Hội nhập quốc tếlà con đường tất yếu đểnền kinh tếcủa một quốc gia
tăng trưởng. Kểtừthời điểm gia nhập WTO, kinh tếViệt Nam nói chung, tài
chính nói riêng đã gặt hái hàng loạt những cơhội, thời cơphục vụmục tiêu
phát triển bền vững. Thịtrường chứng khoán phát triển, tăng vốn đầu tưnước
ngoài, doanh nghiệp kinh doanh dưới sựhỗtrợcủa các gói kích cầu nền kinh
tế, hàng loạt công nghệ, kỹthuật tiên tiến mới được du nhập, ứng dụng cho
việc cải tiến sản phẩm, v.v. là những lợi ích không thểchối bỏcủa hội nhập
quốc tế.
Tuy nhiên, thuận lợi luôn song hành với khó khăn, thời cơluôn đi đôi
với thách thức. Ảnh hưởng từcơn bão khủng hoảng kinh tếtoàn cầu, thịtrường
chứng khoán sụt giảm, doanh nghiệp kinh doanh khó khăn, thịtrường tiêu thụ
sản phẩm cạnh tranh ngày càng gay gắt, v.v. là thách thức không nhỏcho nền
tài chính Việt Nam.
31 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2632 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tài chính trong xu thế hội nhập quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài chính – tiền tệ: Trong xu hướng hội nhập quốc tế, các Tổ
chức tài chính ngày càng lệ thuộc vào nhau, gắn bó lẫn nhau nên đòi hỏi phải có một chuẩn
mực chung giúp các Tổ chức tài chính quốc tế hoạt động hiệu quà. Vì vậy, chuẩn hóa thị
trường tài chính - tiền tệ quốc tế như là xu thế tất yếu trong xu hướng hội nhập quốc tế.
Hiện đại hóa thị trường tài chính – tiền tệ: cùng với sự phát triển mạnh mẽ trong khoa
học công nghệ, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ thông tin đã thúc đẩy thị trường tài chính -
tiền tệ - ngân hàng phát triển vượt bậc. Những công nghệ về phần mềm tài chính, mạng
internet,… đã giúp nâng cao khả năng xử lý các số liệu tài chính giúp dòng chu chuyển vốn
trong một Tổ chức tài chính hay giữa các Tổ chức tài chính với nhau được thực hiện chính
xác, nhanh chóng từ đó làm tăng hiệu quả hoạt động của các Tổ chức tài chính.
2.4. Bất ổn hóa thị trường tài chính.
Sự bất ổn của thị trường tài chính là vấn đề nóng bỏng đang diễn ra trên thế giới.
Khủng hoảng kinh tế thế giới được bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng thứ cấp ở Mỹ đã lan
5
rộng ra khắp thế giới, không có một quốc gia nào có thể nói mình không hề bị ảnh hưởng
bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong điều kiện hội nhập hiện nay. Khủng hoảng
kinh tế thế giới là hậu quả của tự do hóa thương mại toàn cầu, vì vậy mỗi quốc gia phải tự
tìm biện pháp phù hợp với tình hình điều kiện của quốc gia mình để giảm sự ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
3. Những tác động tích cực và tiêu cực đối với nền tài chính Việt Nam trong xu thế hội
nhập quốc tế.
3.1. Những tác động tích cực.
Tất cả các xu hướng tài chính trong hội nhập quốc tế đều vận động theo hướng bổ
sung, thúc đẩy và tác động mạnh mẽ lẫn nhau nhằm góp phần tạo dựng nên một nền kinh tế
thế giới toàn cầu thống nhất và thị trường tài chính thế giới toàn cầu lành mạnh. Các xu
hướng còn góp phần làm thay đổi các phương thức giao dịch, giảm nhiều khó khăn về địa lý,
cũng như về sự khác biệt về điều kiện kinh tế- chính trị. Dưới tác động của xu hướng này,
tất cả các thị trường tài chính quốc tế và khu vực, trong đó có Việt Nam đều có quyền trở
thành chủ thể tích cực của thị trường tài chính thế giới, bất luận thuộc trình độ phát triển nào
về kinh tế, bất luận màu da, sắc tộc và tôn giáo nào. Tham gia vào quá trình này, Việt Nam
có những cơ hội đón nhận những vận hội mới, góp phần thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
diễn ra một cách toàn diện và sâu sắc hơn nữa .
Các xu hướng mới của thị trường tài chính thế giới đã làm thúc đẩy nhanh tốc độ, làm
thay đổi về chất lẫn lượng của nền kinh tế thế giới . Dưới tác động của các xu hướng này,
các nguồn vốn trên thế giới sẽ được phân bổ một cách hiệu quả hơn trên phạm vi quốc tế,
làm tăng cường khả năng huy động vốn trên thị trường tài chính quốc gia và quốc tế. Hệ quả
này là một trong những nguyên nhân khiến lượng vốn đầu tư đổ vào nước ta với số lượng
ngày càng nhiều và quy mô ngày càng lớn. Với tốc độ tăng lên nhanh chóng của các dòng
vốn; đặc biệt dòng vốn đầu tư quốc tế đã góp phần không nhỏ vào quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa cũng như phát triển các ngành công nghệ cao cần một lượng vốn lớn ở các
nước đang phát triển hiện nay.
Các xu hướng này góp phần làm thay đổi quan điểm và phương thức tư duy cũ của nền
kinh tế thế giới, của mỗi quốc gia, đặc biệt là các nhà làm chính sách. Sẽ không thể có một
quốc gia nào, thị trường tài chính nào có thể tồn tại và phát triển được nếu đứng ngoài vòng
vận động khách quan của thị trường tài chính thế giới, Việt Nam cũng vậy. Các xu thế mới
này thúc đẩy thị trường tài chính Việt Nam hoàn thiện hệ thống tài chính và xây dựng nền
6
tài chính vững mạnh. Cụ thể trong quá trình hội nhập vào thị trường tài chính thế giới, thị
trường tài chính Việt Nam phải hoàn thiện và nâng cao hệ thống pháp luật có liên quan các
vấn đề tài chính - tiền tệ; xây dựng hệ thống kiểm soát, giám sát tài chính có hiệu quả, đồng
thời phát triển các loại hình dịch vụ tài chính như: bảo hiểm, kế toán, kiểm toán, dịch vụ về
thị trường chứng khoán…
Những thay đổi về mặt tổ chức và kết cấu của thị trường tài chính và các công ty, tập
đoàn tài chính góp phần mở rộng quan hệ song phương, đa phương hợp tác giữa Việt Nam
và các quốc gia và tổ chức tài chính quốc tế, góp phần nâng cao vị thế thị trường tài chính
Việt Nam trong xu thế hội nhập vào xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới. Ngoài ra các
xu thế đã thúc đẩy sự vận động và lưu chuyển vốn ở Việt Nam nói riêng và quốc tế nói
chung một cách sâu sắc và toàn diện hơn. Các dòng vốn trở thành yếu tố thiết yếu tạo đà
cho sự phát triển khoa học kỹ thuật và lực lượng sản xuất.
3.2. Tác động tiêu cực.
Mặt dù có những tác động hết sức tích cực như trên, nhưng do nhiều nguyên nhân,
trong đó có những nguyên nhân chủ quan cũng như là khách quan, bởi vậy các xu hướng
của thị trường tài chính thế giới cũng tác động tiêu cực vào nền kinh tế thế giới. Những tác
động này cụ thể như sau:
Dưới tác động của xu hướng được phân tích như trên, đặt biệt là xu hướng tự do hóa
dịch vụ tài chính tiền tệ diễn ra mạnh mẽ rộng khắp các thị trường tài chính quốc gia và khu
vực kiến cho tài chính quốc gia và khu vực phụ thuộc vào nhau nhiều hơn, thậm chí trở
thành một bộ phận của thị trường tài chính thế giới thống nhất. Chính nhân tố này đã làm
cho thị trường tài chính Việt Nam chịu rất nhiều sự chi phối và những tác động nhanh chóng
từ thị trường khác. Những ảnh hưởng tiêu cực mang tính chất dây chuyền làm xuất hiện các
nguy cơ khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở quy mô lớn, gây ảnh hưởng trên diện rộng. Những
cuộc khủng hoảng này thường rất khó kiểm soát, khó tháo gỡ và để lại trong một thời gian
dài.
