Đề tài Tài khoản sản xuất Việt Nam năm 2005 phân theo thành phần kinh tế

- Xây dựng tài khoản sản xuất của VN năm 2005 (giá hiện hành) theo thành phần kinh tế. - Phân tích cơ cấu theo thành phần kinh tế trong giai đoạn 2001 - 2005 và đánh giá tác động của các thành phần kinh tế tới tăng trưởng kinh tế. - Đưa ra giải pháp và dự báo cơ cấu thành phần kinh tế của VN giai đoạn 2006 - 2010

doc21 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2381 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tài khoản sản xuất Việt Nam năm 2005 phân theo thành phần kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I TÀI KHOẢN SẢN XUẤT VIỆT NAM NĂM 2005 PHÂN THEO THÀNH PHẦN KINH TẾ Định nghĩa và vai trò của tài khoản sản xuất: Định nghĩa: Tài khoản sản xuất là tài khoản phản ánh kết quả hoạt động sản xuất của toàn bộ nền kinh tế quốc dân trong thời kì 1 năm. Tài khoản cũng phản ánh kết quả hoạt động sản xuất của từng bộ phận trong tổng thể nền kinh tế: các khu vực thể chế, các ngành, các thành phần kinh tế. Vai trò: - Là cơ sở để nghiên cứu sự biến động về quy mô, tốc độ và các quan hệ tỉ lệ cơ bản của nền kinh tế: quan hệ giữa các ngành, các thành phần kinh tế, các khu vực thể chế, quan hệ giữa chi phí trung gian và giá trị gia tăng… - Là cơ sở để tính các chỉ tiêu kế hoạch tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; qua đó đề xuất các chủ trương, chính sách kinh tế vĩ mô tác động đến sản xuất. II. Tài khoản sản xuất Việt Nam năm 2005, phân theo thành phần kinh tế: Đây là bảng tài khoản sản xuất năm 2005 phần theo thành phần kinh tế tính theo giá hiện hành mà 2 nhóm đã tính toán và thống nhất với nhau dựa trên số liệu của tổng cục thống kê: Tài khoản sản xuất Việt Nam 2005 (giá hiện hành) Đơn vị: tỉ đồng Sử dụng Phân loại nền kinh tế Nguồn (GO) VA IC 839211 806133 Toàn bộ nền kinh tế - Phân theo thành phần kinh tế 1. KT Nhà nước 2. KT tập thể 3. KT tư nhân 4. KT cá thể 5. KT có vốn đầu tư nước ngoài 1645344 322241 309540 631781 57193 54939 112132 74612 71671 146283 250999 241105 492104 134166 128878 163044 Dựa vào số liệu của tài khoản sản xuất này, ta có thế thấy tổng giá trị sản xuất của Việt Nam năm 2005 đạt 1.645.344 tỉ đồng. Trong đó, giá trị gia tăng là 839.211 tỉ đồng, chi phí trung gian là 806.133 tỉ đồng. IC chiếm 49% tổng giá trị sản xuất chứng tỏ một điều là nền kinh tế nước ta năm này chưa đạt hiệu quả cao, chí phí trung gian vẫn còn chiếm một tỉ lệ rất lớn, chênh lệch giữa giá trị gia tăng và chi phí trung gian là không đáng kể. Bên cạnh đó ta cũng dễ dàng thấy được sự đóng góp của các thành phần kinh tế đối với tổng giá trị sản xuất cũng như đối với giá trị gia tăng. Đúng như chủ trương của Đảng: “ Xây dựng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò là nền tảng”, thành phần kinh tế Nhà nước chiếm một tỉ trọng rất lớn trong tổng gía trị sản xuất, gần 40%. Thành phần kinh tế tập thể được Đảng nhận định một thành phần cùng đồng hành và hỗ trợ cho kinh tế nhà nước lại không phát huy hiệu quả. Biểu hiện ở chỗ tỉ lệ đóng góp của thành phần này vào tổng giá trị sản xuất rất thấp, dưới 10%. Ngoài ra dễ dàng nhận ra sự đóng góp rất lớn của thành phần kinh tế cá thể, một tỉ lệ xấp xỉ với thành phần kinh tế nhà nước. Điều này cho thấy nền kinh tế nước ta vẫn mang tính nhỏ lẻ và manh mún. Trong khi đó, hai thành phần còn lại là kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được đánh giá là năng động và có triển vọng nhất lại chiếm tỉ lệ khá thấp, dưới 20%. Chứng tỏ ở giai đoạn này, việc thu hút đầu tư cũng như việc khuyến khích sự hoạt động các doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa thực sự hiệu quả. Tài khoản sản xuất năm 2005 cho chúng ta một cái nhìn tổng thể về nền kinh tế Việt Nam năm 2005 dưới góc độ các thành phần kinh tế. Và phần phân tích cụ thể về các thành phần kinh tế giai đoạn 2001-2005 sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này. PHẦN 2 PHÂN TÍCH CỤ THỂ A. PHÂN TÍCH CƠ CẤU THÀNH PHẦN KINH TẾ VÀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ VÀO TĂNG TRƯỞNG: Sau hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã chuyển