• Gắn kết hõn nữa với quá trình đổi mới kinh tế - xã hội trong nước để nâng cao hiệu quả và tăng cường sự thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau vì mục tiêu phát triển chung. Trong mối quan hệ qua lại giữa hội nhập kinh tế quốc tế và công cuộc đổi mới trong nước, để bảo đảm tính chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế, đổi mới trong nước phải là nền tảng, là gốc, mang ý nghĩa quyết định.
• Hội nhập kinh tế quốc tế cần được đặt trong mối quan hệ hài hòa với hội nhập trong các lĩnh vực khác nhưng hội nhập kinh tế quốc tế phải là trọng tâm, cần đi trước một bước để tạo cơ sở.
• Hội nhập kinh tế quốc tế phải nhằm thúc đẩy các quan hệ hợp tác song phương, khu vực và đa phương; tiếp tục nâng cao vị trí vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động xây dựng các quan hệ đối tác mới thực sự mang lại lợi ích quốc gia. Kết hợp chặt chẽ hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững độc lập tự chủ, an ninh quốc phòng.
18 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3304 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thế nào là liên kết (hội nhập)? Nội dung của chiến lược liên kết (hội nhập)? Cho ví dụ cụ thể để minh họa. Việc áp dụng tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI 4: THẾ NÀO LÀ LIÊN KẾT (HỘI NHẬP)? NỘI DUNG CỦA CHIẾN LƯỢC LIÊN KẾT (HỘI NHẬP)? CHO VÍ DỤ CỤ THỂ ĐỂ MINH HỌA. VIỆC ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM.
Nhóm thực hiện
Lê Đình Tú
Hồ Thị Anh Thư
Nguyễn Trần Tuấn Anh
Đỗ Thị Phương Duyên
Võ Tiến Phong
Cao Thái Nhật Lynh
Vũ Hoàng Thảo Nguyên
I. Thế nào là liên kết (hội nhập)?
1.1.1 Khái niệm
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế vận động tất yếu của các nền kinh tế trên thế giới trong điều kiện hiện nay, khi quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá và quốc tế hoá đang diễn ra hết sức nhanh chóng dưới tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ đã xuất hiện từ lâu trong vài thập kỷ gần đây. Nhưng cho đến ngày nay vẫn tồn tại các cách hiểu khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia và các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó mối quan hệ giữa các thành viên có sự ràng buộc theo những quy định chung của khối. Nói một cách khái quát nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình của các quốc gia thực hiện mô hình kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế và tài chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hoá và tự do hóa thương mại, đầu tư và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình chủ động, tự nguyện của các quốc gia tiến hành mở cửa để gắn kết các nền kinh tế với nhau theo những thể chế nhất định. Thể chế hội nhập sẽ tạo điều kiện cho quan hệ kinh tế giữa các quốc gia thuận lợi hõn, nhưng cũng ràng buộc quan hệ phụ thuộc lẫn nhau chặt chẽ hõn.
Thông thường, các quốc gia sẽ mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế theo 3 cấp độ lần lượt từ thấp đến cao, từ đõn giản ðến phức tạp, là:
Hội nhập kinh tế song phương.
Hội nhập kinh tế khu vực.
Hội nhập kinh tế đa phương toàn cầu.
Hội nhập quốc tế diễn ra không chỉ trên cấp độ toàn cầu, mà còn ở nhiều cấp độ khác nhau, từ thấp đến cao dưới danh nghĩa "liên kết" hoặc "nhất thể hóa" như liên kết tiểu khu vực, liên kết khu vực, liên kết liên khu vực, liên kết liên châu lục, liên kết trên bình diện song phương hoặc đa phương. Hội nhập quốc tế thực chất là hợp tác nhưng ở trình độ cao hơn, đáp ứng những đòi hỏi chặt chẽ hõn như gắn kết với nhau, chia sẻ với nhau lợi ích, nguồn lực, quyền lực; tuân thủ các quy tắc chung, luật chõi và chuẩn mực chung theo một quá trình phát triển liên tục từ thấp đến cao, với những hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng khu vực hoặc từng cõ chế hội nhập. Hội nhập bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, từ đó mở rộng sang các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Cũng có một số trường hợp hội nhập không bắt đầu từ kinh tế, mà bắt đầu từ chính trị hay văn hóa như trường hợp gia nhập LHQ, hay trường hợp Việt Nam gia nhập ASEAN, nhưng trong quá trình phát triển, kinh tế vẫn chiếm vị trí trọng tâm.
