Đề tài Tham nhũng trong đầu tưcông: liệu có giải pháp để khắc phục

Nhân dịp công bố bảng xếp hạng tham nhũng (IPC) 2004, ông Peter Eigen, chủ tịch Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI), tuyên bố với báo giới "Tham nhũng trong các dự án công ở mức độ cao là một trở ngại lớn đối với phát triển bền vững, gây thất thoát lớn về ngân sách mà các quốc gia phát triển lẫn các quốc gia đang phát triển đang rất cần cho giáo dục, chăm sóc y tế và giảm nghèo". Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế, tham nhũng là hành vi của người lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân. Có thể khái quát hóa công thức tham nhũng trong khu vực công như sau: Tham nhũng = Độc quyền (+) Tùy tiện (-) Trách nhiệm giải trình (–) Minh bạch. Trong bài viết này chúng tôi tập trung vào phân tích mối quan hệ giữa đầu tư công và tham nhũng; từ đó chỉ ra rằng việc gia tăng quy mô chi đầu tư công với đầu tư tràn lan, dàn trải đi đôi là tham nhũng cao Và để khắc phục tình trạng tham nhũng trong đầu tư công, chúng tôi cho rằng Chính phủ cần hoàn thiện chính sách đầu tư công hướng đến minh bạch, trách nhiệm và hiệu quả hơn

pdf6 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2548 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tham nhũng trong đầu tưcông: liệu có giải pháp để khắc phục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 THAM NHŨNG TRONG ĐẦU TƯ CÔNG: LIỆU CÓ GIẢI PHÁP ĐỂ KHẮC PHỤC? PGS.TS. Sử Đình Thành và TS Bùi Thị Mai Hoài Nhân dịp công bố bảng xếp hạng tham nhũng (IPC) 2004, ông Peter Eigen, chủ tịch Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI), tuyên bố với báo giới "Tham nhũng trong các dự án công ở mức độ cao là một trở ngại lớn đối với phát triển bền vững, gây thất thoát lớn về ngân sách mà các quốc gia phát triển lẫn các quốc gia đang phát triển đang rất cần cho giáo dục, chăm sóc y tế và giảm nghèo". Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế, tham nhũng là hành vi của người lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân. Có thể khái quát hóa công thức tham nhũng trong khu vực công như sau: Tham nhũng = Độc quyền (+) Tùy tiện (-) Trách nhiệm giải trình (–) Minh bạch. Trong bài viết này chúng tôi tập trung vào phân tích mối quan hệ giữa đầu tư công và tham nhũng; từ đó chỉ ra rằng việc gia tăng quy mô chi đầu tư công với đầu tư tràn lan, dàn trải đi đôi là tham nhũng cao… Và để khắc phục tình trạng tham nhũng trong đầu tư công, chúng tôi cho rằng Chính phủ cần hoàn thiện chính sách đầu tư công hướng đến minh bạch, trách nhiệm và hiệu quả hơn. 1. Dẫn nhập Tham nhũng, tiêu cực trong năm qua diễn ra nghiêm trọng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, nhất là trong thực hiện các dự án đầu tư, xây dựng cơ bản, quản lý, sử dụng đất, như vụ: Đề án Tin học hóa các hoạt động hành chính (đề án 112), Tượng đài Chiến thắng Điện Biên Phủ, vụ PMU18 vụ Bùi Tiến Dũng, vụ khu Đồng, Quán Nam (Hải Phòng), vụ vi phạm trong đền bù giải phóng mặt bằng cầu Thanh Trì (Hà Nội)... Theo đánh giá của Quốc hội, so với vốn đầu tư xây dựng cơ bản của năm 2004 là 58.125 tỉ đồng, thì số tham nhũng bằng 10,91%, nếu so với vốn đầu tư xây