đổi thành công từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong giai đoạn 2001- 2010 thì kế hoạch 5 năm 2001- 2005 là bước phát triển quan trọng nhằm: “Tăng trưởng kinh tế nhanh bền vững ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, đẩy mạnh cung cầu thị trường theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá, nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế”. Với quan điểm đó nhà nước tiếp tục định hướng phát kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá loại hình sở hữu. Việt Nam có 5 thành phần kinh tế chính: Kinh tế nhà nước Kinh tế tập thể Kinh tế tư nhân Kinh tế cá thể tiểu chủ Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Trong đó: “Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng, là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế; kinh tế tập thể phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng trong đó hợp tác xã là nòng cốt; kinh tế cá thể tiểu ở chủ nông thôn và thành thị có vi trí quan trọng lâu dài; khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân rộng rãi trong các ngành sản xuất kinh doanh mà pháp luật không ngăn cấm; tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, cải thiện môi trường pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nươc ngoài”. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, xu hướng hội nhập kinh tế đang lan toả khắp các quốc gia với những cơ hội và thách thức luôn tồn tại song song nhau, chúng ta cần nhìn nhận đúng đắn về vị trí các thành phần kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế. Vai trò và vị trí của các thành phần kinh tế được thể hiện rất rõ qua các bảng số liệu sau : GDP theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế Đơn vị : tỷ đồng TPKT / Năm 2001 2002 2003 2004 2005 TPKT nhà nước 184836 205652 239736 279704 322241 TPKT tập thể 38781 42800 45966 50718 57193 TPKT tư nhân 38243 44491 50500 60703 74612 TPKT cá thể 153223 169122 188497 215926 250999 TPKT có vốn đầu tư nước ngoài 66212 73697 887440 108256 134166 Tổng cộng 481295 535762 613443 715307 839211 Cơ cấu GDP theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế Đơn vị : % TPKT / Năm 2001 2002 2003 2004 2005 TPKT nhà nước 38.40 38.38 39.08 39.10 38.40 TPKT tập thể 8.06 7.99 7.49 7.09 6.81 TPKT tư nhân 7.95 8.30 8.23 8.49 8.89 TPKT cá thể 31.84 31.57 30.73 30.19 29.91 TPKT có vốn đầu tư nước ngoài 13.76 13.76 14.47 15.13 15.99 Tổng cộng 100 100 100 100 100 Tốc độ tăng trưởng GDP phân theo thành phần kinh tế theo giá so sánh Đơn vị :% TPKT/ năm 2001 2002 2003 2004 2005 TPKT nhà nước 7.44 7.11 7.65 7.75 7.37 TPKT tập thể 3.24 4.91 3.43 3.83 3.82 TPKT tư nhân 13.43 12.92 10.2 12.3 14.01 TPKT cá thể 5.49 6.07 6.06 6.21 7.49 TPKT có vốn đầu tư nước ngoài 7.21 7.16 10.52 11.51 13.22 Nền kinh tế 6.89 7.08 7.34 7.79 8.44 Qua bảng số liệu trên ta thấy nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển nhanh chóng: Từ năm 2001-2005 GDP tăng từ 481295 tỷ đồng lên 839211 tỷ đồng, tăng 1,74 lần và có tốc độ tăng trưởng khá cao 7-8%/năm. Trong đó: 1. Thành phần kinh tế nhà nước : giữ vai trò chủ đạo, luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong GDP, từ năm 2001-2005 thành phần kinh tế này luôn chiếm tỷ trọng gần 40%GDP. Trong thời gian qua Việt Nam lựa chọn con đường kinh tế thị trường định hướng XHCN tức là xây dựng nền kinh tế, trong đó thừa nhận các loại hình và chế độ sở hữu khác nhau, nhưng công hữu giữ vai trò chủ đạo. Vì vậy thành phần kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo của mình, “ Là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển”. Qua bảng số liệu về cơ cấu tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế ta thấy trong giai đoạn 2001-2005, tỷ trọng của thành phần kinh tế nhà nước hầu như không thay đổi. Đó là 1 xu hướng không phù hợp với xu thế phát triển hiện nay: giảm tỷ trọng của thành phần kinh tế nhà nước trong GDP( nhưng vẫn giữ vai trò chủ đạo trong những lĩnh vực then chốt như an ninh quốc phòng, điện nước, thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông, kết cấu hạ tầng…). Sở dĩ có hiện tượng phát triển