Các nước phát triển dễ dàng lợi dụng các các xu hướng phát triển mới trên đây của thị
trường tài chính thế giới, đồng thời kết hợp với những ưu thế về nền kinh tế của mình để
gây sức ép và thao túng, thậm chí thông qua các hoạt động đầu cơ để hướng các nguy cơ
tiền tệ vào các nước nhỏ, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Trong vòng đàm
phán WTO, Mỹ đã lợi dụng điểm yếu của quy luật thị trường để ép buộc nước ta mở rộng
thị trường tiền tệ đang chưa kiện toàn về cơ chế, nguồn vốn không hung hậu, nên khi xảy ra
7
khủng hoảng tiền tệ mang tính toàn cầu nguồn vốn bị thu hẹp và chảy ra nước ngoài, kinh tế
sẽ gặp nhiều kho khăn. Hơn nữa các nước phát triển còn thông qua chế định các quy tắc cho
các tổ chức kinh tế mang tính thế giới như Ngân hàng thế giới, quỹ tiền tệ quốc tế… nhằm
tạo ra những điều kiện thuận lợi choi mình và không ngừng khống chế các tổ chức này đưa
ra các điều kiện hà khắc, buộc các nước phát triển phải phục tùng.
Các xu hướng này mở ra các cơ hội cho thị trường tài chính quốc gia và khu vực tham
gia vào các dòng chảy chung của thị trường tài chính quốc tế, nhưng cũng chính từ đó mà
cạnh tranh trên thị trường càng diễn ra ngày càng khốc liệt hơn. Xu hướng đa cực hóa các
đồng tiền và các thị trường tài chính quốc gia và khu vực khiến các xung đột trong cạnh
tranh ngày càng trở nên gay gắt. Do đó thị trường Việt Nam nhỏ bé sẽ rất dễ bị chao đảo bởi
tính lũng đoạn của các tập đoàn tài chính quốc gia. Các nguồn vốn đầu tư vào nước ta từ
các nước phát triển luôn đi kèm với các điều kiện về chính trị hoặc chỉ tập trung vào sản
xuất các sản phẩm xuất khẩu sơ cấp nhằm thu hút một lượng lớn tài nguyên ra nước ngoài,
gây tình trạng mất cân đối về ngành nghề.
Dưới tác động của các xu thế này, các dòng tài chính quốc tế càng tăng tính bành
trướng xuyên quốc gia. Hướng phát triển này của thị trường tài chính thế giới đang có nguy
cơ làm phai mờ khái niệm ranh giới truyền thống, gây ra những thay đổi về địa vị, tính chất,
vai trò và năng lực các quốc gia trên thị trường quốc tế, tức là liên quan đến ý nghĩa độc lập
của nền kinh tế từng nước, vấn đề lợi ích và chủ quyền của các quốc gia-dân tộc. Trong một
thế giới mà khái niệm tự do cạnh tranh được đặt trong bối cảnh của sự phát triển không
đồng đều các nền kinh tế thì việc tham gia cạnh tranh quốc tế là một phương thức tất yếu để
đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển. Bởi vậy trong quá trình tham gia cạnh tranh quốc tế,
Việt Nam đều lấy lợi ích quốc gia làm lợi ích căn bản, đồng thời vấn đề nâng cao ý thức bảo
vệ lợi ích quốc gia trong quá trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đặt ra
những thách thức không chỉ riêng Việt Nam mà là tất cả các quốc gia trên thế giới.
8
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, nền tài
chính của Việt Nam có những thay đổi đáng kể theo hướng vừa phù hợp với các cam kết
song phương và đa phương, vừa đảm bảo thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của đất nước
trong giai đoạn mới. Phân tích cơ cấu hệ thống tài chính của Việt Nam hiện nay, có thể nhận
thấy thực trạng như sau:
1. Thị trường tài chính.
1.1. Thị trường tiền tệ.
Thị trường tiền tệ được hiểu là nơi các công cụ nợ ngắn hạn (thương phiếu, kỳ phiếu
thương mại, tín phiếu kho bạc,…) được mua bán với số lượng lớn. Nhìn vào thị trường tiền
tệ Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, có thể nhận thấy như sau:
- Về thị trường liên ngân hàng
Thị trường nội tệ liên ngân hàng ra đời theo Chỉ thị 07/CT-NH1 ngày 07/10/1992 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho phép các tổ chức tín dụng (TCTD) được
thực hiện cho vay và đi vay lẫn nhau và chính thức hoạt động từ tháng 7/1993. Theo Quyết
định số 114/QĐ-NH14 ngày 21/6/1993 ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của thị
trường liên ngân hàng và Quyết định số 190/QĐ-NH14 ngày 06/10/1993 về việc bổ sung,
sửa đổi Quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường liên ngân hàng, thị trường nội tệ liên
ngân hàng được hình thành dưới hình thức là một thị trường tập trung có tổ chức qua Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) và gắn liền với các trung tâm thanh toán bù trừ (Thành phố Hồ Chí
Minh và thành phố Hà Nội) số lượng thành viên tham gia và doanh số hoạt động rất hạn
chế; trong đó, những thành viên là ngân hàng thương mạo (NHTM) nhà nước có khả năng
chi phối trên cả giác độ huy động vốn và cho vay vốn do có lợi thế về tài chính và uy tín. Từ
năm 1997, hoạt động của thị trường diễn ra theo hình thức các ngân hàng trực tiếp vay
mượn lẫn nhau không thực hiện thông qua NHNN. Các ngân hàng thỏa thuận phương thức
giao dịch, thời hạn, lãi suất cũng như điều kiện bảo đảm tiền vay dựa trên mức độ tín nhiệm
và có sự tham gia tích cực của các NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài. Đến nay, phần lớn các giao dịch liên ngân hàng được thực hiện dưới các
hình thức tín chấp, bảo đảm bằng số dư tiền gửi đối ứng tại ngân hàng cho vay; thậm chí
một số ngân hàng đã thực hiện quan hệ vay mượn dưới hình thức gửi tiền lẫn nhau.
9
Đến nay, số lượng thành viên và doanh số hoạt động trên thị trường liên ngân hàng
đã tăng đáng kể, phương thức giao dịch của thị trường ngày càng đổi mới, hầu hết các giao
dịch đều thực hiện qua mạng, thời hạn của các giao dịch khá linh hoạt (qua đêm, 1 tuần, 2
tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng).
Hiện nay, gần 30 NHTM đã thực hiện giao dịch vốn liên ngân hàng (gửi tiền/cho vay
và nhận tiền gửi/đi vay) thông qua hệ thống của Hãng Reuters. Hãng Reuters đã xây dựng
được trang lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng Việt Nam (VNIBOR)
trên cơ sở chào giá hàng ngày của một số ngân hàng. Doanh số giao dịch trên thị trường liên
ngân hàng từ năm 2002 đến nay tăng trung bình khoảng 20% mỗi năm. Kết quả trên đã
chứng minh thị trường nội tệ liên ngân hàng đã thực hiện được vai trò điều tiết vốn ngắn
hạn bằng đồng Việt Nam giữa các ngân hàng, làm tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn của các
TCTD an toàn, hiệu quả.
