Đề tài Tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững giai đoạn 2011 - 2020

MỤC LỤC Mở đầu . 3 1 Lý do chọn đề tài 3 2 Đối tượng nghiên cứu . 3 3 Phương pháp nghiên cứu 3 4 Kết quả nghiên cứu . 3 5 Bố cục 4 Nội dung . 5 Chương 1: Cơ sở lý luận 5 1.1 Nội dung lý thuyết . 5 1.1.1 Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế 5 1.1.2 Lý thuyết về phát triển kinh tế . 5 1.1.3 Tăng trưởng gắn với phát triển kinh tế bền vững 6 1.2 Quan điểm phát triển và tăng trưởng kinh tế . 6 Chương 2: Thực trạng 9 2.1 Bối cảnh nền kinh tế 9 2.2 Bối cảnh nền kinh tế quốc tế . 14 2.3 Mục tiêu phát triển kinh tế đến năm 2020 . 16 2.4 Các đột phá cần thực hiện . 18 Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước bảo đảm thực hiện thắng lợi . 24 Kết luận 26 MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Tăng trưởng, phát triển kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về phát triển kinh tế. Tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững là mục tiêu hàng đầu của tất cả các nước trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn của mỗi quốc gia. Giai đoạn 2001 - 2010 chúng ta đã gặt hái được nhiều thành công lớn nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn đọng một số bất cập chưa giải quyết được thỏa đáng.Vì vậy, chiến lược tăng trưởng và phát triển kinh tế giai đoạn 2011 - 2020 là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành từ trung ương đến cơ sở. Sở dĩ chiến lược hướng đến năm 2020 vì: Giai đoạn 2011 - 2020 là một giai đoạn thiết thực, khả thi, phù hợp với thực tiễn của đất nước: Đến năm 2020 nước ta hoàn thành giai đoạn 2 của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và cơ bản trở thành một nước công nghiệp phát triển. Lúc đó, những định hướng để phát triển kinh tế cũng không còn phù hợp. Do đó, có thể khẳng định 2020 là cột mốc quan trọng đánh dấu sự khác biệt và thay đổi quan trọng khi hướng đến các giai đoạn tiếp theo. Vì vậy nhóm chúng em xin chọn đề tài tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững từ năm 2011 đến năm 2020. Đối tượng nghiên cứu Kế hoạch phát triển kinh tế bền vững của Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020. Phương pháp nghiên cứu Vận dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, giải thích, chứng minh . Kết quả nghiên cứu Thông qua việc tìm hiểu chiến lược tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững 2011 – 2020 chúng emnhận thấy tình hình kinh tế ở nước ta đang có những chuyển biến tích cực, nền kinh tế đang trên đà phục hồi, tuy nhiên thực lực của nền kinh tế vẫn còn bị đánh giá “yếu”, những vấn đề “gốc” của nền kinh tế chưa được giải quyết cụ thể, bởi nước ta đang còn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, áp lực lớn, và khó khăn còn nhiều hơn những năm trước. Bên cạnh đó chúng em cũng hiểu được tầm quan trọng của việc học hỏi những bài học kinh nghiệm từ các năm trước và của các quốc gia trên thế giới.Từ đó cần phải tận dụng và phát huy được những thế mạnh kinh tế, giải quyết có hiệu quả những hạn chế, bất cập, do đó những chiến lược, chính sách phát triển phù hợp là vô cùng cần thiết. Hơn nữa, việc tìm hiểu giúp chúng ta có thể thấy được nền kinh tế Việt Nam có xu hướng tăng trưởng và phát triển như thế nào. Từ đó có thể tập trung vào những ngành kinh tế đem lại tốc độ tăng trưởng cao và mang lại lợi ích thiết thực cho xã hội. Bố cục Chương 1: Cơ sở lí luận Chương 2: Thực trạng Chương 3: Giải pháp Chương 4: Kết luận Tài liệu tham khảo

docx28 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6395 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững giai đoạn 2011 - 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BỀN VỮNG GIAI ĐOẠN 2011 - 2020 DANH SÁCH NHÓM Họ và tên MSSV Mai Hoàng Trí 10223981 Trần Thị Yến Nhi 10271931 Cao Minh Phức 10242731 Bùi Thị Huyền 10263901 Dư Thị Mai Sương 10268861 Võ Thị Uyên Vi 10269751 Trần Thị Phương Châu 10238171 Phạm Nguyễn Hải Duy 10176721 Phạm Thị Xuân 10084851 Phạm Thị Thanh Kiều 10230681 Vũ Ngọc Huyền Chi 10060351 Đặng Thị Thu Thủy 10083291 MỤC LỤC Mở đầu 3 1 Lý do chọn đề tài 3 2 Đối tượng nghiên cứu 3 3 Phương pháp nghiên cứu 3 4 Kết quả nghiên cứu 3 5 Bố cục 4 Nội dung 5 Chương 1: Cơ sở lý luận 5 1.1 Nội dung lý thuyết 5 1.1.1 Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế 5 1.1.2 Lý thuyết về phát triển kinh tế 5 1.1.3 Tăng trưởng gắn với phát triển kinh tế bền vững 6 1.2 Quan điểm phát triển và tăng trưởng kinh tế 6 Chương 2: Thực trạng 9 2.1 Bối cảnh nền kinh tế 9 2.2 Bối cảnh nền kinh tế quốc tế 14 2.3 Mục tiêu phát triển kinh tế đến năm 2020 16 2.4 Các đột phá cần thực hiện 18 Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước bảo đảm thực hiện thắng lợi 24 Kết luận 26 MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Tăng trưởng, phát triển kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về phát triển kinh tế. Tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững là mục tiêu hàng đầu của tất cả các nước trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn của mỗi quốc gia. Giai đoạn 2001 - 2010 chúng ta đã