không đúng xu thế này là do trong thời gian này quá trình đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước đã được triển khai, chính phủ đã tập trung chỉ đạo các bộ ngành, địa phương thực hiện đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước theo chương trình hành động của chính phủ nhằm cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước.Các hình thức chủ yếu được nhà nước thực hiện việc cơ cấu lại thành phần các doanh nghiệp nhà nước là : Cổ phần hoá các doanh nghiệp Giao, bán, cho thuê các doanh nghiệp Chuyển đổi các doanh nghiệp thành các công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên Tổ chức lại các công ty mẹ, công ty con Thành lập các tập đoàn kinh tế, giảm dần sự bao cấp của nhà nước. Nhờ quá trình đổi mới lại doanh nghiệp đặc biệt là quá trình cổ phần hoá (bao gồm cổ phần hoá từng phần hoặc toàn bộ) đã làm tỷ trọng của thành phần kinh tế nhà nước trong GDP giảm xuống, tuy nhiên tỷ lệ giảm này không đáng kể do các doanh nghiệp được cổ phần chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, làm ăn không hiệu quả, các doanh nghiệp lớn chưa được cổ phần. Hơn nữa số lượng doanh nghiệp được cổ phần còn nhỏ (năm 2005 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần chỉ chiếm 10 %). Kinh tế nhà nước có tốc độ tăng trưởng xấp xỉ tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, tuy nhiên đây vẫn là 1 tốc độ tăng trưởng không cao so với tỷ trọng cao nhất trong GDP của nó, so với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và sự đầu tư to lớn của nhà nước (năm 2004 có tốc độ tăng trưởng cao nhất nhưng chỉ là 7,75%). Nguyên nhân là do các doanh nghiệp nhà nước hoạt động chưa thực sự hiệu quả, đầu tư vốn không hợp lý, trình độ khoa học công nghệ còn lạc hậu (thường lạc hậu từ 3-5 năm), các doanh nghiệp có công nghệ mới thì thường không đồng bộ hoặc không hoạt động hết công suất, nguồn nhân lực thì thiếu, chưa thực sự cải cách trong hoạt động và quản lý. Trong các năm tới, chúng ta cần tận dụng triệt để các thế mạnh về vốn, cơ sở vật chất, lao động … để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng của thành phần kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. 2. Thành phần kinh tế tập thể: Đây là thành phần kinh tế ngoài nhà nước, là hình thức liên kết tự nguyện giữa những người lao động. Thành phần này có rất nhiều hình thức hoạt động trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Theo nhà nước kinh tế tập thể là một nội dung quan trọng trong chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần. Trong thời gian tới, hợp tác xã là một chủ thể quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế, hoạt động của các hợp tác xã phải xác định lợi ích kinh tế làm trọng tâm nhằm đảm bảo khả năng tồn tại, phát triển và có thặng dư. Tuy nhiên trong giai đoạn 2001-2005 thành phần kinh tế này chiếm tỷ trọng thấp nhất trong GDP và có xu hướng giảm tỷ trọng (giảm từ 8,06 xuống 6,81% ). Đây là xu hướng tích cực và phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế: Giảm tỷ trọng của thành phần kinh tế tập thể. Tốc độ tăng trưởng của thành phần này cũng thấp nhất chỉ đạt từ 3-4%. Nguyên nhân là do: Kinh tế tập thể chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, mà hiệu quả của sản xuất nông nghiệp không cao, hơn nữa đây là thời kì đổi mới công nghiệp hoá đi đôi với quá trình đô thị hoá đã làm cho đất nông nghiệp giảm dần nên kinh tế tập thể có một tỷ trọng giảm dần. Sự liên minh giữa các hợp tác xã chưa cao. Nền kinh tế chưa nhận thức và đánh giá thành phần kinh tế này một cách đúng mức, do đó nó chưa thoát khỏi tình trạng yếu kém, quy mô các hợp tác xã còn nhỉ bé, trình độ công nghệ thấp nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu về sản xuất kinh doanh, một số hợp tác xã chỉ tồn tại mang tính hình thức… Đại hội Đảng X đã xác định: “Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”. Do đó trong thời gian tới chúng ta phải biết khuyến khích phát triển kinh tế tập thể, cùng kinh tế nhà nước góp vốn góp sức cùng phát triển. 