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng thị trường liên ngân hàng vẫn còn
nhiều bất cập, hạn chế cần hoàn thiện, chẳng hạn như số lượng các thành viên tham gia và
quy mô giao dịch còn hạn chế và phần lớn là để giải quyết nhu cầu về khả năng thanh toán,
lãi suất trên thị trường liên ngân hàng và lãi suất tái cấp vốn chưa phản ánh chính xác quan
hệ cung cầu và xu hướng vận động của thị trường tiền tệ,…
- Về thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc
Nghiệp vụ thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc được thực hiện từ tháng 5/1995 và trải
qua các giai đoạn phát triển sau:
+ Từ năm 1995 đến 1999: phát hành tín phiếu kho bạc và trái phiếu kho bạc;
+ Từ năm 1999 đến 2003: phát hành tín phiếu kho bạc;
+ Từ năm 2003 đến nay: phát hành tín phiếu kho bạc và trái phiếu ngoại tệ (USD, kỳ
hạn 5 năm).
Theo Thông tư 19/2004/TT-BTC ngày 18/3/2004 của Bộ Tài chính, hiện nay có hai
loại trái phiếu đang được đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước là: Tín phiếu kho bạc Nhà nước
và Trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ (trái phiếu ngoại tệ).
Trước đây, số đơn vị được NHNN công nhận thành viên thị trường đấu thầu Trái phiếu
kho bạc là 47 thành viên. Tuy nhiên trong quá trình tham gia, có một số thành viên đã
không tham dự một phiên đấu thầu nào. Sau khi áp dụng Quy chế đấu thầu Trái phiếu chính
phủ (TPCP) theo Quyết định 935/2004/QĐ-NHNN ngày 23/7/2004 và triển khai chương
10
trình đấu thầu TPCP qua mạng, NHNN xem xét và công nhận tổng số thành viên thị trường
đấu thầu TPCP đến nay là 20 thành viên.
Việc đấu thầu tín phiếu kho bạc qua NHNN đã mở ra một kênh huy động vốn với chi
phí thấp cho ngân sách Nhà nước. Doanh số và tỷ trọng tín phiếu kho bạc phát hành dưới
hình thức đấu thầu qua NHNN trong tổng doanh số huy động vốn của Kho bạc Nhà nước
tăng qua các năm. Điều này phù hợp với xu thế phát triển thị trường và thông lệ quốc tế.
Bên cạnh đó, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc đã trở thành nguồn cung cấp hàng hóa
chủ yếu cho các giao dịch nghiệp vụ tiền tệ giữa NHNN với các NHTM, nhất là nghiệp vụ
thị trường mở để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia.
Kỳ hạn tín phiếu kho bạc đến nay đã đa dạng hơn trước, gồm 364 ngày, 273 ngày và
182 ngày. Bên cạnh các NHTM nhà nước, các NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi
nhánh ngân hàng nước ngoài cũng đã từng bước trở thành thành viên tham gia thị trường.
Tuy nhiên, bên cạnh các thành tựu đạt được, vẫn còn nhiều hạn chế như số lượng
thành viên tham gia trên thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc vẫn còn hạn hẹp (thành viên
chủ yếu vẫn là các NHTM), lãi suất trên thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc vẫn còn nhiều
bất cập, hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn có những hạn chế nhất định.
1.2. Thị trường vốn
Thị trường vốn được hiểu là nơi các công cụ vốn, công cụ nợ trung và dài hạn (trái
phiếu dài hạn, cổ phiếu,…) được trao đổi, chuyển nhượng theo quy định của pháp luật. Nhìn
vào thị trường vốn Việt Nam hiện nay, có thể nhận thấy rằng sau ba năm gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), nhiều quỹ đầu tư và các nhà đầu tư nước ngoài đang tích cực
rót vốn vào thị trường vốn Việt Nam. Trong đó phải kể đến thời điểm giữa năm 2006,
VinaCapital khai trương quỹ đầu tư bất động sản Vinaland với dự kiến huy động 50 triệu
USD nhưng đã nhận được 65 triệu từ các nhà đầu tư, Indochina Capital dự kiến thu hút từ
300-350 triệu USD, kết quả, tổng số vốn huy động được là 500 triệu USD. Mekong Capital
mở rộng qui mô với 50 triệu USD cho MEFII (Mekong Enterprise Fund II). Indochina
Capital góp mặt với quỹ địa ốc 42 triệu USD và quỹ chứng khoán qui mô 50 triệu USD.
Ngoài ra, còn phải kể tới quỹ đầu tư của các tập đoàn bảo hiểm quốc tế tại Việt Nam như
Prudential Vietnam hay Manulife Vietnam với mức vốn đăng ký vài chục triệu USD. Điều
này một mặt có ý nghĩa khích lệ to lớn, mặt khác cũng đem lại những khó khăn thách thức
trong định hướng phát triển thị trường và nền kinh tế để phù hợp với cam kết gia nhập WTO.
11
Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam ra đời hình thành một kênh huy động
nguồn lực mới trong nền kinh tế. Tính đến tháng 6/2008, sau 8 năm hoạt động, quy mô thị
trường mở rộng với 299 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ giao dịch trên cả hai sàn giao dịch, 87
công ty chứng khoán, 30 công ty quản lý quỹ và xấp xỉ 300.000 tài khoản đầu tư (trong đó,
trên 7.000 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài).
Tổng số cổ phiếu niêm yết
Nguồn: www.asset.vn
Huy động vốn qua thị trường chứng khoán Việt Nam qua các năm
(Đơn vị: Ngàn tỷ VND)
Năm 2000 2004 2006 2007 2008 2009
Số công ty 5 26 193 250 299 415
%GTTT/GDP 0,24 0,55 22,7 43,7 15,1 55
Nguồn: Uỷ ban chứng khoán nhà nước.
Nguồn FPI đã được khuyến khích chuyển vào TTCK Việt Nam khi chỉ số thị trường
tăng lên gấp đôi từ năm 2006. Trong năm 2007, có khoảng 10 tỉ USD FPI vào Việt Nam
Tuy nhiên, thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay là rất phân tán, thiếu hấp dẫn và
chưa có hệ thống thông tin tập trung. Một trong những trở ngại lớn nhất hiện nay là sự khan
hiếm sản phẩm mới để thỏa mãn nhu cầu của các nhà đầu tư, thủ tục phát hành,…
12
2. Các chủ thể tài chính.
2.1. Tài chính công.
Tài chính công được đặc trưng bằng các quỹ tiền tệ của các định chế thuộc khu vực
công gắn liền với việc thực hiện các chức năng của nhà nước. Trong khuôn khổ đề tài này,
nhóm tác giả xin tập trung làm rõ nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước.
Hiện nay, tại Việt Nam tồn tại một khó khăn rất lớn cần khắc phục trong thời gian tới,
đó là nguồn thu chủ yếu nộp vào ngân sách nhà nước là thuế gián thu (thuế trị giá gia tăng,
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt,…) trong khi nguồn thu từ thuế trực
thu không đáng kể (chỉ chiếm khoảng ¼ ngân sách nhà nước). Theo các cam kết quốc tế,
các rào cản thuế quan và phi thuế quan của Việt Nam phải bị cắt giảm trong thời gian tới,
hay nói cách khác nguồn thu từ thuế gián thu sẽ bị giảm đáng kể. Điều này sẽ có tác động
lớn đến nguồn ngân sách nhà nước và nếu không có biện pháp hiệu quả tăng nguồn thu từ
thuế trực thu trong thời gian tới, hệ quả về mặt kinh tế xã hội là rất lớn. Xuất phát từ thực tệ
này cộng với việc giá dầu thế giới năm 2009 không cao bằng năm 2008, tình hình khủng
hoảng tài chính thế giới,… mà nguồn thu vào ngân sách nhà nước Việt Nam năm 2009 bị
giảm mạnh, trong khi đó mức chi phải tăng lên để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế dẫn đến
bội chi ngân sách Việt Nam năm 2009 lên đến con số 115.900 tỷ đồng, bằng 6,9% GDP.
Đây là một con số cho thấy tình hình thu chi ngân sách Việt Nam còn rất nhiều vấn đề phải
xem xét lại.