gặt hái được nhiều thành công lớn nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn đọng một số bất cập chưa giải quyết được thỏa đáng. Vì vậy, chiến lược tăng trưởng và phát triển kinh tế giai đoạn 2011 - 2020 là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành từ trung ương đến cơ sở. Sở dĩ chiến lược hướng đến năm 2020 vì: Giai đoạn 2011 - 2020 là một giai đoạn thiết thực, khả thi, phù hợp với thực tiễn của đất nước: Đến năm 2020 nước ta hoàn thành giai đoạn 2 của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và cơ bản trở thành một nước công nghiệp phát triển. Lúc đó, những định hướng để phát triển kinh tế cũng không còn phù hợp. Do đó, có thể khẳng định 2020 là cột mốc quan trọng đánh dấu sự khác biệt và thay đổi quan trọng khi hướng đến các giai đoạn tiếp theo. Vì vậy nhóm chúng em xin chọn đề tài tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững từ năm 2011 đến năm 2020. Đối tượng nghiên cứu Kế hoạch phát triển kinh tế bền vững của Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020. Phương pháp nghiên cứu Vận dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, giải thích, chứng minh... Kết quả nghiên cứu Thông qua việc tìm hiểu chiến lược tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững 2011 – 2020 chúng em nhận thấy tình hình kinh tế ở nước ta đang có những chuyển biến tích cực, nền kinh tế đang trên đà phục hồi, tuy nhiên thực lực của nền kinh tế vẫn còn bị đánh giá “yếu”, những vấn đề “gốc” của nền kinh tế chưa được giải quyết cụ thể, bởi nước ta đang còn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, áp lực lớn, và khó khăn còn nhiều hơn những năm trước. Bên cạnh đó chúng em cũng hiểu được tầm quan trọng của việc học hỏi những bài học kinh nghiệm từ các năm trước và của các quốc gia trên thế giới. Từ đó cần phải tận dụng và phát huy được những thế mạnh kinh tế, giải quyết có hiệu quả những hạn chế, bất cập, do đó những chiến lược, chính sách phát triển phù hợp là vô cùng cần thiết. Hơn nữa, việc tìm hiểu giúp chúng ta có thể thấy được nền kinh tế Việt Nam có xu hướng tăng trưởng và phát triển như thế nào. Từ đó có thể tập trung vào những ngành kinh tế đem lại tốc độ tăng trưởng cao và mang lại lợi ích thiết thực cho xã hội. Bố cục Chương 1: Cơ sở lí luận Chương 2: Thực trạng Chương 3: Giải pháp Chương 4: Kết luận Tài liệu tham khảo NỘI DUNG CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1 Nội dung lý thuyết 1.1.1 Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng lực lượng kinh tế của năm này so với năm trước hoặc năm được chọn làm xuất phát điểm của chu kỳ nghiên cứu hoặc là sự tăng theo quy mô sản lượng hay thu nhập bình quân đầu người của một nền kinh tế trong thời kì nhất định (thường là 1 năm). Đó là kết quả được tạo ra bởi tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ trong nền kinh tế. Tốc độ tăng hàng năm phản ánh % thay đổi của sản lượng năm sau so với năm trước v=Chỉ tiêu năm t-chỉ tiêu năm (t-1)Chỉ tiêu năm (t-1) ×100 Trong đó: V :Là tốc độ tăng của một chỉ tiêu nào đó năm t Chỉ tiêu năm t và năm (t-1) có thể là GNP hoặc GDP. 1.1.2 Lý thuyết về phát triển kinh tế Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế.Nó bao gồm tăng trưởng kinh tế cùng với những thay đổi về chất của nền kinh tế (như phúc lợi xã hội, tuổi thọ, v.v.) và những thayđổi về cơ cấu kinh tế (giảm tỷ trọng của khu vực sơ khai, tăng tỷ trọng của khu vực chế tạo và dịch vụ). Phát triển kinh tế là một quá trình hoàn thiện về mọi mặt của nền kinh tế bao gồm kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế trong một thời gian nhất định nhằm đảm bảo rằng GDP cao hơn đồng nghĩa với mức độ hạnh phúc hơn. 1.1.3 Tăng trưởng gắn với phát triển kinh tế bền vững Tăng trưởng gắn với phát triển kinh tế bền vững chính là sự tăng trưởng gắn liền với sự phát triển về mọi mặt trong hiện tại như vấn đề mối trường, an sinh xã hội, cơ sở hạ tầng,… nhưng vẫn đảm bảo được sự phát triển trong tương lai xa. 1.2 Quan điểm phát triển và tăng trưởng kinh tế 1.2.1 Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế trí thức. Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống của nhân dân Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn đi cùng với bảo vệ và cải thiện môi trường. Nước ta có điều kiện phát triển nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết. Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Phải đặc biệt quan tâm giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. 