dựng cơ bản của năm 2005 là 66.800 tỉ đồng thì đã là 9,5% và nếu so với số đầu tư xây dựng cơ bản năm 2006 là 81.145 tỉ đồng thì bằng 7,8%. Theo báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội con số thất thoát do tham nhũng gần 8.000 tỉ đồng, nếu đối chiếu với bội chi ngân sách năm 2007 là 13.500 tỉ đồng thì con số này chiếm hơn một nửa; hơn hai lần phần thu viện trợ không hoàn lại (3.000 tỉ đồng) và khoảng 5% thu nội địa của dự trù năm 2007. Không đáng ngạc nhiên khi mà Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International: TI) công bố danh sách chỉ số đánh giá tham nhũng (Corruption Perception Index: CPI) năm 2006: Việt Nam xếp thứ 111 so với 163 quốc gia; năm 2007: Việt Nam xếp 123/173 - nằm trong vùng “báo động đỏ” trên bản đồ tham nhũng của thế giới. 2. Mối liên hệ giữa đầu tư công và tham nhũng - Lý thuyết ủng hộ đầu tư công Sau cuộc chiến tranh thế giới thứ 2, trong các tác phNm khoa học của mình, một số nhà kinh tế nổi tiếng như Harrod, Domar, Rostow… đều cho rằng các quốc gia cần gia tăng vốn đầu tư để thúc đNy tăng trưởng kinh tế, và chỉ ra mối quan hệ cơ học (tỷ lệ tư bản và đầu ra) giữa chi đầu tư và tăng trưởng. N ghĩa là, các nhà kinh tế này có quan điểm thiên về ủng hộ mạnh mẽ, khuyến nghị chính phủ nên gia tăng chi đầu tư trong ngân sách. Khi đánh giá sự phân bổ nguồn lực của ngân sách cho chi đầu tư và chi thường xuyên, họ có khuynh hướng chỉ trích các quốc gia để tỷ phần chi tiêu thường xuyên gia tăng nhanh hơn chi đầu tư. N ói cách khác, họ tán thưởng những quốc gia mà ở đó có tỷ phần chi cho đầu tư trong tổng chi tiêu chính phủ tăng lên. N ói chung, khuynh hướng trên được thể hiện trong nguyên tắc vàng mà các nhà kinh tế chủ trương ủng hộ chính phủ các nước nên thực hiện. N guyên tắc này đề cao chính sách vay nợ của chính phủ. 2 Vay nợ là cần thiết, miễn là vay nợ dành để đầu tư. Theo họ, rất là hợp lý nếu như vay nợ để đầu tư bệnh viện hơn là vay nợ để thuê mướn bác sỹ, y tá và mua thuốc men… N guyên tắc này tiếp tục được viện dẫn như là một chính sách tốt, mặc dù thực tế đã cho thấy, các khoản chi thường xuyên như chi hoạt động, bảo dưỡng để duy trì cho cơ sở hạ tầng hoạt động tốt hoặc chi góp phần tăng thêm tích lũy nguồn nhân lực để thúc đNy kinh tế bền vững có hiệu quả hơn là chi tiêu vốn đầu tư. - Tính phức tạp của các dự án đầu tư công và tham nhũng Ứng dụng lý thuyết đầu tư vào thực tiễn biểu hiện qua là chính phủ các nền kinh tế đang phát triển đNy mạnh các chương trình chi đầu tư công trên cở sở gia tăng bội chi và vay nợ. Để hiểu được tham nhũng xảy ra trong mối quan hệ với các dự án đầu tư công, chúng ta khảo sát một số khía cạnh phức tạp của dự án công mà nó có thể dẫn đến tham nhũng. Chi đầu tư thường trải qua một quy trình phê chuNn rất phức tạp và Nn chứa nhiều yếu tố tùy tiện; N hững quyết định liên quan đến đầu tư công thường phải trải qua nhiều khâu trong lựa chọn chính sách: (i) kết cấu chung của ngân sách; (ii) quy mô tổng chi đầu tư ngân sách nhà nước; (iii) lựa chọn các dự án; (iv) quy mô và thiết kế dự án. Trong số các quyết định này, một số cán bộ cao cấp thường tham gia kiểm soát và gây ảnh hưởng đáng kể đến việc ra quyết