2.2. Tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp được đặc trưng bằng các loại vốn hay các quỹ tiền tệ phục vụ
cho hoạt động của các công ty, các đơn vị kinh tế trong việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ.
Tổng số vốn của khối doanh nghiệp tính đến thời điểm cuối năm 2008 là hơn 4.500
nghìn tỷ đồng, gấp 1,5 lần thời điểm năm 2006, tăng thêm gần 1.500 nghìn tỷ đồng, nguồn
vốn bình quân mỗi doanh nghiệp đạt gần 40 tỷ đồng (năm 2008). Trong đó, DNNN chiếm
trên 50% tổng số vốn, doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm gần 30% tổng vốn, còn lại là
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Tuy tổng nguồn vốn không nhiều nhưng khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước có tốc
độ tăng nhanh và mạnh nhất trong toàn khối (trên 40%/năm), khu vực doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài vẫn duy trì tốc độ tăng cao và ổn định (khoảng 20%/năm). Riêng khu vực
DNNN, dưới tác động tích cực của chính sách nhà nước trong đổi mới, sắp xếp lại DNNN
13
trong mấy năm gần đây, nên tốc độ tăng nguồn vốn của ngành này tăng lên đáng kể (gần
20%/năm).
Xét về cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp thì khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thể
hiện khả năng độc lập về tài chính là cao nhất, với tỷ lệ hơn 40% vốn chủ sở hữu trong tổng
nguồn vốn. Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước khá tương đối độc lập ở mức gần 40%.
Trong khi đó, khu vực nhà nước chủ yếu là nợ phải trả, nguồn vốn phụ thuộc chủ yếu vào
bên ngoài, chưa năm nào mức độ độc lập về tài chính chạm đến mức 30%.
2.3. Các trung gian tài chính
Các trung gian tài chính bao gồm các định chế gắn liền với đặc trưng cơ bản là thực
hiện trung gian trong việc cung cấp vốn và các dịch vụ tài chính trên thị trường tài chính.
Các định chế trung gian tài chính gồm ngân hàng, công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, công ty
tài chính,… Trong khuôn khổ đề tài này, nhóm tác giả xin đề cập đến ngân hàng với tư cách
là định chế tài chính trung gian quan trọng nhất ở Việt Nam hiện nay.
Quy mô vốn tự có của các ngân hàng còn thấp
Trong khi nhu cầu vay vốn ngày càng tăng, thì cung đáp ứng từ phía các ngân hàng
thương mại còn chưa đủ. Hiện nay, quy mô và thị trường hoạt động của các NHTM không
ngừng mở rộng, hầu hết các NHTM đều kinh doanh đa năng. So với những năm 90 của thế
kỷ 20, đến nay mức huy động vốn của hệ thống NHTM Việt Nam đã tăng lên gấp gần 50
lần. Cơ cấu huy động vốn được đa dạng hoá thông qua các hình thức huy động tiết kiệm,
phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, tiền gửi thanh toán. Việc sử dụng vốn
cũng đã chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng hoạt động đầu tư và dịch vụ thông qua các
hình thức cho vay, đầu tư chứng khoán, kinh doanh ngoại hối, góp vốn liên doanh… So với
GDP, hệ thống NHTM đã huy động vốn tương đương 60%, tương ứng với mức dư nợ hơn
50%. Qua đó cho thấy, các NHTM đã giữ vai trò chủ đạo trên thị trường tiền tệ, thị trường
vốn của Việt Nam trong bối cảnh thị trường chứng khoán vẫn chưa phát triển.
Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng cũng đang gặp phải rất nhiều khó khăn, vướng mắc khi
mở rộng cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp như: quy mô vốn tự có thấp (ngay cả các
ngân hàng quốc doanh, chưa có ngân hàng nào có vốn tự có thực trên 01 tỷ USD), trình độ
thẩm định dự án chưa cao, rủi ro tín dụng theo chuẩn mực quốc tế có nguy cơ gia tăng,
trong đó, đặc biệt là nguy cơ vốn tự có thấp làm hạn chế khả năng cạnh tranh và cung cấp
tín dụng cho các doanh nghiệp của hệ thống ngân hàng. Khả năng tự bổ sung vốn tự có từ
các nguồn lợi nhuận lại thấp do khả năng sinh lời từ các NHTM quốc doanh không cao.
14
Theo đánh giá của các chuyên gia Ngân hàng thế giới cho thấy, mức độ chênh lệch giữa lãi
suất huy động đầu vào và lãi suất cho vay đầu ra của các NHTM quốc doanh là rất thấp,
bình quân chỉ đạt khoảng 1,6 – 1,8%/năm, mức này rất khó để có lợi nhuận bổ sung vào
nguồn vốn tự có hàng năm. Về bảo đảm tỷ lệ an toàn vốn (vốn tự có trên tổng tài sản có rủi
ro) của các tổ chức tín dụng, chỉ có các NHTM cổ phần do bị kiểm soát gắt gao hơn nên đạt
tỷ lệ 8% (theo quy định chuẩn mực quốc tế), còn lại hầu hết các NHTM quốc doanh mới chỉ
đạt 5%. Giới hạn về quy mô vốn tự có cũng làm hạn chế cho vay vì một ngân hàng không
được phép cho vay một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có. Khi chưa thể tăng được vốn tự
có, đồng thời lại luôn đứng trước sức ép phải cho vay, nếu càng huy động (phải trả lãi) để
cho vay thì hệ số an toàn của các NHTM càng giảm xuống.
Mở rộng tín dụng luôn phải đối phó với sự gia tăng nợ quá hạn. Theo tính toán của
Việt Nam, tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng đã vượt quá mức cho phép, của toàn hệ thống
là 6%. Nếu tính theo chuẩn mực quốc tế thì tỷ lệ này ở Việt Nam là 15%, trong khi quy định
tỷ lệ này không được quá 5%. Như vậy, các ngân hàng đang đứng trước khó khăn về sức ép
cho vay nhưng cũng đối mặt với việc quản lý khoản vay như thế nào để bảo đảm an toàn
cho hệ thống ngân hàng.
Quan niệm phân biệt đối xử của ngân hàng
Việc tồn tại quan niệm phân biệt giữa doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước với doanh
nghiệp ngoài Nhà nước đã làm hạn chế khả năng tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hàng của
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đặc biệt ở các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, tình
trạng bất bình đẳng này càng biểu hiện rõ rệt, bởi tâm lý cho các doanh nghiệp thuộc sở hữu
nhà nước vay, nếu khách hàng không có khả năng trả nợ thì đã có Nhà nước đứng đằng sau
hỗ trợ, bao bọc. Chính tâm lý này dẫn đến các DNNN tận dụng sự ưu đãi và vay ngân hàng
một cách ồ ạt, không quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn vay như thế nào. Cuối cùng, khi
doanh nghiệp không có khả năng trả nợ, ngân hàng dùng chính tài sản thế chấp của Nhà
nước đem thanh lý để thu hồi vốn cho Nhà nước. Thậm chí, nhiều DNNN lợi dụng ưu thế
này, vay vốn từ các ngân hàng rồi lại cho các doanh nghiệp ngoài Nhà nước vay để hưởng
chênh lệch lãi suất. Với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp, trên cơ sở thống nhất giữa Luật
Doanh nghiệp và Luật DNNN đã xoá bỏ rào cản giữa các doanh nghiệp, tạo sự bình đẳng
giữa các loại hình doanh nghiệp thuộc sở hữu khác nhau trong nền kinh tế. Bên cạnh đó,
cùng với tiến trình cổ phần hoá các DNNN thì số lượng các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà
nước sẽ còn rất hạn chế, sẽ không còn cơ chế khoanh nợ, giãn nợ hay gia hạn nợ của Nhà
15
nước với các DNNN như trước đây. Trước tình hình mới, đòi hỏi các ngân hàng, đặc biệt
các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, cần có sự thay đổi trong tư duy kinh doanh. Ngân
hàng nên xoá bỏ tư duy quá chú trọng vào vấn đề sở hữu, vào khả năng thu hồi vốn trong
trường hợp doanh nghiệp không trả được nợ, mà nên chú trọng vào việc nhìn nhận và đánh
giá năng lực phát triển cũng như tính khả thi của dự án sử dụng vốn vay. Nếu không chính
các ngân hàng này sẽ bị các ngân hàng cổ phần thương mại và các ngân hàng nước ngoài
thu hút hết khách hàng của mình.