1.2.2 Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh * Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới trong đó bao gồm: Đổi mới trong lĩnh vực chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương để thúc đẩy đổi mới toàn diện. Phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Coi việc thực hiện mục tiêu này là tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển. 1.2.3 Thực hành dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người được phát triển toàn diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước. Phát huy lợi thế dân số và con người Việt Nam, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chăm lo lợi ích chính đáng và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mọi người dân, thực hiện công bằng xã hội. 1.1.4 Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Phải tháo gỡ mọi cản trở, tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển. Phát triển nhanh, hài hoà các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp. Phải tăng cường tiềm lực và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là hợp tác xã. Khuyến khích phát triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần để loại hình kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển mạnh, trở thành một động lực của nền kinh tế. Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển theo quy hoạch. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh và ngày càng hiện đại các loại thị trường. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý và phân phối, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. 1.2.5 Phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Phải không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước để tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng và có hiệu quả.  Phát triển lực lượng doanh nghiệp trong nước với nhiều thương hiệu mạnh, có sức cạnh tranh cao để làm chủ thị trường trong nước, mở rộng thị trường ngoài nước, góp phần bảo đảm độc lập tự chủ của nền kinh tế. Trong hội nhập quốc tế, phải luôn chủ động thích ứng với những thay đổi của tình hình, bảo đảm hiệu quả và lợi ích quốc gia. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG 2.1 Bối cảnh nền kinh tế Việt nam Trong 10 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, chúng ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng khoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Trong 10 năm qua, nước ta là một nước có mức độ tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới dù mức xuất phát điểm của nước ta là rất thấp. Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược 2001 - 2010 đã được thực hiện, đạt được bước phát triển mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,2%/năm. Năm 2010 tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người đạt 1.200 USD. Biểu đồ thể hiện mức GDP/ đầu người giai đoạn 2000 – 2010 Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Tăng tỉ trọng công nghiệp ( khu vực II) và giảm tỉ trọng nông nghiệp (Khu vực I) và tỉ trọng dịch vụ giữ ở mức ổn định. Kinh tế tăng trưởng cao, cơ cấu chuyển dịch theo hướng tiến bộ là thành tựu nổi bật nhất. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội đạt thành tựu quan trọng trên nhiều mặt. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất nước. Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của đất nước vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Đạt được những thành tựu nêu trên là nhờ phát huy được sức mạnh toàn dân tộc, sự nỗ lực phấn đấu vượt bậc, năng động sáng tạo của toàn dân, toàn quân, cộng đồng doanh nghiệp và của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự quản lý điều hành có hiệu quả của Nhà nước. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc. Huy động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn hạn chế. Tăng trưởng kinh tế còn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Điều này dễ nhận thấy qua năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước còn yếu kém. Thị trường bị chiếm lĩnh bởi các mặt hàng ngoại nhập từ Trung Quốc, Mĩ, Nhật, …. Hơn thế nữa các mặt hàng trong nước chất lượng vẫn thua kém và mẫu mã cũng chưa đa dạng. Ngoài ra việc phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực cũng còn chưa cao. Tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và hiệu quả đầu tư  thấp kém không những chậm được khắc phục, mà còn có xu hướng trầm trọng hơn. Con số cụ thể tính đến năm 2011 như sau: 100 cảng biển (20 cảng quốc tế), 22 sân bay (8 sân bay quốc tế) 100 ngân hàng thương mại, hàng trăm công ty tài chính chứng khoán, 18 khu kinh tế ven biển, 27 khu kinh tế cửa khẩu, 260 khu công nghiệp (tỷ lệ lấp đầy chưa đến 50%) 650 cụm công nghiệp …Việc điều hành tỉ giá và thị trường ngoại hối chưa thật linh hoạt, dẫn đến tình trạng găm giữ USD, cán cân thanh toán đã bị thâm hụt. ( khoảng 1,9 tỉ USD). Bội chi ngân sách và chính sách tiền tệ luôn tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao. Qua cuộc khủng hoảng năm 2008, nền kinh tế Việt Nam phải đối đầu với khủng hoảng tài chính kéo dài càng làm bộc lộ rõ những yếu kém trên. Việc chậm giải tỏa các điểm nghẽn tăng trưởng (thể chế kinh tế thị trường, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực) đã thực sự trở thành lực cản lớn với sự phát triển. Rõ ràng là những yếu kém nội tại của nền kinh tế cộng hưởng với những biến động bất lợi của nền kinh tế toàn cầu đã đặt ra cho VN nhiều thách thức gay gắt. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội còn nhiều bất cập, một số mặt còn bức xúc. Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng. Dễ thấy qua hàng loạt các vụ việc phát hiện các công ty xả chất thải độc hại chưa qua xử lý, điển hình như vụ việc công ty Ve Dan xả chất thải ra sông thị vải. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia. Những hạn chế, yếu kém trên đây có phần do nguyên nhân khách quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Tư duy phát triển kinh tế - xã hội và phương thức lãnh đạo của Đảng chậm đổi mới, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển đất nước. Hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn bất cập. Tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều hạn chế. Tổ chức thực hiện còn nhiều yếu kém, chưa tạo được chuyển biến mạnh trong việc giải quyết có hiệu quả những khâu đột phá, then chốt và những vấn đề xã hội bức xúc. Quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ. Kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, chưa được đẩy lùi. Từ thực tiễn phát triển đất nước và kết quả thực hiện Chiến lược 10 năm qua có thể rút ra các bài học chủ yếu: Một là, phát huy dân chủ, khơi dậy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước. Hai là, đặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng. Ba là, bảo đảm độc lập tự chủ và chủ quyền quốc gia, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển đất nước. Bốn là, bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.   2.2 Bối cảnh nền kinh tế quốc tế Nước ta bước vào thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp và khó lường. Trong thập niên tới, hoàn bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh giành tài nguyên, lãnh thổ, nạn khủng bố có thể gia tăng cùng với những vấn đề toàn cầu khác như đói nghèo, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, các thảm họa thiên nhiên…buộc các quốc gia phải có chính sách đối phó và phối hợp hành động. Các nước ASEAN bước vào thời kỳ hợp tác mới theo Hiến chương ASEAN và xây dựng Cộng đồng dựa trên ba trụ cột: chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội; hợp tác với các đối tác tiếp tục phát triển và đi vào chiều sâu; mặt khác, ASEAN cũng đang phải đối phó với những thách thức. Tại hội nghị cấp cao ASEAN 14 (Thái Lan, 28/2-1/3/2009), lãnh đạo các nước ASEAN đã thông qua Tuyên bố Cha-Am Hua Hin về lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN (giai đoạn 2009-2015), kèm theo là các kế hoạch tổng thể xây dựng 3 Cộng đồng: Chính trị-An ninh ASEAN (APSC), Kinh tế (AEC), Văn hóa-Xã hội (ASCC ) và Kế hoạch Công tác IAI về Thu hẹp khoảng cách phát triển giai đoạn II. Các kế hoạch này đề ra bước đi và lộ trình cụ thể, tạo khuôn khổ cho quá trình xây dựng Cộng đồng của ASEAN từ nay đến 2015. ASEAN hiện đang tập trung nỗ lực triển khai các Kế hoạch này. Từng trụ cột Cộng đồng đã có những hoạt động triển khai cụ thể, như xác định các lĩnh vực ưu tiên, kế hoạch tuyên truyền-quảng bá, lập biểu đánh giá thực hiện… song tiến độ còn chậm, chưa có sự phối hợp đồng bộ và thiếu hụt nguồn lực. Hiện tại các nền kinh tế thuộc khối ASEAN đều có những sa sút ở các mức độ khác nhau do tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ quốc tế. Gần đây ở khu vực Biển Đông xuất hiện sự căn thẳng, tranh chấp về vấn đề biên giới trên biển giữa một số nước Đông Nam Á với Trung Quốc làm tình hình khu vực trở nên căng thảng. Các nước asian cũng lo ngại về vấn đề này. Tình hình khu vực Đông Nam Á hiện nay khá ổn định về chính trị - xã hội dù có một vài tranh chấp xảy ra. Như giữa Campuchia và Thái Lan. Tuy nhiên nền kinh tế khu vực này cho thấy tốc độ tăng trưởng cao và không bị khủng hoảng nợ, Đông Nam Á đang là điểm sáng trong bức tranh u ám của nền kinh tế toàn cầu hiện nay. Một số nước đã trở thành số ít các nền kinh tế có triển vọng mang lại lợi nhuận cao. Trong năm nay và năm tới, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Singapore dự kiến đạt 5% và 4,9%, Thái Lan 4,5%, Indonesia 6,3 - 6,5% và Malaysia 4,4 - 4,5%. Khu vực châu Á – Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động và đang hình thành nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng hơn. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương vẫn tiếp tục là người cầm lái của nền kinh tế toàn cầu trong năm 2011 nhưng vẫn phải đối mặt với rủi ro về giá thực phẩm và giá nhiên liệu cao cùng với sự không ổn định của những luồng vốn chảy vào, vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định, nhất là tranh giành ảnh hưởng, tranh chấp chủ quyền biển, đảo, tài nguyên... Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện với nhữmg tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen rất phức tạp. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng lớn. Quá trình quốc tế hoá sản xuất và phân công lao động diễn ra ngày càng sâu rộng. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu đã trở thành yêu cầu đối với các nền kinh tế. Sự tùy thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các nước càng trở thành phổ biến. Kinh tế tri thức phát triển mạnh và do đó, con người và tri thức trở thành nhân tố quyết định sự phát triển cửa mỗi quốc gia. Sau khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu, thế giới sẽ bước vào một giai đoạn phát triển mới. Tương quan sức mạnh của các nền kinh tế và cục diện phát triển toàn cầu thay đổi với sự xuất hiện những liên kết mới. Vị thế của châu Á, nhất là Trung Quốc trong nền kinh tế thế giới đang tăng lên. Quá trình tái cấu trúc các nền kinh tế và điều chỉnh các thể chế tài chính toàn cầu sẽ diễn ra mạnh mẽ, gắn với những bước tiến mới về khoa học, công nghệ và sử dụng tiết kiệm năng lượng, tài nguyên. Mặt khác, khủng hoảng còn để lại hậu quả nặng nề, chủ nghĩa bảo hộ trỗi dậy trở thành rào cản lớn cho thương mại quốc tế. Kinh tế thế giới tuy đã bắt đầu phục hồi nhưng đà tăng trưởng trong những năm đầu còn yếu, độ rủi ro và tính bất định còn rất lớn. Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế nêu trên tạo cho nước ta vị thế mới với những thuận lợi và cơ hội to lớn cùng những khó khăn và thách thức gay gắt trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ trong thời kỳ chiến lược tới. 2.3 Mục tiêu phát triển kinh tế đến năm 2020 2.3.1 Mục tiêu tổng quát Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, đồng thuận, dân chủ, kỷ cương; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau 2.3.2 Mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường 2.3.2.1 Về kinh tế Theo Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng thì cứ sau 10 năm quy mô nền kinh tế Việt Nam tăng gấp hai lần do đầu tư nước ngoài và việc cắt giảm thuế giúp duy trì tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt vào khoảng 8% – 10% cho tớinăm 2020. Đại hội IX của Đảng đã đề ra mục tiêu: nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Bên cạnh mục tiêu tổng quan đó, các nhóm tiêu chí cũng được đưa ra nhằm cụ thể hóa mục tiêu trên. Nhóm tiêu chí về tăng trưởng kinh tế vĩ mô bao gồm bốn tiêu chí: (1) về quy mô của nền kinh tế, GDP năm 2020 đạt từ 180 – 200 tỷ USD; (2) về tốc độ tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2006 - 2020 đạt 9,2% – 10%/năm; (3) về GDP bình quân đầu người, năm 2020 mục tiêu đặt ra là 1800 – 2000 USD; (4) vềtốc độ tăng GDP bình quân đầu người trong giai đoạn 2006 – 2020 đạt từ 7% – 8,6%/năm. Bên cạnh đó, muốn có vị thế nhất định trong khu vực, GDP củaViệt Nam phải đạt mức trung bình của 4 nước có GDP cao nhất trong hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là Malaysia, Thái Lan, Philippin, Indonesia (200 tỷ USD) và tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người ở mức hai con số. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Tỷ lệ lao động nông nghiệp khoảng 30% lao động xã hội. Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt ít nhất 35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5-3%/năm. Thực hành tiết kiệm trong sự dụng mọi nguồn lực. Kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại. Tỷ lệ đô thị hoá đạt trên 45%. Số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%. 2.3.2.2 Về văn hóa xã hội Trong quá trình phát triển, văn hóa – xã hội là một yếu tố quan trọng quyết định đến nền kinh tế và chi phối nhiều mặt cuộc sống. Đến năm 2020, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thế giới; tốc độ tăng dân số ổn định ở mức 1,1%; tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi; đạt 9 bác sỹ và 26 giường bệnh trên một vạn dân[1], thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; lao động qua đào tạo đạt trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55% tổng lao động xã hội; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2 - 3%/năm; phúc lợi, an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cộng đồng được bảo đảm. Thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng 3,5 lần so với năm 2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và nhóm dân cư. Xoá nhà ở đơn sơ, tỷ lệ nhà ở kiên cố đạt 70%, bình quân 25 m2 sàn xây dựng/người. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đến năm 2020, có một số lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục, y tế đạt trình độ tiên tiến, hiện đại. Số sinh viên đạt 450 trên một vạn dân. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình tiến bộ, hạnh phúc; con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật. 2.3.2.3 Về môi trường Đến năm 2020, đưa tỷ lệ che phủ rừng lên 45%. Hầu hết dân cư thành thị và nông thôn được sử dụng nước sạch và hợp vệ sinh. 100% cơ sở sản xuất, kinh doanh mới áp dụng công nghệ sạch hoặc trang bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải; trên 80% các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có đạt tiêu chuẩn về môi trường. Các đô thị loại 4 trở lên và tất cả các khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung. 95% chất thải rắn thông thường, 85% chất thải nguy hại và 100% chất thải y tế được xử lý đạt tiêu chuẩn. Cải thiện và phục hồi môi trường các khu vực bị ô nhiễm nặng. Hạn chế tác hại của thiên tai. Chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, đặc biệt là nước biển dâng. 2.4 Các đột phá cần thực hiện Dự thảo chiến lược đề ra mục tiêu tổng quát “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị-xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.” Lấy phát triển kinh tế làm trung tâm, mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể nêu trong Dự thảo thể hiện sự thống nhất giữa kinh tế, xã hội với chính trị, quốc phòng, an ninh; gắn kết nhiệm vụ trung hạn với yêu cầu phát triển dài hạn, trở thành “Cương lĩnh thứ hai của Đảng” nhằm triển khai nhiệm vụ trong giai đoạn đầu thực hiện Cương lĩnh.  