Việt nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội (CNXH) và theo
lý luận của Lenin về nền kinh tế trong thời kỳ quỏ độ vận dụng vào kinh tế, có
phải nó ý nghĩa là chế độ hiện nay có những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản
(CNTB) lẫn CNXH không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có, song cũng không
phải bất cứ ai cũng thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của
kết cấu kinh tế - xó hội hiện cú ở Nga là như thế nào mà tất cả then chốt cả
vấn đề lại chính là ở đó. Áp dụng vào nền kinh tế Việt Nam, Đảng và Nhà
nước ta đó chủ trương xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đó là một chủ trương
đúng đắn và phù hợp với quy luật phát triển khách quan, bởi thông qua chủ
trương này một nền kinh tế mới được mở ra,các thành kinh tế mới hỡnh thành
được lập ra từ chính nguồn vốn trước đây nằm phân tán trong các tầng lớp
dân cư,do đó mà huy động được tối đa của cải vật chất trong xó hội để xây
dựng đất nước. Từ khi có chính sách đổi mới (1986) đến nay, các thành phần
kinh tế đó đóng góp nhất định của mỡnh vào xõy dựng vào nền kinh tế quốc
dõn, thỳc đẩy sự phát triển của đất nước,qua so sánh giữa hai thời kỳ kinh tế
(Kinh tế cũ kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hóa) ta thấy một bước phát
triển vượt bậc của nền kinh tế nước ta .
Tuy nhiờn, theo lý luận Mac: ”Trong bất cứ hỡnh thỏi kinh tế xó hội nào
cũng cú phương thức sản xuất (PTSX) giữ vị trí chi phối”. Có nghĩa là trong
mỗi chế độ xó hội cần cú một thành phần kinh tế giữ vai trũ chủ đạo, có nghĩa
là trong mỗi chế độ XHCN cần có một thành phần kinh tế giữ vai trũ chủ đạo,
dẫn dắt các thành phần kinh tế khác đi theo một định hướng xó hội nhất định.
Ngay từ đầu lập nước, đảng ta đó xỏc định đưa nước Việt Nam tiến lên chủ
nghĩa xó hội, mà cơ sở hỡnh thành nên CNXH đó chính là chế độ công hữu
về tư liệu sản suất (TLSX), tức là TLSX thuộc sở hữu toàn dân. Kinh tế nhà
nước (KTNN) là thành phần kinh tế được hỡnh thành trờn hỡnh thức sở hữu
toàn dõn vỡ vậy một tất yếu khỏch quan là KTNN phải là thành phần kinh tế
nắm vai trũ chủ đạo nhằm hướng toàn bộ nền kinh tế đi theo định hướng
XHCN.
Đảng và nhà nước ta đó xỏc định rằng thời kỳ quá độ lên CNXH đũi hỏ
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 30 trang
30 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2619 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tầm quan trọng của kinh tế nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g bao gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị 
trường. 
Vậy nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng 
XHCN mà nước ta đang vận dụng là gỡ? Đó là nền kinh tế vận hành theo cơ 
chế thị trường, tức là bất kể thành phần kinh tế nào (hay đơn vị kinh tế nào) 
của nền kinh tế cũng phải chịu sự điều tiết của cơ chế thị trường, nhưng đồng 
thời phải tuân thủ các nguyên tắc của chế độ XHCN dưới sự quản lý của nhà 
nước XHCN. Từ khái niệm này ta có thể hiểu nôm na rằng, xây dựng nền 
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN tức là xây đựng một nền kinh tế thị 
trường hướng tới chế độ XHCN, hướng tới thực hiện mục tiêu của XHCN đó 
là mục tiêu làm cho dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ văn 
minh. 
Đặc điểm cơ bản của cơ chế thị trường là cơ chế tự phát, các nhân tố kinh 
tế của cơ chế đó tự tác động qua lại theo quy luật kinh tế khách quan mà dẫn 
đến sự biến đổi, phát triển của nền kinh tế. Đặc điểm đó vừa là ưu điểm, vừa 
là hạn chế của cơ chế này. Nó có thể mang lại một nền kinh tế phát triển với 
tốc độ nhanh, nhưng đồng thời mang lại những khuyết tật về xó hội đó là 
phân biệt giàu nghèo, bất công, tệ nạn xó hội gia tăng… 
Đảng và nhà nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường theo 
hướng XHCN dưới sự quản lý của nhà nước tức là muốn dựa trên ưu điểm 
của cơ chế thị trường để khắc phục những khó khăn của nền kinh tế kém phát 
triển của nước ta, đồng thời đảm bảo tiến được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, 
xó hội cụng bằng, dõn chủ ,văn minh. 
Ở các phần trên ta đó rỳt ra được rằng để xây dựng một nền kinh tế theo 
chế độ XHCN thỡ nhất định kinh tế nhà nước phải luôn nắm vai trũ chủ đạo, 
bởi nó là lực lượng kinh tế đại diện cho quan hệ sản xuất mới XHCN, nó là 
công cụ để nhà nước dẫn dắt toàn bộ nền kinh tế đi đúng hướng đó chọn, nú 
 Trang 9 
đóng vai trũ quan trọng trong việc mở đường và hướng đẫn cho nền kinh tế 
phát triển. Cũn trong cơ chế kinh tế thị trường thỡ sao? 
Nếu nền kinh tế thị trường được để phát triển một cách tự do, không sự 
quản lý của nhà nước thỡ sẽ bộc lộ rừ ngay những hạn chế, yếu kộm, những 
khuyết tật vốn có của nó. Bởi vậy với định hướng xó hội chủ nghĩa cú sự 
quản lý của nhà nước thỡ nền kinh tế thị trường của chúng ta đạt được thành 
quả cả về mặt xó hội và kinh tế. Muốn như vậy, mối quan hệ mới XHCN càng 
phải được củng cố và phát triển hơn nữa – mà đại diện của nó là thành phần 
kinh tế nhà nước phải được tổ chức làm sao ngày càng hoàn thiện và nắm 
được vai trũ chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường. Đó là đũi hỏi khỏch 
quan do những đặc điểm của cơ chế kinh tế mới. 
Thứ nhất, kinh tế thị trường là một nền kinh tế mở, theo xu hướng hội 
nhập với khu vực và quốc tế, nhưng để có thể hội nhập vào nền kinh tế thế 
giới đũi hỏi cỏc doanh nghiệp phải cú cơ sở vật chất, kỹ thuật có quy mô, 
công nghệ hiện đại ngang tầm với các nước khác trên thế giới. Bởi có như vậy 
Việt Nam mới có thể phát huy được những lợi thế so sánh so với các nước 
khác và đứng vững để cạnh tranh được với nền kinh tế vốn lớn mạnh của các 
nước trong khu vực và thế giới. 
Nhưng một đặc điểm rất nổi bật của các thành phần kinh tế cá thể và tư 
bản tư nhân là quy mô sản xuất của chúng rất nhỏ bé, lượng vốn đầu tư xây 
dựng cơ sở sản xuất ban đầu rất nhỏ chúng chỉ đủ khả năng tham gia vào một 
số ngành, lĩnh vực mà có khả năng tạo lợi nhuận nhiều nhất, đầu tư ít vốn 
nhưng chu kỡ quay vũng vốn nhanh và chỉ có thể cạnh trong nước, hơn một lý 
do rất đơn giản là quy mô quá nhỏ hep, vốn quá ít không đủ điều kiện để hội 
nhập với các nước bạn. 
Trong điều kiện đó thỡ kinh tế nhà nước với các doanh nghiệp nhà nước 
có quy mô lớn và vừa mới có khả năng tham gia vào hoạt động kinh tế với 
các nước trên thế giới. Bởi chỉ có Nhà nước mới có đủ nguồn vốn để xây 
dựng được các doanh nghiệp nhà nước đủ lớn trong các ngành, lĩnh vực then 
chốt, các ngành kinh doanh mà Việt Nam có lợi thế so sánh so với các nước 
khác. Do đó mà kinh tế nhà nước trở thành lực lượng giữ vai trũ dẫn dắt, làm 
hạt nhõn để các danh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân dân có thể tham 
gia vào nền kinh tế hội nhập. 
Một lý do thứ hai khiến kinh tế nhà nước trở thành lực lượng đầu tàu 
trong việc dẫn dắt nền kinh tế nước ta hiện nay là vỡ trong nền kinh tế luụn 
luụn cú những ngành, lĩnh vực rất khú cú khả năng sinh lời hoặc cũn rất nhiều 
 Trang 10 
vựng kinh tế cú cơ sở hạ tầng thấp kém khó đầu tư sản cuất, do đó mà các 
thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng kinh doanh thỡ 
kinh tế nhà nước phải tham gia vào hoạt động trong các ngành kinh tế hay các 
vùng kinh tế để tạo dựng được những cơ sở vật chất ban đầu, thu hút dần các 
phần tử kinh tế khác cùng tham gia vào hoạt động. Có như thế thỡ mới hỡnh 
thành nờn một cơ chế kinh tế hợp lý trong nền kinh tế thị trường định hướng 
xó hội chủ nghĩa ở nước ta đó là tạo nên một nề kinh tế có các ngành, lĩnh vực 
được đầu tư, phát triển một cách cân bằng, có các vùng kinh tế phát triển song 
song với nhau. 
Thứ ba, để xây dựng nền kinh tế phát triển đúng hướng XHCN thỡ đũi hỏi 
phải cú sự quản lý của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế bằng pháp luật. 
Những nhà hoạt động sản xuất kinh doanh luôn hướng tới mục tiêu quan 
trọng nhất đó là làm sao tối đa hoá được lợi nhuận. Nhưng tỡnh hỡnh nước ta 
hiện nay, các chủ thể kinh hoanh có thể có trỡnh độ hiểu biết về ý thức, về 
quản trị kinh doanh rất khác nhau, có người tham gia vào kinh doanh chỉ vỡ 
họ cú vốn nhưng lại thiếu hẳn các ý thức và kiến thức cần thiết, điều đó dễ 
dẫn đến những sai phạm về pháp luật và thường chỉ vỡ lợi nhuận cỏc nhõn mà 
quyờn mất lợi ớch của xó hội. Kinh tế nhà nước với lực lượng kinh tế luôn 
được nhà nước chú trọn về khâu đào tạo cán bộ có ý thức pháp luật, do đó 
trong giai đoạn hiện nay đương nhiên kinh tế nhà nước phải là thành phần 
gương mẫu để các thành phần kinh tế khác học tập để hoạt động có hiệu quả 
hơn. 
Từ ba lý do trờn mà ta thấy kinh tế nhà nước đương nhiên phải là thành 
phần kinh tế nắm vai trũ chủ đạo trong nền kinh tế với tư cách là lực lượng đi 
đầu trong quá trỡnh hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, là đội quân mở 
đường cho các thành phần kinh tế khác cùng tham gia mở rộng hoạt động sản 
xuất, kinh doanh tạo một cơ cấu kinh tế phát triển cân đối hợp lý, là lực lượng 
gương mẫu, đi đầu trong việc thực hiện pháp luật, hướng dẫn các thành phần 
kinh tế khác cùng thực hiện theo luật pháp trong cơ chế kinh tế mới đảm bảo 
phát triển một nền kinh tế thị trường lớn mạnh với một xó hội phỏt triển đúng 
định hướng đó chọn của Đảng. 
3. Nội dung vai trũ chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị 
trường định hướng XHCN. 
Để đảm bảo thực hiện được vai trũ là thành phần kinh tế chủ lực của nền 
kinh tế trong giai đoạn hiện nay thỡ kinh tế nhà nước phải thực hiện được bốn 
 Trang 11 
nội dung hay là bốn chức năng của nó trong kinh tế nhiều thành phần của 
nước ta hiện nay. 
* Thứ nhất, kinh tế nhà nước mà thành phần chính là các doanh nghiệp 
nhà nước, phải đi đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản 
xuất kinh doanh. 
Là lực lượng kinh tế được nhà nước chú trọng đầu tư, phát triển, do Nhà 
nước nắm giữ nguồn vốn chi phối do đó quy mô hoạt động của các kinh tế 
nhà nước và đặc biệt là thành phần doanh nghiệp nhà nước rất rộng lớn, và 
đang ngày càng được tổ chức sắp xếp lại theo hướng hiện đại nhằm hoạt động 
có hiệu quả hơn. Bởi nguồn vốn đầu tư lớn, chủ yếu trong các doanh nghiệp 
nhà nước có 100% vốn của nhà nước hoặc nhà nước giữ cổ phần chi phối) 
nên các doanh nghiệp nhà nước có điều kiện đầu tư trang thiết bị kỹ thuật, 
công nghệ hiện đại. Có khả năng tạo ra năng xuất, chất lượng các loại hàng 
hoá, dịch vụ cao, sử dụng tối đa và tận dụng được các nguyên nhiên vật liệu 
đầu vào, tiết kiệm được chi phí sản xuất nhưng mang lại hiệu quả sản xuất 
cao, đóng góp ngân sách lớn. Chỉ có doanh nghiệp nhà nước mới có khả năng 
đi đầu trong việc việc ứng dụng ác công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao để có 
thể đưa kinh tế đất nước theo kịp với nền kinh tế thế giới. 
Kinh tế nhà nước phải tạo được động lực thúc đẩy, tạo đà và dẫn dắt các 
thành phần kinh tế khác mà cơ bản nhất là thành phần kinh tế tư bản tư nhân 
và thành phần kinh tế cá thể (mà chủ yếu là các doanh nghiệp dân doanh) 
cũng đóng góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế. Muốn thực hiện được chức 
năng này thỡ kinh tế nhà nước phải cần được chú trọng tron các ngành lĩnh 
vực then chốt của nền kinh tế - bởi chỉ khi các ngành kinh tế này được phát 
triển thỡ mới đủ khả năng đưa nền kinh tế phát triển theo. Tuy nhiên, trong 
mỗi thời kỳ phát triển các lĩnh vực, ngành then chốt sẽ có sự thanh đổi, luân 
chuyển từ ngành này sang ngành khác, do đó việc xác định ngành lĩnh vực 
then chốt cho từng thời kỳ mà phải tính đến cả xu hướng hội nhập cũng như 
tiềm năng kinh tế của đất nước là quan trọng. Khi nhà nước đầu tư phát triển 
đúng hướng thỡ kinh tế nhà nước sẽ hoạt động có hiệu quả, thu hút dần các 
thành phần kinh tế khác cùng tham gia vào – như thế là kinh tế nhà nước đó 
tạo đà và dẫn dắt được các thành phần kinh tế phát triển, cùng góp phần vào 
việc tăng trưởng kinh tế. 
Để tạo động lực, hỗ trợ các thành phần kinh tế khỏc phỏt triển thỡ kinh tế 
nhà nước phải đi đầu trong việc chuyển giao công nghệ, áp dụng công hiện 
đại và sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong các lĩnh vực mà trước đây ít được 
 Trang 12 
đầu tư do ít có khả năng sinh lời, nhưng là lực lượng duy nhất có đủ điều kiện 
về vốn, lao động nên doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu về cải tiến kỹ thuật 
công nghệ sản xuất để từđó mở đờng cho các doanh nghiệp dân doanh mạnh 
dạn cùng tham gia đầu tư phát triển. 
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của cỏc doanh nghiệp ngày nay cũn gắn 
liền với việc bảo vệ môi trường hạn chế việc gây ô nhiễm môi trường, do đó 
đay cũng là mọt tiêu thức của phát triển mà doanh nghiệp nhà nước phải đi 
đầu, làm gương để các thành phần kinh té khác đi theo. Việc giảm thiểu ô 
nhiễm môi trườngcó liên quan đến vấn đề công nghệ và vấn đề lợi nhuận của 
các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp dân doanh thường với số vốn ít ỏi thỡ 
cụng nghệ cũng lạc hậu, tuy nhiờn vỡ mục đích tối đa hoá lợi nhuận mà các 
doanh nghiệp bỏ qua vấnđề môi trường. Doanh nghiệp nhà nước cũng phải 
thể hiện vai trũ chủ đạo trong việc giải quyết vấn đề này đó là khi nhạp và 
cung cấp các thiết bị công nghệ cho các doanh nghiệp dân doanh thỡ doanh 
nghiệp nhà nước phải chú trọng đến các thiết bị bảo đảm chống ô nhiễm môi 
trường và doanh nghiệp nhà nước phải luôn đi đầu trong việc thực hiện luật 
bảo vệ môi trường để các doanh nghiệp khác đi theo. 
* Thứ hai, bằng nhiều hỡnh thức, kinh tế nhà nước hỗ trợ các thành phần 
kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. 
Muốn xây dựng nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN đương nhiên 
phải xây dựng một lực lượng kinh tế đóng vai trũ chủ đạo, làm tâm điểm ảnh 
hưởng tới các lực lượng khác của nền kinh tế, hướng dẫn, hỗ trợ các lực 
lượng kinh tế khác cùng phát triển theo cùng một định hướng đó chọn và đó 
chính là KTNN. Trên cơ sở xác định, không một nền kinh tế nào phát triển mà 
chỉ dựa trên một thành phần kinh tế mà đó phải là sự phát triển đồng bộ của 
nhiều thành phần kinh tế có thể phát huy được mọi tiềm năng của đất nước. 
Tuy nhiên như đó phõn tớch ở cỏc phần trờn chúng ta biết rằng quy mô của 
các thành phần kinh tế tư nhân của nước ta cũn rất nhỏ hẹp, mặt khỏc thời 
gian phỏt triển cũn ngắn nờn cỏc doanh nghiệp dõn doanh chưa thể tích luỹ để 
mở rộng quy mô lớn hơn đẻ làm nguồn cốt cho việc phát triển kinh tế nước ta. 
Trong điều kiện đó, chỉ các doanh nghiệp nhà nước có đủ điều kiện để trở 
thành lực lượng nguồn cốt, tạo choừ dạ cững chắc cho để dẫn dắt các doanh 
nghiệp dân doanh cùng phát triển. Muốn làm được điể đó thỡ kinh tế nhà 
nước phải xác định được cơ cấu thành phần kinh tế của mỡnh một cỏch hợp 
lý. Luụn giữ được vị trí, vai trũ xứng đáng, phát huy được lợi thế, khai thác 
được khả năng đóng gốp thiết thực vào sự phát triển của kinh tế đất nước, 
 Trang 13 
kinh tế nhà nước phải tích luỹ được vốn để phát triển trong các lĩnh vực then 
chốt, chi phối nhiều mặt của đời sống kinh tế - xó hội, trở thành xương sống 
của nền kinh tế quốc dân, để từ đó các thành phân kinh tế khác có được chỗ 
dựa vững mà cùng phát triển, đi lên. 
Mặt khác, trong cơ chế thị trường, lợi nhuận luôn là mục tiêu mà các 
doanh nghiệp theo đuổi, do đó các thành phần khác thường tập trung kinh 
doanh ở những ngành kinh tế hoặc những vùng có khả năng đưa đến lợi 
nhuận cao một cách nhanh chóng mà ít rủi ro nhất, do đó sẽ tạo ra lỗ hổng là 
những ngành và vùng kinh tế kém tiềm năng hoặc đũi hỏi đầu tư lớn: đó là 
các vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triển có cơ sở hạ tầng thấp kém. Để 
khắc phục tỡnh trạng đó, đồng hởi mở đường kích thích các thành phần khác 
cùng tham gia vào hoạt động sản xuất thỡ kinh tế nhà nước phải có mặt để 
xây dựng cơ sở hạ tầng ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triển là điều 
kiện tiên đề tạo thuận lợi trước mắt thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế. 
Đó cũng là một chức năng thể hiện vai trũ chủ đạo, mở đường, hỗ trợ các 
thành phần kinh tế phát triển theo đúng đinh hướng XHCN, bởi nó cân bằng 
được trỡnh độ phát triển giữa các vùng kinh tế, giảm bớt hố ngăn cách giữa 
thành thị và nông thôn. 
Phát triển theo đúng định hướng XHCN cũn thể hiện ở việc tuõn theo 
phỏp luật mà nhà nước XHCN đó đề ra. Thực tế hiện nay cho thấy khụng ớt 
chủ cỏc doanh nghiệp dõn doanh chỉ vỡ lợi nhuận cỏ nhõn mà bất chấp cả 
phỏp luật, hoặc cỏo những hoạt động thiếu ý thức pháp luật. Tất yếu đấy là 
vấn đề mà nhà nước phải có biện pháp giải quyết, và DNNN là một trong 
những công cụ mà nhà nước dùng để hạn chế vấn đề này. Vỡ vậy, DNNN 
phải là tấm gương mẫu mực trong việc tuân theo phát luật để các doanh 
nghiệp khác cùng noi theo. 
* Thứ ba : KTNN là lực lượng vật chất để nhà nước điều tiết nền kinh tế 
vĩ mô. 
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đó là : các đơn 
vị kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, nhà nước đóng vai trũ điều tiết 
nền kinh tế theo định hướng XHCN. 
Các đơn vị kinh tế luôn phải giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản đó là sản 
xuất cái gỡ, cho ai và như thế nào theo mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận. Điều 
đó dẫn đến kết quả là các dơn vị kinh tế luôn chạy theo những loại hàng hoá 
và dịch vụ mang đến nhiều lợi nhuận và sẽ rút khỏi thị trường các loại hàng 
hoá không có lói hoặc lỗ. Tuy nhiờn khụng phải mọi doanh nghiệp đều luôn 
 Trang 14 
thu nhận được thông đầy đủ để quyết ịnh tham gia vào sản xuất mặt hàng nào, 
tất sẽ dẫn tới phát sinh những mâu thuẫn giữa cung cầu ở mọi lúc, mọi nơi đỗi 
với mọi mặt hàng. Để điều tiết được nền kinh tế đó thỡ nhà nước sử dụng 
KTNN là một lực lượng vật chất hay một công cụ điều tiết hiệu quả, là vỡ : 
Thứ nhất: KTNN từ khi được hỡnh thành cho tới nay luụn được chú 
trọng đầu tư ở hầu khắp các kĩnh vực, ngày kinh té, vả ngành không có khả 
năng sinh lợi nhuận. (Các hàng hoá, dịch vụ công cộng) do đó nó làm cân đối 
giữa các ngành của nền kinh tế. Với tư cách là công cụ điều tiết, các DNNN 
được nhà nước đầu tư phát triển theo phương châm: “Ở đâu, khi nào nền kinh 
tế quốc dân đang cần mở rộng sản xuất kinh doanh một mặt hàng nào đó mà 
các thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng kinh doanh 
thỡ khi đó cần có sự có mặt của DNNN”, đến một lúc nào đó khi khả năng 
sinh lời tăng lên thỡ doanh nghiệp dõn doanh nhày vào hoạt động và đủ khả 
năng cung cấp cho thị trường thỡ DNNN rút ra và tiếp tục hoạt động ở các 
lĩnh vực khác. 
Thứ hai : trong các vùng kinh té luôn có sự phát triển mất cân đối giữa các 
ngành kinh tế đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kém phát 
triển. Nhà nước đó rất chỳ trọng đầu tư phát triển ở các vùng này từ rất lâu và 
hiện nay nó đó phỏt huy chức năng điều tiết cho kinh tế của các vùng đó 
tương tự như tạo ra sự cân bằng trong nền kinh tế vĩ mô của cả nước. 
Thứ tư : kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo dẫn nền tảng kinh tế 
cho chế độ xó hội mới, XHCN. 
Theo luận điểm của Mác-Lenin thỡ chế độ XHCN phải được xây dựng 
dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, tức là mọi tư liệu sản xuất đều 
thuộc sở hữu chung của tập thể, của toàn dân, không một cá nhân nào được 
biến TLSX thành tài sản riờng của mỡnh. Đó được coi là chế độ sở hữu tiến 
bộ nhất trong lịch sử phát triển của xó hội loài người. Khi xem xét về nguồn 
gốc hỡnh thành KTNN ta đó biết rằng KTNN được xây dựng dựa trên hỡnh 
thức sở hữu toàn dõn, cũn kinh tế tập thể được xây dựng dựa trờn hỡnh thức 
sở hữu tập thể, trong thời kỳ quỏ độ lên CNXH của nước ta thỡ đây là hai 
hỡnh thức sở hữu được xem là tiến bộ nhất, nó đại diện cho QHSX mới 
XHCN. Vỡ vậy để xây dựng nền kinh tế XHCN thỡ KTNN cựng kinh tế tập 
thể cú vai trũ là nền tảng cơ bản . 
II. Thực trạng KTNN và việc thực hiện vai trũ chủ đạo của KTNN trong 
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN hiện nay. 
 Trang 15 
1. Những bước chuyển biến chủ yếu của KTNN trong thời kỡ đổi mới: 
Từ giai đoạn đầu thực hiện đổi mới cơ chế kinh tế, chuyển từ kinh tế kế 
hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo 
định hướng XHCN (Giai đoạn 1986 – 1990), một nền kinh tế đa phần được 
hỡnh thành, nhưng cũng ngay từ đây KTNN đó giữ vững và khẳng định được 
vai trũ chủ đạo của nó. Năm 1990 KTNN tạo ra 66% tổng sản phẩm xó hội 
với số lượng DNNN là 1200 doanh nghiệp. 
Sang thập niên 90 – là giai đoạn Đảng và Nhà nước ta thực thi nhiều 
chính sách, biện pháp lớn mạnh nhằm cải tổ và sắp xếp lại cơ cấu lại các 
doanh nghiệp nhà nước để hoạt động hiệu quả hơn. 