Chất lượng thẩm định dự án chưa cao
Quyết định cho vay dựa trên đánh giá năng lực phát triển cũng như tính khả thi của dự
án vay vốn, phụ thuộc vào việc thẩm định dự án vay vốn, mà trực tiếp trách nhiệm đặt lên
vai cán bộ thẩm định dự án của ngân hàng. Trong điều kiện năng lực thẩm định của cán bộ
ngân hàng còn hạn chế thì đây là một rào cản lớn đối với khả năng tiếp cận vốn của doanh
nghiệp. Chất lượng thẩm định dự án vay vốn chưa cao, nhiều dự án tiềm ẩn rủi ro nhưng do
cán bộ ngân hàng chưa có khả năng nhận biết và đánh giá rủi ro nên vẫn chấp nhận cho vay,
đó là chưa kể đến trường hợp cán bộ thẩm định lợi dụng “quyền hạn” này để kiếm lời.
Trong khi đó, nhiều dự án khả thi nhưng do thiếu thông tin, chưa cập nhật và khả năng dự
báo thấp nên có thể từ chối cho vay làm lỡ cơ hội kinh doanh của khách hàng, cũng như của
chính ngân hàng.
Ngoài ra, quy trình vay vốn phức tạp và rườm rà, quá trình thẩm định kéo dài, chi phí
vay vốn lớn cũng làm cho các doanh nghiệp nản lòng và có xu hướng chuyển sang vay từ
các nguồn không chính thức khác cho dù với mức lãi suất cao hơn, đặc biệt là khu vực
doanh nghiệp ngoài Nhà nước.
2.4. Tài chính cá nhân và hộ gia đình.
Theo nghĩa rộng, tài chính cá nhân và hộ gia đình là một định chế tài chính vốn quan
trọng trong hệ thống tài chính. Đặc trưng cho bộ phận hoạt động tài chính này là sự tồn tại
của các quỹ tiền tệ được sở hữu bởi cá nhân hoặc hộ gia đình. Nguồn hình thành quỹ tiền tệ
của cá nhân hoặc hộ gia đình bao gồm thu nhập từ lao động, thu nhập từ góp vốn đầu tư cho
kinh doanh, thu nhập từ tài sản thừa kế và quà tặng,…Nhìn vào thực trạng nguồn tài chính
của cá nhân và hộ gia đình Việt Nam hiện nay, có thể nhận thấy như sau:
Ngày 31/12/2008, Tổng cục Thống kế đã chính thức công bố các chỉ số kinh tế năm
2008 của cả nước. Con số GDP tuyệt đối của cả nước năm 2008 đạt 1.487 ngàn tỷ đồng.
Với dân số Việt Nam khoảng 86.160 ngàn người, GDP bình quân của mỗi người dân đạt
16
khoảng 17 triệu đồng. Với giá USD hoạch toán trung bình của năm 2008 là 16.700
đồng/USD thì GDP trung bình của người dân Việt Nam đã đạt 1.024 USD/người. Con số
này tăng hơn 20% so với mức 832 USD/người vào năm 2007. Trong bối cảnh kinh tế thế
giới đang suy thoái mạnh thì đây là một thành tựu rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên, nhìn lại
diễn biến thị trường tài chính năm 2008 sẽ thấy rằng GDP bình quân đầu người đạt trên
1.000 USD không hẳn là một điều quá vui mừng vì năm 2008 lạm phát cao và đồng USD
mất giá khá mạnh. Năm 2008, lạm phát tính qua chỉ số CPI đã lên đến 19,89%, USD mất
giá 2,35%. Vì thế, chưa thể kết luận với mức GDP bình quân đầu người 1.024 USD/người
có nghĩa Việt Nam vượt qua được ngưỡng nước nghèo.
Mức GDP/người tăng đáng kể hàng năm đã làm cho thu nhập của người dân và các hộ
gia đình của Việt Nam tăng lên nhanh chóng. Trong gần 10 năm đầu của thế kỷ 21, mức
sống của đại bộ phận nhân dân đã được cải thiện hơn nhiều. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều
vấn đề cần giải quyết để tạo ra sự tăng trưởng nhanh và bền vững.
3. Cơ sở hạ tầng tài chính
Cơ sở hạ tầng tài chính được hiểu là những nền tảng để qua đó các doanh nghiệp, nhà
đầu tư, cá nhân lập kế hoạch và thực hiện các giao dịch tài chính với các trung gian tài chính
và thị trường tài chính. Cơ sở hạ tầng tài chính hỗ trợ và thúc đẩy sự hoạt động hiệu quả của
hệ thống tài chính. Nhìn chung, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cơ sở hạ
tầng tài chính ở Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể, thể hiện qua các mặt cụ thể sau
đây:
Hệ thống luật pháp và quản lý nhà nước: với sự ra đời và hoàn thiện của Luật Ngân
hàng nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm,… có thể khẳng định
rằng các cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động tài chính tại Việt Nam đã được hoàn thiện phù
hợp với các cam kết quốc tế.
Hệ thống giám sát: hoạt động giám sát tài chính được thực hiện có tính thường xuyên,
định kỳ và trên diện rộng đã có tác động lớn đến hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực này. Các
công cụ giám sát được mở rộng và sử dụng một cách triệt để.
- Hệ thống thông tin: đáp ứng yêu cầu gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO),
việc công khai và minh bạch các thông tin nói chung và thông tin trong lĩnh vực tài chính
nói riêng đã được Việt Nam nỗ lực thực hiện và đạt được những thành tựu đáng khích lệ.
Hiện nay, các thông tin về quá trình soạn thảo các dự án luật về tài chính, thông tin hoạt
17
động của thị trường chứng khoán,… được công khai trên các phương tiện thông tin đại
chúng, thu hút sự tham gia của tất cả các tầng lớp trong xã hội.
Hệ thống thanh toán: đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Việt Nam
đã từng bước hiện đại hóa hệ thống tài chính, trong đó ứng dụng mạnh công nghệ thông tin
trong thanh toán, đặc biệt là thanh toán quốc tế. Hiện nay, tại các các ngân hàng thương mại
Việt Nam, việc thanh toán đã được thực hiện nhanh chóng, an toàn và chính xác, đáp ứng
tốt nhu cầu của khách hàng. Nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam đã có mạng lưới quan
hệ đại lý với nhiều ngân hàng lớn trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của
doanh nghiệp.
Hệ thống dịch vụ chứng khoán: từ khi chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7/1997, thị
trường chứng khoán Việt Nam (bao gồm Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí
Minh, Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, các công ty chứng khoán,…) đã có những
bước chuyển biến mạnh mẽ. Hiện nay, quy mô giao dịch trên các thị trường này ngày càng
lớn, nguồn vốn được huy động ngày càng cao. Đây là tiền đề rất tốt cho sự phát triển trung
và dài hạn. Tuy nhiên, nhiều hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay vẫn
mang tính đầu cơ là chủ yếu, cần một hành lang pháp lý đầy đủ hơn và cơ chế thực thi pháp
luật chặt chẽ hơn để kiểm soát, tiến tới loại bỏ hành vi này.