Để đạt được mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể, phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó phải chọn đúng các khâu đột phá - những khâu hiện đang là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển mà nếu giải quyết tốt các khâu này sẽ tạo ra những tiền đề giải phóng mọi tiềm năng, khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển. Dự thảo lựa chọn ba đột phá:  Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính. Ưu điểm của kinh tế thị trường là phân bổ nguồn lực một cách hợp lý theo tín hiệu thị trường và do đó làm tăng hiệu quả chung của nền kinh tế. Kinh tế thị trường chỉ có thể được hoàn thiện khi các yếu tố, các loại thị trường được hình thành đồng bộ trong một môi trường cạnh tranh bình đẳng. Cạnh tranh là đặc tính vốn có của kinh tế thị trường. Thông qua cạnh tranh, các doanh nghiệp buộc phải tìm cách giảm chi phí, nâng cao năng suất - yếu tố xét đến cùng quyết định thắng lợi của một phương thức sản xuất, một chế độ xã hội. Kinh tế thị trường luôn được vận hành thông qua các thể chế và thủ tục hành chính. Vì vậy, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường phải gắn với đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.  Mặt khác, kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó phát triển kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển các lĩnh vực văn hóa xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển. Vì vậy, Nhà nước phải có chính sách cơ cấu hợp lý, sử dụng hiệu quả các công cụ điều tiết nhằm khắc phục những mặt trái của cơ chế thị trường.  Hai là, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Con người là chủ thể sản xuất ra mọi sản phẩm vật chất và tinh thần. Con người làm ra thể chế, phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, là lực lượng sản xuất quan trọng nhất. Vì vậy, đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân để phát triển mạnh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược. Đây vừa là yêu cầu cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài.  Ba là, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn. Kết cấu hạ tầng là “đường dẫn” cho các yếu tố sản xuất dịch chuyển và là điều kiện để phát triển văn hóa xã hội trên các vùng của đất nước. Trong 10 năm tới, chúng ta phải huy động các nguồn lực để thực hiện khâu đột phá này.  Trên cơ sở các quan điểm và mục tiêu tổng quát nêu trên, dự thảo Chiến lược đề ra 12 định hướng phát triển, tạo nên một hệ thống đồng bộ các giải pháp lớn trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại như một chỉnh thể của phát triển bền vững; bảo đảm gắn kết hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Dưới đây, xin phân tích một số nội dung mới.  Có thể nói tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, phát triển các lĩnh vực xã hội hài hòa với phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường là những tư tưởng quan trọng nhất cũng là những nét mới trong tư duy phát triển.  Tái cấu trúc nền kinh tế không phải chỉ được đặt ra khi có khủng hoảng. Quá trình này diễn ra một cách tiệm tiến hoặc nhảy vọt theo sự phát triển của khoa học, công nghệ và sự dịch chuyển lợi thế cạnh tranh giữa các nước. Nội dung và nhịp độ của tái cấu trúc phụ thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi quốc gia. Đối với nước ta, tái cấu trúc nền kinh tế phải diễn ra đồng thời trên các nội dung sau:  (1) Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc dân. Mặt khác, phải hết sức coi trọng vai trò có ý nghĩa chiến lược lâu dài của nông nghiệp trong việc ổn định xã hội, bảo đảm an ninh lương thực và cải thiện đời sống nông dân.  (2) Tái cấu trúc các ngành sản xuất và dịch vụ, trọng tâm là phát triển công nghiệp hỗ trợ và các ngành dịch vụ chất lượng cao, có giá trị gia tăng lớn, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm có khả năng cạnh tranh để có thể tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Đồng thời, phải xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa với công nghệ cao nhằm tăng giá trị gia tăng trên một đơn vị diện tích đất; gắn kết chặt chẽ giữa áp dụng khoa học công nghệ với tổ chức sản xuất; giữa sản xuất, chế biến với phân phối trong một chuỗi giá trị, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các khâu trong chuỗi giá trị đó; giữa phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới.  (3) Tái cấu trúc các doanh nghiệp, tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước, phát triển mạnh kinh tế dân doanh. Song song đó, mỗi doanh nghiệp phải tự tái cấu trúc để thích ứng với sự thay đổi về công nghệ và thị trường nhằm tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả.  (4) Coi trọng hơn thị trường trong nước. Phát triển mạnh hệ thống phân phối của các doanh nghiệp nước ta trên thị trường nội địa để có thể làm chủ thị trường này, tạo cơ sở vươn xa, thâm nhập sâu vào thị trường thế giới, mở rộng thị trường xuất khẩu, khai thác có hiệu quả các thị trường có hiệp định mậu dịch tự do.  (5) Điều chỉnh cơ cấu và nâng cao hiệu quả đầu tư. Nhà nước tập trung đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực và các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu nhất, đồng thời đẩy mạnh huy động nguồn lực của các thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển. Khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, các ngành công nghiệp hỗ trợ, sử dụng công nghệ sạch. Hạn chế đầu tư vào các ngành khai thác tài nguyên, sử dụng nhiều đất, tiêu hao nhiều năng lượng; không chấp nhận những dự án đầu tư công nghệ thấp, gây ô nhiễm môi trường.  Để thực hiện các nội dung tái cấu trúc trên đây, phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng dựa vào tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và nguồn lao động chất lượng thấp sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới về khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và kỹ năng quản lý hiện đại. Các nhân tố này liên quan chặt chẽ với nhau và tích hợp tác động, có vai trò quyết định trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động và sức cạnh tranh. Trong đó, khoa học và công nghệ là động lực quyết định; con người đóng vai trò trung tâm, là chủ thể sáng tạo và sử dụng khoa học, công nghệ, thực hiện chức năng quản lý. Có kỹ năng quản lý hiện đại mới phát huy tối đa tác động của hai nhân tố trên.  Chuyển đổi mô hình tăng trưởng là đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh gay gắt nhưng không thể hành động theo ý muốn mà phải tạo ra các tiền đề và điều kiện cho quá trình chuyển đổi. Những tiền đề và điều kiện đó chính là các đột phá chiến lược. Chính vì vậy, trong thời kỳ chiến lược tới, nhất là trong những năm đầu, phải tập trung giải quyết các khâu đột phá, kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng với tăng trưởng theo chiều sâu, theo hướng chuyển mạnh sang chiều sâu. Tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng là công việc đòi hỏi sự nỗ lực của các ngành, các cấp, của cộng đồng doanh nghiệp. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò mở đường và hỗ trợ còn doanh nghiệp là chủ thể, lực lượng chủ công của tiến trình này.  Văn hóa xã hội là lĩnh vực rộng lớn có nhiều nội dung gắn kết tương tác lẫn nhau, tác động mạnh đến kinh tế và mọi mặt của đời sống, đến từng con người và cả cộng đồng. Văn hóa hình thành nên hệ giá trị của một quốc gia, tạo ra bản sắc của một dân tộc, là yếu tố quan trọng trong tư duy phát triển.  Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “văn hóa soi đường cho quốc dân đi.” Dự thảo Chiến lược xác định “phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa xã hội hài hòa với phát triển kinh tế..., xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển,” đặt yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đây là một điểm nhấn của dự thảo Chiến lược, góp phần khắc phục những bất cập, yếu kém, tạo bước phát triển mới trên các lĩnh vực văn hóa, xã hội.  Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho nhân dân, đã có những văn bản quy định về một số chính sách cụ thể. Dự thảo Chiến lược lần này đã đề cập một hệ thống các quan điểm và chính sách tương đối đồng bộ và toàn diện làm cơ sở cho việc phát triển một hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội hiệu quả, bền vững.  Thể hiện nhận thức đầy đủ hơn về nguy cơ ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu và nước biển dâng đối với sự phát triển bền vững, dự thảo Chiến lược trình bày phương hướng cơ bản và các chỉ tiêu cụ thể về bảo vệ và cải thiện môi trường, nhấn mạnh yêu cầu bảo vệ môi trường trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng ngành, địa phương, trong từng dự án; đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường và phát triển các dịch vụ môi trường. Chủ động triển khai chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng; tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động có tính toàn cầu này.  CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẢO ĐẢM THỰC HIỆN THẮNG LỢI Để thực hiện được các mục tiêu phát triển đất nước trong giai đoạn chúng ta không những phải khắc phục những khó khăn điểm yếu trong hiện tại mà còn phải lường trước được những khó khăn trong tương lai khi thực hiện kế hoạch. Vì vậy có một số giải pháp được đưa ra như sau: Thứ nhất đó là tăng cường tính ổn định vĩ mô, bảo đàm cân đối của nền kinh tế. Đó là chúng ta cần phải kiềm chế lạm phát, không để nó gia tăng quá cao gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới nềm kinh tế, đời sống nhân dân và an sinh xã hội. Đồng thời duy trì nạn thất nghiệp ở mức vừa phải. Đồng thời cân bằng cán cân thương mại giữa nhập khẩu và xuất khẩu. Cần phải phát triển thị trường nội địa cân bằng với thị trường nước ngoài, tăng cường xuất khẩu. Kiểm soát nhập siêu. Duy trì đảm bảo hệ thống tiền tệ, tín dụng, ngân hàng hoạt động tốt. Đảm bảo dư nợ, công