3. Thành phần kinh tế tư nhân: Trong giai đoạn 2001-2005 tỷ trọng của thành phần kinh tế nay trong GDP có xu hướng tăng liên tục từ 7,95% (2001) lên 8.89% (2005). Đây là sự phát triển đúng xu thế. Hơn nữa thành phần này có tốc độ tăng trưởng rất cao thường lớn hơn 10%/năm có khi nên tới 14,01% (2005) chứng tỏ nền kinh tế Việt Nam đang có sự thay đổi mạnh mẽ, hướng tới nền kinh tế sản xuất lớn có sự tham gia của nhiều thành phần. Có được sự phát triển mạnh mẽ này là do: - Chính sách khuyến khích tư nhân phát triển: Chính phủ mở rộng tạo điều kiện về hành lang pháp lý, ban hành các chính sách khuyến khích đầu tư tư nhân. - Thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn này tuy mới mở cửa nhưng đã thu được những thành quả ban đầu, tạo điều kiện rất lớn kích thích các nguồn vốn đầu tư vào khu vực tư nhân. - Thành phần này có sự tương thích với thị trường rất cao, có tính nhạy cảm về kinh tế nhất là trong kinh tế thị trường. Sự hợp tác và cạnh tranh quốc tế đòi hỏi các thực thể kinh tế phải rất linh hoạt và tự chủ trong hoạt động kinh doanh. Các doanh nghiệp tư nhân là nguồn cơ bản tạo ra các ý kiến về đổi mới doanh nghiệp và rất năng động, khả năng thích ứng nhanh cơ chế quản lý mềm mỏng và dễ hoà nhập với thị trường. Tuy nhiên tỷ trọng đóng góp này còn rất khiêm tốn chỉ chiếm từ 7-8% và đứng thư tư trong GDP như vậy nó chưa đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đặt ra, chưa tương xứng với tiềm năng và vị trí của thành phần kinh tế này, do sức cạnh tranh còn thấp, có sự phân biệt đối sử giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân, thủ tục đăng kí thành lập doanh nghiệp tư nhân còn nhiều phức tạp. Ngoài ra tình trạng kinh doanh hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, buôn lậu, trốn thuế thường xuyên xảy ra. Các hình thức kinh doanh thường nhỏ lẻ, kinh doanh theo kiểu chộp giật. Chính vì vậy chúng ta cần tạo điều kiện cho thành phần kinh tế này phát triển trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là khi gia nhập WTO thì các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào nhiều và sức cạnh tranh sẽ tăng lên. Thành phần kinh tế tư nhân là yếu tố tạo ra sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước với hàng ngoại nhập. Vì vậy phải tạo sân chơi bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp nhà nước. Nếu gặp điều kiện thuận lợi thì thành phần kinh tế này sẽ phát huy được thế mạnh trong nền kinh tế thị trường. 4. Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ: Kinh tế cá thể chiếm tỷ trọng khá lớn trong GDP khoảng 30%, đứng thứ 2 chỉ sau thành phần kinh tế nhà nước, điều này cho thấy Việt Nam vẫn đang ở tình trạng sản xuất nhỏ lẻ. Năm 2005 số lượng cơ sơ sản xuất kinh doanh cá thể là 3,05 triệu đồng. Điểm yếu lớn nhất của các cơ sở này là quy mô nhỏ bé và sản xuất manh mún, mặc dù số lượng khá đông nhưng quy mô bình quân của mỗi cơ sở khá nhỏ, bình quân chỉ có 43,7 triệu đồng vốn và 31,1 triệu đồng tài sản cố định/1 cơ sở. Bên cạnh đó, trình độ lao động thấp, hơn 92% tổng số lao động chưa qua đào tạo. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của các cơ sở này. Tuy quy mô nhỏ và còn nhiều hạn chế nhưng với số lượng đông nên sự đóng góp của các cơ sở cho nền kinh tế là rất đáng kể. Hiện nay các cơ sở này đang sử dụng 1 lực lượng lao động lớn. Tính đến tháng 10/2005 là 5,58 triệu lao động. Trung bình mỗi năm khu vực này tạo thêm 250 000 chỗ làm mới. Bên cạnh đó các cơ sở là nơi tiếp nhận 1 phần dôi dư trong quá trình sắp xếp lại thành phần kinh tế nhà nước và chuyển đổi sản xuất nông nghiệp. Trong 5 năm 2001-2005 tỷ trọng của kinh tế cá thể trong GDP liên tục giảm (từ 31.84% xuống 29,91%). Đây là xu hưóng tích cực phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế. Mặc dù tỷ trọng giảm nhưng tốc độ tăng trưởng lại tăng (từ 5,49% lên 7,49%) chứng tỏ thành phần kinh tế này hoạt động ngày càng hiệu quả hơn. Khi luật doanh nghiệp có hiệu lực từ năm 2000 đã có sự chuyển đổi mạnh mẽ của các hộ kinh doanh cá thể trở thành doanh nghiệp. Thực tế đã chứng minh lợi ích của quá trình chuyển đổi là thúc đẩy hoạt động sản xuất minh bạch, giúp các đơn vị được điều tiết bởi 1 hệ thống hành chính và pháp lí toàn diện, ổn định. Thế nhưng kinh tế cá thể vẫn chiếm 1 tỷ trọng lớn. Do vậy nhà nước cần có biện pháp đồng bộ nhằm khuyến khích việc chuyển đổi hộ kinh doanh cá thể thành doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở sản xuất cá thể. 5. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Thành phần kinh tế này đã có tác động tích cực và ngày càng rõ rệt trong việc thực hiện chiến lược kinh tế xã hội của nước ta. Tỷ trọng của thành phần kinh tế này có xu hướng tăng phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá. Từ 2001-2005 tỷ trọng tăng 2,23%, và có tốc độ tăng trưởng khá cao, thường cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đặc biệt năm 2005 có tốc độ tăng là 13,22% (trong khi nền kinh tế có tốc độ tăng là 8,44). Chứng tỏ khu vực này hoạt động rất có hiệu quả. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng chiếm vị trí quan trọng, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế. Có được sự phát triển này là do : - Đầu tư nước ngoài là cầu nối kinh tế Việt Nam với quốc tế, thúc đẩy phát triển thương mại du lịch, tạo điều kiện quan trọng để Việt Nam hội nhập ngày càng chủ động và sâu hơn vào kinh tế thế giới, thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, đổi mới phương thức quản lý và kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thông qua đầu tư nước ngoài nhiều nguồn lực trong nước lao động đất đai, tài nguyên… được khai thác và sử dụng hiệu quả hơn. - Nhà nước có những chính sách mở cửa, kích thích và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. - Đặc biệt năm 2005 Việt Nam phát hành trái phiếu chính phủ ra nước ngoài đã thu được những thành công. Tuy đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao nhưng đây vẫn là 1 tỷ lệ khiêm tốn chứng tỏ kết quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài chưa tương xứng với nhu cầu huy động đáp ứng tăng trưởng kinh tế, đồng thời chưa tương xứng với tiềm năng của nước ta. Do sự gắn kết giữa kinh tế trong nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn nhiều bất cập, việc thu hút đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung ở vùng kinh tế trọng điểm, còn những vùng sâu vùng xa chưa mang lại kết quả. Ngoài ra các nhà đầu tư còn gặp khó khăn về quản lý, thủ tục hành chính… Để thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển hơn nữa, nước ta cần phải đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế. B. GIẢI PHÁP VÀ DỰ BÁO CHO SỰ ĐÓNG GÓP CỦA CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ TRONG SỰ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2006-2010: I. GIẢI PHÁP : 1. Thành phần KTNN : a) Hạn chế và thuận lợi : - Hoạt động trong nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh, được ưu đãi về vốn cũng như trang thiết bị kỹ thuật, có điều kiện tiếp xúc với nguồn tín dụng và có cả ưu đãi về thuế và chính sách hỗ trợ . - Sử dụng vốn kinh doanh không hiệu quả, trang thiết bị hoạt động không đúng công suất, ỷ lại vào nhà nước không năng động nhạy bén với thị trường. Các dây truyền sản xuất lạc hậu, bộ máy quản lý cồng kềnh, nguồn lao động dư thừa nhưng thiếu trình độ. b) Giải pháp: - Thành phần kinh tế này hoạt động chủ yếu nhờ vào sự viện trợ trực tiếp vốn, khoa học công nghệ, cơ sở hạ tầng kỹ thuật từ chính phủ. Thành phần kinh tế này còn hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất kinh doanh nên dẫn đến sự độc quyền trong một số ngành và tạo ra rào cản đối với nhiều ngành. Do đó trong giai đoạn 2006-2010 việc giảm tỷ trọng thành phần kinh tế này là đương nhiên, việc giảm tỷ trọng của thành phần kinh tế nhà nước không có nghĩa chúng ta phủ nhận vai trò quan trọng của nó với nền kinh tế Việt Nam. Phương hướng chung cho nền kinh tế Việt Nam là phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, do đó thành phần kinh tế nhà nước chỉ giảm xuống về tỷ trọng nhưng vẫn phải duy trì hoạt động trong những ngành then chốt như năng lượng, an ninh quốc phòng, vũ khí, bưu chính viễn thông... và đảm bảo vai trò chủ đạo của mình. - Trong thành phần kinh tế nhà nước cần chấm dứt tình trạng