Nguồn nhân lực: công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực tài
chính đang được các cơ sở đào tạo chú trọng cao. Tại Việt Nam hiện nay có nhiều cơ sở đào
tạo nguồn nhân lực tài chính ở nhiều cấp và loại hình khác nhau, chẳng hạn như Học viện
tài chính, Trường Đại học Tài chính – Marketing, chuyên ngành tài chính ở các trường đại
học, cao đẳng thuộc khối ngành kinh tế,… Dự kiến trong thời gian tới, nhu cầu đối với
nguồn lực này là rất lớn, do vậy Bộ Giáo dục & Đào tạo, Bộ Tài chính,… cần có giải pháp
đồng bộ để đáp ứng được nhu cầu này cả về số lượng lẫn chất lượng.
Qua phân tích ở trên cho thấy nền tài chính Việt Nam đã được những thành tựu đáng
kể trong quá trình hội nhập hiện nay. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều tồn tại và hạn
chế cần khắc phục. Điều này đòi hỏi phải có một hệ thống giải pháp đồng bộ từ trung ương
đến địa phương để nhanh chóng nâng cao hiệu quả hoạt động của cả hệ thống tài chính, góp
phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
18
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRONG
BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ.
1. Giải pháp từ phía NHTW:
Phải chủ động tự do hoá tài chính trên cơ sở: Minh bạch hoá mối quan hệ giữa Chính
sách Tiền tệ và Chính sách tài khóa, làm cho cả 2 chính sách này ngày càng lành mạnh bằng
cách trao nhiều quyền lực cho NHTW trong việc hoạch định và thực thi Chính sách Tiền tệ.
NHTW phải đủ sức và đủ công cụ để bảo đảm ổn định sức mua của đồng tiền Việt nam; Đủ
sức kiểm soát và làm chủ các nghiệp vụ chính của NHTW như: Điều hành thị trường tiền tệ;
Điều hành và kiểm soát toàn bộ hệ thống thanh toán quốc gia; Đảm bảo trên đất Việt nam
chỉ tiêu tiền Việt Nam và nhanh chóng thực hiện lộ trình tự do chuyển đổi cho đồng tiền
Việt Nam; Đổi mới cơ chế và quyền lực trong hoạt động thanh tra giám sát hoạt động Ngân
hàng của mọi loại Định chế tài chính (ngay cả khi có Uỷ Ban giám sát tài chính ngoài
NHTW).
Mọi hoạt động có tính chất đầu tư của khu vực tài chính công phải thực hiện thống
nhất theo cơ chế thị trường, đều phải bị điều chỉnh thống nhất bởi Luật chuyên ngành về
Ngân hàng; Hạn chế dần và có kỷ cương minh bạch, công khai về các hoạt động tín dụng
chính sách ưu đãi đối với khu vực thuộc đối tượng chính sách ưu đãi của Nhà nước; Thống
nhất một mạng thanh toán quốc gia đối với mọi Pháp nhân có quan hệ thanh toán với Ngân
hàng, kể cả khu vực NSNN và khu vực tài chính Nhà nước ngoài NSNN.
Cần phải đứng trên lợi ích của Nhà nước để dẫn dắt thị trường bằng cách có chính sách
“dãn” rộng hơn khoảng cách giữa các lần cổ phần hoá từng NHTM NN hay từng DNNN
nếu không, một bộ phận tài sản của Nhà nước sẽ có xu hướng rơi vào tay cá nhân các nhà
đầu cơ.
Đào tạo và từng bước phổ cập kiến thức phổ thông về cung ứng và “mua” các dịch vụ
tiện ích từ Ngân hàng. Mở rộng việc chuyển quan hệ tín dụng trực tiếp giữa cá nhân với
Ngân hàng sang quan hệ tín dụng gián tiếp thông qua các Công ty, Nhà máy chế biến, Tập
đoàn công nghiệp, Tập đoàn thương mại đồng thời có chính sách khuyến khích phát triển
mạnh mẽ việc mở tài khoản thanh toán qua Ngân hàng của cả Pháp nhân và thể nhân để
cùng với các giải pháp công nghệ nhanh chóng nhất thể hoá thẻ thanh toán trên lãnh thổ
Việt nam ...
19
Đối với CSTT:
• Hạn chế đến mức thấp nhất sự can thiệp quá sâu của chính phủ các cơ quan, tổ chức
đối với các hoạt động của NHNN. Tiếp tục hoàn thiện các công cụ điều hành chính sách tiền
tệ theo hướng chuyển từ kiểm soát trực tiếp sang gián tiếp.
• Đẩy mạnh và phát triển thị trường liên NH: Từng bước hoàn thiện hệ thống thị
trường tiền tệ thứ cấp, đặc biệt là thị trường liên NH về nội tệ và ngoại tệ. Phát triển các
công cụ tài chính của thị trường này, đặc biệt là các công cụ phái sinh như: forward, swap,
option, các giao dịch phòng tránh rủi ro về tỷ giá, lãi suất; tập trung xây dựng và hoàn thiện
các quy chế cho thị trường tiền tệ.
2. Giải pháp từ phía các ngân hàng Thương mại.
- Ngân hàng TMNN:
• Tăng cường năng lực hoạt động và quản lý kinh doanh. Đa dạng hoá sản phẩm và
dịch vụ, phát triển sản phẩm mới dựa trên cơ sở công nghệ tiên tiến về nghiệp vụ bán lẻ,
thanh toán và giao dịch. Chuẩn hoá các qui trình và thủ tục quản lý theo hướng đồng bộ,
hiện đại, tự động hóa và phù hợp thông lệ quốc tế.
• Phân biệt chức năng của NHTW và NHTM; chức năng cho vay của Ngân hàng
chính sách với chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng khác của
NHTM.
• Gắn cải cách Ngân hàng với cải cách doanh nghiệp Nhà nước - Đặc biệt là xử lý
dứt điểm phương án trả nợ Ngân hàng trước khi thay đổi sở hữu của Doanh nghiệp.
• Cổ phần hoá các NHTM Nhà nước gắn liền với hiện đại hoá công nghệ và trình độ
quản lý, cho phép các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các TCTD có tiềm lực tài chính,
công nghệ, quản lý và uy tín quốc tế mua cổ phiếu đến mức trần tối đa cho phép và đủ tư
cách để tham gia điều hành...
• Đón trước và có lộ trình chi tiết cho xu hướng Tập Đoàn hoá các NHTM Nhà nước
sau cổ phần hoá – Theo đó ngoài việc hình thành và vận dụng các mô hình quản trị hiện đại
thì vấn đề tìm chọn các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, hoặc liên danh, hoặc trở thành
nhà đầu tư chiến lược vào các NHTMCP nhỏ... là những định hướng phát triển lành mạnh
và tất yếu sẽ xảy ra. Nếu các NHTM Nhà nước ngay từ bây giờ chủ động vạch ra chiến lược
20
cấu trúc sở hữu mới một cách chủ động theo hướng trên thì sự phát triển chắc chắn sẽ thành
công trong trật tự và đảm bảo tính ổn định, sự bền vững trong phát triển hướng tới tương lai.
- Ngân hàng TMCP:
• Củng cố và phát triển hệ thống NHTMCP theo hướng tăng cường năng lực tài
chính và quản lý, đồng thời giải thể, khuyến khích sáp nhập, hợp nhất hoặc bán lại các
NHTMCP yếu kém, mất khả năng thanh toán, chất lượng tín dụng thấp, khả năng sinh lời
thấp và trình độ quản lý không đảm bảo yêu cầu an toàn và phát triển, tiến hành giám sát
đặc biệt đối với các NH có tình trạng nợ xấu nghiêm trọng.
• Bảo đảm quyền kinh doanh của các Ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài
theo các cam kết quốc tế đã ký kết theo hướng kiểm soát chặt chẽ sự phát triển thêm của các
chi nhánh và khuyến khích hình thành loại NH 100% vốn tại Việt Nam hoạt động theo Pháp
luật Việt Nam.