nợ Chính phủ nằm ở mức an toàn. Thứ hai là tăng cường đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Hiện tại nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam vẫn thiếu hụt trềm trọng. Đào tạo thiếu tính thực tiễn ứng dụng. Chất lượng giáo dục những năm gần đây c1 xu hướng đi xuống và quá tải. Vì nền kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng mạnh, mở cửa hội nhập quốc tế. Hơn thế nữa trong tương lai để đất nước tiến nhanh trên công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa, phát triển thành nước công nghiệp đến năm 2020 thì nhất thiết cần một lượng rất lớn nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc đó thông qua việc cải tổ và phát triển giáo dục, hợp tác quốc tế, trợ cấp và đầu tư thêm cho ngành giáo dục. Thứ ba, nước ta cần phải gắn tăng trưởng phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Trong đó có các biện pháp như tăng cường đầu tư nhưng phải hợp lí cho cơ sở hạ tầng, phát triển các nguồn lực, đẩy mạnh học hỏi, tiếp thu công nghệ mới, đầu tư cho nghiên cứu khoa học ứng dụng một cách nghiệm túc. Đảm bảo cung ứng điện đầy đủ cho sản xuất và tiêu dùng. Nâng cao hoạt động của doanh nghiệp. Tránh đầu tư dàn trải gây khai thác không hiệu quả các nguồn lực, lãng phí nguồn vốn. Tập trung đầu tư các ngành có lợi thế so sánh. Thứ tư là đảm bảo an sinh xã hội gắn với thực hiện chương trình giảm nghèo bền vững, nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe, bảo đảm đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân. Thứ năm là tăng cường công tác phòng chống thiên tai địch họa, phòng ngưa các hiện tượng bất thường do sự nóng lên của toàn cầu, tránh làm ảnh hưởng đến sản xuất, mua bán, các hoạt động kinh tế khác và ảnh hưởng xấu đến đời sống nhân dân, gây thiệt hại của cải, vật chất, nguồn lực. Thứ sáu là phát triển kinh tế gắn với đảm bảo không ảnh hưởng môi trường. Tăng cường tính nghiêm khắc, phát triển và đưa vào hoạt động tốt các chính sách bảo vệ tốt môi trường. Khắc phục hậu quả môi trường một cách nghiêm túc. Thứ bảy là quản lí tốt các chính sách, điều luật. Với tình trạng hiện tại Việt Nam cần phải tăng tính nghiêm khắc, nghiêm minh, rõ ràng trong các văn bản pháp luật. Đồng thời cần phải tinh bỏ những luật cũ, lỗi thời, những hệ thống luật trùng lắp hay rườm rà không cần thiết. Các thủ tục cần phải nhanh gọn hơn. Bên cạnh đó cũng cần quản lí tốt hành chính. Tránh việc rườm rà, kéo dài thời gian. Hạn chế nạn nhũng nhiễu, tham ô, tham nhũng, quan liêu hiện nay đang hoành hành từ trung ương đến địa phương. Nâng cao hiệu quả của nhà nước trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Thứ tám là tăng cường giữ vững an ninh quốc phòng, kiên quyết giữ vững độc lập tự chủ, duy trì mối quan hệ tốt đa phương với các nước trên thế giới. Thứ chín đó là thực hiện tốt chủ trương đoàn kết toàn dân, vận dụng sức mạnh nhân dân trong công cuộc phát triển đất nước. Tăng cường tính dân chủ, minh bạch trong hoạt động quản lí công trước nhân dân. Đảm bảo ổn định an ninh trật tự, tránh các âm mưu thủ đoạn chống phá. KẾT LUẬN Kết thúc kế hoạch phát triển tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001 – 2010, nước ta đã gặt hái được những thành công đáng phấn khởi về lĩnh vực kinh tế, đảm bảo tăng trưởng trung bình tốt trong suốt thời kì. Thực hiện tốt chủ trương công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Phát triển ổn định kinh tế - xã hội. Đời sống nhân dân đã cải thiện rõ rệt. Đất nước thoát khỏi top những nước kém phát triển. Giữ vững an ninh quốc phòng, đẩy mạnh quan hệ đa phương với các nước trên thế giới. Nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Tuy nhiên còn một số bất cập khó khăn về tăng trưởng thiếu bền vững, cơ chế quản lí, vấn nạn môi trường, khai thác phát triển tốt các nguồn lực. Sự mất cân đối trong thương mại năng lực cạnh tranh yếu kém. Để thực có thể thành công tốt đẹp kế hoạch phát triển kinh tế đất nước dài hạn giai đoạn 2011 – 2020, Việt Nam cần phát huy tốt những điểm mạnh, tiếp tục phát huy tốt những thành tựu đã đạt được trong giai đoạn trước. Từ đó tạo động lực vững chắc để phát triển. Đặc biệt với những khó khăn hiện tại và trong tương lai cần phải nghiêm túc đối mặt, khắc những nhược điểm đó. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tài liệu Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011 – 2020 2. Kinh tế Việt Nam năm 2010: Nhìn lại mô hình tăng trưởng giai đoạn 2001 - 2010, GS.TS Nguyễn Kế Tuấn, NXB Đại Học Kinh Tế Quốc Dân 3. Hội thảo kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010, Hải Yến, 24/02/2011, vov.vn 4. Tình hình kinh tế một số nước ASEAN, www.baomoi.com 5. Đề tài "Đánh giá quá trình tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010", tailieu.vn 6. Tình hình kinh tế thế giới và các tác động đến Việt Nam, Theo PSI, 22/10/2011, tintuc.xalo.vn 7. Cục diện châu Á – Thái Bình Dương, Dương Phú Hiệp; Vũ Văn Hà, NXB chính trị quốc gia

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxTăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững giai đoạn 2011 - 2020.docx
Luận văn liên quan