định ở khâu (iii) và (iv). Kết quả có thể xảy ra tình trạng: dự án được đầu tư khi chưa thực sự cần thiết phải đầu tư; dự án được đầu tư với quy mô, công suất không phù hợp so với nhu cầu; dự án được đầu tư với yêu cầu kỹ thuật và mỹ thuật không phù hợp so với nhu cầu; dự án được đầu tư ở địa điểm và thời điểm không hợp lý; thiết bị và công trình của dư án có chất lượng thấp làm giảm tuổi thọ của dự án… Thêm vào đó, tiến trình phê duyệt dự án đầu trải qua nhiều giai đoạn. Chẳng hạn, dự án xây dựng dân sự yêu cầu liên quan đến các quyết định: (i) thiết kế dự án; (ii) đấu thầu dự án; (iii) kiểm soát thầu; (iv) thương lượng thầu; tiến trình ký hợp đồng thầu. Biên soạn hợp đồng thầu đầu tư rất phức tạp và không thể tránh khỏi nhiều vấn đề thiếu chắc chắn và không đồng thuận. N hững cán bộ cao cấp có thể gây ảnh hưởng trong việc lựa chọn các doanh nghiệp tham gia đấu thầu. Sự chi tiết hóa các bản thiết kế dường như chỉ dành riêng cho một vài doanh nghiệp. Sự gọi thầu đi kèm theo việc cung cấp thông tin bên trong cho những doanh nghiệp “có sự đãi ngộ”. Đối với doanh nghiệp được sắp xếp nhận thầu, khi nhận được hợp đồng thầu, đặc biệt là dự án lớn, có thể mang lại cho họ một khoản lợi nhuận rất lớn. Vì thế những người quản lý cũng sẵn lòng chi trả tiền hoa hồng rất “hậu hỉ” cho các cán bộ cấp cao để giúp cho họ giành được hợp đồng thầu. Tiền hoa hồng được tính vào trong chi phí để giảm trừ thuế theo cách thức tiền hoa hồng tính theo tỷ lệ phần trăm chi phí dự án. Thật ra, các doanh nghiệp chi trả tiền hoa hồng cũng không phải gánh chịu hoàn toàn chi phí này. Họ có thể thu hồi lại bằng nhiều cách: (i) trong gói thầu bao gồm chi phí hoa hồng; (ii) giảm đi đi chi phí đầu tư của dự án bằng cách: nâng giá, khai khống khối lượng, bớt vật tư, tráo vật tư. Và để hợp thức hóa hồ sơ, chứng từ, các doanh nghiệp phải sử dụng nhiều thủ đoạn gian dối, tinh vi. Dĩ nhiên, tất cả các hành động trên đều có sự tham gia của cán bộ cao cấp tham nhũng. Các cán bộ này biết dùng quyền lực của mình lái sự phê duyệt dự án đầu tư cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài được “ưu ái” để đổi lại nhận khoản tiền hối lộ. Phải nói rằng bằng quyền lực của mình, các cán bộ cao cấp tham nhũng có khuynh hướng khai thác và lợi dụng nó can thiệp vào các quá trình đầu tư để đem lại lợi ích cho cá nhân. 3. Tham nhũng gây ra chất lượng đầu tư công kém, năng suất thấp Các quốc gia rơi vào tình trạng trên thường dẫn đến chi phí đầu tư tăng nhanh, quy mô đầu tư mở rộng hơn mức cần thiết. N hưng mặt trái là chất lượng công trình kém, chi phí sửa chữa và duy tu gia tăng. Các dự án vừa mới hoàn thành thì đã phải sửa chữa, hoặc hoạt động dưới công suất thiết kế… Tham nhũng làm cho năng suất của vốn đầu tư giảm, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của quốc gia giảm. N ghĩa là, tham nhũng làm bóp méo đáng kể mối quan hệ giữa vốn và sản lượng. 