• Giúp đỡ và thúc đẩy các TCTD trong nước nâng cao năng lực quản lý và trình độ
nghiệp vụ, có khả năng cạnh tranh với các TCTD nước ngoài.
- Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn của NHTM kết hợp với đổi mới công nghệ
thanh toán với những dịch vụ mới như Internet Banking, SMS Banking, Mobile Banking,...
cải tiến chính sách lãi suất đa dạng tương ứng với những hình thức huy động, cho phép
chuyển đổi dễ dàng giữa những hình thức huy động. Nâng cao chất lượng huy động vốn
bằng cách cải tiến cung cách phục vụ khác hàng niềm nở đón tiếp khách hàng, bố trí thực
hiện thêm giờ hành chính đề thuận tiện cho khách hàng giao dịch với NH. Đẩy mạnh công
tác Marketing nhằm nắm giữ khách hàng cũ và khéo léo thu hút khách hàng mới đến với
NH bằng chất lượng dịch vụ không ngừng gia tăng.
- Xây dựng thí điểm và đưa vào áp dụng mô hình tổ chức NHTM hiện đại theo tiêu
chuẩn quốc tế. Tiến hành cơ cấu tổ chức lại và quản lý các NHTM theo nhóm khách hàng
và loại dịch vụ của một NH đa năng, thay thế dần cho việc quản lý theo chức năng và
nghiệp vụ hiện nay, đồng thời nâng cao trình độ quản lý rủi ro, quản lý tài sản Nợ - tài sản
có, và kiểm soát nội bộ, nhằm để tạo tiền đề xây dựng một số tập đoàn tài chính mạnh, có
khả năng hoạt động như một NH quốc tế.
21
3. Giải pháp từ phía Doanh nghiệp:
- Xây dựng chiến lược thị trường, chiến lược phát triển trong hội nhập: Trên thị
trường toàn cầu, doanh nghiệp nước ta có thể đưa sản phẩm của mình thâm nhập sâu hơn
vào thị trường toàn cầu, đồng thời các nhà đầu tư nước ngoài cũng sẽ không bỏ lỡ cơ hội
thâm nhập thị trường Việt Nam. Trong đó, nguyên tắc cạnh tranh được áp dụng phổ biến
giữa các doanh nghiệp, các nền kinh tế; nhưng đó là cùng hợp tác và cạnh tranh, một cuộc
cạnh tranh có văn hóa. Mỗi doanh nghiệp cần khẩn trương soát xét lại kế hoạch kinh doanh,
thực hiện các biện pháp đầu tư, mở rộng quy mô, v.v... bằng sức của mình hoặc thông qua
liên kết, liên doanh để nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm
hàng hóa và dịch vụ của mình trên phạm vi toàn cầu. Làm được như vậy, sản phẩm hàng
hóa của mình có chỗ chen chân, có thị trường lớn, có thị trường ngách, có sản phẩm cao cấp,
có sản phẩm bình dân, ... có điều kiện phân khúc thị trường để tìm ra chỗ đứng vững chắc,
lâu bền cho sản phẩm và doanh nghiệp của mình.
- Ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại trong sản xuất kinh doanh:
• Đối với doanh nghiệp, mức độ ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất là
thước đo chủ yếu về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc nghiên cứu, ứng dụng
khoa học, công nghệ cần tập trung vào những sản phẩm chủ lực của mỗi doanh nghiệp, phân
tích những mặt yếu của sản phẩm trong thế so sánh với các sản phẩm cùng loại trên thị
trường, từ đó, đề ra các giải pháp nhằm cải thiện mẫu mã, nâng cao chất lượng, xây dựng
thương hiệu, tìm kiếm thị trường cho sản phẩm và doanh nghiệp.
• Để gắn khoa học, công nghệ với sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, cần mở rộng
hơn nữa các quan hệ liên kết giữa nhà khoa học, các trường, viện, cơ quan nghiên cứu khoa
học với doanh nghiệp, thông qua hình thức hợp đồng mà gắn kết quả ứng dụng với lợi ích
của các bên tham gia, bảo đảm cho mối quan hệ liên kết, hợp tác thêm chặt chẽ, đem lại
hiệu quả thiết thực.
- Áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật về năng suất, chất lượng:
• Trên thị trường toàn cầu hiện nay, sự thỏa mãn của khách hàng không còn giới hạn
trong các nội dung như chất lượng của sản phẩm hàng hóa, giá cả, thời hạn giao hàng như
trước, mà còn bao gồm các yêu cầu cao hơn về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, về sức
khỏe của người lao động trong doanh nghiệp, vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu
dùng, đặc biệt là về bảo vệ môi trường là vấn đề bức xúc đang được báo động toàn cầu, v.v...
22
Mỗi sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đều phải được bảo đảm bằng những tiêu chuẩn được thế
giới công nhận và áp dụng đối với các lĩnh vực nói trên.
• Để bảo đảm các yêu cầu khắt khe ấy, mỗi doanh nghiệp đều phải xây dựng nhiều
hệ thống quản lý chất lượng. Nếu các biện pháp bảo đảm chất lượng, an toàn, vệ sinh thực
phẩm ,... được xây dựng vào trong các quy trình tác nghiệp của doanh nghiệp và được văn
bản hóa nhằm bảo đảm sự tuân thủ thì mọi khía cạnh chất lượng toàn diện nhằm tạo ra sự
thỏa mãn toàn diện của khách hàng và cộng đồng sẽ được đáp ứng.
- Phát triển nguồn nhân lực:
• Trong doanh nghiệp, nhân lực được coi là nguồn vốn đặc biệt, là tài sản quý giá
nhất, là sức lao động quan trọng nhất. Nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ tạo ra giá trị gia
tăng cao của doanh nghiệp. Phát triển nhân lực, chăm lo cho con người trong doanh nghiệp
về tất cả các khía cạnh trong cuộc sống của mọi cá nhân, từ tình trạng sức khỏe tới sự tự do
về kinh tế và chính trị là giải pháp cơ bản, lâu dài để doanh nghiệp phát triển, nâng cao sức
cạnh tranh trong hội nhập.
• Mỗi doanh nghiệp cần có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, tạo
điều kiện để mọi người, nhất là lớp thanh niên, được phát huy tài năng, trí tuệ, thỏa sức sáng
tạo, đề ra những giải pháp cụ thể góp phần phát triển doanh nghiệp. Cần bảo đảm cho mỗi
thành viên trong doanh nghiệp quyền phát huy tính năng động, sáng tạo trong sản xuất, kinh
doanh, trong việc tham gia thảo luận những giải pháp nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh
của doanh nghiệp, của mỗi sản phẩm, hàng hóa, cũng như trong việc xử lý những vấn đề
liên quan trực tiếp đến đời sống của họ.
- Mở rộng liên kết, liên doanh:
• Trong hội nhập, việc liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp là hết sức quan
trọng, nhất là khi đại bộ phận doanh nghiệp nước ta còn ở quy mô nhỏ và vừa, đang có
nhiều khó khăn, như thiếu vốn, yếu về công nghệ, ít hiểu biết về thị trường, v.v... thì liên kết,
liên doanh là con đường rất hiệu quả để khắc phục những khó khăn đó. Không chỉ thực hiện
liên kết, liên doanh giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với nhau, giữa các doanh nghiệp nhỏ
với doanh nghiệp lớn, mà rất cần liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước với
các doanh nghiệp nước ngoài, kể cả doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài, không chỉ ở tầm quốc gia mà còn ở tầm khu vực và rộng ra với toàn thế giới,
nhất là với các công ty xuyên quốc gia để tranh thủ kỹ thuật và thị trường. Phạm vi, nội
23
dung, cũng như hình thức liên kết kinh tế sẽ phong phú thêm nhiều, đòi hỏi doanh nghiệp
nước ta những hiểu biết mới về luật pháp quốc tế, để khai thác được thời cơ, tranh rủi ro.