xin cho cấp phát, NN chi vốn, thua lỗ NN chịu. Giải tán những doanh nghiệp NN làm ăn không hiệu quả, với các doanh nghiệp còn lại đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá để phát huy tinh thần làm chủ của người lao động đồng thời huy động được nguồn vốn để hoạt động kinh doanh. Nội bộ doanh nghiệp phải tự điều chỉnh để có một bộ máy quản lý gọn nhẹ linh hoạt, một lực lượng lao động hiệu quả với năng suất cao. - Tranh thủ sự hỗ trợ của nhà nước cộng với sự nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp phải tích cực tìm kiếm khách hàng, chủ động tham gia vào thị trưòng, tiến vững chắc, sử dụng có hiệu quả những gì mình có để duy trì hoạt động sản xuất và phát triển hơn. Hoàn thành việc sắp xếp kiện toàn tổ chức nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty, từ đó hình thành nên một số tập đoàn kinh tế nhà nước có tiềm lực mạnh và có đủ khả năng cạnh tranh vơi nước ngoài như: dầu khí, viễn thông, điện lực... - Đẩy mạnh việc giao bán, khoán, cho thuê các DNNN vừa và nhỏ kể cả các doanh nghiệp có dây truyền công nghệ hiện đại riêng biệt. Việc có mặt trong hầu hết các ngành kinh tế quan trọng thậm chí đóng vai trò quyết định với một quốc gia nên việc đổi mới các DNNN để hoạt động hiệu quả như mong muốn là điều bắt buộc phải làm và phải làm được. 2. Thành phần KTTN: a) Hạn chế và thuận lợi: - Có bộ máy hoạt động gọn nhẹ, thích ứng rất nhanh với thị trường, năng động và tự chủ, có lượng vốn tương đối. - Khó khăn trong việc tiếp cận với tín dụng, nguồn lực, thông tin do sự đối xử không công bằng của nhà nước, bị những thủ tục pháp lý và hành chính phức tạp ràng buộc, cũng như sự cản trở lớn từ hàng rào thuế quan. b) Giải pháp: - Trong bối cảnh mở cửa, hội nhập cạnh tranh khốc liệt, thị trường thay đổi phức tạp thì thành phần này sẽ chiếm 1 vị trí quan trọng, và theo xu hướng tự nhiên thì thành phần này sẽ đóng góp 1 phần đáng kể vào GDP, muốn vậy phải khắc phục các khó khăn tạo điều kiện cho thành phần này phát triển. Để khắc phục những khó khăn trên trước hết phải tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng, các thành phần kinh tế đều được tạo điều kiện như nhau. Nhà nước sẽ hỗ trợ cho tư nhân về thông tin, cơ sở kỹ thuật, hạ tầng, công nghệ, và quá trình tiếp cận tín dụng, ngân hàng để tìm được nguồn vốn kinh doanh. Tiếp đó là sự thông thoáng và đơn giản trong thủ tục hành chính, hành lang pháp lý, hàng rào thuế quan, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân tự do phát huy trong sự điều chỉnh vĩ mô của NN . - KTTN là đặc trưng của một nền kinh tế phát triển trong thời kỳ hiện nay do đó chính phủ phải thực sự quan tâm đến họ, cho họ cơ hội, môi trường để tự do bộc lộ tài lực của mình như: các quỹ hỗ trợ phát triển, quỹ bảo lãnh tín dụng, đấu thầu các dự án lớn, miễn giảm thuế một số mặt hàng... Nhưng bên cạnh việc tạo điều kiện thì các nhà quản lý cũng luôn có biện pháp để kiểm soát hoạt động của thành phần kinh tế này để tránh tình trạng chạy theo lợi nhuận, coi thường pháp luật kinh doanh sai trái. 3.Thành phần KTCT: a)Hạn chế và thuận lợi: - Bản thân nó đang sở hữu 1 số lượng lao động lớn, giữ 1 lượng vốn không nhỏ, và tạo ra 1 lượng việc làm nhất định. - Quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, trình độ sản xuất thủ công, lao động tay chân là chủ yếu. b) Giải pháp: - Trước quá trình ra nhập WTO, mở cửa giao lưu buôn bán với thế giới, cạnh tranh mạnh mẽ, cơ hội lắm mà thách thức cũng rất nhiều thì thành phần kinh tế này sẽ gặp rất nhiều khó khăn và sẽ là 1 sự lãng phí nguồn lực của nền kinh tế. - Lực lượng tham gia chính vào thành phần kinh tế này ngoài những người không có đủ điều kiện tham gia lao động, về hưu mất sức...thì còn một phần không nhỏ người đủ khả năng làm việc tại các công ty nhà máy, xí nghiệp nhưng lại muốn tự kinh doanh buôn bán nhỏ lẻ. Vấn đề này có thể có hai nguyên nhân hoặc do sớ thích muốn làm chủ, hoặc do đồng lương của họ không đảm bảo cho cuộc sống của họ. Hai nguyên nhân này cho chúng ta hai hướng giải quyết cho vấn đề giảm tỷ trọng thành phần kinh tế này: * Nếu các thành phần cá thể này đủ mạnh thì ta khuyến khích, tạo điều kiện cho họ đăng ký kinh doanh để trở thành thành phần kinh tế tư nhân. * Phát triển các thành phần kinh tế tư nhân, có vốn nước ngoài, nhà nước, đầu tư xây dựng các nhà máy xí nghiệp lớn, các cụm công nghiệp để thu hút lao động. Không chỉ thu hút lao động mà còn có phương án giữ lao động ở lại với doanh nghiệp như chế độ lương bổng hợp lý, vấn đề bảo hiểm và trợ cấp... - Bản thân các DN trong thành phần kinh tế này nếu muốn phát triển hơn hoặc tồn tại cho thực sự hiệu quả thì phải nhận được sự giúp đỡ về vốn, kỹ thuật công nghệ trong sản xuất, và NN có thể hỗ trợ họ những điều này thông qua các chính sách hoặc các dự án hỗ trợ DN . 4. Thành phần KT có vốn đầu tư của nước ngoài : a) Hạn chế và thuận lợi: - Với quá trình mở cửa mạnh mẽ như hiện nay: tham gia vào WTO, các tổ chức kinh tế trong khu vực, đặt mối quan hệ thông thương với các nước khác thì 1 lượng vốn lớn sẽ chảy vào trong giai đoạn tiếp theo. Bên cạnh đó là nhiều ngành nghề mới sẽ được đầu tư phát triển, thu hút 1lực lượng lao động đáng kể. Và đặc biệt nó giúp ghi nhận hình ảnh việt nam trong giới kinh doanh nước ngoài. - Môi trường kinh doanh còn hạn chế như: thủ tục pháp lý phức tạp, hệ thống thuế quan thì nặng, nguồn lao động dồi dào nhưng trình độ lại không cao, cơ sở hạ tầng chưa đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh. Và vẫn có sự phân biệt đối xử không công bằng giữa các doanh nghiệp trong nước và thành phần kinh tế này. b) Giải pháp: - Vốn đầu tư trong giai đoạn trước của Việt Nam chủ yếu là vốn viện trợ ODA, nguồn vốn viện trợ không hoàn lại với những điều kiện ràng buộc đem lại những điều kiện không thuận lợi cho sự tự do hoá kinh doanh sản xuất. Trong giai đoạn tiếp theo chúng ta bên cạnh việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA thì chúng ta phải tìm cách tăng cường nguồn vốn FDI -lượng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài thông qua quá trình hợp tác sản xuất, phân chia lợi nhuận sòng phẳng. Việc này được thực hiện thông qua việc khuyến khích các doanh nghiệp trong nước ký kết hợp tác sản xuất với các doanh nghiệp nước ngoài. - Trước đây các nhà đầu tư nước ngoài không thích đầu tư vào VN vì thủ tục pháp lý rất phức tạp và khó khăn. Với sự ra đời của luật doanh nghiệp và luật đầu tư cho phép các doanh nghiệp nước ngoài chủ động lựa chọn một trong bốn hình thức công ty (TNHH, CTCP, CTHD, DNTN), họ có quyền đầu tư, kinh doanh trong tất cả các lĩnh vực, nghành nghề mà pháp luật không cấm. Việt Nam cũng đã có cam kết quốc tế: bảo đảm, ưu đãi đầu tư và đối xử công bằng trong kinh doanh như các doanh nghiệp trong nước. Với việc làm này chung ta từng bứơc thiết lập mối quan hệ với các nhà đầu tư, tạo tâm lý thoải mái và lấy được cái nhìn thiện cảm của họ. - Trong giai đoạn tiếp theo chúng ta phải chú trọng đạo tạo nâng cao năng lực nguồn lao động để phục vụ cho cả các thành phần kinh tế trong nước, cụ thể như: nâng cấp hệ thống giáo dục, mở rộng khối trường đào tạo dạy nghề, hỗ trợ thu hút người tài chống chảy máu chất xám, có chính sách đối đãi hợp lý để khuyến khích các chuyên gia và lao động có trình độ cống hiến... đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại, đi tắt đón đầu các công nghệ mới trên thế giới. - Đa dạng hoá các hình thức đầu tư, mở rộng lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào sản xuất những mặt hàng xuất khẩu, những sản phẩm có giá trị công nghệ cao. Đổi mới nội dung và chủ động xúc tiến đầu tư, xây dựng và công bố các danh mục công trình, dự án kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài. 5. Thành phần kinh tế tập thể: a) Hạn chế và thuận lợi: - Đây là thành phần kinh tế trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung đã phát huy rất tốt sức mạnh của mình, cho đến bây giờ nó cũng vẫn phát huy những ích lợi của mình đặc biệt là ở các khu vực nông thôn và vùng hẻo lánh. - Quy mô sản xuất nhỏ bé, trình độ công nghệ lạc hậu, 1 số còn tồn tại dưới dạng hình thức, mặt hàng sản xuất giản đơn và thô sơ. b) Giải pháp: - Giải tán các cơ sở kinh doanh tập thể không hiệu quả nhưng khuyến khích, thúc đẩy các loại hình kinh tế tập thể có hình thức đa dạng, tự nguyện với mô hình mới, phù hợp với kinh tế cạnh tranh. NN có thể hỗ trợ cho họ vốn, kỹ thuật, đặc biệt tạo điều kiện để các cá thể kinh doanh nhỏ lẻ gia nhập kinh tế tập thể tạo nên sức mạnh tốt hơn. - Các hợp tác xã hay hình thức kinh tế tập thể có thể liên kết với nhau, nỗ lực tìm kiếm thị trường tiêu thụ, khách hàng cho mình, nâng cao trình độ của mình về cả con người lẫn máy móc thiết bị. Chủ động sáng tạo, biết khai thác thế mạnh của mình, ví dụ như các ngành nghề truyền thống... để tạo nên nét đặc trưng và sức cạnh tranh . - Kinh tế tập thể là đặc trưng của nền kinh tế đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, vì thế nó đã đang và sẽ tồn tại trong nền kinh tế. Nó tồn tại gắn liền với tư tưởng chính trị và nền tảng XHCN do đó không thể chuyển sang kinh tế tư nhân hay thành phần kinh tế khác. Do đó chúng ta phải cải thiện nội bộ thành phần này, kinh tế tập thể chủ yếu ở khu vực nông thôn, bản thân khu vực nông thôn đã có rất nhiều sự trì trệ dẫn đến môi trường không thuận lợi cho việc hoạt đông sản xuất kinh doanh của thành phần kinh tế này. Vì vậy tương lai phải mở rộng lĩnh vực, môi trường ngành nghề cho các doanh nghiệp thuộc thành phần này. - Đổi mới hoạt động các HTX nông nghiệp, khuyến khích các HTX mới với lĩnh vực mới, cơ cấu tổ chức hiện đại đề cao sự tự nguyện, giúp đỡ họ về vốn, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, để sử dụng được trang thiết bị đó phải tổ chức đào tạo cho họ về kiến thức cũng như cử các chuyên gia về hướng dẫn. Đẩy mạnh việc thực hiện luật HTX mới để sửa đổi những điểm bất hợp lý và tạo điều kiện để thực hiện những kế hoạch phát triển mới: có chính sách miễn giảm thuế một số sản phẩm, ưu đãi về đất đai, tín dụng, chương trình dự án xây dựng HTX ở các làng nghề truyền thống .... Tóm lại: Mặc dù tất yếu của nền kinh tế toàn cầu là hội nhập mở cửa và tất yếu là làn sóng nước ngoài tràn vào, với sự cạnh tranh công bằng, thách thức và cơ hội, tạo ra nguồn GDP đáng kể nhưng cái đích cuối cùng của chúng ta vẫn là nâng cao năng lực của các doanh nghiệp trong nước, tạo cơ hội cho họ có cơ hội, đủ thông tin, vốn cũng như đất để phát huy thế mạnh của mình tham gia cạnh tranh và đem lại GDP cho đất nước. Các giải pháp đưa ra không phải nhằm mục đích triệt tiêu thanh phần kinh tế này, nâng cao thành phần kinh tế kia một cách chủ quan. Xuất phát từ thực tế khách quan chúng ta đề ra các giải pháp để tạo nên một cơ cấu hợp lý giữa các thành phần kinh tế để chung đều phát huy tối đa thế mạnh của mình và từ đó đóng góp vào quá trình tăng trưởng mạnh nền kinh tế, đẩy cao GDP của cả nước. 2. DỰ BÁO: Ta sử dụng bảng số liệu tính theo giá hiện hành từ 2001 đến 2005 của tổng sản phẩm trong nước, để từ đó dự báo về tỷ trọng đóng góp GDP của các thành phần kinh tế trong tổng GDP cả nền kinh tế trong các năm tiếp theo. TPKT / Năm 2001 2002 2003 2004 2005 TPKT nhà nước 38.4 38.38 39.08 39.1 38.4 TPKT tập thể 8.06 7.99 7.49 7.09 6.81 TPKT tư nhân 7.95 8.3 8.23 8.49 8.89 TPKT cá thể 31.84 31.57 30.73 30.19 29.91 TPKT có vốn đầu tư nước ngoài 13.76 13.76 14.47 15.13 15.99 Dự báo trong giai đoạn tiếp theo từ năm 2006 trở đi trong tổng GDP của cả nền kinh tế: + Tỷ trọng đóng góp của thành phần KTNN tiếp tục giảm xuống dưới 30%. + Tỷ trọng đóng góp của thành phần KT tập thể xê dịch không đáng kể khoảng 6%. + Tỷ trọng đóng góp của thành phần KT cá thể sẽ giảm liên tục, lượng giảm nhanh và sẽ xuống đến khoảng 15-20% . + Tổng tỷ trọng đóng góp của thành phần KT NN sẽ nhỏ hơn 30% và tổng tỷ trọng đóng góp của thành phần KT ngoài nhà nước lớn hơn 50% . + Tỷ trọng đóng góp của thành phần KT có vốn đầu tư của nước ngoài sẽ tăng mạnh khoảng từ 25% trở lên. Mục lục Trang Lời mở đầu……………………………………………………………………1 I. Tài khoản sản xuất Việt Nam 2005 phân theo TP kinh tế……………………..2 II. Phân tích cụ thể………………………………………………………………..5

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận môn SNA hệ thống tài khoản quốc gia - cơ cấu theo thành phần kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2001-2005.doc
Luận văn liên quan