Với các chính sách, cơ chế đổi mới để DNNN tự chủ trong cơ chế thị 
trường, về kế hoạch, các doanh nghiệp được chủ động xây dựng và tổ chức 
thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ mà 
Nhà nước giao cho đó là kế hoạch sản xuất, cung ứng vật tư kỹ thuật, đầu tư 
xây dựng cơ bản, tài chính, lao động… trên cơ sở tính toán nhu cầu thị trương 
về sản phẩm, dịch vụ của Doanh nghiệp mỡnh. Về tài chớnh Doanh nghiệp 
được Nhà nước giao vốn, tự chủ sử dụng vốn và sử dụng quỹ khấu hao để 
đầu tư, đổi mới tài sản… Về tổ chức bộ máy và nhân lực: Doanh Nghiệp có 
quyền tự chủ động tổ chức bộ máy quản lý và tổ chức kinh doanh cho phự 
hợp với mục tiờu, nhiệm vụ Nhà nước giao, được đào tạo và sử dụng lao động 
theo quy định của pháp luật trên cơ sở hợp đồng ký kết với người lao động và 
thoả ước lao động tập thể, thực hiện trợ cấp cho người lao động khi thôi việc, 
mất việt… Về quản lý Nhà nước đối với DNNN: từng bước xoá bỏ chế độ 
chủ quan của cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên trực tiếp can thiệp quỏ 
sõu vào cỏc hoạt dộng của DNNN, chỉ quản lý trờn cỏc mặt cú tớnh tổng 
quan, chiến lược, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động 
và kiểm tra việc chấp hành pháp luật. Về thực hiện chức năng chủ sở hữu, 
Nhà nước đối với DNNN: có một bước đổi mới lớn dựa trên cơ sở phân công, 
phân cấp giữa chính phủ và các cấp quản lý với đại diện chủ sở hữu ở Doanh 
nghiệp. 
 Quỏ trỡnh đổi mới cơ chế, chính sách đó hỡnh thành được khung pháp 
lý tương đối rừ ràng và cơ bản để DNNN sang kinh doanh theo cơ chế thị 
trường, xác lập dân quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh 
doanh của các doanh nghiệp, các doanh nghiệp đó được sử dụng hiệu qủ hơn 
tiền vốn và tài sản, nâng cao chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh và ổn định 
việc làm cho người lao động. 
 Trang 16 
Kết quả hoạt động của các DNNN sau các chính sách đổi mới đó được thể 
hiện qua những con số sau: thời kỳ 1991 – 1995, tốc độ tăng trưởng của các 
DNNN bỡnh quõn theo GDP là 11,7% bằng 1,5 lần tốc độ tăng trưởng chung 
của nền kinh tế và bằng 2 lần tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế ngoài quốc 
doanh. Từ 1990 đến nay do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế khu vực và 
thế giới cùng những thiên tai liên tiếp xảy ra thỡ tốc độ tăng trưởng của nền 
kinh tế giảm dần, DNNN cũng nằm trong tỡnh trạng đó, tỷ trọng tổng sản 
phẩm của DNNN trong GDP tăng 33,3% năm 1991 lên 40,07% năm 1996 và 
41,23% năm 1998. Tỷ lệ nộp vốn ngân sách trên vốn nhà nước năm 1993 là 
6,8% và năm 1999 là 12,31%. Năm 1999 các doanh nghiệp làm 40,2% GDP 
trên 50% giá trị xuất nhập khẩu, đóng góp 39,25% ngân sách Nhà nước. Từ 
1995 đến nay, hằng năm DNNN đóng góp từ 26 – 28% nguồn thu thuế nội 
địa. 
Từ thập niên 90 trở lại đây, Nhà nước đó sắp xếp, tổ chức, củng cố và 
phỏt triển cỏc DNNN, cỏc tổng cụng ty Nhà nước: Chính phủ đó liờn tục chỉ 
đạo và thực hiện sắp xếp lớn các DNNN đó là đợt 2 (1990 – 1993), đợt 2 
(1994 – 1997), đợt 3 (1998 – 1999), qua mỗi đợt sắp xếp đó là các DNNN đó 
cú sự đổi mới về quy mô, về cơ cấu tổ chức quản lý bằng cỏch sỏt nhập, giải 
thể phỏ sản cỏc doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ kéo dài, chuyển doanh 
nghiệp nhà nước thành các công ty cổ phần hoặc giao, bán, khoán, cho thuê 
DNNN có quy mô nhỏ. Kết quả sau 3 đợt sắp xếp đổi mới đó là hiệu quả hoạt 
động của các DNNN tăng lên, mặc dù số DN giảm xuống rất nhiều từ 12000 
doanh nghiệp (năm 1990) xuống cũn 5280 doanh nghiệp (năm 2000). 
Hiện nay có 17 tổng công ty 91 và 77 tổng công ty 90 đang hoạt động, 
các tổng công ty này được tập trung xây dựng hầu hết trong tất cả các lĩnh 
vực kinh tế của đất nước. Các tổng công ty nhà nước có 1605 DN thành viên, 
chiếm 28,4% tổng số doanh nghiệp nhà nước, 65% vốn nhà nước và 61% lao 
động. Năm 2000, các tổng công ty đó cung cấp cho nền kinh tế quốc dõn 98% 
sản lượng điện, 97% sản lượng than, 54% sản lượng xi măng, 52% sản lượng 
thép, các ngân hàng thương mại giữ 70% thị phần vốn vay. 
Một bộ phận DNNN đó được cổ phần hoá mà Nhà nước không cần nắm 
giữ 100% vốn và DNNN đầu tư một phần vốn để thành lập mới công ty cổ 
phần. Tính đến năm 2001, cả nước đó cổ phần hoỏ được 529 DN và 102 bộ 
phận DN bằng 11% tổng số doanh nghiệp hiện có so với tổng số vốn Nhà 
nước khi đánh giá lại khi cổ phần hoá các doanh nghiệp là 2714 tỷ đồng bằng 
1,97% tổng số vốn Nhà nước trong các DNNN. Sau một thời gian hoạt động, 
 Trang 17 
phần vốn nhà nước ở các công ty cổ phần đó tăng được giá trị tuyệt đối, theo 
báo cáo của 202 DN đó cổ phần hoỏ được trên 1 năm, phần vốn Nhà nước 
không những được bảo toàn mà cũn tăng thêm 65.420 tỷ đồng bằng nguồn lợi 
nhuận để lại; doanh thu tăng 1,4 lần, lợi nhuận tăng gấp 2 lần, nộp ngân sách 
tăng 1,2 lần, thu nhập của người lao động tăng 22%, số lượng công nhân viên 
tăng 5,1% và không có doanh nghiệp cổ phần nào lâm vào tỡnh trạng phỏ sản. 
Những kết quả đạt được đó đó chứng tỏ rằng chớnh sỏch cổ phần hoỏ cỏc 
DNNN là một chớnh sỏch đúng đắn và đó phỏt huy được những tính tích cực 
của DNNN, tạo cơ hội cho DNNN thực sự hoạt động trong cơ chế thị trường, 
cạnh tranh bỡnh đẳng với mọi DN khác. 
Thực hiện chính sách giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê những 
DNNN quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài – Đó là những doanh nghiệp nhỏ có vốn 
dưới 1 tỷ đồng, kinh doanh thua lỗ kéo dài mà không cần thiết duy trỡ sở hữu 
Nhà nước, cần áp dụng các hỡnh thức xử lý thớch hợp như: sát nhập, đấu thầu 
công khai, cho thuê, khoán kinh doanh hoặc bán, giao cho tập thể cán bộ, 
công nhân với điều kiện đảm bảo công ăn việc làm cho người lao động và 
thực hiện luật pháp của nhà nước. Theo nghị quyết hội nghị TW lần thứ tư 
(Khoá VIII) đó nờu trờn, đến thực hiện, tỡnh hỡnh sản xuất kinh doanh của 
cỏc DN này khỏ lờn rừ rệt: so với trước khi chuyển đổi vốn kinh doanh tăng 
67,3% , doanh thu tăng 42,5%, nộp ngân sách nhà nước tăng 44,5% lao động 
tăng 12,8%, thu nhập bỡnh quõn đầu người bằng 38,7%, một số cũn tớch luỹ 
thờm và đó mở rộng được sản xuất. Đó là thành quả rất đáng mừng đối với sự 
phát triển của kinh tế nhà nước. 
Như vậy trong suốt quá trỡnh đổi mới từ 1986 đến nay, nhờ những chính 
sách đổi mới, sắp xếp tổ chức lại các DNNN của chính phủ mà các DNNN đó 
cú những chuyển biến tớch cực: việc tỏch quyền sở hữu đó tỏc động tích cực 
đến quyền tự chủ của các doanh nghiệp và do đó hoạt động có hiệu quả hơn 
trước, trỡnh độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ, vốn được bảo toàn và 
tăng thêm, bước đầu đa dạng các nguồn vốn để phát triển, vốn tích luỹ tự bổ 
sung tăng lên 27,8% tổng vốn sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh của DNNN 
đang từng bước được nâng lên, giúp KTNN thực hiện được vai trũ chủ đạo 
của nền kinh tế quốc dân, chi phối được các ngành lĩnh vực then chốt, là lực 
lượng nũng cốt trong tăng trưởng kinh tế, trong xuất khẩu và đóng góp cho 
ngân sách Nhà nước, bảo đảm cân đối vốn và góp phần quan trọng trong ổn 
định kinh tế vĩ mô, là lực lượng rất quan trọng trong việc bảo đảm các sản 
phẩm chủ yếu của nền kinh tế. 
 Trang 18 
1.2 Kết quả bước đầu phát huy vai trũ chủ đạo của KTNN từ những bước 
đổi mới: 
Thứ nhất, hệ thống kinh tế Nhà nước các thể chế thống nhất đang làm đũn 
bẩy thỳc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ khá. 
Thứ hai, trong những năm lại đây, hoà chung vào xu thế toàn cầu hoá nền 
kinh tế thế giới, kinh tế hợp tác, liên doanh với nước ngoài rất được phát triển 
mà chủ yếu là với thành phần KTNN. Điều đó khẳng định là thành phần kinh 
tế đi đầu trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, mở đường cho 
các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo xu hướng chung của nền 
kinh tế hội nhập với khu vực và thế giới. 
Thứ ba, KTNN phát triển ổn định là một nhân tố cơ bản, quan trọng giúp 
Nhà nước giải quyết được một số vấn đề kinh tế vĩ mô và vấn đề xó hội như 
giảm thất nghiệp, bảo hiểm cho người lao động, trợ cấp mất việc hay thôi 
việc, góp phần xóa đói giảm nghèo, cân bằng kinh tế, phát triển văn hoá, giáo 
dục… 
Thứ tư, KTNN đang tạo ra lực lượng vật chất tối thiểu cần thiết để Nhà 
nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, ổn định xó hội, hạn chế 
khuyết tật của kinh tế thị trường. 
Thứ năm, KTNN phát triển, vừa tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển của 
các thành phần kinh tế khác, vừa là tấm gương để các thành phần kinh tế khác 
đi theo trong việc quản lý, tuõn thủ phỏp luật, bảo vệ mụi trường… Nhờ đó 
tạo nên sự phát triển đồng bộ, ổn định cho nền kinh tế quốc dân. 
Thứ sáu, KTNN đó gúp phần tạo nờn con người mới XHCN với những 
phẩm chất, trỡnh độ cần có để xây dựng chế độ xó hội mới. Điều đó được thể 
hiện qua đội ngũ cán bộ lao động trong các DNNN đang ngày càng có trỡnh 
độ cao, phẩm chất tốt, năng lực quản lý tiến bộ… từ đó tạo điều kiện phát huy 
vai trũ giai cấp cụng nhõn trong xõy dựng xó hội mới – XHCN. 
1.3 Nguyên nhân những thành quả đạt được: 
Thứ nhất, xuất phát điểm đầu tiên cho sự đổi mới nền kinh tế nước ta đó 
là nhờ chủ trương đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương 
xây dựng một nền 
Kinh tế mở của Đảng đó rất phự hợp với thực tế tỡnh hỡnh đất nước ta do 
đó đó mở ra một thời kỳ kinh tế mới năng động, sáng tạo, nhanh chóng đưa 
đến hiệu quả phát triển của nền kinh tế, - xó hội đất nước, xuyên suốt thời kỳ 
 Trang 19 
đổi mới (1986 đến nay), gió cỏc văn kiện đại hội lần thứ VI đến đại hội lần 
thứ IX luôn đặt KTNN lên nắm vai trũ chủ đạo: “Làm đũn bẩy thỳc đẩy tăng 
trưởng kinh tế và giải quyết vấn đề xó hội, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần 
kinh tế khác phát triển, làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức 
năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ XHCN” (Văn kiện 
đại hội Đảng lần thứ VIII) 
Thư hai, nhà nước XHCN VN đang từng bước hoàn thiện dần hệ thống 
cỏc cụng cụ quản lý vĩ mụ, của mỡnh đối với thành phần KTNN đặc biệt là 
đối với các DNNN.Bằng các văn bản pháp quy các chính sách kinh tế mà nhà 
nước đó thể chế hoỏ cỏc quan điểm, chủ trương của Đảng về vai trũ chủ đạo 
của KTNN, DNNN; một loạt các văn bản được thực thi như quyết định về 
hạch toán kinh doanh trong DNNN, quy chế quản lý tài chớnh đối với DNNN. 
Luật DNNN, luật thương mại, chỉ thị về đẩy mạnh và sắp xếp, đổi mới các 
DNNN, nghị quyết về giao, bán, khoán, đó là những công cụ điều tiết, quản lý 
kinh tế của nhà nước, thể hiện sự chỉ đạo hết sức kiên trỡ của chớnh phủ cỏc 
cấp, cỏc ngành. 
Thứ ba, sự cố gắng phấn đấu của các DNNN, của đội ngũ cán bộ, quản lý 
và người lao động trong cơ chế mới mà Đảng đề ra đũi hỏi cỏc DNNN cũng 
như các cán bộ quản lý người lao động, phải có một sự thay đoỏi nhất định, 
đáp ứng được những đũi hỏi của cơ chế kinh tế mới. Càng ngày ta nhận thấy 
tính năng động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của nhiều cán bộ, công nhân 
viên ở các DNNN được nâng cao. Các DNNN đó cú những việt làm nhằm 
đưa hoạt động của sản xuất của mỡnh hiệu quả hơn như đổi mới công nghệ, 
đào tạo đội ngũ cán bộ…. 
Thứ bốn: Hợp tác đa phương, đa hỡnh thức, hướng về xuất khẩu, của các 
DNNN được phát triển cả về quy mô và hiệu quả, nhờ đó mà tranh thủ sự đầu 
tư, giúp đỡ của quốc tế, của các DN nước ngoài, không chỉ cho thành phần 
KTNN mà cũn cho cỏc thành phần kinh tế khỏc về thị trường, về đổi mới 
công nghệ, về phương pháp sản xuất, kinh doanh…. nhờ đó mà KTNN thực 
hiện được vai trũ mở đường, đón dắt cỏc thành phần kinh tế, phát triển theo 
đúng định hướng XHCN của Đảng. 
2. Những tồn tại yếu kộm trong quỏ trỡnh đổi mới và thực hiện vai trũ chủ 
đạo của KTNN: 
2.1. Những hạn chế yếu kém của KTNN trong thời kỳ đổi mới: 
 Trang 20 
Bên cạnh những thành quả đó đạt được của KTNN (DNNN) mà ta đó ghi 
nhận ở trờn (trang 21) thỡ KTNN cũn những hạn chế, yếu kộm, mà đó được 
hội nghị TW Đảng khoá IX đánh giá: “Những mặt hạn chế, yếu kém, có mặt 
rất nghiêm trọng của DNNN và DNNN đang đứng trước thách thức gay gắt 
của yêu cầu đổi mới, phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.” 
Nhận định trên được thể hiện qua các mặt sau: 
*Thứ nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh của DNNN cũn 
thấp tốc độ phát triển chưa cao, không ít DNNN vẫn cũn ỷ lại vào sự bảo hộ 
bao cấp của nhà nước. Năm 1998, theo đánh giá chung, số DN thực sự kinh 
doanh có hiệu quả, chiếm khoảng 20%, số chưa có hiệu quả, khi lỗ khi lói là 
40%, số DN khụng cú hiệu quả, lỗ liờn tục đóng góp 39,2% tổng thu ngân 
sách nhà nước, nhưng trong đó phần thuế thu nhập DN chỉ có 13,4%. 
Năm 2000, đồng vốn nhà nước của DNNN là ra 0.095 đồng lợi nhuận 
trước thuế, trong một đồng vốn chủ sở hữu của các công ty cổ phần được 
chuyển đổi từ DNNN là ra 0,019 đồng. 
Khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và trong nước của sản phẩm 
do các DN là ra cũn thấp do mức giỏ quỏ cao so với cỏc mặt hàng cựng loại 
nhập khẩu như đường thô cao hơn đến 70-80% 
Tốc độ phát triển sản xuất của DNNN chưa cao, cũn thấp hơn các DN 
thuộc các thành phần kinh tế khác,, bỡnh quõn 10 năm từ 1991-2000 của 
DNNN là 11%, của DN ngoài quốc doanh là 14% 
Không ít các DNNN xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh 
không gắn với định hướng phát triển chung của toàn ngành, không phù hợp 
với mục tiêu, nhiệm vụ được giao và chưa xuất phát từ nhu cầu thị trường, 
nhiều DNNN đưa ra các dự án không có khả năng thực thi, hiệu quả đầu tư 
thấp, lóng phớ tiền vốn, phỏt sinh tiờu cực, tham nhũng, để lại những hậu quả, 
khó khắc phục, Việc bảo toàn và phát triển vốn nhiều DN thực hiện chưa tốt, 
tỡnh trạng ăn vào vốn, mũn vốn, mất vốn vẫn cũn rất nhiều, Khụng ớt doanh 
nghiệp chưa thực hiện tốt quy chế dân chủ tại DNNN, nhất là công khai tài 
chính, việc chi tiêu tuỳ tiện, lóng phớ. 
Thứ hai: DNNN quy mụ vẫn cũn nhỏ, cơ cấu cũn nhiều bất hợp lý, dàn 
trải, chồng chộo, về ngành và tổ chức quản lý. 
Đến tháng 5-2001, cả nước có 5.655 doanh nghiệp với tổng số vốn nhà 
nước khoảng 126.030 tỷ đồng (không tính giá trị quyền sử dụng đất), bỡnh 
quõn mỗi DN 22 tỷ đồng. Số DNNN có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 59,8%, 
trong đó số DN có số vốn từ 1 tỷ đồng trở xuống chiếm 18,2% (tại 14 tỉnh, 
 Trang 21 
loại DN này chiếm hơn 90%, chủ yếu trong các lĩnh vực dịch vụ, thương mại, 
du lịch); số DN có vốn từ 5 đến 10 tỷ đồng chỉ chiếm 15,2% ; số DN có vốn 
trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 25%. Vốn lưu động của các DN nhà nước vào 
khoảng 27 ngàn tỷ đồng, chỉ bằng trên 21% tổng số vốn nhà nước, bỡnh quõn, 
một doanh nghiệp gần 4,8 tỷ, nhưng phần lớn các DN không có hoặc rất ít 
vốn lưu động nên chủ yếu phải đi vay để sản xuất kinh doanh. Nhiều DNNN 
cùng loại hoạt động trong tỡnh trạng chồng chộo về ngành nghề kinh doanh, 
cấp quản lý và trờn cựng một địa bàn. 
Thứ ba: Công nợ của DNNN ngày càng tăng, đầu tư đổi mới công nghệ 
chậm, trỡnh độ công nghệ lạc hậu; lao động thiếu việc làm va dôi dư cũn lớn; 
trỡnh độ quản lý phần lớn cũn yếu kộm. 
Công nợ của DNNN hiện nay là quá lớn. Nợ quá hạn, nợ khó đũi ngày 
càng tăng. Năm 2000, trong số 15,1% nợ quá hạn của các ngân hàng thương 
mại nhà nước thỡ DNNN chiếm 74,8% đó làm ảnh hưởng rất xấu đến hoạt 
động của tập thể ngân hàng. Tỡnh trạng tài chớnh không lành mạnh một phần 
do lịch sử để lại, phần lớn là mới phát sinh, nhưng cũn lỳng tỳng, chưa có 
phương án khả thi để xử lý dứt điểm, làm cho hoạch toỏn kinh tế bị mộo mú, 
khụng minh bạch và DNNN luụn trong tỡnh trạng bị động, ứng phó với các 
khoản nợ khó đũi. 
Nguyên nhân dẫn đến yếu kém, hạn chế của DNNN: Nghị quyết TW VI 
khẳng định: “Những hạn chế, yếu kém của DN có nguyên nhân khách quan, 
nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan.” 
-Chưa có sự thống nhất cao trong nhận thức về vị trí, vai trũ của KTNN 
và DNNN về những yêu cầu và giải pháp sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả 
hoạt động của DNNN. 
-Nhiều vấn đề chưa rừ và cũn cú những ý kiến khỏc nhau chưa được tổng 
kết thực tiễn để kết luận. 
-Quản lý nhà nước đối với DNNN cũn yếu kộm vướng mắc. 
-Cải cách hành chính chậm, cơ chế, chính sách cũn nhiều bất cập, chưa 
đồng bộ, cũn nhiều điểm chưa phù hợp với KTTTĐHXHCN, chưa tạo được 
động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ và người lao động trong DN nâng cao 
năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh. 
Thứ bốn: Về hoạt động sản xuất kinh doanh kém năng động, sáng tạo, mặt 
hàng đưa ra cạnh tranh trên thị trường rất đơn điệu, chất lượng thấp. 
Các DNNN thường sản xuất các mặt hàng rất đơn diệu và thường chạy 
theo những mẫu mó đó cú sẵn của cỏc nước khác. Tuy khối lượng sản xuất ra 
 Trang 22 
nhiều nhưng tiêu thụ kém do châts lượng thấp nhưng giá thành lại không hợp 
lý, mẫu mó ớt thay đổi. 
Thứ năm : Các DNNN liên doanh với đầu tư nước ngoài thường bị thua 
thiệt vốn . 
Tuy hoạt động hợp tác, liên doanh với nước ngoài có mặt rất tích cực là 
thu hút được vốn đầu tư vf đổi mới được công nghệ, nhưng thực tế hoạt động 
của DNNN không những không đạt được tích cực ấy mà thậm chí bị thua 
thiệt, mất vốn, vỡ cỏc chủ đầu tư nâng giá đầu voà của thiết bị và vật tưcó khi 
1,5 đến 2 lần, làm cho giá thành sản phẩm tăng cao 
Mục tiêu phát triển sản xuất kinh doanh không thực hiện được, vốn của 
nhà nước bị lỗ, tỷ trọng giảm. Thực chất ở đây các chủ đầu tư đó lợi dụng 
danh nghĩa vào đầu tư để vào thu lợi nhuận từ phía Việt nam. Đó là hậu quả 
của việc thiếu cơ chế quản lý kiểm tra, kiểm soỏt, nhất là về mặt hoạch toỏn, 
tài chớnh. 
Thứ 6: Trỡnh độ, phẩm chất của cán bộ quản lý DNNN cũn rất nhiều yếu 
kộm. Đây là hậu quả, dư âm của cơ chế kinh tế cũ để lại, các cán bộ quản lý 
DN ngày trước đó quen với chế độ bao cấp, của nhà nước - dù hoạt động 
không hiệu quả vẫn được hưởng lương - thiếu năng động, nhanh nhạy trước 
các tỡnh huống phỏt minh kinh tế trong cơ chế mới, mặc dù vậy nhưng vẫn 
bảo thủ, không chịu tỡm hiểu, học hỏi nõng cao trỡnh độ để thích ứng và quản 
lý DN đi đúng hướng, mà ngược lại một số trở lên sa sút về phẩm chât đạo 
đức, vi phạm pháp luật, trong khi đó, việc thay đổi, bố trí lại số cán bộ này rất 
khó khăn, chậm chạp, chưa có cơ chế phù hợp cho việc tuyển chọn những 
người có năng lực vào quản lý điều hành DNNN. 
2.2. Nguyờn nhõn của những hạn chế yếu kộm trờn: 
Nghị quyết TW III đó khẳng định: “Những hạn chế, yếu kém của doanh 
nghiệp nhà nước có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu do những 
nguyên nhân chủ quan.” 
*Thứ nhất: Chưa có sự thống nhất cao, trong nhận thức về vai trũ, vị trớ 
của kinh tế nhà nước và DNNN, về yêu cầu và giải pháp sắp xếp đổi mới, đổi 
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. 
Rất nhiều ý kiến hoài nghi, thiếu tin tưởng vào sự vào sự cần thiết cũng 
như vai trũ chủ đạo của KTNN và DNNN, dẫn đến sự bất dồng trong quan 
điểm, nhận thức và vai trũ của KTNN trong nền kinh tế. Theo họ, DNNN 
 Trang 23 
khụng thể hoạt động có hiệu quả, không có khả năng cạnh tranh bằng DN tư 
nhân và do vậy không nhất thiết phải duy trỡ, vỡ những lý do: 
Theo họ, vấn đề quan trọng không phải là DNNN hay DN tư nhân, và là 
sản xuất có hiệu quả hay không, vỡ quy cho đến cùng thỡ sẽ hữu thi là 
phương tiện, tăng trưởng kinh tế mới là mục tiêu. 
Hai là: Chỉ chủ tư nhân – là chủ sở hữu tài sản một cách chính đáng mới 
quan tâm chăm lo cho DN của mỡnh, quản lý chi phớ hợp lý, tiết kiệm đồng 
thời có khả năng nhanh nhạy, linh hoạt trong cơ chế thị trường. 
Ba là: DNNN có chủ sở hữu là nhà nước nên có một bộ phận không nhỏ 
cán bộ quản lý lấy tài sản tài sản ra sử dụng lóng phí, mặt khác, DNNN bị chi 
phối bởi nhiều cơ quan quản lý nờn hạn chế nhiều khả năng kinh doanh dẫn 
đến hiệu quả kinh doanh thấp, sức cạnh tranh kém. 
Trong việc hoạch định các chính sách, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả 
DNNN cũng gặp những trở ngại, bởi sự bất đồng về các giải pháp, về yêu cầu 
và vị trí của KTNN hay DNNN trong nên kinh tế, điều đó dẫn đến chia ra 
những chính sách thiếu tính khả thi. 
* Thứ 2: Chất lượng đội ngũ quản lý cú nhiều sai sút hạn chế về phẩm 
chất cũng như khả năng quản lý. Cụng tỏc tổ chức quản lý và khuyến khớch 
sản xuất chưa hợp lý. 
-Một bộ phận không nhỏ cán bộ công nhân nhân viên bị thoái hoá, biến 
chất đó vi phạm chớnh sỏch, phỏp luật gõy thất thoỏt tài sản, tiền vốn và làm 
tổn hại cho nhà nước và tập thể rất nhiều. 
-Một bộ phận không nhỏ các cán bộ quản lý từ khối kinh tế cũ bảo thủ ỷ 
lại, thiếu năng động nhưng vẫn giữ các chức vụ quản lý, lónh đạo quan trọng 
trong DN. Số cán bộ quản lý thiếu trách nhiệm, thiếu kiến thức về kinh doanh, 
quản lý chưa được đào tạo, bồi dưỡng lại dẫn đến những sai sót gây hậu quả 
không nhỏ cho nền kinh tế như: thua thiệt trong liên doanh với những chủ đầu 
tư nước ngoài, kinh doanh kém hiệu quả, lóng phớ tài sản nhà nước. 
-Số lượng công nhân viên chức trong các DNNN tuy lớn nhưng trỡnh độ 
học vấn văn hoá, kỹ thuật cũn thấp, cụng nhõn thiếu tay nghề do đó không 
đáp ứng được yêu cầu chất lượng sản phẩm, trong khi giá thành cao, sức cạnh 
tranh yếu và phục vụ nhu cầu công cộng không tốt. 
-Cỏc DNNN cũn chậm đổi mới công nghệ, cũn nhiều bất cập trong việc tổ 
chức sản xuất, bố trí xây dựng dây chuyền sắp xếp cán bộ, công nhân viên 
chưa đúng chức năng, Trong khi đó bộ máy quản lý DN cũn nặng nề, cồng 
kềnh số lượng lao động cũn dư thừa chưa được giải quyết nên năng suất thấp. 
 Trang 24 
-Việc quản lý, sử dụng tài sản và tiền vốn hiện cú trong cỏc DN cũn thiếu 
chặt chẽ, chớnh xỏc, hiệu quả sử dụng vốn thấp dẫn đến tỡnh trạng thiếu vốn 
tăng lên. Tỡnh trạng tiền lương, khen thưởng phân phối cho người lao động 
chưa công bằng, chưa đúng với năng lực làm việc của mỗi người, do đó chưa 
khuyến khích phát triển tài năng và nâng cao năng suất lao động. 
-Công tác kiểm tra, kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nước đối với các 
hoạt động của các DN và thủ trưởng của các đơn vị sản xuất cũn bị buụng 
lỏng. 
* Thứ ba: Quản lý của nhà nước đối với KTNN vũn nhiều thiết sút. 
-Một là: Chưa có chiến lược quy hoạch dài hạn đầy đủ về phát triển các 
ngành kinh tế, kinh doanh, đặc biệt là quy hoạch phát triển DNNN trên các 
vùng kinh tế, khu kinh tế trọng điểm trong các ngành kinh tế, dịch vụ then 
chốt mũi nhọn. Do vậy mà hệ thống DNNN chưa có cơ cấu hợp lý, chưa có 
chiến lược kinh doanh và phát triển DN một cách đầy đủ và đúng. Đó là 
nguyên nhân dẫn đến việc tổ chức sản xuất, kinh doanh chưa có hiệu quả. 
Hoặc do cơ quan quản lý không đầu tư đúng hướng dẫn đến sản phẩm làm ra 
không tiêu thụ được đưa DN đến làm ăn thua lỗ, phá sản. 
-Hai là: Chính sách đổi mới công nghệ, phương pháp, phương tiện trong 
sản xuất – kinh doanh và quản lý chậm được thực hiện. Trong những năm đổi 
mới, công nghệ thiết bị, phương tien trong sản xuất kinh doanh và quản lý tuy 
cú hiện đại hơn trước nhưng lại nhập từ các nước khác nhau dẫn đến thiếu 
đồng bộ, khi muốn thay thế đũi hỏi chi phớ rất lơn do đó mà công nghệ rất 
chậm được cải tiến. Mặt khác, do thiếu trỡnh độ mà một số DNNN khi đó cú 
kinh phớ để đổi mới công nghệ thỡ lại mua về “rỏc thải cụng nghiệp” là 
những máy móc lạc hậu của các nước tiên tiến về mỡnh, làm cho cụng nghệ 
nước ta vốn đó lạc hậy thỡ nay vẫn cứ lạc hậu. 
-Ba là: một số chính sách vốn để phát triển doanh nghiệp và kinh doanh 
chưa hợp lý và đồng bộ khi chuyển sang cơ chế mới, DN cần phải lo cho cả 
ba loại vốn: vốn cho đầu vào, vốn cho sản xuất, vốn cho tiêu thụ, khác với 
trước đây nhà nước chỉ lo vốn mỗi khâu đầu vào, do đó nhà nước không cung 
cấp đủ vốn cho DN sản xuất – kinh doanh, dẫn đến hoạt động sản xuất bị trỡ 
trệ. 
-Bốn là: Hệ thống pháp luật cơ chế ban hành và thực hiện chưa cơ bản. 
Luật pháp nước ta cũn rất nhiều bất cập , thương mang tính tỡnh thế, thay đổi 
liên tục.Diều đó gây trở ngại cho các nhà hoạt động kinh tế trong việc hoạch 
định kế hoạch sản xuất lâu dài cho DN. Hiệu quả thực thi pháp luật cũn rất 
 Trang 25 
chậm, chưa nghiêm túc. Một điều bất ổn đó là các chính sách cũn chồng chộo, 
thiếu thống nhất giữa cỏc cấp làm cho cỏc DN khú nắm bắt để thực hiện. Môi 
trường pháp luật như vậy cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hợp tác với 
các nước trên thế giới. 
-Năm là: Quy định về trách nhiệm hoạt dông cụ thể của từng đại diện chủ 
sở hữu chưa được thực hiện đầy đủ. 
* Thứ 4: Do nguyờn nhõn lịch sử 
Nhiều DNNN phải gỏnh chịu hậu quả do quỏ trỡnh lịch sử hỡnh thành và 
phỏt triển: cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, giá trị sử dụng của số tài sản, 
thiết bị thấp, nhưng tính giá trị để bảo toàn vốn và khấu hao vốn. Cơ chế bao 
cấp để lại một đội ngũ lao động quá lớn trỡnh dộ thấp, sức khoẻ yếu, không 
đáp ứng được yêu cầu của sản xuất hiện nay. 
Mặc dù chủ sở hữu DNNN là nhà nước song phải thông qua nhiều đại 
diện chủ sở hữu gián tiếp - trách nhiệm bị phân tán một cách không đồng bộ 
dẫn đến rất phức tạp khi cần quyết định một vấn đề kinh tế cần thiết. 
DNNN cũn vai trũ rất lớn là thực hiện những nhiệm vụ xó hội cụng cộng 
làm cơ sở xây dựng nền tảng cho chế độ xó hội mới. Vỡ lẽ đó mà ngoài hoạt 
động kinhdoanh, DNNN cũn hoạt động trong các lĩnh vực công ích, điều đó 
có tác động đến tốc độ tăng trưởng của KTNN sẽ chậm hơn so với các thành 
phần kinh tế khác chỉ hoạt động vỡ mục đích lợi nhuận. 
Những tồn tại yếu kộm: 
+ Xột chung tất cả cỏc thành phần của KTNN thỡ bộ phận nào cũng cú 
hạn chế: 
-Quản lý cũn chưa chặt chẽ và thiếu rừ ràng về tài chớnh, ngõn sỏch. 
-Làm ăn cũn kộm hiệu quả do tớnh chất là KTNN được nhà nước bao cấp 
một số mặt, do đó cũn thiếu năng động trong cạnh tranh trên thị trường, rất ít 
DN làm ăn có hiệu quả và thực sự đứng vững độc lập để cạnh tranh với các 
DN thuộc các thành phần kinh tế khác nếu không có sự bảo trợ của nhà nước. 
III. Một số giải phỏp và kiến nghị nhằm thực hiện vai trũ chủ đạo của 
KTNN trong nền kinh tế quốc dân. 
1. Một số giải phỏp: 
Một là: Thực hiện chính sách đầu tư thích đáng cho các bộ phận KTNN 
nhằm vừa đảm boả hoạt động của chúng vừa tạo tính tự lực, năng động của 
chúng trong kinh tế thị trường. Hiện nay, do những trợ cấp về tài chính của 
nhà nước đối vớicác DN vũn thiếu tớnh thực tế, cú khi DN làm ăn đó cú lói 
 Trang 26 
vẫn được trợ cấp mà trong khi DN cần vốn hơn thỡ lại được trợ cấp quá ít. 
Điều đó đũi hỏi việc quản lý của chớnh phủ về tài chớnh, về thực trạng hoạt 
động của các DN sẽ rừ hơn để có chính sách đầu tư thích đáng, vừa tạo động 
lực vừa khuyến khích các DN hoạt động có hiệu quả hơn. 
Hai là: Đổi mới, sắp xếp lại cơ cấu lại những bộ phận cũn nhiều yếu kộm, 
nhất là cỏc DNNN. Cần tổ chức lại một cỏch cú quy mụ, hoạt động có hiệu 
quả và thực hiện được vai trũ chủ đạo, chính yếu trong nền kinh tế, quốc dân. 
Muốn thực hiện được giải pháp này đũi hỏi các nhà hoạch định phải có chính 
sách đúng đắng, có khả năng thực thi và phù hợp với tỡnh hỡnh thực tế của 
cỏc doanh nghiệp. Muốn nắm được tỡnh hỡnh hoạt động quy mô của các 
doanh nghiệp, đũi hỏi nhà nước phải có một hệ thống chi tiêu, hoặc theo tiêu 
chuẩn trong nước hoặc theo tiêu chuẩn của khu vực và quốc tế, để từ đó phân 
các DN vào những mức độ cụ thể, từ đó có giải pháp đổi mới, sắp xếp phù 
hợp hơn. 
Ba là: đẩy mạnh công tác cổ phần hoá các DNNN. Qua thực tế tiến hành 
cổ phần hoá một số lượng các DNNN từ trước đến nay, ta thấy rằng đó là một 
giải pháp mang nhiều ưu điểm và có khả năng cao nhất trong việc đây nhanh 
hiệu quả hoạt động, sản xuất kinh doanh của các DN: hầu hết các DN sau khi 
cổ phần hoá thỡ doanh thu, thu nhập của người lao động, vốn, nộp thế đều 
tăng hơn so với trước. Mặt khác, thực chất của cổ phần hoá là nhằm huy động 
và sử dụng rộng rói vốn dầu tư xó hộ, do đó mà khả năng mở rộng sản xuất, 
kinh doanh được nâng lên. Muốn thực hiện được cổ phần hoá thỡ cần phải 
thựchiện một số giải phỏp sau: 
Thứ nhất: Thực tiễn đó chứng tỏ rằng cổ phần hoỏ là giải phỏp tớch cực, 
song trờn thực tế, sau khi chớnh sỏch này được thực hiện một thời gian thỡ bị 
chững lại. Nguyờn nhõn vỡ sao? Đũi hỏi cần phải làm rừ để khắc phục. Ta 
cần phải hiểu rừ cổ phần hoỏ là như thế nào. Ở nước ta, đó là quá trỡnh đa 
dạng hoá sở hữu có bản chất khác hẳn các nước, là hỡnh thức xó hội hoỏ một 
bộ phận DNNN để nhiều người cùng sở hữu DN theo tỷ lệ cổ phần nhằm huy 
động vốn, nâng coa hiệu quả quản lý và phỏt huy tớnh năng động, sáng tạo 
của người lao động. Tiếc rằng, hiện nay một số quan điểm cho rằng cổ phần 
hoá là hỡnh thức tư nhân hoá và làm mất vai trũ của KTNN. Do đó ta cần 
phải làm rừ vấn đề cổ phần hoá để mọi người cùng có nhận thức thống nhất 
thỡ cú như vậy chính sách này mới được thực thi một cách đồng bộ và có hiệu 
quả cao. 
 Trang 27 
Thứ hai: Việc cổ phần hoá hiện nay gặp trở ngại lớn trong việc xác định 
giá trị DN do chưa rừ ràng về giỏ trị tài khoản của DN và của nhà nước. Để 
giải quyết vấn đề này thỡ trước hết phải có sự thống nhất giữa nhà nước và 
DN trong việc xác định giá trị, trước mắt không đưa giá trị quyền sở hữu sử 
dụng đất vào việc giá trị DN, mà thực hiện thí điểm rút kinh nghiệm, đồng 
thời chấp nhận phương án hiệu chỉnh để có giá trị cho thuê đất hợp lý trờn 
cựng một địa bàn đối với các thành phần kinh tế. Để việc đánh giá tài sản của 
DN được khách quan, chuẩn xác hơn hệ thống cơ quan định giá cũng cần có 
sự thay đổi, hỡnh thành những cụng ty trung gian để dựa trên các quan hệ 
cung – cầu của thị trường theo nguyênn tắc “thuận mua - vừa bỏn”. 
Thứ ba, để làm rừ và nõng cao tớnh trỏch nhiệm trong quỏ trỡnh cải cỏch 
DNNN, cần khẩn trương có sự phân cấp các đại diện chủ sở hữu. Trong quá 
trỡnh thực hiện phõn cấp cỏc nguyờn nhõn chậm trễ, chần chừ tiến hành cổ 
phần hoỏ sẽ được làm rừ và xỏc định được trách nhiệm cho từng cá nhân, 
từng đơn vị. 
Thứ tư: Nhằm đảm bảo lợi ích cho người lao đọng trong quá trỡnh cải 
cỏchDN hay cổ phần hoỏ DNNN nờn cú biện phỏp hữu hiệu boả vệ cổ phần 
của người lao động lâu dài, để họ thực sự là người chủ đích thực DN họ đang 
cống hiến lao động. 
* Bốn là phải sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế chính xác của nhà nước 
nhằm tạo hành lang pháp lý cho các DN được hoạt dộng hiệu quả hơn: 
+Phân biệt quyền với sở hữu và quyền kinh doanh của nhà nước nhằm tạo 
ra môi trường và quyền tự chủ đề DNNN cạnh tranh trên thị trường một cách 
bỡnh đẳng, tự chịu trách nhiệm sản xuất của minh. 
+Có cơ chế kiểm tra, kiểm soát, thanh tra của nhà nước đối với DNNN 
nhất là về vấn đề tài chính, ngân sách, trỡnh độ quản lý của cỏn bộ. 
+Nhà nước phải ổn định các chính sách kinh tế vĩ mô, đề ra những chiến 
lược kinh tế lâu dài, ổn định để tạo lũng tin cho cỏc DNNN hoạt động có hiệu 
quả hơn. 
+Khụng phõn biệt quỏ sõu sắc giữa DNNN và DNTN tạo ra khoảng cỏch 
giữa cỏc DN, mà phải tạo môi trường pháp lý bỡnh đẳng để các DN cạnh 
tranh một cách có hiệu quả nhất. 
1. Một số kiến nghị: 
-Để dánh giá hiệu quả hoạt động của các DNNN, cần có hệ thống chỉ tiêu 
đánh giá từ đó có chính sách khen thưởng hợp lý kích thích, tạo động lực để 
các DN hoạt động tốt hơn 
 Trang 28 
Tăng cường việc phân tích tài chính trong các DNNN bởi một vấn đề nổi 
bật hiện nay là tài chính không rừ ràng - mọi khoản trợ cấp, chi phớ đều phải 
được báo cáo, quyết toán rừ ràng. Cần phải cú ban thanh tra, kiểm tra tài 
chớnh của cỏc DN – đũi hỏi đó phải là những cán bộ có phẩm chất đạo đức 
tốt. 
Trong quỏ trỡnh đổi mới DNNN, trong nâng cao quy trỡnh cụng nghệ 
hiện đại nhưng vẫn phải đảm bảo tạo công ăn việc làm cho số lao động bị dôi 
dư. 
Kết luận: 
Để đảm bảo xây dựng đất nước theo đúng đường lối mà Đảng và nhà 
nước ta đó chọn là xõy dựng đất nước tiến lên CNXH, xây dựng một nền kinh 
tế thị trường theo một định hướng XHCN, cần tăng cường hơn nữa việc đổi 
mới, cải tạo cơ cấu trong KTNN trong nền kinh tế quốc dân. Có như vậy mới 
đảm bảo đưa toàn bộ nền kinh tế đất nước phát triển đúng đính hướng đó 
chọn. 
 Trang 29 
Tài liệu tham khảo 
1. “Doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ CNH-HĐH” – T.S. Phan Đăng 
Tuất (chủ biên).` 
2. Tạp chí CS từ 1997 đến nay. 
3. Tạp chớ nghiờn cứu kinh tế. 
4. Tạp chớ nghiờn cứu lý luận. 
5. Giỏo trỡnh kinh tế chớnh trị Mỏc – Lờnin. 
6. V.I.Lenin toàn tập - tập 39, tập 43 
7. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX 
8. Một số tạp chớ kinh tế, tài chớnh, lý luận khỏc… 
 Trang 30 
Mục lục 
I - Một số vấn đề lý luận về KTNN 
II- Thực trạng KTNN và việc thực hiện vai trũ chủ đạo của KTNN trong 
nền kinh tế thị trường. 
III- Một số giải phỏp và kiến nghị nhằm thực hiện vai trũ chủ đạo của 
KTNN trong nền kinh tế quốc dân. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 Tầm quan trọng của kinh tế nhà nước.pdf Tầm quan trọng của kinh tế nhà nước.pdf