4. Các giải pháp khác từ phía Chính phủ:
- Thị trường trái phiếu sẽ tập trung vào các giải pháp đẩy mạnh phát hành trái phiếu
Chính phủ nhằm đảm bảo nhu cầu chi đầu tư và cho an sinh xã hội từ ngân sách nhà nước,
đồng thời khuyến khích doanh nghiệp và địa phương phát hành trái phiếu huy động vốn để
tự đảm bảo nguồn vốn cho các dự án đầu tư.
- Đầu tư của nước ngoài vào TTCK Việt Nam là hình thức thu hút vốn đầu tư gián tiếp
vừa tăng cường năng lực của TTTC vừa là trợ lực tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong
tương lai thị trường này sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình đầu tư của nước ngoài vào Việt
Nam. Do vậy cũng cần có chính sách thỏa đáng để thu hút đồng vốn này, bằng việc mở rộng
thêm thị phần của vốn nước ngoài trong cơ cấu vốn đầu tư Chứng Khoán ở Việt Nam. Sự
khuyến khích hay hạn chế luồng vốn này trong mỗi giai đoạn tùy thuộc vào chính sách tài
chính – tiền tệ của Nhà nước, trong đó chính sách thuế giữ vai trò tác động trực tiếp.
- Phát triển thị trường bảo hiểm toàn diện nhằm đáp ứng nhu cầu bảo hiểm của nền
kinh tế; nâng cao năng lực tài chính, kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động bảo hiểm;
đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế.
- Tái bố trí cơ cấu thu – chi của hệ thống NSQG dựa trên cơ sở thực hiện lộ trình giảm
thuế phù hợp với đặc điểm kinh tế, không để Ngân Sách thâm hụt lớn do hẫng hụt đột biến
làm giảm nguồn thu; đi đôi với điều chỉnh lại thuế suất hàng hóa tiêu thụ nội địa hợp lý, để
khai thác các nguồn lực, ổn định ngân sách, tiếp tục cải cách hệ thống thuế hiện hành; đồng
thời điều chỉnh lại các định mức chi và phương hướng chi NS theo nguyên tắc tiết kiệm và
hiệu quả một cách thiết thực.
- Nguồn vốn từ NSNN, chủ yếu chỉ đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn, động lực
và nền tảng theo hướng xác lập một cơ cấu kinh tế hiện đại. Chấm dứt đầu tư vốn NSNN
dàn trải và phân phối theo cơ chế “xin cho” đang còn là một hiện tượng không lành mạnh
trong quản lý NSNN. Sử dụng vốn ODA cần tập trung vào các công trình trọng điểm, đặc
biệt là xây dựng kết cấu hạ tầng chủ lực nhằm tạo thế phát trtiển đồng bộ của nền kinh tế.
- Chống tham nhũng, lãng phí quyết liệt và có hiệu lực trên mọi lĩnh vực hoạt động
kinh tế – Xã hội và chi tiêu tuỳ tiện công quỹ nhà nước không thể không là biện pháp lành
mạnh hóa NSNN trong điều kiện hiện nay.
24
- Phát huy vai trò của các hội, hiệp hội ngành nghề. Cần thống nhất nhận thức rằng đó
là các hình thức tổ chức liên kết cộng đồng có tính chất tự nguyện, tự quản của doanh
nghiệp, không vì mục tiêu lợi nhuận, nhằm phát huy tính năng động, tính tích cực xã hội của
mỗi doanh nghiệp, để thực hiện các mục tiêu, quyền lợi và giá trị chung của từng cộng đồng
doanh nghiệp, góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội phát triển bền vững
đất nước. Từ thực tiễn hoạt động của các hội, hiệp hội hiện nay, có hai loại vấn đề cần được
quan tâm: (1) một mặt, cần tạo cho các cơ quan công quyền thói quen làm việc và lắng nghe
ý kiến của các tổ chức xã hội dân sự, mạnh dạn giao bớt việc cho họ; và (2) mặt khác, cần
nâng cao trình độ của các tổ chức này, để ý kiến phát biểu có căn cứ thực tiễn, thể hiện
trung thực tâm tư, nguyện vọng của các thành viên, đồng thời thực hiện có hiệu quả những
công việc sẽ được chuyển giao.
KẾT LUẬN
Hội nhập quốc tế là con đường tất yếu để nền kinh tế của một quốc gia
tăng trưởng. Kể từ thời điểm gia nhập WTO, kinh tế Việt Nam nói chung, tài
chính nói riêng đã gặt hái hàng loạt những cơ hội, thời cơ phục vụ mục tiêu
phát triển bền vững. Thị trường chứng khoán phát triển, tăng vốn đầu tư nước
ngoài, doanh nghiệp kinh doanh dưới sự hỗ trợ của các gói kích cầu nền kinh
tế, hàng loạt công nghệ, kỹ thuật tiên tiến mới được du nhập, ứng dụng cho
việc cải tiến sản phẩm, v.v... là những lợi ích không thể chối bỏ của hội nhập
quốc tế.
Tuy nhiên, thuận lợi luôn song hành với khó khăn, thời cơ luôn đi đôi
với thách thức. Ảnh hưởng từ cơn bão khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thị trường
chứng khoán sụt giảm, doanh nghiệp kinh doanh khó khăn, thị trường tiêu thụ
sản phẩm cạnh tranh ngày càng gay gắt, v.v... là thách thức không nhỏ cho nền
tài chính Việt Nam.
Hội nhập quốc tế không phải chỉ năm, mười, hai mươi năm mà là cả quá
trình xuyên suốt. Các giải pháp hỗ trợ tài chính không chỉ mang tính chất thời
cơ mà phải có lộ trình, có chiến lược để khắc phục và tăng trưởng.
Trên cơ sở hiểu biết còn nhiều hạn hẹp, thiếu sót, tiểu luận của Nhóm 8
– Lớp Cao học K19 Đêm 1 chắc chắn có rất nhiều điều cần góp ý từ phía cô và
các bạn để đề tài càng hoàn thiện hơn.
Trân trọng.
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
WTO :World trade organization – Tổ chức Thương mại thế giới
GDP :Gross Domestic Product – Tổng sản phẩm nội địa
NHTM :Ngân hàng Thương mại
NHNN :Ngân hàng Nhà nước
TPCP :Trái phiếu chính phủ
TTCK :Thị trường chứng khoán
FPI :Foreign Portfolio Invesment – Đầu tư gián tiếp nước ngoài
DNNN :Doanh nghiệp nhà nước
CPI :Customer Price Index – chỉ số giá tiêu dùng
NHTW :Ngân hàng Trung ương
NSNN :Ngân sách Nhà nước
NHTMCP:Ngân hàng Thương mại cổ phần
TCTD :Tổ chức tín dụng
TTTC :Thị trường Tài chính
NSQG :Ngân sách quốc gia
ODA :Offical Development Assistance – Hỗ trợ phát triển chính thức
G20 :Diễn đàn của 20 nền kinh tế lớn gồm 19 quốc gia có nền kinh tế
lớn nhất (tính theo GDP) và Liên minh Châu Âu
IMF :International monetary Fund – Quỹ tiền tệ quốc tế
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Thị Bình Minh, Sử Đình Thành (2006) Lý thuyết Tài chính –
Tiền tệ, Nxb Thống kê.
2. Đoàn Ngọc Phúc, Những hạn chế và thách thức của hệ thống ngân
hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Nghiên cứu kinh
tế, số 337 tháng 6/2006
3. Đỗ Đức Minh (2006), Tài chính Việt Nam 2001-2010, NXB Tài
chính, TP.Hồ Chí Minh.
4. Sử Đình Thành, Vũ Thị Minh Hằng (2006), Nhập môn Tài chính –
Tiền tệ, Nxb ĐHQG Tp.HCM.
5. Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế 2008-2009: Việt Nam và thế giới
6. Một số trang web:
……….
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- n8_tc_trong_xu_the_hoi_nhap_qt_4479.pdf