thị trường bảo hiểm gốc Xét về doanh thu gốc, bảo hiểm dầu khí chiếm khoảng 6% tổng doanh thu bảo hiểm phi nhân thọ. Thị trường bảo hiểm dầu khí có nhiều biến động trong vòng 5 năm qua, sau năm tăng trưởng 2002 (tăng 78%), toàn thị trường chứng kiến 3 năm ảm đạm sau đó: doanh thu sụt giảm, số đơn bảo hiểm mới hầu như không tăng thêm. Đến năm 2006, tình hình lại khởi sắc trở lại với mức tăng trưởng 76%. Xu hướng này vẫn tiếp tục được giữ vững trong năm 2007, chỉ riêng 2 quý đầu năm, doanh thu bảo hiểm ở nghiệp vụ bảo hiểm dầu khí đã đạt 409,71 tỷ đồng (trong khi doanh thu của cả năm 2006 mới đạt 395,23 tỷ đồng). Nguyên nhân thúc đẩy tăng trưởng của nghiệp vụ bảo hiểm dầu khí trong hai năm qua là nhờ các dự án xây dựng đường ống dẫn dầu, giếng dầu và các dự án khai thác thăm dò đang được gấp rút triển khai tại nhiều nơi dọc đường bờ biển. Những dự án lớn có thể kể tên là: dự án đường ống dẫn dầu Nam Côn Sơn của, dự án khu khai thác Cửu Long JOC, giếng khoan ngoài khơi của BP; các dự án thăm dò khai thác của các nhà thầu nước ngoài như PIDC, VRJ, Idemitsu, Premier Oil... Tổn thất trong ngành dầu khí không nhiều, tỷ lệ bồi thường trên phí bảo hiểm gốc trong năm 2004, 2005 và 2006 lần lượt là: 1,24%; 5,18% và 21,91%. Đầu năm 2007 chưa có vụ tổn thất nào đáng kể xảy ra với ngành dầu khí, tính đến hết quý 2, số tiền bồi thường thuộc trách nhiệm bảo hiểm mới Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 68 chiếm 0,11% số tiền bảo hiểm gốc. Bảo hiểm dầu khí cũng như bảo hiểm hàng không, là lĩnh vực mang lại không ít lợi nhuận cho các nhà kinh doanh bảo hiểm.  TBH dầu khí Tỷ lệ TBH ra nước ngoài ở nghiệp vụ bảo hiểm dầu khí từ trước đến nay vẫn là cao nhất trong số các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ. Năm 2006, trong số 395,23 tỷ đồng phí bảo hiểm gốc, các doanh nghiệp bảo hiểm đã phải tái đi 388,35 tỷ đồng (tương đương 98%) trong đó các doanh nghiệp trong nước chỉ nhận tái được 28,68% số còn lại tái ra thị trường bảo hiểm quốc tế. Tổng phí nhượng tái ra nước ngoài của bảo hiểm dầu khí vào khoảng 18% phí nhượng tái ra nước ngoài của toàn thị trường – tương đương với phí nhượng tái của nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ và mọi rủi ro tài sản là loại hình nghiệp vụ có doanh thu gốc gần gấp rưỡi. Phương thức TBH được sử dụng trong nghiệp vụ TBH dầu khí tương tự như bảo hiểm xây dựng lắp đặt chủ yếu là đồng bảo hiểm kết hợp TBH tạm thời. Kết thúc chương II, khóa luận đã trình bày xong về thực tiễn việc áp dụng TBH trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam, những nhận định tóm tắt nhất có thể thấy là: thị trường bảo hiểm gốc và tái bảo hiểm những năm gần đây đang phát triển nhanh về qui mô toàn thị trường cũng như số lượng các doanh nghiệp tham gia; dù còn một số tồn tại mà hiện nóng bỏng nhất là vấn đề cạnh tranh nhưng dự đoán đà tăng trưởng của thị trường vẫn còn duy trì trong ít nhất vài năm tới; TBH hiện đang được áp dụng rộng rãi ở nhiều loại nghiệp vụ khác nhau và tỏ ra là một phương pháp hữu hiệu để tăng khả năng nhận bảo hiểm và san sẻ rủi ro của các nhà bảo hiểm gốc trong nước; tuy vậy thị trường TBH Việt Nam vẫn tập trung vào nhượng TBH là chính, chỉ có duy nhất một công ty Việt Nam hoạt động chuyên nghiệp trong lĩnh vực nhận TBH, nếu so sánh với thị trường thế giới thì chúng ta còn thua Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 69 kém khá xa, nhưng sau tất cả những thành tựu mà chúng ta đạt được cũng là rất đáng khích lệ với một thị trường TBH mới có hơn chục năm hoạt động. Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 70 CHƢƠNG III: NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC VỚI THỊ TRƢỜNG TBH TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP Bắt đầu từ khi chính thức trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nước ta đang bước những bước sâu hơn vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập là xu thế tất yếu và không loại trừ một ngành sản xuất dịch vụ nào. Nó mang lại cho những doanh nghiệp những cơ hội mới nhưng cũng buộc họ phải đối mặt với những thách thức thật sự. Ngành bảo hiểm cũng không nằm ngoài xu thế đó. I. CAM KẾT CỦA VIỆT NAM VỀ MỞ CỬA THI TRƢỜNG TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP 1. Cam kết khi gia nhập WTO  Cam kết cung cấp dịch vụ qua biên giới Theo biểu cam kết cụ thể về dịch vụ của Ban công tác về việc gia nhập WTO của Việt Nam, sau 5 năm gia nhập, doanh nghiệp nước ngoài sẽ được thành lập các chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam. Tuy nhiên, ngay từ thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, các hãng bảo hiểm nước ngoài đã được tham gia thị trường Việt Nam qua phương thức "cung cấp qua biên giới". Tức là doanh nghiệp bảo hiểm ở một nước thành viên WTO được cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho các cá nhân, và pháp nhân Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam. Các dịch vụ này bao gồm: dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, được cung cấp dịch vụ TBH và môi giới TBH, dịch vụ tư vấn, tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường.  