Theo những quy tắc nêu trên, thời gian sau chiến tranh thế giới thứ hai đã xuất hiện một loạt các tổ chức mang tính liên kết khu vực như: Cộng đồng kinh tế châu Âu (EC), Liên minh châu Âu (EU), Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (EFTA), Thị trường chung Trung Mỹ (CACM), Cộng đồng Caribe và Thị trường chung CARICOM, Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), tổ chức ASEAN... Thực tế cho thấy ngày nay không một quốc gia nào có thể "đơn thương độc mã" trên con đường phát triển. Dù phải chấp hành những quy tắc chung, thậm chí có lúc phải hy sinh một số quyền lợi dân tộc nào đó…, nhưng khu vực nào, quốc gia nào biết tranh thủ những mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, tận dụng cơ hội, dám đương đầu kiên quyết với thách thức, phát huy thế mạnh của mình trong tiến trình hội nhập thì sẽ phát triển vượt bậc. Những bước phát triển thần kỳ của "bốn con hổ châu Á" (Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Hong Kong) là minh chứng cụ thể cho thế giới thấy rằng, chẳng có quốc gia nào trên hành tinh này là không có triển vọng nếu biết khai thác tiến trình hội nhập. Cựu Tổng thư ký LHQ Kofi Annan cũng nhận xét chính xác là, những nước kém phát triển không thực thi hội nhập là "kẻ thua cuộc", "bị bỏ rơi" trong thế giới bất bình đẳng hôm nay.
I.1.2 Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế
Về bản chất hội nhập kinh tế quốc tế được thể hiện chủ yếu ở một số mặt sau đây: Hội nhập kinh tế quốc tế đó là sự đan xen, gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền quốc gia và nền kinh tế thế giới. Nó là quá trình vừa hợp tác để phát triển, vừa đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nước đang phát triển để bảo vệ lợi ích của mình, vì một trật tự công bằng, chống lại những áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế và các công ty xuyên quốc gia.
Hội nhập kinh tế là quá trình xoá bỏ từng bước và từng thành phần các rào cản về thương mại và đầu tư giữa các quốc gia theo hướng tự do hoá kinh tế. Hội nhập kinh tế một mặt tạo điều kiện thuận lợi mới cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, mặt khác buộc các doanh nghiệp phải có những đổi mới để nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thuận lợi cho việt thực hiện các công cuộc cải cách ở các quốc gia nhưng đồng thời cũng là yêu cầu, sức ép đối với các quốc gia trong việc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế, đặt biệt là các chính sách và phương thức quản lý vĩ mô.
Hội nhập kinh tế quốc tế chính là tạo dựng các nhân tố mới và điều kiện mới cho sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ phát triển ngày càng cao và hiện đại của lực lượng sản xuất.
Hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự khơi thông các dòng chảy nguồn lực trong và ngoài nước, tạo điều kiện mở rộng thị trường chuyển giao công nghệ và các kinh nghiệm quản lý.
I.1.3 Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng khách quan
Trước đây tính chất xã hội của quá trình sản xuất chủ yếu mới lan toả bên trong phạm vi biên giới của từng quốc gia, nó gắn các quá trình sản xuất, kinh doanh riêng rẽ lại với nhau, hình thành các tập đoàn kinh tế quốc gia và làm xuất hiện phổ biến các loại hình công ty cổ phần trong nền kinh tế quốc gia. Qua đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đã có thay đổi đáng kể, dẫn tới hình thành nên sở hữu hỗn hợp. Từ đó việc đáp ứng nhu cầu về quy mô vốn lớn cho sản xuất kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn. Tình hình này càng đòi hỏi sự tham gia ngày càng lớn của chính phủ các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Bởi lẽ, các quốc gia này là những quốc gia có thế mạnh về vốn, công nghệ, trình độ quản lý ... Ngày nay, một mặt do trình độ phát triển cao cuả lực lượng sản xuất làm cho tính chát xã hội hoá của chính nó càng vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, lan toả sang các quốc gia khu vực và thế giới nói chung và mặt khác tự do thương mại cũng đang trở thành xu hướng tất yếu và được xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy buôn bán giao lưu giữa các quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của mọi quốc gia. Chính vì vậy, hầu hết các quốc gia trên thế giới theo định hướng phát triển của mình để điều chỉnh các chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ các rào cản thương mại, tạo điền kiện cho việc lưu chuyển các nguồn lực và hàng hoá tiêu dùng giữa các quốc gia ngày càng thuận lợi hơn, thông thoáng hơn. Như vậy, mỗi quốc gia trong quá trình hội nhập để phát triển, trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt đề phải chú ý đến các quan hệ trong và ngoài khu vực. Về lâu dài cũng như trước mắt, việc giải quyết các vấn đề của quốc gia đề phải tính đến và can nhắc với xu hướng hội nhập toàn cầu để đảm bảo được lợi ích phát triển tối ưu của quốc gia. Việt nam cũng không thể nằm ngoài quá trình này. Trong điều kiện hội nhập các quốc gia dù giàu có hoặc phát triển ngày càng cao phụ thuộc với mức độ nhiều hơn và thị trường thế giới. Đó là một vấn đề có tính quy luật. Những quốc gia chậm trễ trong hội nhập kinh tế quốc tế thường phải trả giá bằng chính sự tụt hậu của mình, ngược lại những nước vội vã những nước không phát huy nội lực, không chủ động hội nhập cũng sẽ bị trả giá. Bởi vậy, để hội nhập có hiệu quả cần phải có quan điểm nhận thức đúng đắn, nhất quán cơ chế chính sách thích hợp tận dụng tốt cơ hội, không bỏ lỡ thời cơ, giảm thách thức, hạn chế rủi ro trong quá trình phát triển tiến lên của mình.
Qua thực tiễn diễn ra trên thế giới hội nhập, cũng như toàn cầu hóa vừa có cơ hội, vừa có thách thức, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực nên hội nhập quốc tế là một quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa tranh thủ, vừa cạnh tranh, vừa bác bỏ, vừa đề xuất. Tác động tích cực hay cơ hội của hội nhập có thể tóm gọn trong những điểm sau: tạo điều kiện mở rộng thị trường, phát triển thương mại và các quan hệ kinh tế khác, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội; tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế tiến bộ hơn; cải thiện môi trường đầu tư-kinh doanh, trên cơ sở đó nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của sản phẩm và của doanh nghiệp; tăng cường nguồn nhân lực; chuyển giao công nghệ-kỹ thuật; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp từng nước tiếp cận thị trường quốc tế; các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình hình và kinh nghiệm phát triển của thế giới; tiếp thu giá trị văn hóa tiên tiến và các ưu việt của văn minh nhân loại; duy trì hòa bình, ổn định khu vực và quốc tế…
Thách thức diễn ra khá gay gắt: cạnh tranh gia tăng, nếu không có cách khắc phục thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn, thậm chí phá sản, nền kinh tế không phát triển được, thậm chí giảm sút; sự phụ thuộc vào thị trường bên ngoài tăng lên, do đó nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động của tình hình quốc tế; khoảng cách giàu nghèo mở rộng nếu phân phối không công bằng; đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển, quyền lực nhà nước có thể bị thách thức, bản sắc văn hóa có thể bị xói mòn; chuyển dịch cơ cấu khó khăn ở những nơi tài nguyên cạn kiệt, môi trường bị hủy hoại...
Các mặt tiêu cực hay bất lợi không tác động đến tất cả các lĩnh vực trong đời sống của mỗi quốc gia, nhưng gây thiệt hại nhiều hay ít cho chủ thể hội nhập tùy thuộc vào tiềm năng và khả năng đối phó của mỗi nước và suy cho cùng, lợi ích thu được vẫn lớn hơn cái giá phải trả. Điều này giải thích tại sao hội nhập quốc tế lại là sự lựa chọn của hầu hết các quốc gia. Các chuyên gia cho biết, chỉ tính đến năm 2011 đã có hơn 500 hiệp định về mậu dịch khu vực (RTA) được ký kết, hơn 100 liên minh thuế quan được thiết lập. Đặc biệt từ những năm cuối 1990 đến nay, xu hướng ký kết các hiệp định đối tác chiến lược và hiệp định mậu dịch tự do song phương và đa phương (BFTA) phát triển mạnh do bế tắc của vòng đàm phán Doha. BFTA có ưu thế là đàm phán không phức tạp lắm, nhanh chóng đạt được kết quả và thực hiện cũng thuận lợi hơn. Xu thế này hiện đang chi phối toàn bộ quan hệ quốc tế và làm thay đổi lớn cấu trúc của hệ thống thế giới hiện nay.
Thực tiễn cho thấy hội nhập quốc tế diễn ra chủ yếu trên bốn lĩnh vực chính: hội nhập kinh tế là trọng tâm, là đòn bẩy thúc đẩy các lĩnh vực khác hội nhập; hội nhập trên các lĩnh vực khác lại tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy hội nhập kinh tế phát triển và thành công; hội nhập chính trị bằng cách tham gia các tổ chức chính trị sẵn có như việc gia nhập LHQ, hay Việt Nam tham gia ASEAN để hoạt động vì nghĩa vụ quốc tế và nhằm nâng cao vai trò vị thế của quốc gia ở khu vực và trên thế giới; hội nhập an ninh-quốc phòng nhằm góp phần củng cố hòa bình, ổn định cho nước mình và cho khu vực; góp phần bảo vệ Tổ quốc... với nhiều hình thức đa dạng; và hội nhập văn hóa-xã hội là hợp tác để chia sẻ giá trị, giới thiệu bản sắc của đất nước và dân tộc mình, tranh thủ những ưu việt của văn hóa và văn minh nhân loại để làm giàu thêm nền văn hóa của nước mình.
II. Nội dung chiến lược hội nhập kinh tế
II.1. Chiến lược tăng trưởng hội nhập theo chiều dọc
Chiến lược hội nhập theo chiều dọc là chiến lược mà doanh nghiệp tự đảm nhận sản xuất và cung ứng các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất (hội nhập dọc ngược chiều) hoặc tự giải quyết khâu tiêu thụ sản phẩm của mình (hội nhập xuôi chiều)
Để phân biệt các chiến lược hội nhập dọc 1 cách chặt chẽ hơn người ta có thể có các cách phân loại khác nhau:
Căn cứ vào quy trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm: gồm có
- Hội nhập dọc ngược chiều:
Đây là chiến lược tìm sự tăng trưởng bằng cách nắm quyền sở hữu hay tăng quyền kiểm soát đối với việc cung cấp các nguồn đầu vào
Chiến lược này hấp dẫn khi:
- Thị trường cung cấp đầu vào đang trong thời kỳ tăng trưởng nhanh hoặc có tiềm năng lợi nhuận lớn.
- Khi doanh nghiệp chưa thấy có sự đảm bảo chắc chắn về nguồn hàng có sẵn hay không và về phí tổn hoặc độ tin cậy trong việc cung cấp hàng trong tương lai
- Khi số nhà cung cấp ít và số đối thủ cạnh tranh nhiều
Ưu điểm :
- Đảm bảo cung cấp hàng một cách chắc chắn từ phía nhà cung cấp
- Chiến lược này có lợi trong việc chuyển chi phí mua sắm nguồn lực đầu vào thành hoạt động tạo lợi nhuận cho doanh nghiệp
Nhược điểm:
- Phải có vốn lớn
- Việc quản lý phức tạp hơn.
- Thiếu linh hoạt về mặt tổ chức và mất cân đối về công suất ở mỗi công đoạn sản xuất.
- Hội nhập dọc xuôi (thuận) chiều:
Hội nhập dọc thuận chiều là tìm cách tăng trưởng bằng cách mua lại, nắm quyền sở hữu hoặc tăng sự kiểm soát đối với các kênh chức năng tiêu thụ gần với thị trường đích như hệ thống bán và phân phối hàng.
Hội nhập thuận chiều là biện pháp hấp dẫn khi:
- Các doanh nghiệp phân phối hoặc các nhà bán lẻ số dịch vụ của doanh nghiệp đang trải qua quá trình tăng trưởng.
- Khi việc phân phối sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp quá tốn kém không tin tưởng, không có khả năng đáp ứng đòi hỏi của doanh nghiệp
- Doanh nghiệp chưa tận dụng hết các nguồn lực sẵn có
Căn cứ vào mức độ hội nhập: gồm có
- Hội nhập toàn diện: Là khi doanh nghiệp tự đứng ra sản xuất tất cả các đầu vào đặc biệt cần thiết cho tiến trình sản xuất của nó hoặc khi doanh nghiệp tự đảm nhận tất cả các đầu ra
- Hội nhập một phần (từng phần): Là khi doanh nghiệp chỉ chủ động tham gia 1 phần nào đó của đầu vào hoặc đầu ra của nó. Có nghĩa là doanh nghiệp vẫn mua các yếu tố đầu vào từ các nhà cung cấp độc lập bên ngoài bổ xung cho khả năng tự cung cấp 1 phần cho nhu cầu sản xuất của nó hoặc ngoài việc tự tổ chức bán hàng thông qua kênh phân phối của doanh nghiệp, doanh nghiệp còn phải nhờ đến các kênh phân phối độc lập khác bán sản phẩm của nó.
Căn cứ vào phạm vi hội nhập
- Hội nhập trong nội bộ:
Là hội nhập bằng cách thành lập các công ty con tách ra từ các công ty gốc
- Hội nhập với bên ngoài:
Là hội nhập bằng cách tiếp quản hoặc mua đứt công ty khác để sát nhập vào hệ thống quản lý của công ty mình.
II.2. Chiến lược tăng trưởng hội nhập theo chiều ngang
Chiến lược hợp nhất
Chiến lược hợp nhất có thể thực hiện bằng cách sáp nhập hai hoặc nhiều cơ sở sản xuất một cách tự nguyện. Mục đích của mô hình chiến lược này là tăng thêm sức mạnh để đối mặt với các thách thức và rủi ro có thể xảy ra hoặc tận dụng triệt để hơn các cơ hội kinh doanh trong thời kì chiến lược.
Chiến lược này được thực hiện trong các trường hợp mà các doanh nghiệp có cùng mục đích vươn lên trong kinh doanh, có cùng nguyện vọng khai thác thời cơ chia sẻ rủi ro và có các lợi thế cạnh tranh bổ sung cho nhau.
Tuy nhiên chiến lược này thường làm gia tăng các chi phí hành chính và phối hợp các hoạt động. Các nhà quản trị chỉ nên chọn chiến lược này khi các lợi ích dự kiến vượt trội các chi phí có khả năng phát sinh.
Chiến lược thôn tính
Chiến lược tăng trưởng qua thôn tính được hình thành và phát triển thông qua cạnh tranh trên thị trường. Nhờ cạnh tranh các doanh nghiệp mạnh, có tiềm lực lớn thôn tính các doanh nghiệp nhỏ dể phát triển thành doanh nghiệp có quy mô lớn hơn, mạnh hơn.
Một doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện chiến lược thôn tính nếu nó đủ mạnh. Mặt khác, thực hiện chiến lược qua thôn tính sê gặp phải cản trở rất lớn bởi yếu tố luật pháp. Doanh nghiệp cản có thể tiến hành nếu phù hợp với các quy định của pháp luật.
Chiến lược này hấp dẫn khi:
- Doanh nghiệp cạnh tranh trong ngành đang phát triển.
- Khi doanh nghiệp có vốn và nhân lực cần thiết để quản lý thành công một tổ chức được mở rộng
- Khi các đối thủ cạnh tranh đang gặp khó khăn.
Khi thực hiện chiến lược này cần chú ý:
- Tuỳ theo mục tiêu của doanh nghiệp, các nhà quản trị chiến lược cần chọn đối tượng phù hợp để mua lại
- Đánh giá đúng giá trị các tài sản hữu hình và vô hình của doanh nghiệp mua lại
- Các nhà quản trị cần biết rõ có đối thủ cạnh tranh nào muốn tranh giành thực hiện chiến lược này không.
* Chú ý: Chiến lược này sẽ không thích hợp nếu các đối thủ cạnh tranh làm ăn thất bại việc kinh doanh của ngành đang suy thoái.
Chiến lược liên doanh và liên kết kinh tế (các liên minh chiến lược):
Mô hình chiến lược liên doanh, liên kết phát triển rất phổ biến ở nền kinh tế thị trường.
Chiến lược này được thực hiện giữa hai hoặc nhiều đối tác bình đẳng có tư cách pháp nhân liên kết tương hỗ lẫn nhau giữa các đối tác nhằm phân tán rủi ro, tăng thêm sức mạnh, tăng thì phần,...
Căn cứ vào cấu thành tổ chức, có thể có hai kiểu liên kết là liên kết có hình thể và liên kết phi hình thể:
Liên kết phi hình thể là kiểu liên kết giữa hai hoặc nhiều đối tác với nhau mà kết quả giữa chúng không hình thành một tổ chức mời. Liên kết này tạo tổ chức phi chính thức.
Liên kết có hình thể là kiểu liên kết giữa hai hoặc nhiều đối tác mà kết quả là giữa chúng hình thành một tổ chức mới. Liên kết này tạo tổ chức chính thức, có tính độc lập tương đối, có tư cách pháp nhân.
Các doanh nghiệp liên doanh liên kết cùng chia sẻ các chi phí, các rủi ro và các lợi ích trong quá trình nghiên cứu và nắm bắt các cơ hội kinh doanh mới trên thị trường quốc gia, quốc tế và toàn cầu.
III. Ví dụ minh họa
Ví dụ 1: Chuỗi sản xuất trong ngành máy tính cá nhân, được minh họa trong hình dưới. Trong ngành này, các công ty cung cấp nguyên vật liệu bao gồm gốm đặc biệt, hóa chất và kim loại như Kyocera của Nhật, công ty sản xuất chất nền gốm (ceramic) cho các bán dẫn. Các công ty này bán các đầu ra của mình cho các nhà chế tạo sản phẩm trung gian. Các nhà chế tạo trung gian bao gồm Seagate, và Micron Technology, chuyển hóa các vật liệu gốm, hóa chất và kim loại mà họ mua về thành các chi tiết, bộ phận cho máy tính các nhân như các bộ vi xử lý, chíp bộ nhớ, hay các đĩa cứng. Trong quá trình đó, họ gia tăng giá trị vào các nguyên vật liệu mà họ đã mua sắm. Các bộ phận này sau đó được bán tới các công ty lắp ráp như Apple, Dell, Compaq, họ sử dụng các bộ phận đó và chuyển thành các máy tính cá nhân, – đó là quá trình các nhà lắp ráp gia tăng giá trị vào các chi tiết bộ phận họ đã mua về. Phần lớn các máy tính hoàn chỉnh sau đó được bán cho các nhà phân phối như Office Max và Computer World hoặc tới các nhà bán lẻ để bán cho các khách hàng cuối cùng. Các nhà phân phối cũng gia tăng giá trị vào sản phẩm bằng cách làm cho nó có thể sử dụng đối với khách hàng và bằng việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ. Như vậy, giá trị được gia tăng tại mỗi giai đoạn trong chuỗi từ nguyên vật liệu đến khách hàng.
Mặc dù hội nhập dọc thường hứa hẹn lợi thế về chi phí sản xuất, song chính hội nhập dọc cũng có thể phát sinh chi phí nếu công ty phải cam kết mua sắm các đầu vào từ những nhà cung cấp do chính công ty sở hữu, trong khi giá mua từ các nguồn bên ngoài lại thấp hơn.
Ví dụ 2: Trong những năm 1990s General Motors tự làm 68% các chi tiết, nhiều hơn bất kỳ các nhà sản xuất ô tô khác (Chrysler là 30%, Toyota là 28%). Chiến lược hội nhập dọc này đã làm cho GM trở thành nhà sản xuất có chi phí cao nhất trong số các công ty sản xuất ô tô lớn trên thế giới. Năm 1992, GM phải trả lương và phúc lợi cho công nhân trong các xưởng ô tô Mỹ của nó là 34,6 USD một giờ để thực hiện những công việc mà đối thủ của nó thực hiện bởi việc mua từ nhà cung cấp độc lập không có kiên kết với giá chỉ bằng một nửa. Như vậy hội nhập dọc có thể có bất lợi chi phí khi các nguồn cung do công ty sở hữu có chi phí vận hành cao hơn so với các nguồn cung độc lập.
Ví dụ 3: Unilever mua lại PS
Trong những ngày đầu xâm nhập thị truờng hóa mỹ phẩm Việt Nam, để có được thị phần như hôm nay, Unilever đã dày công nghiên cứu và áp dụng một chiến lược kinh doanh hiệu quả mà không phải doanh nghiệp Việt Nam nào vào thời đó cũng có được sự hiểu biết này một cách đầy đủ.
Đối tác của Unilever lúc bấy giờ là Công ty Hóa mỹ phẩm P/S thuộc Sở Công nghiệp TP.HCM. Mục tiêu của Unilever là chuyển nhượng được quyền sở hữu nhãn hiệu kem đánh răng P/S của Công ty Hóa mỹ phẩm P/S. Phương án đề nghị do Unilever đưa ra là: Hai bên thành lập một liên doanh để cùng tiếp tục khai thác nhãn hiệu P/S sau khi nhãn hiệu này được chuyển nhượng cho Unilever. Phía Việt Nam sẽ được lợi từ nguồn thu có được thông qua việc bán nhãn hiệu P/S, đồng thời nhãn hiệu P/S sẽ được quản lý, khai thác một cách chuyên nghiệp hơn bởi tập đoàn hóa mỹ phẩm lừng danh thế giới - Unilever. Ngoài ra, phải kể đến lợi nhuận phía Việt Nam sẽ được chia nếu liên doanh được thành lập và kinh doanh hiệu quả. Thoạt nghe, phương án này thật tiện và lợi trăm bề đối với phía Việt Nam.
Qua nhiều lần đàm phán căng thẳng, cuối cùng hai bên thống nhất lựa chọn phương án sau: Công ty Hóa phẩm P/S từ bỏ chức năng sản xuất kem đánh răng và chuyển nhượng nhãn hiệu P/S cho Tập đoàn Unilever, đổi lại tập đoàn này phải thành lập doanh nghiệp liên doanh P/S ELISA để tiếp nhận nhãn hiệu P/S. Việc sản xuất, tiêu thụ kem đánh răng sẽ do liên doanh đảm nhiệm, Công ty Hóa phẩm P/S chỉ nhận gia công vỏ hộp kem đánh răng cho liên doanh.
Đến đây bài toán chuyển nhượng nhãn hiệu coi như thực hiện xong. Kết quả sau cùng là: Tập đoàn nước ngoài đã thành công trong việc xúc tiến thành lập một doanh nghiệp liên doanh tại Việt Nam với đối tác là một doanh nghiệp Việt Nam có vị thế cạnh tranh đáng nể trong thị truờng mà Tập đoàn nước ngoài đang quan tâm và muốn đặt một chân vào. Doanh nghiệp liên doanh này sẽ được cấp lixăng sử dụng nhãn hiệu của chính họ.
IV. Hội nhập kinh tế ở Việt Nam
Những bước đi quan trọng của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đều được sự chỉ đạo chặt chẽ và kịp thời của ban chấp hành trung ương Đảng và bộ chính trị. Từ Đại Hội đảng lần thứ VI, với đường lối đổi mới Đảng ta đã có chủ trương: “Công bố chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng xuất khẩu. Đi đôi với việc công bố Luật đầu tư, cần có các chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp tác kinh doanh”. Đây là những nền tảng quan trọng để thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Đến đại hội VII, đảng ta tiếp tục chủ trương mở rộng hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Để từng bước hội nhập và nền kinh tế thế giới, tăng cường thu hút nguồn vốn từ nước ngoài phục vụ cho sự nghịêp Công Nghịêp Hoá - Hiện Đại Hoá đất nước, Đảng ta chủ trương khai thông quan hệ giữa các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)..., mở rộng quan hệ với các tổ chức hợp tác khu vực, trước hết ở Châu Á – Thái Bình Dương. Một trong những biện pháp quan trọng là “ Chúng ta cần tích cực cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, đổi mới tổ chức và quản lý hoạt động hợp tác, liên doanh với nước ngoài, có nhiều hình thức thích hợp để tận dụng mọi nguồn vốn đầu tư, chú trọng phát triển các quan hệ hợp tác với các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia nhằm tạo thế đứng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế khu vực và thế giới”.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị thế giới, với tầmnhìn chiến lượt, Đại Hội VIII của Đảng đã khẳng định: “Xây dựng một nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Nghị quyết 04 của ban chấp hành trung ương khoá VIII đã nêu rõ: “tích cực và chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán hiệp định thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA. Tiếp đó, trong báo cáo chính trị Đại Hội Đảng lần thứ IX đã nên rõ quan điểm của Đảng ta: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng Xã Hội Chủ Nghiã, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sