Đề tài Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

Một ví dụ điển hình về DNVVN thành công khi ứng dụng TMĐT và thu được nhiều lợi ích từ việc tham gia sàn giao dịch TMĐT là Công ty Cổ phần Công nghệ và Thiết bị Công nghiệp Việt Nam (Vintec.jsc). Đây là công ty nhỏ chuyên cung cấp các thiết bị máy móc phục vụ ngành công nghiệp xây dựng, giao thông, vận tải, y tế, khoa học kỹ thuật. Tuy mới tham gia Cổng Thương mại điện tử quốc gia vào tháng 3 năm 2006, nhưng Vintec đã thu được nhiều thành công qua sàn TMĐT B2B này. Đến hết năm 2006, công ty đã ký được 15 hợp đồng với 12 công ty lớn, tổng trị giá lên tới hơn 6 tỷ đồng. Bên cạnh đó, còn có hàng chục bạn hàng nước ngoài liên hệ với mong muốn trở thành đối tác của công ty. Ngoài những lợi ích tính được bằng con số cụ thể, Ban giám đốc Vintec cũng đánh giá việc tham gia Cổng Thương mại điện tử quốc gia còn giúp cho hình ảnh công ty được quảng bá rộng rãi hơn trên phạm vi rộng nhưng với chi phí rất thấp. (34) Về quy mô doanh nghiệp tham gia sàn giao dịch TMĐT, theo Báo cáo TMĐT năm 2008, quy mô doanh nghiệp tham gia sàn giao dịch TMĐT có mối liên hệ tỷ lệ nghịch với số lượng doanh nghiệp tham gia. Các doanh nghiệp có quy mô càng nhỏ thì tỷ lệ tham gia sàn giao dịch TMĐT càng lớn (xem Hình 12). Điều này chứng tỏ các DNVVN đã biết đến lợi thế của sàn giao dịch TMĐT trong việc xây dựng hình ảnh và tăng cường năng lực cạnh tranh. Đặc biệt là giai đoạn hiện nay có rất nhiều sàn giao dịch TMĐT B2B vẫn thực hiện hình thức hỗ trợ không thu phí đối với một số doanh nghiệp tham gia. (35)

pdf103 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2350 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u cơ hội kinh doanh và phát triển cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt thị trường thế giới sẽ rộng mở cho các sản phẩm của DNVVN. Khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam tham gia sâu hơn vào tiến trình toàn cầu hóa kinh tế. Tiến trình này giúp Việt Nam tận dụng được lợi thế so sánh để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách ổn định và bền vững. Sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ và phúc lợi chung của toàn xã hội sẽ được nâng cao nhờ nguồn lực được phân bổ một cách hợp lý. Tiến trình này cũng tạo cơ hội rất lớn để Việt Nam đẩy mạnh công nghiệp hóa và tham gia có hiệu quả hơn vào phân công lao động quốc tế. Năng lực xuất khẩu một số mặt hàng như: dệt may, nông sản, thủy sản, các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, v.v... đang được cải thiện do các hàng rào 71 thuế quan và phi thuế quan đã được dỡ bỏ hoặc giảm bớt. Tác động gián tiếp của việc gia nhập WTO đối với năng lực xuất khẩu của Việt Nam còn lớn hơn nhờ khả năng cải thiện sức cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển thị trường dịch vụ do việc thực hiện cam kết về mở của thị trường và tự do hóa chế độ đầu tư. Dòng vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh trong thời gian qua đã góp phần tạo ra năng lực sản xuất mới và thị trường xuất khẩu mới cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam. Các cam kết trong khuôn khổ WTO tác động tích cực đối với khu vực DNVVN ở một số khía cạnh sau: Thứ nhất, khi gia nhập WTO, Việt Nam phải điều chỉnh hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho phù hợp với cam kết hội nhập và các chuẩn mực kinh tế thị trường. Việc gia nhập WTO cũng đòi hỏi tính chuyên nghiệp, minh bạch và khả năng giải trình của bộ máy nhà nước cùng với các nỗ lực cải cách hành chính, cải cách doanh nghiệp trong nước, minh bạch hóa toàn bộ các chính sách liên quan đến thương mại, hoàn thiện các thị trường yếu tố sản xuất (thị trường tài chính, thị trường đất đai, và thị trường lao động, v.v...). Những yêu cầu này chính là động lực cải cách nội tại nền kinh tế, hướng tới môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi với hệ thống pháp lý minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế, chính trị xã hội ổn định, những yếu tố quan trọng nhất cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế và đặc biệt có ý nghĩa với các DNVVN còn non yếu ở nhiều khía cạnh. Thứ hai, gia nhập WTO, các DNVVN Việt Nam có cơ hội tiếp cận thị trường toàn cầu trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng, không bị rào cản thuế quan và phi thuế quan, điều mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng mong muốn. Việt Nam sẽ được hưởng quy chế quan hệ thương mại bình thường (MNF) và đối xử quốc gia (NT) giữa các nước thành viên WTO. Quy chế này sẽ tạo thuận lợi cho các DNVVN ngày càng đa dạng được sản phẩm, thị trường và sản phẩm xuất khẩu vì hầu hết các sản phẩm của DNVVN của Việt Nam có giá thành cao, khối lượng nhỏ lẻ, tiêu thụ ở thị trường nội địa nên rất khó thâm nhập vào thị trường nước ngoài nếu bị đánh thuế cao hoặc bị giới hạn bằng hạn ngạch. Do đó, khi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan bị thu hẹp lại hoặc được rỡ bỏ, các sản phẩm của các DNVVN sẽ dễ dàng vào các thị trường nước ngoài hơn, nhờ đó sẽ khai thác được lợi thế lao động rẻ. 72 Thứ ba, WTO là diễn đàn thương mại ở đó mọi thành viên đều có quyền bảo vệ mình khi xảy ra tranh chấp. Những văn bản luật đã được đưa vào thế giới thương mại, một thế giới mà trước đây những nước yếu không đủ sức kháng cự những nước mạnh. Trở thành thành viên của WTO, các DNVVN của Việt Nam có lợi hơn trong các tranh chấp thương mại do tiếp cận được hệ thống giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO, tránh tình trạng bị các nước lớn gây sức ép trong tranh chấp thương mại quốc tế. Gia nhập WTO cũng tạo điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam không bị đối xử như các doanh nghiệp đến từ một nền kinh tế phi thị trường như các vụ tranh chấp thương mại như trước đây. Thứ tƣ, WTO hoạt động dựa trên mục tiêu chính là nâng cao mức sống cảu nhân dân các nước thành viên, đảm bảo việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thương mại và sử dụng hiệu quả nhất nguồn nhân lực của thế giới. Chính vì thế, gia nhập WTO, các nước thành viên sẽ có động lực để thúc đẩy nền kinh tế của mình phát triển nhanh và hiệu quả nhất. Gia nhập WTO cũng mở đường cho các nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam. Khoa học, kỹ thuật, công nghệ và cả nguồn nhân lực đều có cơ hội giao lưu tham gia vào sự phân công lao động toàn cầu. Cuối cùng, việc thực hiện những cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ góp phần kéo theo một làn sóng đầu tư nước ngoài vào nhiều ngành kinh tế dịch vụ, theo đó đem lại những lợi ích lan tỏa cho nền kinh tế mà các doanh nghiệp hoạt động trong đó cũng được hưởng lợi như: tạo động lực tăng trưởng sản xuất công nghiệp, tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh năng động, sáng tạo, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, đầu tư nghiên cứu và phát triển. Năm 2007, năm đầu tiên sau khi gia nhập WTO, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh và đạt 21,3 tỷ USD. (36) Những cơ hội mà việc gia nhập WTO mang lại cho DNVVN là rất to lớn. Để tận dụng được những cơ hội kinh doanh đó, các DNVVN phải tăng cường ứng dụng và phát triển CNTT để “đi tắt đón đầu”, xem đó là động lực quan trọng cho tăng (36) Nguồn: Báo cáo thường niên DNVVN Việt Nam năm 2008 - Cục phát triển DNVVN - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 73 cường năng lực cạnh tranh, khả năng hội nhập của mỗi doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. 