Cam kết hiện diện thương mại và điều kiện kinh doanh bắt buộc Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 71 Việt Nam cam kết không hạn chế việc thành lập pháp nhân của công ty bảo hiểm nước ngoài, ngoại trừ trường hợp dịch vụ bảo hiểm bắt buộc sẽ chỉ mở cửa cho công ty 100% vốn nước ngoài vào ngày 1/1/2008. Các loại hình bảo hiểm bắt buộc bao gồm: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm bắt buộc người kinh doanh vận tải hành khách và hàng dễ cháy nổ trên đường thủy nội địa, bảo hiểm cháy nổ, bên cạnh đó là các loại bảo hiểm người Việt Nam du lịch lữ hành quốc tế, xây dựng – lắp đặt, người sử dụng lao động trong hoạt động xây dựng, công trình dầu khí, công trình dễ gây nguy hiểm đến an ninh cộng đồng và môi trường đang chuẩn bị dự thảo ban hành và nếu có sẽ được thực hiện vào cuối năm 2007. Việt Nam cho phép công ty nước ngoài thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO và không cho phép thành lập chi nhánh bảo hiểm nhân thọ.  Cam kết xóa bỏ tỷ lệ TBH bắt buộc sau 1 năm Hiện nay, các doanh nghiệp bảo hiểm khi thực hiện TBH ra nước ngoài đều phải thực hiện TBH bắt buộc tối thiểu 20% cho Tổng công ty cổ phần TBH Quốc gia Việt Nam (VINARE) nhưng sau 1 năm gia nhập WTO, quy định này sẽ bị bãi bỏ. 2 Cam kết tại hiệp định thƣơng mại song phƣơng Việt – Mỹ (Phụ lục G) Hiệp định thương mại Việt – Mỹ 2001 cũng đã có những qui định về mở cửa thị trường tài chính trong đó có mở cửa thị trường bảo hiểm với các doanh nghiệp Mỹ có vốn đầu tư tại Việt Nam và cả những doanh nghiệp không có pháp nhân tại thị trường Việt Nam. Doanh nghiệp bảo hiểm Mỹ không hoạt động tại Việt Nam Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 72  Được cung cấp: dịch vụ bảo hiểm cho các xí nghiệp nước ngoài và người nước ngoài hoạt động và làm việc tại Việt Nam;  Cung cấp dịch vụ TBH, môi giới bảo hiểm và môi giới TBH;  Cung cấp dịch vụ bảo hiểm trong vận tải quốc tế;  Cung cấp dịch vụ tư vấn, giải quyết khiếu nại, đánh giá rủi ro. Doanh nghiệp bảo hiểm Mỹ thành lập và hoạt động tại Việt Nam:  Việc thành lập chi nhánh phụ thuộc vào tiến trình xây dựng Luật kinh doanh bảo hiểm (khi ký hiệp định thương mại song phương – ngày 13/7/2000, Luật kinh doanh bảo hiểm chưa được ban hành).  3 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực (ngày 10/11/2001) được thành lập công ty liên doanh – phía Mỹ không quá 50% vốn. 5 năm sau khi hiệp định có hiệu lực được thành lập công ty 100% vốn Hoa Kỳ.  Các công ty vốn Hoa Kỳ không được kinh doanh các loại dịch vu đại lý bảo hiểm. Các công ty có vốn Hoa Kỳ không được kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc (hạn chế này sẽ được bãi bỏ với công ty liên doanh là 3 năm, công ty 100% vốn Hoa Kỳ là 6 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực).  Các công ty bảo hiểm Hoa Kỳ thành lập tại Việt Nam cũng phải TBH bắt buộc ít nhất 20% (nếu có phát sinh nhượng tái) và qui định này sẽ được bãi bỏ sau 5 năm Hiệp định có hiệu lực. Với nội dung hai cam kết như trên, có thể thấy bảo hiểm là mảng dịch vụ tài chính có lộ trình mở cửa nhanh nhất so với các dịch vụ tài chính ngân hàng khác. Nếu như các rào cản với ngành ngân hàng chỉ được gỡ bỏ hoàn toàn vào năm 2010, thì ngay từ 1/1/2008, về cơ bản các ràng buộc về khai thác thị trường và đãi ngộ quốc gia trong ngành bảo hiểm đã không còn. Các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ gặp phải những cơ hội và đối mặt với những thách thức gì trong những năm tới. Các nội dung này sẽ được phân tích trong các phần tiếp theo. Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 73 II. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC MỚI VỚI THỊ TRƢỜNG TBH TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP. 1 Cơ hội 1.1 Qui mô thị trường tăng nhanh, đa dạng hóa sản phẩm. Sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thực sự là một cú hích với cả nền kinh tế. GDP trong những năm qua tăng trưởng trên 8%/năm và xu hướng này còn giữ vững trong khoảng 4, 5 năm tới. Cơ cấu kinh tế cũng đang có chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng trưởng mạnh ở các ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, tăng trưởng ở ngành nông – lâm – thủy sản chậm hơn. FDI vào Việt Nam trong năm 2006 đã lên đến 10,2 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu đạt 29,6 tỷ USD; nhập khẩu 40 tỷ USD, doanh thu ngành du lịch cũng tăng 28,5% với 3,56 triệu lượt khách trong năm 2006. Nửa năm đầu 2007, kinh tế đã tăng trưởng 7,9% so với cùng kỳ năm ngoái – mức cao nhất trong vòng 5 năm trở lại đây. Dù có nhiều khó khăn về dịch bệnh, thiên tai, nhưng tốc độ tăng trưởng mà nền kinh tế Việt Nam trong những năm tới được dự báo là vẫn rất khả quan. Nền kinh tế phát triển nhanh như vậy chắc chắn sẽ tăng tiềm năng cho thị trường bảo hiểm Việt Nam đặc biệt là thị trường bảo hiểm phi nhân thọ. Các chuyên gia bảo hiểm đều nhận định 95% tiềm năng thị trường bảo hiểm Việt Nam còn chưa được khai thác. Doanh thu phí bảo hiểm tuy tăng trưởng nhanh trong những năm qua nhưng mới chỉ đạt gần 2% GDP, trong khi mức trung bình trên thế giới là 7,7%. Trong số phí bảo hiểm thu được, bảo hiểm nhân thọ vẫn chiếm tỷ lệ lớn hơn (năm 2006 doanh thu phí bảo hiểm nhân chiếm 57% toàn thị trường) nhưng xu hướng thị trường trong những năm qua đang cho thấy cơ cấu đang dịch chuyển sang lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ. Các ngành công nghiệp, xây dựng, thương mại, du lịch phát triển sẽ tạo động lực để nhiều sản phầm Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 74 bảo hiểm phi nhân thọ hiện tại phát triển thêm và cả các dịch vụ bảo hiểm mới như bảo hiểm du lịch, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ công trình, bảo hiểm tiền gửi, bảo hiểm tiền gửi, bảo hiểm lãi suất đầu tư... Lộ trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước sẽ kết thúc vào năm 2009, số lượng các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài tăng trong đó tập quán mua bảo hiểm để đảm bảo an toàn và ổn định cho sản xuất kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài sẽ lan rộng trong khối các tổ chức xã hội. Ở khu vực khách hàng cá nhân, với trình độ dân trí và mức thu nhập ngày càng cao, các tầng lớp nhân dân sẽ ngày càng quan tâm hơn đến nhu cầu về bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản, tiền gửi tiết kiệm, chăm sóc sức khỏe y tế xã hội ngày càng tăng. Các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài khi tham gia lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ chắc chắn sẽ góp phần tích cực vào việc khai thác mới trên thị trường. Nhớ lại khi các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài đầu tiên vào Việt Nam cuối những năm 90 của thập kỷ trước, thị trường bảo hiểm nhân thọ đã trải qua những năm tăng trưởng ấn tượng, các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ trước đây cũng chỉ bó hẹp ở bảo hiểm tính mạng, bảo hiểm an sinh giáo dục, bảo hiểm hưu trí... đến nay chủng loại bảo hiểm nhân thọ đã lên đến hơn 100, ngoài các sản phâm nhân thọ chính như bảo hiểm và tiết kiệm, bảo hiểm trọng đơn bảo hiểm từ kỳ, niên kim... còn có các sản phẩm bảo hiểm đi kèm để tăng mức độ phù hợp với nhu cầu đa dạng của khách hàng. Những thay đổi tương tự hoàn toàn có thể kỳ vọng với thị trường bảo hiểm và TBH phi nhân thọ khi các doanh nghiệp nước ngoài tham gia khai thác thị trường. Chế độ quản lý nhà nước về bảo hiểm ngày càng hoàn thiện hơn cũng là cơ sở pháp lý vững chắc để các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động và cạnh tranh lành mạnh hơn, người dân tin tưởng hơn vào doanh nghiệp và theo đó số đơn bảo hiểm cũng tăng lên. Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 75 Cơ hội tiếp cận thị trường là cho cả hai phía, và các doanh nghiệp trong nước khi đủ bản lĩnh cũng sẽ có điều kiện khai thác thị trường bảo hiểm ở các nước thành viên WTO 1.2 Chuyên nghiệp hóa các dịch vụ BH và TBH theo chuẩn quốc tế Các tập đoàn bảo hiểm và TBH uy tín nước ngoài tham gia thị trường Việt Nam chắc chắn sẽ là một cơ hội tốt để các doanh nghiệp trong nước học hỏi về mô hình quản lý khai thác, bồi thường, nghiệp vụ định phí, đánh giá rủi ro và giám định. Các chuyên gia bảo hiểm Việt Nam sẽ có cơ hội được đào tạo và học hỏi những kiến thức tiên tiến nhất về bảo hiểm quốc tế. Đối với TBH, vì là một nghiệp vụ còn rất mới tại Việt Nam nên việc học hỏi từ các công ty TBH thế giới để hoàn thiện trình độ lại càng cấp thiết. Tất nhiên các doanh nghiệp nước ngoài tham gia thị trường Việt Nam với mục đích kinh doanh, với mục tiêu là lợi nhuận chứ không phải là để "phát triển nền bảo hiểm ở một nước đang phát triển" nhưng xét cho cùng muốn kinh doanh thành công, họ buộc phải vận dụng những kinh nghiệm của mình, buộc phải đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng cao hơn, hợp chuẩn với mô hình quốc tế của mình. Các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước dưới áp lực cạnh tranh sẽ buộc phải học hỏi, cải tiến và đối mới để có thể trụ vững trên thị trường nội địa. Còn để vươn ra thị trường thế giới, các doanh nghiệp này cần xây dựng mô hình hoạt động theo chuẩn quốc tế bởi bảo hiểm là một lĩnh vực có độ đồng nhất cao trên toàn thị trường. Cạnh tranh tất sẽ có kẻ thắng, người thua, nhưng sau tất cả, cạnh tranh chính là động lực để cả thị trường phát triển đi lên. 2 Thách thức Thách thức với các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm Việt Nam trong thời hội nhập chính là áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt. Các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với hai nhóm đối thủ chính là: doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại thị trường Việt Nam, và doanh nghiệp nước ngoài được Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 76 phép khai thác thị trường Việt Nam theo thỏa thuận về cung cấp dịch vụ qua biên giới. Tương quan về số lượng giữa các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp FDI hiện tại đang nghiêng về doanh nghiệp trong nước vì số lượng các doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh trên thị trường hiện chỉ mới có hai công ty vừa xuất hiện là Liberty và ACE (đều của Hoa Kỳ). Nhưng khi Việt Nam gia nhập WTO, Chính phủ các nước cùng với doanh nghiệp bảo hiểm của họ chắc chắn sẽ gây sức ép để được hoạt động tại thị trường Việt Nam, nhất là những doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đã đáp ứng được đầy đủ điều kiện ghi trong Luật kinh doanh bảo hiểm và Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam. Điều này rất dễ hiểu bởi thị trường bảo hiểm Việt Nam đầy hứa hẹn khi nền kinh tế phát triển với tốc độ cao mà tiềm năng của thị trường bảo hiểm thì còn chưa được khai thác hết. Như vậy lợi thế về số lượng của các doanh nghiệp nội địa chắc chắn không giữ được lâu. Phải cạnh tranh với nhiều đối thủ hơn, nhưng các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước lại không còn nhận được sự bảo hộ như xưa của chính phủ. Thực hiện nguyên tắc đãi ngộ quốc gia, mọi doanh nghiệp của nước thành viên WTO khi thành lập và hoạt động tại Việt Nam đều được đối xử công bằng như các doanh nghiệp nội địa. Những hạn chế cuối cùng về cung cấp dịch vụ bảo hiểm bắt buộc cũng sẽ được gỡ bỏ vào đầu năm 2008. Các doanh nghiệp Việt Nam được cung cấp dịch vụ gì thì doanh nghiệp FDI được cung cấp dịch vụ đó, chưa kể số lượng dịch vụ mà các doanh nghiệp FDI mang tới và thiết kế mới còn đa dạng hơn các dịch vụ hiện có trên thị trường. Doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đặc biệt là doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ có lợi thế lớn là mối quan hệ với các doanh nghiệp trong nước trong đó có các tổng công ty nhà nước hoạt động trong các lĩnh vực có nhu cầu bảo hiểm ngày càng tăng như: xây dựng, giao thông, khai thác, vận tải đường biển, hàng không.... Các doanh nghiệp này là những Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 77 khách hàng rất tiềm năng trên thị trường và hiện vẫn có thói quen mua bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm Việt Nam. Tuy nhiên, lợi thế này không còn tồn tại được lâu bởi các Tổng công ty kể trên cũng đang gấp rút tiến hành cổ phần hóa, sắp xếp lại, đi kèm với nó là cơ cấu tổ chức, quản lý thay đổi, các doanh nghiệp sau cổ phần hóa trước sức ép từ cổ đông luôn đặt mục tiêu lợi ích của công ty lên trên, việc chọn mua bảo hiểm không chỉ đơn giản phụ thuộc vào mối quan hệ như trước. Thêm vào đó, họ có nhiều lựa chọn hơn là các doanh nghiệp bảo hiểm thuộc mọi thành phần kinh tế mà trong đó phải kể đến những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Lợi thế đầu tiên mà các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài chính là tiềm lực vốn mạnh. Với một doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, thì tiềm lực vốn phần nào đồng nghĩa với độ tin cậy của doanh nghiệp đó bởi kỳ vọng của một cá nhân hay tổ chức khi mua bảo hiểm là để công ty bảo hiểm có thể chi trả cho họ những tổn thất không may xảy ra với đối tượng bảo hiểm, để họ có thể ổn định đời sống và sản xuất kinh doanh. Trong suy nghĩ thông thường của mọi khách hàng, công ty bảo hiểm có tiềm lực vốn lớn, khả năng tài chính mạnh đương nhiên sẽ đảm nhận tốt hơn nhiệm vụ bồi thường cho khách hàng. Lợi thế tiếp theo là các doanh nghiệp này được sự hỗ trợ về nghiệp vụ từ công ty mẹ – thường là những tập đoàn bảo hiểm có hàng trăm năm kinh nghiệm trên thị trường thế giới. Tuy thị trường Việt Nam với họ còn rất mới mẻ nhưng như ông Evan G. Greenberg, Giám đốc tập đoàn bảo hiểm ACE đã tuyên bố với Thời báo kinh tế Việt Nam: “ACE có đủ điều kiện và khả năng để có thể cung cấp tất cả những sản phẩm phi nhân thọ theo nhu cầu của thị trường Việt Nam”6. Ngoài sự tiến bộ về nghiệp vụ, các công ty này còn có mô hình quản lý tiên tiến hơn với công ty trong nước, với các chiêu thức quảng bá và tiềm lực kinh tế tốt họ có khả năng lôi kéo được lực lượng nhân sự trình độ tốt từ các doanh nghiệp Việt Nam về đầu quân cho họ, làm xuất hiện một trào lưu chảy máu chất xám 6 Nguyên Thành – “ACE Việt Nam có thể cung cấp mọi loại hình bảo hiểm phi nhân thọ” – www.vneconomy.com.vn cập nhật ngày 06/4/2007 Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 78 trong ngành bảo hiểm – một ngành vốn đang thiếu nhân lực trầm trọng trong thời kỳ mới. Có thể nói doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xét về tương quan lực lượng sẽ là một thách thức lớn cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm trong nước. Nếu các doanh nghiệp trong nước không kịp thời đổi mới, cải cách thì nguy cơ mất thị phần, mất nhân lực là rất rõ ràng. Nhớ lại những gì đã xảy ra với thị trường bảo hiểm nhân thọ vài năm về trước. Các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài dù gia nhập thị trường sau nhưng đến hết năm 2006, hơn 64% thị phần bảo hiểm nhân thọ đang nằm trong tay các doanh nghiệp nước ngoài, Bảo Việt với hơn lịch sử hoạt động hơn 40 năm đã phải nhường ngôi vị quán quân trên thị trường bảo hiểm nhân thọ cho Prudential với 41,6% thị phần (doanh nghiệp này được cấp phép hoạt động vào năm 1999). Một khi các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh bảo hiểm gốc không thuận lợi, tác động tiêu cực ắt sẽ xảy ra với thị trường tái bảo hiểm mà hiện tại mới có VINARE là đại diện. Các công ty bảo hiểm nước ngoài với mối quan hệ rộng rãi trên thị trường quốc tế nếu cần tái bảo hiểm chắc chắn sẽ tìm đến những nhà tái bảo hiểm ruột, là những công ty tái bảo hiểm uy tín và có tiềm lực lớn. Doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm trong nước sẽ bị mất đi một lượng khách hàng không nhỏ. Điều đáng lo ngại hơn là cam kết cung cấp dịch vụ qua biên giới của Việt Nam, với cam kết này, các doanh nghiệp bảo hiểm và TBH nước ngoài không cần phải lập chi nhánh, hay thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng có thể khai thác thị trường. Đặc biệt trong lĩnh vực TBH, lĩnh vực mà khách hàng trực tiếp là các doanh nghiệp bảo hiểm gốc chứ không phải là bộ phận người dân hay doanh nghiệp, thì các khoảng cách về địa lý, hay các trở ngại về tập quán không phát huy tác dụng. Khi qui định về tỷ lệ TBH bắt buộc đã không còn, và các nhà TBH được phép khai thác thị Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 79 trường Việt Nam thì dòng phí bảo hiểm thu được chuyển ra nước ngoài chắc chắn sẽ tăng lên. Như vậy, cơ hội có nhiều nhưng thách thức cũng không ít, doanh nghiệp Việt Nam cần phải làm những gì để nắm bắt tốt những cơ hội và sẵn sàng đối phó với các thách thức nêu trên. Phần giải pháp xin đưa ra một vài gợi ý. III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG TBH VIỆT NAM 1 Từ phía cơ quan quản lý nhà nƣớc 1.1 Hoàn thiện hệ thống pháp lý cho doanh nghiệp bảo hiểm Như đã trình bày ở đầu chương II, từ năm 2001 đến nay, không ít các văn bản pháp lý đã được soạn thảo, ban hành để điều chỉnh và hướng dẫn hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm trên thị trường Việt Nam. Ngoài các văn bản luật, nghị định, thông tư điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, các bộ luật liên quan của các ngành khác có liên quan cũng được ban hành và hoàn thiện như Luật hàng hải, Luật thương mại, Luật hàng không dân dụng, sắp tới là Luật du lịch, Luật bảo hiểm tiền gửi.... Có thể thấy Chính phủ hiện đang rất nỗ lực để xây dựng một hành lang pháp lý tốt nhất cho các doanh nghiệp yên tâm hoạt động, tuy vậy so với thế giới thì hệ thống luật pháp của ta còn hổng rất nhiều, đặc biệt là trong những lĩnh vực mới như TBH. Trong số các văn bản luật nói trên, chỉ có Mục 3 - nghị định 42 có đề cập đến TBH, nhưng cũng chỉ ở mức rất sơ sài, chưa có các qui định dành cho doanh nghiệp kinh doanh TBH chuyên nghiệp, hay các thủ tục cần thiết trong qui trình TBH. Nguyên nhân có thể là do hiện chỉ có VINARE là doanh nghiệp chuyên kinh doanh TBH duy nhất và lại là doanh nghiệp nhà nước, hoạt động của VINARE trước nay chỉ mang tính định hướng thị trường, hoạt động kinh doanh TBH chưa vấp phải các xung đột, Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 80 khúc mắc về cạnh tranh cần phải điều chỉnh nên việc làm luật còn chậm trễ. Nhưng trong những năm tới, do yêu cầu của thực tiễn, Chính phủ và bộ tài chính còn phải tiếp tục xây dựng hệ thống luật bảo hiểm cho phù hợp. 1.2 Hỗ trợ gián tiếp cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước về mặt kỹ thuật, nghiệp vụ. Theo ý kiến của tổng thư ký hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, ông Phùng Đắc Lộc thì "dịch vụ bảo hiểm không những bồi thường kịp thời đầy đủ tổn thất do thiên tai, tai nạn, sự cố bất ngờ xảy ra mỗi năm hàng ngàn tỷ đồng mà còn đầu tư vào nền kinh tế, thu hút hàng trăm ngàn lao động, nộp ngân sách nhà nước lên đến 1000 tỷ đồng mỗi năm... nhưng chưa thực sự nhận được sự quan tâm thích đáng của các cấp các ngành và cơ quản công quyền"7. Thật vậy, ngành bảo hiểm Việt Nam tuy không phải là một ngành quá mới mẻ, nhưng so với trình độ của thế giới, chúng ta còn tụt hậu khá xa. Với TBH, các doanh nghiệp thực hành bảo hiểm lại càng mù mờ hơn. Hiện nay các hoạt động của họ đều dựa trên các tập quán quốc tế, chứ chưa có một luật thành văn nào điều chỉnh. Các nghiên cứu trong lĩnh vực này còn hạn chế, tại Việt Nam chưa có một tổ chức nào chuyên về kỹ thuật định phí và đánh giá rủi ro (Acturial service) mà đây lại là điều sống còn với các doanh nghiệp kinh doanh rủi ro là doanh nghiệp bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, và cả doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đều trích lập dự phòng theo thông tư hướng dẫn mà thực tế, thông tư hướng dẫn không thể bao quát hết các vấn đề về kỹ thuật. Việc xây dựng một Học viện bảo hiểm hoặc một trung tâm nghiên cứu chuyên về bảo hiểm vì thế là rất cần thiết để đào tạo ra một đội ngũ chuyên gia có trình độ trung và cao cấp, phục vụ cho nhu cầu nhân lực của ngành. 7 (trích: Thị trường bảo hiểm Việt Nam với việc gia nhập WTO – bài viết đăng trên website Hiệp hội bảo hiểm). Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 81 Để có thể làm được điều này, khó có thể trông mong sự đầu tư của một doanh nghiệp bảo hiểm riêng lẻ bởi họ còn mải vật lộn với áp lực cạnh tranh gay gắt trên thị trường, chính phủ cần đứng ra có tiếng nói kêu gọi sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, các hội nghề nghiệp và các trường đại học trên thế giới. Mở các lớp tập huấn, nâng cao trình độ của cán bộ thực hành bảo hiểm tại các doanh nghiệp và cả cán bộ quản lý bảo hiểm của nhà nước. Để đáp ứng nhu cầu nhân lực trong những năm tới, việc giảng dạy bộ môn bảo hiểm ở các trường đai học cũng cần phải nhanh chóng có những cái tiến phù hợp như: xây dựng giáo trình, khung giảng dạy cho chuyên ngành bảo hiểm, tách bảo hiểm thành các mảng nhỏ để nghiên cứu và đạo tạo chuyên sâu như: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ, TBH, môi giới bảo hiểm, định phí bảo hiểm... bởi mỗi một chuyên môn nhỏ này yêu cầu những kiến thức nền tảng rất khác nhau chứ không đơn thuần là cộng thêm một vài bộ môn cho các cử nhân kinh tế là có thể trở thành "chuyên gia bảo hiểm". Thực tế cho thấy các sinh viên bảo hiểm ra trường chỉ có thể thực hiện các nghiệp vụ với khách hàng còn việc tham gia thị trường bảo hiểm và TBH quốc tế thì trình độ chưa đáp ứng được. Với một đội ngũ cán bộ như vậy, việc cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài – những đối thủ sẽ cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới cho thị trường Việt Nam sẽ vấp phải rất nhiều khó khăn. Vì thế nhiệm vụ đào tạo cán bộ chuyên sâu về bảo hiểm là rất cấp bách và đòi hỏi sự ủng hộ từ chính phủ và đặc biệt là sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với Bộ Giáo dục và Đào tạo. 1.3 Nâng cao ý thức của người dân về bảo hiểm Ở Việt Nam, thói quen mua bảo hiểm trong doanh nghiệp và nhân dân còn chưa phổ biến đặc biệt là trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ. Người dân thường chỉ chuộng các sản phẩm bảo hiểm mang tính chất tiết kiệm, còn các doanh nghiệp tham gia bảo hiểm phần nhiều cũng là do bắt buộc. Đó là do quan niệm về sự cần thiết của bảo hiểm với đời sống kinh tế – xã hội còn Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 82 chưa được ý thức hết trong đại bộ phận nhân dân. Để khắc phục điều này, ngoài việc các doanh nghiệp tự tiến hành quảng bá sản phẩm dịch vụ, nhà nước cũng cần phải tích cực tuyên truyền dưới nhiều hình thức, phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh biện pháp tuyên truyền, Chính phủ cũng nên ban hành các văn bản pháp quy mang tính cưỡng chế với các loại hình bảo hiểm quan trọng như: bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ công trình. Tuy thời gian đầu, các qui định này có thể không giành được sự đồng thuận của toàn bộ nhân dân, nhưng dần dần người dân sẽ thấy được đóng góp của bảo hiểm lớn thế nào trong việc khắc phục thảm họa, ổn định đời sống nhân dân và hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Hiện tại các dự thảo về qui định bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, qui định bảo hiểm bắt buộc với chủ công trình, bảo hiệm trách nhiệm nghề nghiệp với các ngành như bác sỹ, luật sư... cũng đang được Chính phủ xem xét để đưa vào thực hiện. 2 Từ phía các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm 2.1 Không ngừng cải tiến, thiết kế sản phẩm bảo hiểm mới Thiết kế sản phẩm bảo hiểm mới là nhiệm vụ cần thiết của mọi doanh nghiệp bảo hiểm nếu doanh nghiệp đó muốn thu hút được khách hàng. Hiện nay thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đã có hơn 700 loại sản phẩm khác nhau, đáp ứng nhu cầu bảo hiểm của các cá nhân tổ chức và doanh nghiệp. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở việc thị trường có nhu cầu gì ta cung cấp sản phẩm đó thì các doanh nghiệp sẽ không thể nhanh chóng mở rộng phạm vi khai thác của mình. Chính các doanh nghiệp phải là người tạo ra nhu cầu và thúc đẩy nhu cầu về bảo hiểm cho khách hàng, để khách hàng thấy được bảo hiểm mang lại những lợi ích phù hợp và thiết thực cho họ chứ không phải việc mua bảo hiểm là một hình thức bắt buộc. Có như vậy, nhận thức chung của người dân và doanh nghiệp về bảo hiểm mới tăng lên, bảo hiểm mới phát huy được hết vai trò to lớn của mình là bình ổn nền kinh tế còn các doanh nghiệp kinh doanh Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 83 bảo hiểm mới có thể mở rộng thêm thu nhập trong khi thị phần vẫn bị thu hẹp. Muốn tạo ra được những sản phẩm bảo hiểm mới, khơi dậy nhu cầu của thị trường, các doanh nghiệp bảo hiểm nên có một bộ phận chuyên trách về phát triển sản phẩm. Bộ phận này cần có liên kết chặt chẽ với bộ phận khai thác, quan hệ với khách hàng để tìm hiểu nhu cầu của họ từ đó thiết kế sản phẩm cho phù hợp. Cũng không nên xem nhẹ việc học hỏi từ các doanh nghiệp khác trên thị trường Việt Nam và thị trường quốc tế, bởi thị trường thế giới thường phản ánh khá chính xác xu hướng phát triển của thị trường Việt Nam. 2.2 Chú trọng hơn nữa vào hoạt động đầu tư Do đặc thù của ngành, các doanh nghiệp bảo hiểm là nơi có số vốn nhàn rỗi rất lớn. Qui định tại Mục 3 – chương II – nghị định 43/2001/NĐ-CP đã chỉ rõ các doanh nghiệp được sử dụng vốn nhàn rỗi từ quỹ dự phòng nghiệp vụ (chính là một phần giữ lại của phí bảo hiểm để chi trả cho khách hàng nếu có tổn thất xảy ra) để đầu tư vào các lĩnh vực khác như:  Mua trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh, gửi tiền tại các tổ chức tín dụng không hạn chế;  Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp không có bảo lãnh, góp vốn vào các doanh nghiệp khác tối đa 35% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm;  Kinh doanh bất động sản, cho vay, ủy thác đầu tư qua các tổ chức tài chính - tín dụng tối đa 20% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm. Tuy vậy, hoạt động đầu tư trước nay chưa nhận được sự quan tâm thích đáng của các doanh nghiệp bảo hiểm, nhất là bảo hiểm phi nhân thọ. Chỉ trong những năm gần đây, khi hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 84 lên cơn sốt, các doanh nghiệp bảo hiểm mới có làn sóng thành lập các quỹ đầu tư bảo hiểm. Trên thế giới các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm và TBH đều rất chú trọng vào hoạt động đầu tư này thậm chí đầu tư mới thực sự là hoạt động sinh lời của công ty bảo hiểm và TBH. Lấy ví dụ như trường hợp của Swiss Re, năm 2006 trong khi lợi nhuận trước thuế của cả tập đoàn vào khoảng 3,5 tỷ USD thì doanh thu từ hoạt động đầu tư lên đến 4,2 tỷ USD chứng tỏ nếu không có hoạt động đầu tư thì lượng phí bảo hiểm thu được sau khi trừ đi các chi phí bồi thường, chi phí khai thác và quản lý doanh nghiệp sẽ không còn lợi nhuận. Phân tích như vậy để thấy được rằng đầu tư có vai trò rất quan trọng với doanh nghiệp bảo hiểm. Phí bảo hiểm ở Việt Nam so với các nước trong khu vực là tương đối cao. Nguyên nhân là do số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm chưa nhiều, nên qui luật số đông chưa phát huy tác dụng. Nếu tận dụng tốt các cơ hội đầu tư thì doanh nghiệp bảo hiểm có thể hạ phí bảo hiểm một cách hợp lý và khoa học, mà vẫn duy trì được ổn định kinh doanh. Hạ phí tất nhiên sẽ tăng lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp và góp phần thu hút thêm người tham gia bảo hiểm. Đến lúc này, qui luật san sẻ rủi ro cho số đông sẽ phát huy tác dụng và đưa mức phí trung bình của cả thị trường giảm bớt, giảm gánh nặng cho người mua bảo hiểm nhưng vẫn duy trì được ổn định của nền kinh tế. 2.3 Ứng dụng công nghệ thông tin vào quy trình cấp đơn, quản lý, khai thác, bồi thường Không ai có thể nghi ngờ vai trò của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý doanh nghiệp nói chung. Nhưng người viết vẫn muốn nhấn mạnh rằng tại một ngành kinh doanh dịch vụ như kinh doanh bảo hiểm thì việc áp dụng công nghệ thông tin lại càng quan trọng hơn nữa. Tác dụng của nó có thể tóm gọn trong 3 ý như sau Thứ nhất, ứng dụng công nghệ giúp giảm bớt chi phí. Hai loại chi phí chủ yếu của doanh nghiệp bảo hiểm là chi phí bồi thường và chi phí quản lý Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 85 doanh nghiệp. Nếu như chi phí bồi thường vốn phụ thuộc vào nhiều yếu tố rủi ro thì chi phí quản lý là điều mà tự doanh nghiệp có thể kiểm soát được và cách hiệu quả nhất chính là áp dụng công nghệ thông tin, giúp giảm bớt lượng cán bộ nhân viên hành chính, giấy tờ vốn không hề ít trong một doanh nghiệp bảo hiểm. Thay vào đó, doanh nghiệp có thể tập trung hơn vào việc thuê thêm những cán bộ có trình độ cao về thẩm định, đánh giá rủi ro... Thứ hai, ứng dụng công nghệ thông tin còn tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khách hàng. Với việc mạng internet ngày càng trở nên phổ dụng, doanh nghiệp bảo hiểm có thể tiến hành cấp đơn bảo hiểm qua mạng, cho khách hàng tự thiết kế sản phẩm bảo hiểm. Với khách hàng, việc cấp đơn qua mạng không chỉ tạo thuận tiện về mặt thời gian mà còn là cách để họ có thể tìm thấy sản phẩm bảo hiểm phù hợp nhất. Với doanh nghiệp bảo hiểm, mạng internet là cách để duy trì quan hệ với khách hàng và tiếp nhận nhanh nhất các thông tin phản hồi, làm cơ sở để thiết kế sản phẩm bảo hiểm mới phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Thứ ba, công nghệ thông tin là công cụ thống kê hữu hiệu cho các công ty bảo hiểm. Một công ty bảo hiểm phải quản lý hàng vạn đơn bảo hiểm của các khách hàng khác nhau, với các thời hạn khác nhau. Nếu không có sự can thiệp của công nghệ thông tin thì việc theo dõi các đơn bảo hiểm này sẽ rất vất vả mà vẫn không tránh khỏi sai sót. Các dữ liệu thống kê còn là nền tảng quý giá để cho các công ty bảo hiểm có thể tính toán độ rủi ro, định phí và dự đoán nhu cầu. Hiện tại các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam chưa thể tự trích lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ theo tình hình của riêng doanh nghiệp mình là do trở ngại lớn về thiếu số liệu thống kê. 2.4 Có chính sách phát triển và xây dựng nguồn nhân lực cho doanh nghiệp mình Nguồn nhân lực luôn là yếu tố quyết định thành công của mọi doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ trên thị trường. Doanh nghiệp bảo hiểm cũng Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 86 không là ngoại lệ. Trước cơn khát nhân lực có thể dự báo trước, doanh nghiệp bảo hiểm cần có những động thái sớm để có thể nâng cao được trình độ của đội ngũ nhân viên hiện có đồng thời thu hút thêm người tài về làm việc cho mình. Đội ngũ nhân viên hiện có chính là tài sản và là lợi thế của doanh nghiệp đang kinh doanh trên thị trường bảo hiểm. Bởi như đã phân tích ở trên, nhân lực cho ngành bảo hiểm mang tính đặc thù chứ không thể lấy nhân lực của các ngành hoạt động dịch vụ tài chính khác sang thay thế ngay được. Hơn thế, hầu hết các ngành tài chính đều đang thiếu nhân lực có trình độ một cách trầm trọng. Vì vậy, biện pháp thích hợp nhất là các doanh nghiệp bảo hiểm phải đầu tư đào tạo cán bộ nghiệp vụ của chính mình trước, để họ có thể bắt kịp với yêu cầu cạnh tranh thời hội nhập. Việc đào tạo đã khó, giữ được người tài ở doanh nghiệp mình lại càng khó hơn. Để có thể níu chân những nhân viên giỏi có kinh nghiệm không chuyển sang các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, nơi sẵn sàng đãi ngộ họ với một mức lợi nhuận cao hơn hẳn, các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải có những chiến thuật quản lý nhân sự khôn ngoan hơn, quan tâm đến nguyện vọng và nhu cầu phát triển của các nhân viên giỏi để khuyến khích họ gắn bó lâu dài với doanh nghiệp. Trong dài hạn, việc đào tạo và thu hút sinh viên mới ra trường là rất cần thiết để phục vụ cho nhu cầu nhân lực của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nên quan tâm hơn, hợp tác với các trường đại học và trung tâm đào tạo để góp phần chỉnh sửa nội dung chương trình cho phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện cho các sinh viên thực tập tại doanh nghiệp mình, và có sự đầu tư thích đáng cho những ứng viên xuất sắc. Những giải pháp được nêu ở trên đều là để tập trung phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ nói chung. Nhưng điều dễ hiểu là chỉ khi nào thị trường bảo hiểm gốc phát triền, các công ty bảo hiểm gốc của Việt Nam đứng Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 87 vững trên thị trường thì TBH với vai trò là một nghiệp vụ bổ sung mới có thể phát đạt. Riêng về giải pháp với công ty TBH, mà cụ thể ở Việt Nam là công ty cổ phần TBH Quốc gia Việt Nam (VINARE), khóa luận cũng xin đưa ra một vài góp ý để duy trì và phát huy hơn nữa vị trí hiện có của doanh nghiệp TBH duy nhất này. 3 Giải pháp cho công ty cổ phần TBH Quốc gia Việt Nam VINARE Cũng như các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung, VINARE cũng cần phải chú trọng hơn vào hoạt động đầu tư, áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của mình và nhất là công tác đào tạo, xây dựng, và "giữ chân" nguồn nhân lực có trình độ ở lại doanh nghiệp mình. Quan trọng hơn nữa với một doanh nghiệp TBH chính là năng lực tài chính, các nhà bảo hiểm gốc thường tìm đến (và tin tưởng) vào các nhà tái có khả năng tài chính dồi dào, bởi mục tiêu của họ chính là để san sẻ rủi ro và ổn định tình hình kinh doanh. Vì vậy VINARE nên có một lộ trình huy động vốn phù hợp để nâng cao năng lực tài chính cho mình. Nâng cao chất lượng dịch vụ TBH với khách hàng là các doanh nghiệp nhượng TBH: cụ thể là thực hiện đúng và nghiêm túc các cam kết về thu phí, trả hoa hồng, tích cực tham gia giải quyết bồi thường nhanh gọn và thỏa đáng; cùng với nhà bảo hiểm gốc quản lý rủi ro cho đối tượng bảo hiểm... Ngoài hoạt động nhận TBH trong nước, việc VINARE cũng nên chủ động tìm đến các thị trường bảo hiểm khác trong khu vực. WTO là cơ hội của cả hai phía, nó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp TBH nước ngoài khai thác thị trường Việt Nam nhưng cũng tạo điều kiện để một doanh nghiệp như VINARE vươn ra thị trường thế giới. Bước đầu tiên để thực hiện việc mở rộng thị trường là nhanh chóng thành lập các văn phòng đại diện tại nước ngoài vừa để tìm hiểu thị trường, vừa để xây dựng mối quan hệ với các doanh nghiệp bảo hiểm và TBH nước sở tại. Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 88 Tiếp tục duy trì và xây dựng mối quan hệ với các đối tác là doanh nghiệp bảo hiểm gốc, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mới thành lập trên thị trường, giúp đỡ họ thông qua việc ưu tiên nhượng tái cho các doanh nghiệp trong nước vừa để giữ lại đối ưu nguồn phí bảo hiểm vừa để tạo cơ hội cho các doanh nghiệp nhỏ có được doanh thu và phát triển hơn. Bên cạnh việc chuyển nhượng phí bảo hiểm, VINARE nên giúp đỡ các doanh nghiệp này về đào tạo nghiệp vụ, cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng khác như giám định tổn thất, định phí, đánh giá rủi ro... Với các đối tác là nhà nhận TBH nước ngoài, thay vì cạnh tranh trực diện, VINARE có thể đứng ra giữ vai trò môi giới TBH cho các doanh nghiệp trong nước và cả các doanh nghiệp nước ngoài. Với kinh nghiệm và mối quan hệ rộng rãi của mình, nếu kinh doanh thêm lĩnh vực môi giới TBH thì VINARE hoàn toàn có cơ sở để thành công. Hoạt động môi giới có ba tác dụng: thứ nhất là tạo thêm thu nhập cho VINARE, thứ hai là tạo giúp VINARE giữ lại thị phần cho mình và cho cả thị trường Việt Nam. Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 89 Kết luận TBH có vai trò quan trọng với ngành bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. TBH ở Việt Nam tuy mới hình thành với một đại diện chính thức duy nhất là VINARE đã có những thành quả đáng kể là san sẻ rủi ro, tăng mức giữ lại của thị trường nội địa và là cầu nối cho doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và thị trường bảo hiểm, TBH quốc tế. Trong những gần đây, kinh tế Việt Nam đang có những chuyển biến nhanh và tích cực, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đang có những bước tăng trưởng ấn tượng, hoạt động TBH vì vậy có được cơ hội để phát triển và chứng tỏ hơn nữa vai trò của mình với ngành bảo hiểm và cả nền kinh tế. Nhưng bên cạnh những dấu hiệu khả quan của thời kỳ đầu hội nhập, ngành đang phải đối mặt với những thách thức thật sự đó chính là áp lực cạnh tranh với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và cả các doanh nghiệp ở nước ngoài khai thác thị trường bảo hiểm trong nước mà cả hai lực lượng này đều có những thế mạnh vượt trội hơn so với doanh nghiệp bảo hiểm, TBH Việt Nam về cả năng lực tài chính và trình độ nghiệp vụ. TBH Việt Nam với một đại diện chính thức là VINARE chắc chắn phải nỗ lực rất nhiều mới có thể giữ vững được thị phần và tăng mức giữ lại của bảo hiểm trong nước. Tuy thách thức cho ngành bảo hiểm là không ít nhưng đánh giá chung về TBH Việt Nam trong thời kỳ này không quá bi quan. Bởi vì TBH vốn là nghiệp vụ mang tính đồng nhất cao trên toàn thế giới, nên chính nhờ có TBH mà ngành bảo hiểm đã sớm làm quen với làn gió hội nhập, phần nào am hiểu tập quán bảo hiểm quốc tế và các thị trường bảo hiểm nước ngoài. Nếu được sự quan tâm và chỉ đạo đúng đắn và hợp lý từ các ban ngành và cơ quan quản lý nhà nước, bảo hiểm Việt Nam có khả năng cạnh tranh sòng phẳng với các doanh nghiệp nước ngoài trong thời kỳ mới. Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 90 Danh mục tài liệu tham khảo Tiếng Việt: 1. “Các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực bảo hiểm” – website TTX Việt Nam, cập nhật ngày 11/1/2007 2. “Tổng quan thị trường bảo hiểm năm 2003, 2004, 2005” - Website Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam - www.avi.org.vn 3. “Thị trường bảo hiểm – những thuận lợi và thách thức” – bài phỏng vẫn chủ tịch HĐQT Bảo Việt Lê Quang Bình được phóng viên Anh Minh thực hiện ngày 15/1/2007 4. Bảo Minh – Báo cáo tài chính 2006 5. Hoàng Xuân – “Bảo hiểm sau khi vào WTO: chấp nhận cạnh tranh sòng phẳng” - www.vneconomy.com.vn cập nhật ngày 06/4/2007 6. Nguyên Thành – “ACE Việt Nam có thể cung cấp mọi loại hình bảo hiểm phi nhân thọ” – www.vneconomy.com.vn cập nhật ngày 06/4/2007 7. Nguyễn Kim Phú – Công ty bảo hiểm Sài Gòn “Giải pháp phát triển thị trường bảo hiểm với tiến trình hội nhập quốc tế” 8. PGS. TS Hoàng Văn Châu, TS Vũ Sĩ Tuấn, TS Nguyễn Như Tiến – Giáo trình Bảo hiểm trong kinh doanh - Trường Đại học Ngoại Thương - NXB Khoa học và Kỹ thuật – 2002. 9. PJICO – Báo cáo tài chính 2006 10. PVI – Báo cáo tài chính 2006 11. Tạp chí Bảo hiểm - TBH Việt Nam số 4/2006; số 1/2007; số 2/2007 12. Thùy Trang – Thời báo kinh tế Việt Nam ngày 21/8/2007– “Bảo hiểm đối mặt nhiều thách thức trước giờ G” 13. Các văn bản pháp luật liên quan đến bảo hiểm và tái bảo hiểm của Việt Nam... Tiếng Anh: Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT 91 14. Bao Viet - Annual Report 2005, 2006 15. IISA - Reinsurance Practice - Explain Reinsurance as it is applied in short term insurance 16. Munich Re - Annual Report 2006 17. Swiss Re - Annual Report 2006 18. Swiss Re – Understand Reinsurance hand book 19. Tony Allison - “Risks and rewards in China's insurance market” – www.asiatime.com 20. US-Vietnam Bilateral Trade Agreement - US – Vietnam Trade issue webpage - 21. Vinare - Annual Report 2002, 2003, 2004, 2005 22. WOE - Annual Report 2006 Một số websites tham khảo khác: 23. www.vinare.com.vn 24. www.baoviet.com.vn 25. www.baominh.com.vn 26. www.pvi.com.vn 27. www.pjico.com.vn 28. www.vneconomy.com.vn 29. www.taichinhvietnam.com.vn 30. www.asiatime.com 31. www.re-world.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3723_849.pdf
Luận văn liên quan