3 Một khi sự phê duyệt dự án đầu tư bị tác động bởi cán bộ công chức tham nhũng, thì tỷ suất sinh lợi dự án được tính toán bằng việc phân tích lợi ích – chi phí không còn là tiêu thức lựa chọn dự án. Chi đầu tư trở nên không có hiệu quả và ít có đóng góp đến tăng trưởng như mong đợi. Các doanh nghiệp quan tâm lợi nhuận và những nhân vật chính trị có quyền lực chi phối dự án thì quan tâm đến tiền hối lộ. Có thể nói, tham nhũng làm bóp méo toàn bộ tiến trình ra quyết định liên quan đến ngân sách đầu tư. N hiều dự án có chất lượng thấp và năng lực sản xuất thấp hơn mức mong đợi. Trong những tình huống như vậy, không có gì đáng ngạc nhiên, chi đầu tư không mang lại kết quả tăng trưởng như các nhà kinh tế mong đợi. Tham nhũng tràn lan trong ngân sách đầu tư không những làm giảm tỷ suất sinh lời của các dự án đầu tư mới, mà còn gây ảnh hưởng tỷ suất sinh lời từ các cơ sở hạ tầng hiện hữu. Có thể lý giải vấn đề này như sau: Thứ nhất, ở chừng mực nhất định, tham nhũng không là hiện tượng mới mà là hiện tượng xảy ra thường xuyên, và do vậy các cơ sở hạ tầng hiện hữu cũng bị hư hỏng, xuống cấp trầm trọng do tham nhũng trong quá khứ . Thứ hai, chi đầu tư càng cao sẽ càng làm giảm nguồn lực sẵn có dành cho các khoản mục chi tiêu khác, đặc biệt là các khoản chi bảo dưỡng và duy tu cơ sở hạ tầng nhằm duy trì sự hoạt động bình thường của cơ sở hạ tầng. Thứ ba, các hoạt động duy tu, bảo dưỡng giảm đến mức các cơ sở hạ tầng xuống cấp nhanh chóng, cần phải xây dựng lại. Vì thế các cán bộ cấp cao có cơ hội nhận lấy hoa hồng từ các doanh nghiệp trúng thầu. 4. Thực trạng chính sách đầu tư công của Việt Nam Điều 8 Luật N SN N năm 2002 xác lập nguyên tắc cân đối N SN N ở Việt N am: “NSNN được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí và lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách…. Vay bù đắp bội chi NSNN phải đảm bảo nguyên tắc: không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ sử dụng cho mục đích phát triển, phải có kế hoạch thu hồi vốn vay và đảm bảo cân đối ngân sách để chủ động trả nợ khi đến hạn.”. N guyên tắc này đã phân định ranh giới giữa hoạt động đầu tư công và chi thường xuyên, thể hiện sự thận trọng trong chính sách tài khóa của Việt N am. Bảng 1: Chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên của NSNN (Đơn vị: %) ’97-‘99 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2007 BQ %Tốc độ tăng chi thường xuyên 3,75 27,2 9,8 9,3 22,5 15,3 11,2 10,8 14,2 %Tốc độ tăng chi đầu tư 14 10,9 35,8 12,3 12,8 12,6 12,5 11,2 15,8 % chi đầu tư */ Tổng chi 34 34 37 40,5 37 32 31,5 / 35,1 % chi đầu tư /GDP 5,9 6,7 8,3 8,4 8,4 8,8 8,2 / 7,54 Nguồn: Các Tác giả tính toán từ số liệu của Bộ Tài Chính Chú thích: * Bao gồm cả sửa chữa lớn. Bảng 1 cho thấy bình quân giai đoạn 1997 – 2007: tốc độ tăng chi đầu tư phát triển (15,8%) lớn hơn tốc độ tăng chi thường xuyên (14,2 %). Mặt khác, chi đầu tư phát triển chiếm tỷ lệ cao trong tổng chi N SN N (bình quân 97 - 2007 chiếm 35,1% tổng chi N SN N ) và tăng dần theo thời gian, từ 34% 4 tổng chi N SN N giai đoạn 97 - 99 lên 40,5% năm 2002 và 37% năm 2003; tỷ lệ chi đầu tư phát triển trên GDP (7,54%) lớn hơn tỷ lệ bội chi N SN N trên GDP (4,57%). Tuy nhiên, nếu cộng thêm nguồn vốn ODA (không đưa vào cân đối ngân sách) và nguồn phát hành trái phiếu để đầu tư vào chương trình mục tiêu, từ năm 1997 đến nay, tỷ lệ đầu tư công lên đến hơn 20% GDP. Cũng từ đây, chúng tôi nhận thấy chính sách đầu tư