1.2. WTO và Thƣơng mại điện tử TMĐT là một hình thái kinh doanh dựa trên khoa học công nghệ tiên tiến và là một phần quan trọng của kinh tế số. TMĐT là một biểu hiện rõ ràng của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Sự phát triển của TMĐT gắn chặt với sự phát triển của nhiều lĩnh vực dịch vụ khác như viễn thông, phân phối, tài chính, pháp lý cũng như các lĩnh vực đầu tư và bảo vệ sở hữu trí tuệ. Ngay từ khi mới thành lập, WTO đã quan tâm tới hình thái TMĐT với việc thông qua Quyết định của các Bộ trưởng WTO về TMĐT toàn cầu.(37) Việc Việt Nam hội nhập khá nhanh vào nền kinh tế thế giới trong những năm qua có tác động rất lớn tới sự phát triển mạnh mẽ của TMĐT. Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của WTO là một điểm mốc quan trọng trong tiến trình tự do hóa thương mại của Việt Nam. Với tư cách là thành viên chính thức của WTO, một mặt, Việt Nam được hưởng đầy đủ các quyền lợi như các thành viên khác. Mặt khác, Việt Nam có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ qui định trong hệ thống pháp luật của WTO cũng như các cam kết của mình trong Nghị định thư gia nhập tổ chức thương mại toàn cầu này. Liên quan đến TMĐT, Việt Nam cần nghiên cứu và tuân thủ những quyết định hoặc tuyên bố của các Bộ trưởng WTO về TMĐT. Những văn bản này không xuất hiện trong tài liệu “Các văn kiện gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới của Việt Nam” nhưng Việt Nam vẫn có nghĩa vụ thi hành theo quy định tại “Nghị định thư về việc gia nhập của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.(38) Tại Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ hai, tổ chức tại Geneva tháng 5 năm 1998, lần đầu tiên WTO đã đánh giá sự phát triển nhanh chóng của TMĐT và những cơ hội mới mà TMĐT tạo ra. Đồng thời, các thành viên WTO đã thông qua một quyết định quan trọng, đó là quyết định không thành viên nào được áp đặt thuế nhập khẩu đối với việc truyền dữ liệu điện tử. Đây là quyết định nền tảng để tránh (37) Tại trang chủ của WTO: www.wto.org, menu “ Các chủ đề thương mại” (Trade Topics) gồm 16 chủ đề, TMĐT là một trong các chủ đề này, các chủ đề khác là Hàng hóa, Dịch vụ, Sở hữu trí tuệ, Đầu tư, Giải quyết tranh chấp… (38) Nguồn: Báo cáo TMĐT năm 2007 – Bộ Công Thương. 74 tạo ra những rào cản đối với TMĐT giữa các thành viên. Tới tháng 11 năm 2001, tại Doha (Quatar), Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ tư đã diễn ra thành công. Hội nghị đã khẳng định lại cam kết không áp đặt thuế nhập khẩu đối với việc truyền dữ liệu điện tử. Vòng đàm phán Doha diễn ra hết sức phức tạp. Theo dự kiến ban đầu, vòng đàm phán này sẽ kết thúc và cuối năm 2004. Tuy nhiên, sự khác biệt về quan điểm và quyền lợi giữa các thành viên rất sâu sắc. Cùng với việc Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của WTO, nhóm các nước thành viên đang phát triển đã tập hợp lực lượng và thể hiện rõ hơn vị thế đàm phán. Ngoài ra, sự bế tắc trong vấn đề tự do hóa thương mại nông sản và giảm mạnh trợ cấp trong nông nghiệp khiến cho vòng đàm phán không tiến triển. Trong bối cảnh đó, các hoạt động triển khai Chương trình làm việc về TMĐT của Đại Hội đồng và các cơ quan liên quan cũng trì trệ. Tuy nhiên, các Bộ trưởng vẫn nhất trí duy trì thể chế đã được thiết lập ngay sau khi Hội nghị Bộ trưởng lần thứ hai để tiếp tục triển khai Chương trình làm việc về TMĐT và “duy trì hiện trạng không áp đặt thuế nhập khẩu đối với việc truyền dữ liệu điện tử cho tới khi tổ chức Hội nghị Bộ trưởng lần tiếp theo”. Chương trình làm việc về TMĐT của WTO rất rộng, bao quát nhiều lĩnh vực và các cơ quan chuyên môn. Trong quá trình làm việc, nhiều khía cạnh liên quan tới TMĐT đã được xem xét, bao gồm các khía cạnh liên quan tới thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ và phát triển. Ngoài việc thu được những lợi ích trực tiếp từ các quy định trong Chương trình làm việc của WTO về TMĐT, nhiều cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển TMĐT trong dài hạn.(39) Như vậy, TMĐT đã được Tổ chức Thương mại Thế giới quan tâm để tạo ra cơ chế thống nhất và minh bạch cho các các hoạt động TMĐT. Hiện nay, Chương trình làm việc về TMĐT vẫn chưa hoàn thành, dự đoán khi vòng đàm phán Doha khởi động trở lại, các nước thành viên sẽ thỏa thuận được cơ chế về phát triển TMĐT. Do đó, Việt Nam phải tăng cường ứng dụng CNTT và phát triển TMĐT để (39)Nguồn: Báo cáo TMĐT năm 2007 – Bộ Công Thương. 75 nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp, đặc biệt là DNVVN nhằm hòa nhập với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới. 2. Những yêu cầu về phát triển công nghệ thông tin đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam Trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Xu thế này mở ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra cho các quốc gia trước sự lựa chọn không dễ dàng: đứng ngoài xu thế đó thì bị cô lập và tụt hậu, tham gia thì phải ứng phó với sự cạnh tranh gay gắt. Tuy nhiên, xu hướng chung là các quốc gia lớn nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế và kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực hoạt động khác. Trong xu thế chung này, không những các khu vực, các quốc gia mà cả DNVVN ở mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ cũng chịu tác động trực tiếp của cạnh tranh ngày càng gay gắt. Đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, sự cạnh canh khốc liệt giữa các doanh nghiệp, những thách thức về chất lượng, hiệu quả, việc cắt giảm chi phí trong sản xuất kinh doanh, các vấn đề liên quan đến đối tác và mối tương quan giữa nhà cung cấp và người tiêu dùng đòi hỏi doanh nghiệp phải chấp nhận sự thay đổi trong phương thức kinh doanh, tìm hiểu phương thức để làm sao có việc ứng dụng CNTT có hiệu quả nhất, mở rộng các hình thức thông tin, liên lạc để bán sản phẩm và tạo được dịch vụ tốt nhất. Như vậy, một yêu cầu đầu tiên về tăng cường ứng dụng CNTT đối với DNVVN ở Việt Nam hiện nay là tăng cường ứng dụng CNTT trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Nếu doanh nghiệp này áp dụng được phương thức kinh doanh mới thì đối thủ của họ cũng có thể làm theo. Hơn thế nữa, môi trường cạnh tranh mở rộng ra phạm vi toàn cầu, đối thủ cạnh tranh là những doanh nghiệp, tập đoàn lớn đã có công nghệ hiện đại, trình độ ứng dụng CNTT cao. Do đó, yêu cầu về phát triển ứng dụng CNTT trở nên cấp thiết và đòi hỏi có sự đầu tư thích đáng để biến CNTT thành công cụ hữu hiệu nâng cao năng lực cạnh tranh trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Tuy nhiên, nhiều DNVVN vẫn chưa thực sự sẵn sàng cho ứng dụng CNTT. Đối với một số ngành, khi gia nhập WTO, doanh 76 nghiệp muốn xuất hàng hóa sang châu Âu, Mỹ, Nhật cần phải cung cấp đầy đủ thông tin về xuất xứ hàng hóa. Muốn vậy, doanh nghiệp phải hình thành hệ thống thông tin từ nơi cung cấp nguyên liệu đến đơn vị thu mua, đơn vị chế biến, đóng gói và xuất khẩu. Những yêu cầu như thế cần có sự hỗ trợ của CNTT. Nếu không đầu tư cho CNTT ngay từ bây giờ, doanh nghiệp có thể bỏ lỡ nhiều cơ hội làm ăn. Yêu cầu thứ hai về phát triển CNTT đối với DNVVN là phải tăng cường ứng dụng CNTT để giảm chi phí. Trong điều kiện lạm phát và khủng hoảng kinh tế như hiện nay, các doanh nghiệp gặp phải những khó khăn trong các mặt: sản xuất, chi trả lương, quảng bá tiếp thị, v.v... Để giải quyết những khó khăn trên, việc cắt giảm chi phí tối đa là điều mà các doanh nghiệp đang làm để tiết kiệm chi phí kinh doanh. Tuy nhiên, cắt giảm như thế nào để không ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, kinh doanh, sự tăng trưởng và vị thế của doanh nghiệp không phải là vấn đề đơn giản. Trong bối cảnh chung đó, đầu tư cho ứng dụng CNTT cũng bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, doanh nghiệp cần xác định những lợi ích lâu dài của việc ứng dụng CNTT mang lại. Đó là khả năng tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh nhờ giảm được số lao động và tăng hiệu quả trong xử lý công việc. Bên cạnh đó, khủng hoảng kinh tế chính là thời điểm để các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và tổ chức xem xét lại việc làm thế nào tận dụng tối đa các nguồn lực. CNTT có thể đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các đơn vị ứng phó với môi trường kinh doanh đầy khó khăn này. Thời gian này, có nhiều tổ chức và doanh nghiệp tập trung vào việc cắt giảm và hạn chế các rủi ro có thể xảy ra. Hiện nay có rất nhiều công nghệ hiện đại giúp cắt giảm chi phí đồng thời gia tăng hiệu quả và năng suất hoạt động. Ví dụ như công nghệ phần mềm máy chủ ảo, phần mềm giúp các doanh nghiệp quản lý điện năng, v.v... Khủng hoảng không đồng nghĩa với cắt giảm chi tiêu cho CNTT. Trái lại, các doanh nghiệp cần tập trung đầu tư cho những công nghệ có thể phục vụ cho việc khắc phục những ảnh hưởng của khủng hoảng. Như vậy, tăng cường ứng dụng CNTT chính là một biện pháp cắt giảm chi phí hiệu quả chứ không phải là một khoản đầu tư vô ích. Đồng thời, CNTT cũng giúp DNVVN tiến gần đến thị trường và khách hàng, phục vụ khách hàng được tốt hơn. Do đó, các DNVVN cần tăng cường ứng dụng CNTT để giảm chi phí, mang 77 lại hiệu quả kinh doanh, đồng thời rút ngắn khoảng cách số với các doanh nghiệp lớn. II. CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ 1. Nhóm giải pháp tăng cƣờng công nghệ thông tin để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 1.1. Tăng cƣờng đầu tƣ hạ tầng kỹ thuật để nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực - yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Để tăng cường ứng dụng CNTT trong doanh nghiệp, mấu chốt thành công không chỉ nằm ở khâu đào tạo kỹ năng CNTT cho người lao động mà còn thể hiện ở khả năng và điều kiện để họ thực hành, ứng dụng những kỹ năng đó trong công việc hàng ngày. Do đó, đầu tư cho hạ tầng kỹ thuật chính là điều kiện cần để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực - yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. DNVVN cần xây dựng cho mình một hệ thống thông tin mạnh, ổn định, an toàn và hiệu quả. Để làm được điều đó, DNVVN cần chú trọng đầu tư hạ tầng kỹ thuật CNTT ở những mảng sau: 1.1.1. Đầu tƣ cho trang thiết bị cho ứng dụng công nghệ thông tin Trang thiết bị cho ứng dụng CNTT bao gồm máy vi tính, trang thiết bị về mạng, v.v... Hiện nay, tỷ lệ doanh nghiệp trang bị máy tính ở các doanh nghiệp Việt Nam khá cao. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít doanh nghiệp chưa có đầy đủ trang thiết bị cho ứng dụng CNTT. DNVVN cần đầu tư trang thiết bị, tiến tới 100% DNVVN có trang bị máy tính và gia tăng tỷ lệ nhân viên sử dụng máy tính thường xuyên trong công việc. Những yêu cầu về trang thiết bị sử dụng trong doanh nghiệp: Đảm bảo tính thống nhất: có thể nâng cấp và mở rộng linh hoạt trong tương lai. Ví dụ như xác lập tiêu chuẩn cho hệ thống máy tính trong công ty. Thay vì mỗi máy tính một nhà cung cấp, một loại, đến khi cần sửa chữa thay thế thì rất khó có thể mua sắm thiết bị cho đồng bộ. Đảm bảo tính hiện đại: tất cả các trang thiết bị trong doanh nghiệp phải được trang bị hiện đại, cấu hình cao, khả năng cung cấp thông tin nhanh chóng đồng thời đáp ứng tối đa các yêu cầu của người sử dụng. 78 Đảm bảo tính mở, dễ phát triển của hệ thống: hệ thống có thể thích nghi và phát triển theo nhu cầu, điều đó có nghĩa là thêm bớt các thiết bị khi có nhu cầu mở rộng được thực hiện thuận lợi, có thể xử lý các thiết bị bị sự cố mà không ảnh hưởng đến máy tính khác. Đảm bảo tính an toàn, bảo mật: các thiết bị phải được xây dựng theo các tiêu chuẩn nhất định về điều kiện an toàn bảo mật, có chế độ phân quyền truy nhập thông tin và quản lý chặt chẽ với từng đối tượng sử dụng. Đảm bảo tính dễ sử dụng: giao diện thân thiện với người sử dụng, các chương trình ứng dụng dễ sử dụng. Đảm bảo tính ổn định, hoạt động liên tục: các trang thiết bị phải đồng bộ theo hệ thống, làm việc ổn định và liên tục trong thời gian dài. 1.1.2. Xây dựng, phát triển và duy trì hệ thống mạng ổn định trong doanh nghiệp vừa và nhỏ Ở góc độ hạ tầng kỹ thuật, máy vi tính và mạng nội bộ là hai thiết bị công nghệ không thể thiếu cho việc ứng dụng CNTT và TMĐT. Hiện nay, mạng nội bộ LAN đã khá phổ biến với các doanh nghiệp. Tuy nhiên vẫn còn những DNVVN chưa xây dựng được hệ thống mạng nội bộ cho mình. Xây dựng mạng nội bộ hoàn thiện là điều kiện tiên quyết để mang lại hiệu quả trong việc ứng dụng CNTT vào phục vụ các hoạt động quản lý và kinh doanh trong doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần xây dựng mạng nội bộ để khai thác hết khả năng của CNTT. Đồng thời, với các DNVVN có nhiều trụ sở nằm tại nhiều địa điểm khác nhau cần đẩy mạnh xây dựng mạng WAN, Intranet hay Extranet để kết nối các mạng của mình và với các doanh nghiệp khác nhằm chia sẻ thông tin một cách dễ dàng hơn, an toàn hơn. Ba loại mạng này khá phổ biến ở các công ty lớn trên thế giới nhưng thực sự vẫn là công nghệ mới với nhiều doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là DNVVN. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể xây dựng mạng riêng ảo (Virtual private network) nhằm thỏa mãn nhu cầu kết nối từ xa giữa nhân viên với văn phòng cũng như giữa các văn phòng cách xa về địa lý. Việc xây dựng mạng này đem đến nhiều lợi ích cho công ty, đặc biệt là giảm chi phí so với thiết lập mạng WAN truyền thống. 1.1.3. Tăng cƣờng, đầu tƣ hợp lý cho phần mềm ứng dụng CNTT và TMĐT 79 Sau khi đầu tư trang thiết bị cơ bản cho ứng dụng CNTT, DNVVN cần tăng cường đầu tư cho phần mềm để khai thác hiệu quả những thiết bị phần cứng đã đầu tư. Tuy nhiên, tình trạng vi phạm bản quyền lại khá phổ biến ở Việt Nam. Điều này cản trở Việt Nam trong việc thực hiện Công ước Berne và các cam kết trong WTO, đồng thời cũng làm các công ty nước ngoài ngại đầu tư vào Việt Nam. Do đó, khi đầu tư phần mềm, DNVVN nên mua các phần mềm có bản quyền. DNVVN sẽ nhận được nhiều lợi ích hơn khi mua phần mềm bản quyền, ví dụ như được hỗ trợ miễn phí, được cập nhật các bản nâng cấp bảo mật, tránh được các rủi ro khi sử dụng phần mềm, v.v... để từ đó nâng cao năng suất lao động, tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh trên cơ sở tôn trọng công sức của người khác. Khi tiến hành trang bị phần mềm, vấn đề không nhỏ mà các DNVVN gặp phải chính là vấn đề tài chính. Một trong những cách thức để doanh nghiệp giải quyết khó khăn tài chính, nâng cao hiệu quả là sử dụng các phần mềm mã nguồn mở. Lợi ích mà các doanh nghiệp có được khi sử dụng phần mềm mã nguồn mở là giảm tổng chi phí sở hữu từ những yếu tố sau: - Miễn phí bản quyền phần mềm - Miễn phí các phiên bản nâng cấp trong toàn bộ vòng đời sử dụng sản phẩm - Giảm chi phí phát triển phần mềm đáp ứng theo yêu cầu nghiệp vụ (sử dụng phần mềm, module có sẵn để phát triển tiếp, sửa đổi điều chỉnh cho phù hợp với nghiệp vụ) - Kéo dài thời gian sử dụng, tái sử dụng các phần cứng, thiết bị trong khi vẫn đảm bảo hiệu năng toàn hệ thống - Mức chi tiết kiệm khoảng 75%-80% so với phần mềm có bản quyền ngay trong năm đầu tiên. - Tăng tính thương hiệu cho doanh nghiệp khi giới thiệu được với cộng đồng, đối tác, khách hàng (đặc biệt là ngoài nước) là doanh nghiệp đã chuyển đổi sang phần mềm mã nguồn mở và 100% không vi phạm bản quyền. Một vấn đề nữa là hiện nay nhiều DNVVN vẫn tiến hành mua phần mềm mà không lập kế hoạch trước, chỉ dựa trên nhu cầu trước măt. Dần dần DNVVN sẽ 80 trang bị nhiều phần mềm khác nhau để vận hành. Điều này dễ dẫn tới rủi ro, gây ngừng trệ hoạt động và tăng chi phí cho việc thống nhất và bảo dưỡng hệ thống. Vì vậy, khi đầu tư, DNVVN nên chú ý tới một số vấn đề sau: Thứ nhất, DNVVN nên chọn những giải pháp có khả năng nâng cấp và linh hoạt. Cơ sở hạ tầng CNTT linh hoạt và dễ thích ứng sẽ đảm bảo hệ thống kinh doanh của doanh nghiệp phát triển đúng hướng. Điều này rất quan trọng, cho phép doanh nghiệp quy mô vừa phản ứng nhanh trước các cơ hội kinh doanh mới, với nhu cầu và sự thay đổi của khách hàng trong các điều kiện hoạt động. Thứ hai, DNVVN nên ứng dụng chuẩn mở để tích hợp dễ dàng. Không như những công nghệ độc quyền, ứng dụng phần mềm dựa trên chuẩn mở giúp doanh nghiệp giảm độ phức tạp và tổng chi phí sở hữu, lại có thể tích hợp các ứng dụng khác dễ dàng hơn. Thứ ba, DNVVN nên ứng dụng giải pháp phù hợp với lĩnh vực hoạt động. Doanh nghiệp sẽ có nhiều lợi ích hơn khi ứng dụng các giải pháp được xây dựng dựa trên mục tiêu kinh doanh, đáp ứng nhu cầu đặc biệt của lĩnh vực đang hoạt động. Các giải pháp này tập trung thúc đẩy năng suất của doanh nghiệp tại những chu trình kinh doanh chủ chốt. Chúng cũng được chuyên biệt theo ngành, vốn có hàng trăm bước xử lý được hiệu chỉnh sẵn cho phép doanh nghiệp hoạt động tốt nhất, rút ngắn thời gian đầu tư, chi phí thấp, có thể dự đoán trước và cuối cùng sẽ thúc đẩy nhanh thời gian tiếp cận thị trường. Tóm lại, các DNVVN hãy bắt đầu những khoản đầu tư một cách khiêm tốn nhưng phải có chiến lược - vạch ra yêu cầu của doanh nghiệp trong thời điểm hiện tại và tương lai. DNVVN nên lựa chọn một nhà cung cấp với chiến lược về công nghệ rõ ràng để có thể hỗ trợ cơ sở hạ tầng CNTT trong dài hạn. 1.2. Tăng cƣờng đào tạo ngoại ngữ kết hợp với đào tạo đồng bộ về chuyên môn, về công nghệ thông tin để nâng cao năng lực dự báo của doanh nghiệp vừa và nhỏ Nguồn nhân lực đối với bất kì doanh nghiệp nào cũng là yếu tố quyết định thành công của doanh nghiệp đó trên thương trường. Xu thế của lợi thế cạnh tranh trong tương lai không còn phụ thuộc nhiều vào tài nguyên, vốn-tài chính, mà bắt 81 đầu phụ thuộc rất lớn vào hàm lượng tri thức chứa đựng trong giá trị sản phẩm. Các nhân tố về con người luôn được coi là lợi thế cạnh tranh không thể sao chép được. Trong bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, ngoại ngữ đã trở thành yêu cầu bức thiết cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nhu cầu giao tiếp, giao thương với nước ngoài đòi hỏi trình độ ngoại ngữ nhất là Anh ngữ của cán bộ công chức phải được nâng cao. Đồng thời, việc ứng dụng CNTT cũng đòi hỏi đội ngũ nhân viên phải có trình độ ngoại ngữ nhất định. Tuy nhiên, trình độ học vấn, đặc biệt là trình độ ngoại ngữ của các DNVVN ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Các DNVVN đã đóng góp rất nhiều vào việc giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân nhưng có một đặc điểm là các DNVVN sử dụng rất nhiều lao động phổ thông, chưa qua đào tạo. Vì vậy, trình độ ngoại ngữ, tin học cũng như trình độ chuyên môn của nhân viên còn thấp và chưa đồng đều. Bên cạnh đó, một thực tế là không ít cán bộ, công chức, sinh viên có trình độ ngoại ngữ từ khá trở lên, sau một thời gian làm việc ở các DNVVN trong nước đã xin nghỉ để chuyển sang các công ty liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ có đại diện tại Việt Nam,v.v... những nơi có thu nhập cao hơn nhiều lần cũng như có cơ hội thường xuyên để sử dụng, trau dồi, nâng cao vốn kiến thức của mình. Từ đó dẫn đến tình trạng ở các DNVVN người giỏi ngoại ngữ đã hiếm lại càng thêm hiếm. Do vậy, các DNVVN cần tăng cường đào tạo về ngoại ngữ cho nhân viên kết hợp với đào tạo đồng bộ về chuyên môn, về CNTT để phát triển nguồn lực toàn diện. Có nhiều hình thức để đào tạo ngoại ngữ và CNTT cho đội ngũ nhân viên doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể gửi nhân viên đi học hoặc mời các trung tâm chuyên nghiệp về đào tạo cho doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của CNTT, hiện nay một hình thức đào tạo vừa phù hợp với ngân sách của DNVVN vừa tận dụng được ứng dụng CNTT trong học tập là hình thức đào tạo trực tuyến (e-learning). Tuy nhiên, dù hình thức đào tạo nào thì điều quan trọng là các nhân viên phải nhận thức được ý nghĩa và lợi ích của việc đào tạo này để phối hợp nâng cao hiệu quả đào tạo. 82 Nhiều DNVVN ở Việt Nam rất yếu kém trong tiếp cận thông tin và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Nguyên nhân vấn đề này một phần là do chất lượng nguồn nhân lực thấp, hạn chế về trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ của giám đốc và đội ngũ quản lý doanh nghiệp, một phần là do đầu tư cho hệ thống thông tin thấp, chưa có phương tiện kỹ thuật nên chưa theo kịp diễn biến thị trường. Vì thế quyết định kinh doanh được đưa ra chỉ dựa vào kinh nghiệm và phán đoán cảm tính, đây là điểm yếu nhất của các DNVVN Việt Nam trước áp lực cạnh tranh quốc tế. Do đó, việc ứng dụng CNTT sẽ giúp doanh nghiệp tiếp cận với các phương tiện kỹ thuật hiện đại, giúp phân tích thông tin một cách chính xác, giảm thiểu rủi ro, từ đó nâng cao năng lực dự báo của các DNVVN, giúp doanh nghiệp phản ứng nhanh hơn với các biến động thị trường. Đồng thời, việc bồi dưỡng ngoại ngữ kết hợp với đào tạo đồng bộ về chuyên môn về CNTT giúp các nhà kinh doanh nắm bắt được cơ hội để thực hiện và phát triển kinh doanh dài hạn. 2. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở tăng cƣờng phát triển thƣơng mại điện tử 2.1. Phát triển thƣơng mại điện tử để tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm và dịch vụ Khái niệm TMĐT dù đã trở nên khá phổ biến trên các phương tiện truyền thông, lợi ích khi phát triển TMĐT đã được khẳng định nhưng khái niệm này vẫn còn xa vời với nhiều DNVVN, đặc biệt là DNVVN ở các vùng nông thôn. Phát triển TMĐT đã trở thành xu hướng tất yếu của thời đại. Do đó, khi tham gia vào thương mại quốc tế, Việt Nam cần phát triển TMĐT để tận dụng những cơ hội kinh doanh mà TMĐT mang lại. Những lợi ích của phát triển TMĐT ngày càng rõ rệt. TMĐT giúp doanh nghiệp quảng bá hình ảnh, tiếp thị cho một thị trường toàn cầu với chi phí thấp nhất. Với TMĐT, DNVVN không phải tốn kém nhiều cho việc thuê cửa hàng, mặt bằng, đông đảo nhân viên phục vụ, doanh nghiệp cũng không phải đầu tư nhiều cho kho chứa, v.v... DNVVN cũng tiết kiệm được chi phí in ấn catalogue, chi phí in ấn quảng cáo, và cả chi phí gửi bưu điện những ấn phẩm này. Từ những chi phí có thể 83 tiết kiệm được, doanh nghiệp sẽ hạ giá thành sản phẩm, dịch vụ. Từ đó thúc đẩy khách hàng mua hàng, tăng doanh thu. Để đẩy mạnh ứng dụng TMĐT, vấn đề đầu tiên là vấn đề về nhận thức của các DNVVN. Cũng đã có nhiều DNVVN biết đến lợi ích của TMĐT và đã áp dụng có hiệu quả, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều DNVVN chưa quan tâm đầu tư cho TMĐT. Do đó, các DNVVN cần chủ động tìm hiểu lợi ích của TMĐT, coi đây là một trong những nhiệm vụ gắn với việc xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn. Trong bối cảnh ứng dụng CNTT và Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, sức ép cạnh tranh từ việc mở cửa thị trường sẽ rất lớn nên việc tìm hiểu lợi ích của TMĐT để nâng cao sức cạnh tranh là cấp thiết. Tiếp theo, các DNVVN cần xác định mô hình TMĐT thích hợp và xây dựng kế hoạch triển khai mô hình tại doanh nghiệp mình. Doanh nghiệp cần thấy rằng việc triển khai TMĐT khó có thể rập khuôn theo các mô hình sẵn có. Do vậy, DNVVN cần tìm hiểu, nghiên cứu và tự chọn cho mình mô hình TMĐT phù hợp với quy mô doanh nghiệp, loại hình kinh doanh, trình độ cán bộ và khả năng tài chính của mình. Trên cơ sở mô hình đã chọn, các DNVVN cần xây dựng kế hoạch triển khai, bao gồm kế hoạch tài chính trên cơ sở đầu tư vào thiết bị và công nghệ, đầu tư nguồn lực con người, v.v... 2.2. Phát triển thƣơng mại điện tử để rút ngắn thời gian đàm phán, ký kết hợp đồng và tiết kiệm chi phí Phát triển TMĐT thông qua mạng Internet mang lại cho các doanh nghiệp một công cụ đặc biệt hữu hiệu để thực hiện giao dịch. Công đoạn đầu tiên trong giao dịch thương mại là tìm kiếm đối tác, sản phẩm, dịch vụ. Công việc này sẽ bớt nan giải đi rất nhiều với một thị trường không biên giới khi doanh nghiệp phát triển TMĐT. Doanh nghiệp có thể tìm kiếm đối tác một cách dễ dàng hơn thông qua các công cụ tìm kiếm trên Internet, đặc biệt là đối tác ở các nước phát triển, nơi có tỷ lệ phổ cập Internet rất cao. Doanh nghiệp chỉ cần vào một trong những công cụ tìm kiếm, sàng lọc là đã có trong tay một danh sách đối tác tiềm năng. Để xem thông tin chi tiết về một đối tác, cũng như sản phẩm, dịch vụ mà họ cung cấp, doanh nghiệp có thể trực tiếp vào website của họ. So với 84 cách làm truyền thống là qua danh bạ, điện thoại, catalogue, phương pháp mới này nhanh hơn, chính xác hơn, tiết kiệm và hiệu quả hơn rất nhiều. Doanh nghiệp cũng có thể so sánh các tham số của sản phẩm khá dễ dàng trên Internet. Sau khi đã tìm kiếm được đối tác, công đoạn tiếp theo là thỏa thuận hợp đồng. Một trong những điểm quan trọng nhất trong công đoạn thỏa thuận hợp đồng là xác định giá. Với Internet, việc xác định giá cho một sản phẩm và dịch vụ cụ thể nào đó khá dễ dàng và nhanh chóng. Doanh nghiệp có thể gửi thư hỏi giá, thư báo giá đến đối tác, đưa sản phẩm, dịch vụ của mình trên website để tất cả những ai quan tâm có thể xem được. Doanh nghiệp cũng có thể trao đổi, đàm phán trực tiếp với đối tác ở nước ngoài, cũng như trong nước qua các công cụ trên Internet như website, e-mail, v.v... mà không tốn tiền điện thoại đường dài. Như vậy, việc phát triển TMĐT sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm được đáng kể thời gian đàm phán, ký kết hợp đồng. Trong giai đoạn hiện nay, các DNVVN chưa có đủ điều kiện đầu tư lớn cho việc ứng dụng TMĐT. Do đó, để tận dụng ưu thế của TMĐT trong việc quảng bá, tìm kiếm khách hàng, rút ngắn thời gian giao dịch, v.v... các DNVVN cần tích cực tham gia vào các sàn TMĐT loại hình giao dịch B2B và B2C của Việt Nam cũng như của các nước khác trên thế giới. Đặc biệt là các DNVVN nên tận dụng những sàn giao dịch TMĐT B2B có những hình thức hỗ trợ không thu phí đối với một số doanh nghiệp tham gia (ví dụ như Cổng thương mại điện tử quốc gia ECVN với tên miền www.ecvn.com). Bên cạnh đó, một giải pháp để rút ngắn thời gian ký kết hợp đồng là đẩy mạnh giao dịch điện tử, đẩy mạnh ứng dụng chữ ký điện tử. Chữ ký điện tử được sử dụng trong các giao dịch điện tử, là thông tin đi kèm theo dữ liệu nhằm mục đích xác định người chủ của dữ liệu đó. Bên cạnh đó, một vấn đề quan trọng đảm bảo cho các giao dịch TMĐT được thực hiện an toàn, nhanh chóng là vấn đề an ninh bảo mật cho hệ thống thông tin để xóa bỏ tâm lí e ngại, tạo niềm tin cho khách hàng khi tiến hành giao dịch qua mạng. 85 3. Nhóm giải pháp khác 3.1. Nhóm giải pháp về phía Nhà nƣớc 3.1.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh triển khai các văn bản pháp luật về thƣơng mại điện tử và ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông Cho đến hết năm 2008, các nghị định hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử và phần lớn các nghị định hướng dẫn Luật Công nghệ thông tin đã được ban hành. Các bộ, ngành hữu quan cũng đã ban hành nhiều Thông tư, văn bản hướng dẫn thực hiện chi tiết các nghị định này như Thông tư số 09/2008/TT-BCT ngày 21 tháng 7 năm 2008 của Bộ Công Thương hướng dẫn Nghị định Thương mại điện tử về cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên website TMĐT, Thông tư số 12/2008/TT- BTTTT ngày 30 tháng 12 năm 2008 của Bộ Thông tin và Truyền thông hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 90/2008/NĐ-CP ngày 13 tháng 08 năm 2008 của Chính phủ về chống thư rác, v.v... Tuy nhiên, TMĐT là lĩnh vực còn mới mẻ lại dựa trên nền tảng công nghệ tiên tiến, để các văn bản quy phạm pháp luật nói trên thực sự đi vào cuộc sống, tạo môi trường quản lý và hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước cần nỗ lực hơn nữa trong việc triển khai thực hiện các văn bản pháp luật đã ban hành. Trong triển khai cần chú trọng tới hoạt động hướng dẫn, phổ biến nội dung của các văn bản pháp luật để các doanh nghiệp hiểu và thực hiện đúng các quy định đã ban hành, xem đây là một khâu then chốt giúp triển khai và hoàn thiện môi trường pháp lý về TMĐT. 3.1.2. Nhà nƣớc tạo điều kiện cho phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin - viễn thông Việc phát triển hạ tầng CNTT – Viễn thông nhằm tăng số người tiếp cận với các phương tiện điện tử và mạng viễn thông như Internet. Từ đó, tạo cơ hội phát triển TMĐT dễ dàng. Một trở ngại trong phát triển TMĐT ở nước ta là tốc độ đường truyền và chi phí cao. Do đó, kiến nghị đối với Nhà nước là giảm tình trạng độc quyền trong viễn thông. Trong tình trạng nước ta còn thiếu vốn thì Nhà nước có thể kêu gọi đầu tư tư nhân và các công ty nước ngoài để phát triển hạ tầng CNTT – Viễn thông. 86 Bên cạnh đó, ngành công nghiệp phần mềm cũng cần được đầu tư phát triển. Phát triển công nghiệp phần mềm để giảm giá thành, nâng cao chất lượng phần mềm trong nước, tiết kiệm chi phí mua phần mềm từ nước ngoài giúp các DNVVN có đủ khả năng tài chính để ứng dụng CNTT bằng các phần mềm nội địa mà vẫn đạt hiệu quả. 3.2.3. Nhà nƣớc cần tăng cƣờng đào tạo nhân lực cho ứng dụng công nghệ thông tin và thƣơng mại điện tử trong tƣơng lai Yếu tố con người là yếu tố quyết định thành công của bất cứ hoạt động nào. Hiện nay, nguồn nhân lực có chất lượng cho phát triển CNTT và TMĐT ở Việt Nam vẫn rất khan hiếm. Việc ứng dụng CNTT hiện đại vào hoạt động kinh doanh và TMĐT là xu thế phát triển tất yếu trong môi trường kinh doanh toàn cầu hóa. Khoảng trống lớn về nhân lực có kiến thức CNTT và TMĐT sẽ là khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam, làm giảm sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Vì vậy, đào tạo nhân lực cho CNTT và TMĐT phải được quan tâm và đầu tư đúng mức, trước tiên là sự chỉ đạo từ phía cơ quan Nhà nước. Nguồn nhân lực cho CNTT và TMĐT trong doanh nghiệp có thể là các sinh viên được đào tạo chính quy tại các trường đại học, cao đẳng hoặc có thể là các nhân viên được công ty đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu mới. Tuy nhiên, những nhân viên do các công ty đào tạo chỉ là đáp ứng nhu cầu khan hiếm trước mắt và không được đào tạo một cách bài bản. Nếu tính đến nhu cầu và lợi ích dài hạn, nguồn nhân lực cho ứng dụng CNTT và TMĐT cần được đào tạo một cách bài bản ngay từ khi còn ở các trường đại học. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng kế hoạch đào tạo và nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho ứng dụng CNTT nhằm tạo ra một đội ngũ lao động có chất lượng cho xã hội. Để có nguồn lực TMĐT có chất lượng, Nhà nước cần xây dựng chương trình đào tạo theo hai hướng: - Hƣớng đào tạo các nhà kỹ thuật TMĐT: tạo ra nguồn nhân lực trụ cột trong việc khai thác cơ sở hạ tầng, thiết kế hệ thống mạng, quản lý quá trình vận hành của hệ thống thông tin và có thể xây dựng phần mềm ứng dụng, thiết kế website cho doanh nghiệp tham gia TMĐT. Hướng đào tạo chính cho các nhà kỹ thuật TMĐT là 87 tập trung đào tạo chuyên sâu về CNTT đồng thời phải song song đào tạo kiến thức về thương mại, kinh doanh và quản trị đủ để có thể ứng dụng CNTT trong từng giai đoạn, trong công việc mua bán trên mạng. - Hƣớng đào tạo các nhà quản trị TMĐT: chuyên sâu về quản trị kinh doanh trong thương mại kết hợp với các kỹ năng khai thác trên mạng để có thể thực hiện giao dịch TMĐT và có thể vạch ra các chiến lược, kế hoạch và chương trình kinh doanh của công ty. Bên cạnh đó, cần kết hợp đào tạo ngoại ngữ cho nguồn nhân lực cntt để bắt kịp với nền công nghệ hiện đại của nước ngoài, thực hiện việc “đi tắt đón đầu” hiệu quả hơn. 3.1.4. Phát huy hơn nữa vai trò của Việt Nam trong các định chế kinh tế quốc tế Nhà nước cũng như các DNVVN cần tích cực, chủ động hợp tác quốc tế để tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm của thế giới và tìm kiếm các nguồn tài trợ. Về hợp tác quốc tế về TMĐT, từ năm 2006 đến nay, Việt Nam đã chủ động từng bước tham gia vào các hoạt động hợp tác về TMĐT trong các diễn đàn đa phương như APEC, UNCITRAL, UN/CEFACT, UNCTAD... và song phương với các quốc gia, vùng lãnh thổ như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan... Trong giai đoạn 2009-2010 Việt Nam cần tăng cường hơn nữa việc tham gia vào hoạt động của các tổ chức quốc tế đa phương, trong đó tập trung vào APEC, UNCITRAL, WTO để hỗ trợ việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về TMĐT, thực hiện tốt, có hiệu quả các cam kết quốc tế về TMĐT mà Việt Nam tham gia. Trong năm 2009, chủ động tham gia sâu vào Chương trình Bảo vệ dữ liệu cá nhân trong TMĐT của APEC, giúp các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận dần với TMĐT quốc tế. Hợp tác song phương với các quốc gia tiên tiến về TMĐT và có quan hệ thương mại đầu tư lớn với Việt Nam như Hòa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v... cũng cần được đẩy mạnh hơn nữa nhằm tìm kiếm các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp giảm chi phí giao dịch, hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh kinh tế thế giới đang suy giảm hiện nay. 88 Ngoài ra, cần đẩy mạnh hỗ trợ các doanh nghiệp, Hiệp hội trong việc tham gia hoạt động của tổ chức quốc tế về TMĐT như Liên minh các Tổ chức cấp chứng nhận website TMĐT uy tín Châu Á-Thái Bình Dương (ATA), Liên minh TMĐT Châu Á-Thái Bình Dương (PAA), v.v... từng bước nâng cao uy tín của doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động TMĐT. 3.2. Nhóm giải pháp về phía doanh nghiệp 3.2.1. Tiếp tục nâng cao nhận thức về vai trò của ứng dụng công nghệ thông tin để khai thác thông tin trong nền kinh tế thị trƣờng và hội nhập kinh tế quốc tế Các cuộc khảo sát tình hình ứng dụng CNTT trong doanh nghiệp cho thấy không doanh nghiệp nào phủ nhận vai trò của CNTT, nhưng nhận thức về lợi ích của ứng dụng CNTT đến mức độ nào, vai trò của CNTT trong chu trình sản xuất kinh doanh đến đâu thì hầu hết các doanh nghiệp còn rất mơ hồ. Nhiều DNVVN chưa thực sự xem CNTT là tác nhân chủ chốt trong hoạt động kinh doanh. Họ chỉ xem việc đầu tư cho CNTT như là khoản đầu tư thêm chứ chưa được đưa vào kế hoạch. Trong hàng loạt các nguyên nhân được đưa ra như: thiếu vốn, hạ tầng CNTT còn nghèo nàn, dịch vụ CNTT kém, thiếu chính sách khuyến khích, v.v... thì yếu tố nhận thức vẫn là quan trọng nhất. Các DNVVN mới chỉ hiểu được lợi ích của ứng dụng CNTT nhưng chưa thực sự nhìn nhận đó là chi phí bắt buộc nên họ chỉ cố gắng giảm càng nhiều càng tốt. Điều này dẫn đến sự đầu tư nửa vời, hiệu quả ứng dụng chưa cao. Do đó, nâng cao nhận thức cho các DNVVN hiện nay vẫn rất cần thiết. Trong vài năm trở lại đây, các tổ chức, ban ngành đã thực hiện nhiều chương trình dự án nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao nhận thức, đẩy mạnh ứng dụng CNTT. Một trong những giải pháp đã thực hiện là đề án “Hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng CNTT phục vụ hội nhập và phát triển giai đoạn 2005-2010” do VCCI chủ trì nhằm hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam, chủ yếu là DNVVN, nâng cao nhận thức về CNTT; đào tạo nguồn nhân lực; xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin kinh tế; khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp ứng dụng CNTT để tăng hiệu quả sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế. Đề án này cũng triển khai các chương trình đào tạo kỹ năng ứng dụng CNTT cho đội ngũ cán bộ 89 quản lý, sản xuất, kinh doanh trong doanh nghiệp; hỗ trợ tư vấn doanh nghiệp lựa chọn giải pháp, triển khai ứng dụng phù hợp để quảng bá và phát triển các dịch vụ giá trị gia tăng. Đề án này đã mang lại những kết quả trong việc nâng cao nhận thức của DNVVN về vai trò của CNTT. Tuy nhiên, để chương trình được triển khai rộng rãi đến mọi vùng miền thì cần có sự phối hợp của các ban ngành, các cơ quan chức năng, doanh nghiệp và các hiệp hội. 3.2.2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ cần xây dựng một lộ trình đầu tƣ và ứng dụng công nghệ thông tin trên cơ sở xây dựng chiến lƣợc kinh doanh dài hạn Khi đầu tư và triển khai ứng dụng CNTT trong DNVVN phải tuân theo lộ trình và đặc biệt phải lưu ý đến các điểm: - Đầu tư tập trung vì ứng dụng CNTT đòi hỏi chi phí lớn, không chỉ về tài chính mà còn về nhân lực. Do vậy, doanh nghiệp không nên đầu tư dàn trải mà tập trung vào một số hoạt động mà doanh nghiệp coi là quan trọng hơn cả. - Đầu tư phải dựa trên một thiết kế tổng thể, đảm bảo tính hệ thống và tích hợp đồng bộ. Trong doanh nghiệp có nhiều ứng dụng khác nhau sử dụng cho các mục đích khác nhau như: tài chính, sản xuất, lưu kho, phân phối, bán hàng, v.v... Các ứng dụng này phải được liên kết với nhau, sử dụng cùng những nguồn dữ liệu. - Sử dụng Internet triệt để: doanh nghiệp phải có website riêng và chỉ bằng cách như vậy mới có thể tham gia vào thị trường lớn. Nhiều dự án CNTT vào DNVVN thất bại là do họ đã không xây dựng một lộ trình ứng dụng đúng đắn. Hiện nay, các DNVVN hầu hết chưa xây dựng được lộ trình ứng dụng CNTT trong vòng 5 năm trở lên, hoặc mới chỉ có kế hoạch ở mức đơn giản. Chính những kế hoạch đơn giản này đã gián tiếp tiêu tốn thời gian và tiền bạc cho những dự án không thành công của doanh nghiệp. Thông thường, việc xây dựng lộ trình ứng dụng CNTT phải bắt đầu từ các cấp lãnh đạo cao nhất, vì lộ trình ứng dụng CNTT phải phù hợp với lộ trình phát triển của doanh nghiệp đó. Nó phải được xây dựng ở tất cả các cấp và phải được đầu tư đầy đủ nguồn lực cần thiết. Việc kết hợp các nhà tư vấn cũng rất cần thiết. Xây dựng lộ trình ứng dụng CNTT không chỉ dừng lại ở phần mềm quản lý mà còn bao gồm hệ thống, phần cứng, hạ tầng mạng, các ứng dụng trong tương lai, v.v… 90 3.2.3. DNVVN cần có chính sách tuyển dụng và quản lý nguồn nhân lực có trình độ CNTT một cách hợp lý Trong các cách để tạo ra năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thì lợi thế thông qua con người được xem là yếu tố căn bản. Nguồn lực từ con người là yếu tố bền vững và khó thay đổi nhất trong mọi tổ chức vì nó không thể được xác lập trong một thời gian ngắn. Do đó, DNVVN cần có chiến lược quản trị nhân lực để thu hút người tài và giữ chân người lao động giỏi. Đây là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên sự thành công của doanh nghiệp. Trước hết, để có nguồn nhân lực có chất lượng cho ứng dụng CNTT, DNVVN cần chú trọng đến chất lượng của các ứng viên ngay từ khâu tuyển dụng. Việc tuyển chọn những nhân viên có trình độ CNTT sẽ giúp DNVVN tiết kiệm được nhiều chi phí đào tạo, giải quyết ngay được tình trạng khan hiếm nhân lực có trình độ CNTT trong DNVVN. Bên cạnh đó, DNVVN cần có kế hoạch quản lý nhân sự hợp lý. Điều này thể hiện ở việc DNVVN phải xây dựng những chính sách, kế hoạch đào tạo, phát triển nhân viên, các chính sách khen thưởng và động viên khuyến khích các cá nhân có đóng góp trong việc nâng cao hiệu quả ứng dụng CNTT trong DNVVN để giữ ổn định lực lượng lao động của mình, nhất là lao động giỏi. Tóm lại, các DNVVN đang trong giai đoạn phát triển và tích lũy kinh nghiệm để hội nhập với nền kinh tế thế giới. DNVVN cũng đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới trên con đường phát triển. Đẩy mạnh ứng dụng CNTT là tất yếu, đòi hỏi nỗ lực của các bên liên quan, từng bước xây dựng khu vực DNVVN ngày càng lớn mạnh, hiện đại, đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước. 91 KẾT LUẬN Sau khi nghiên cứu đề tài về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam có thể rút ra một số kết luận sau đây: 1. DNNVV Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Với số lượng đông đảo, DNNVV giữ vị trí ngày càng quan trọng, đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, khu vực DNNVV Việt Nam vẫn còn những khó khăn, tồn tại có tính nội tại và lâu dài như: khó khăn về nguồn vốn, trình độ quản lý, kinh doanh còn hạn chế, trình độ công nghệ chỉ ở mức trung bình, thiếu kinh nghiệm tiếp cận và mở rộng thị trường,v.v...dẫn đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm còn kém khi tham gia vào thương mại quốc tế. Do đó, phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVV là một nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. 2. Sự phát triển của DNNVV được đóng góp một phần to lớn bởi sự phát triển của công nghệ thông tin. ứng dụng CNTT trong sản xuất kinh doanh đã làm thay đổi cơ bản phương thức quản lý sản xuất, giúp DNNVV có thể tiếp cận với phương thức kinh doanh hiện đại, từ đó nâng cao năng suất lao động, rút ngắn khoảng cách giữa DNNVV với các doanh nghiệp lớn. Việc ứng dụng CNTT trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNVV là phù hợp với xu thể của thời đại. 3. DNNVV ở Việt Nam đã ý thức được lợi ích của ứng dụng CNTT và bước đầu triển khai ứng dụng, tuy còn nhiều bất cập song đây cũng thể hiện chuyển biến lớn so với phương thức kinh doanh thủ công truyền thống, đưa DNNVV từng bước phát triển thích ứng với xu hướng kinh doanh mới. Các DNNVV hiện nay chủ yếu vẫn đang trong giai đoạn xây dựng cơ sở hạ tầng cho ứng dụng CNTT tạo nền tảng kỹ thuật cho ứng dụng CNTT . Cùng với sự phát triển của các ngành dịch vụ, tin học, bưu chính viễn thông và chính sách khuyến khích của Nhà nước, các DNNVV ở Việt Nam ngày càng có nhiều cơ hội để ứng dụng CNTT trong sản xuất kinh doanh. Các giải pháp về ứng dụng CNTT cũng ngày càng đa dạng và phù hợp theo 92 quy mô, từng loại doanh nghiệp. Vấn đề là DNNVV cần phải có kế hoạch lộ trình đầu tư cho phù hợp gắn với chiến lược phát triển dài hạn để có thể biến CNTT thành lợi thế cạnh tranh riêng của mình. 4. Trong bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, tăng cường ứng dụng CNTT vào hoạt động sản xuất kinh doanh là vấn đề cấp thiết để nâng cao năng lực sản xuất, năng lực cạnh tranh của các DNNVV ở Việt Nam. Với tiềm lực tài chính rất mạnh và công nghệ hiện đại của các nền kinh tế phát triển, nếu không có ứng dụng CNTT mạnh mẽ và hiệu quả, các DNNVV sẽ rất khó có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Do đó, DNNVV cần chủ động đầu tư trang thiết bị, công nghệ tiên tiến, bồi dưỡng nguồn nhân lực, v.v... tăng cường ứng dụng CNTT nhằm nâng cao sức cạnh tranh để đáp ứng và tham gia thị trường thế giới. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng thể hiện vai trò quản lý của mình, sớm hoàn thiện và đẩy mạnh triển khai các văn bản pháp luật liên quan đến phát triển CNTT và TMĐT. Đồng thời, cả doanh nghiệp và Nhà nước cần chủ động hợp tác quốc tế về CNTT và TMĐT để tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm của thế giới và tìm kiếm nguồn tài trợ. 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách, tạp chí 1. Đinh Văn Ân, Trịnh Hoa Mai, Willibold (2005), Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh: Kinh nghiệm trong nƣớc và quốc tế, NXB Thế giới. 2. Nguyễn Tuyết Mai, Mai Thế Cường (2007),Thu thập và sử dụng thông tin Marketing của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 3. Mỹ Dung (2005), Những cơ hội hỗ trợ & nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ, Tạp chí Thương mại, số 38, trang 24. 4. Đỗ Trọng Khanh (2008), Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu vừa và nhỏ của Việt Nam, Vụ Phương Pháp Chế độ, Đà Nẵng. 5. Hồng Minh (2006), Chƣơng trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, Tạp chí Lao động và xã hội số 283, trang 28-29. 6. PV (2006), Nâng cao hiệu quả hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, Tạp chí Lao động &Xã hội số 283 (từ 16/3- 31/3/2006). 7. Phan Trọng Phức (2007), Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 8. Nguyễn Thế Quang (2006), Hà Nội với các biện pháp trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, Lao động &Xã hội, số 283. 9. Nguyễn Thị Quy (2005), Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thƣơng mại trong xu thế hội nhập, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội. 10. Trần Sửu (2006), Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện toàn cầu hóa, NXB Lao động, Hà Nội. 11. Lê Văn Tâm (2000), Giáo trình Quản trị chiến lƣợc, NXB Thống kê, Hà Nội. 12. Nguyễn Vĩnh Thanh (2005), Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thƣơng mại Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội. 94 13. Nguyễn Văn Thảo (2004), Một số ý kiến về tình hình ứng dụng công nghệ thông tin trong các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Bưu chính Viễn thông & CNTT số 238. 14. Phạm Minh Tuấn (2005), Nguồn nhân lực cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 3, trang 16-19. 15. Bộ Công Thương - Báo cáo TMĐT năm 2004, 2005, 2006, 2007, 2008 16. Cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo thường niên về doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2008 17. Đại học Ngoại thương (2006), Các vấn đề pháp lý về giao kết hợp đồng điện tử, Đề tài khoa học cấp bộ. 18. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp tỉnh Phú Yên sau khi Việt Nam gia nhập WTO (2007), Kỷ yếu hội thảo khoa học, NXB Tài chính. 19. Micheal Porter (1990), The competitive Advantage of Nation, NXB The Free Press 1990. 20. Osamu Tsukahara (December 2006), SMEs Financing in Japan. Tài liệu từ Internet 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. 13. 95 14.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf4335_2407.pdf
Luận văn liên quan