công của Việt N am nNy sinh nhiều vấn đề bất cập, kéo theo tham nhũng trở thành vấn nạn trong đầu tư công: Thứ nhất, quản lý ngân sách đầu tư công hiện nay của Việt N am thiếu mối liên kết chặt chẽ giữa kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trung hạn với nguồn lực trong một khuôn khổ kinh tế vĩ mô. N gân sách năm sau được soạn lập trên cơ sở ngân sách năm trước mà không xét tới việc có nên tiếp tục duy trì hoạt động đang được cung cấp tài chính hay không. Hậu quả là tình trạng đầu tư công tràn lan ngày một gia tăng. Theo báo cáo của Bộ Tài chính, số vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước thực hiện 6 tháng đầu năm 2008 chiếm 40% tổng vốn đầu tư xã hội, đạt 106,1 nghìn tỷ đồng. Cũng giống thực trạng kéo dài từ 2006, đầu tư từ ngân sách vẫn trong cảnh "nghịch lý": Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước bỏ ra nhiều, chiếm tới gần một nửa tổng vốn đầu tư xã hội, nhưng hiệu quả phần lớn các dự án còn thấp. Đi đối với đầu tư tràn lan là tính minh bạch và trách nhiệm tkhông thực hiện nghiêm túc. Một số khoản mục chi được đưa vào thực hiện nhưng không công bố, có sự tách rời người quản lý và người sử dụng, đồng thời hạn chế sự tham gia của xã hội trong quy trình đầu tư công. Trong đợt kiểm toán 2007, cơ quan Kiểm toán N hà nước liệt kê 12 hình thức vi phạm, sai phạm ở lĩnh vực đầu tư công và diễn ra từ qui hoạch, lập và thNm định dự án, quyết định đầu tư, khảo sát thiết kế, đền bù sai... cho đến điều hành dự án và quyết toán. N ghiêm trọng nhất là trong quyết định đầu tư. Tình trạng đầu tư sai mục đích, vượt thNm quyền gây thất thoát lớn hơn cả. Thứ hai, chính sách đầu tư chỉ quan tâm đến các dự án đầu tư mới, không quan tâm đến công tác bảo dưỡng, vận hành để khai thác có hiệu các dự án đầu tư công. Các công trình được đầu tư luôn cần một lượng chi phí thường xuyên để vận hành và bảo dưỡng. Thế nhưng thời gian qua, Việt N am chưa chú trọng đúng mực cho chi vận hành và bảo dưỡng. N gân sách chi thường xuyên và ngân sách chi đầu tư phát triển được soạn lập một cách riêng rẽ làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn lực công. Từ năm 1997 đến năm 2006, tỷ lệ chi vận hành và bảo dưỡng liên tiếp giảm – từ 23,4% xuống (+/-)16% tổng chi tiêu ngân sách (xem bảng 2). Hậu quả là trong một số ngành, phần lớn các công trình qui mô lớn không mang lại hiệu quả do thiếu duy tu, bảo dưỡng. Chẳng hạn, trong ngành thủy lợi con số này là khoảng 50%. Một nghiên cứu gần đây khẳng định chính sách chi tiêu cho vận hành và bảo dưỡng cho các công trình thủy lợi thời gian qua mang lại hiệu quả cao hơn so với đầu tư vào các công trình mới. Bảng 2: Tỷ lệ chi vận hành, bảo dưỡng trong tổng chi NSNN 1997 1998 1999 2000 2002 2003 2006 Chi vận hành – bảo dưỡng (tỷ đồng) 16.589 15.678 16.196 23.881 20.906 22.758 50.829 Tổng chi N SN N (tỷ đồng) 70.749 73.419 84.817 103.151 119.403 135.490 308.058 % chi vận hàng – bảo dưỡng/ Tổng chi N SN N 23,4 % 21,3% 19,1% 23% 17,5% 16,8% 16,5% Nguồn : Bộ Tài Chính Tương tự đối với ngành giao thông vận tải: thực tế cho thấy việc duy tu bảo dưỡng các công trình đường bộ không đúng mực. Theo Dự án Nâng cấp mạng lưới đường bộ do N gân hàng Thế giới tài trợ, nếu duy trì mức chi tiêu như hiện nay cho các hoạt động bảo dưỡng đường bộ trong vòng 10 năm tới thì mạng lưới đường bộ sẽ xuống cấp nặng nề với khoảng 34% đường bộ sẽ rơi vào tình trạng hư hỏng, tỷ lệ đường còn tốt sẽ giảm xuống 10%. N gân hàng Thế giới đã ước tính bình quân một năm nền kinh tế thiệt hại khoảng 160 triệu đô la Mỹ nếu như đường bộ thiếu bảo dưỡng. Xét trên phương diện lợi ích – chi phí, điều này cũng có nghĩa là không hiệu quả bởi lẽ: cuối cùng 5 đường sẽ được cải tạo lại với chi phí lớn hơn nhiều so với chi phí dành cho vận hành và bảo dưỡng thường xuyên. Thứ ba, quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản còn tùy tiện, không tôn trọng kỷ luật tài khóa. Theo báo cáo đánh giá tổng hợp chi tiêu công 2004, các khoản nợ chi đầu tư đầu tư ngoài cân đối ngân sách đang tăng lên, đặc biệt là ở các dự án của ngành giao thông. Từ năm 1999 đến năm 2004, N SN N trang trải khoảng 65% tổng số cam kết chi trong ngành giao thông; khoảng 35% còn lại được Thủ tướng Chính phủ thông qua nhưng không được phản ánh vào ngân sách hàng năm vì không có trong dự toán. Bộ giao thông vận tải đã dựa vào các nhà thầu để thực hiện các công trình, với giả thiết là sau này sẽ nhận được khoản tiền phát sinh thêm đã được thông qua để thanh toán. Kết quả là giá trị các khoản nợ nhà thầu chưa được thanh toán của riêng ngành giao thông lên đến 14,4 nghìn tỷ đồng. Riêng năm 2002, nợ chi đầu tư ngoài cân đối ngân sách của ngành giao thông là 1,5%GDP. N ợ tồn đọng của các nhà thầu đang được trả dần bằng ngân sách và ghi vào dự toán các năm sau. Chẳng hạn, tháng 8/2004, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định chi 1.762 nghìn tỷ đồng cho giao thông, trong đó có 6 nghìn tỷ đồng là để trả nợ cho các nhà thầu. N hư vậy, vấn đề không chỉ dừng lại ở việc không tôn trọng kỷ luật tài khóa tổng thể mà còn vi phạm nguyên tắc minh bạch trong cân đối ngân sách. Kết quả là, con số về bội chi ngân sách hàng năm được công bố không đúng với thực chất; và quan trọng hơn, nhu cầu trang trải các khoản nợ này là một gánh nặng lớn đối với ngân sách và đe dọa đến sự bền vững tài khóa. 5. Một vài kết luận và khuyến nghị Thứ nhất, tham nhũng và đầu tư công có quan hệ với nhau, vì vậy các nhà hoạch định chính sách công cần nghiêm túc đánh giá mức độ hiệu quả chi đầu tư khu vực công, đặc biệt trong điều kiện tình trạng tham nhũng ở mức độ cao như hiện nay. Cần nhận thức lại vai trò đầu tư công trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế ở Việt N am. Sự đề cao thái quá vai trò chi đầu tư có thể dẫn đến cho ra đời nhiều dự án đầu tư công kém hiệu quả và nạn tham nhũng cao, trong khi các nguồn lực đầu tư từ khu vực tư còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác triệt để phục vụ cho tăng trưởng bền vững. Với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào Việt N am mạnh thời gian qua cũng như sự phát triển của khu vực tư nhân, đây là lúc thích hợp để Chính phủ điều chỉnh cơ cấu đầu tư công. Thay vì đầu tư theo bề rộng, dàn trải, Chính phủ nên tập trung vào hiệu quả thực chất, rút bớt nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước ra khỏi những lĩnh vực không cần thiết. Vốn đầu tư từ ngân sách chỉ nên tập trung vào những mục tiêu, lĩnh vực then chốt nhất mà không thành phần kinh tế nào, khu vực đầu tư nào có thể làm được. N hững lĩnh vực còn lại, ngay như cơ sở hạ tầng cũng có thể giao cho các thành phần kinh tế tư nhân trong và ngoài nước thực hiện. Sự rút vốn ra khỏi những lĩnh vực không cần thiết sẽ giúp Chính phủ có điều kiện tập trung hoạch định những vấn đề vĩ mô, giúp hình thành cơ cấu đầu tư có lợi cho tăng trưởng, có năng lực thích nghi với kinh tế thế giới. Thứ hai, cần thiết phải xây dựng hệ thống giám sát và đánh giá (Monitoring & Evaluation ) nhằm tạo ra các công cụ kiểm soát từ phía xã hội và công chúng đối với các hoạt động đầu tư và cung cấp dịch vụ công của Chính phủ. Đồng thời, cần thành lập một hội đồng thNm định đầu tư công độc lập để đánh giá toàn diện các dự án công. Thứ ba, việc phân bổ vốn đầu tư của ngân sách cần kết hợp chặt chẽ giữa chính sách chi đầu tư mới và chính sách chi bảo dưỡng các công trình cơ sở hạ tầng. Có thể xem đây là giải pháp để giới hạn nguồn vốn ngân sách dành cho đầu tư. Đầu tư phải gắn với bảo dưỡng thì mới khai thác hết năng suất của công trình đầu tư trong dài hạn. Để kiểm soát chặt chẽ vốn đầu tư công, trong quản lý tài chính công cần tiến tới áp dụng khuôn khổ quản lý chi tiêu trung hạn. Mô hình này một mặt thiết lập kỷ luật tài khóa tổng thể, mặt khác đề xuất sắp xếp thứ tự ưu tiên phân bổ nguồn lực cho từng lĩnh vực và từng nhiệm vụ, hoạt động, chế độ, chính sách trong từng lĩnh vực; phân tích và đưa ra giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện tốt nhất việc phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính công trong thời gian trung hạn (3 – 5 năm). 6 Thứ tư, cần hướng đến minh bạch hóa quản lý ngân sách đầu tư công, gắn kết trách nhiệm người quản lý và người sử dụng vốn đầu tư. Tất cả dự án đầu tư lớn phải có phân tích chi phí lợi ích và phải được công bố công khai. Công khai các dự án công cần tập trung vào các tiêu chí: kết quả mong đợi của dự án; xác định chi tiết và đo lường chi phí của dự án; đầu ra của dự án; các nguồn lực tài trợ cho dự án. Tài liệu tham khảo: 1. Việt N am Public expenditure review (1996), UN DP VIE/94/025, Aprill. 2. Salvatore Schiavo-Campo and Daniel Tommasi (1999), Managing governmemt expenditure, ADB. 3. Public expenditure management, Handbook, The World bank. 4. Results based management in the development co-operation agences: A review of experience, Excutive summary, 2001(www.oecd.org) 5. The efficiency and effectiveness of public expenditure, Russian – European Center for Economic Policy, 2001 (www.oecd.org) 6. The quality of public expenditure – challenges and solutions in results focused management in the public sector, Denmark, Kristan Thorn and Mads Lyndrup (www.oecd.org). 7. Output based management to assist agencie in Australia, 2002. 8. Overview of results – focused management and budgeting in OECD member countries, 2002 (www.oecd.org) 9. World bank, Viet nam Development 2002.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTham nhũng trong đầu tư côngliệu có giải pháp để khắc phục.pdf
Luận văn liên quan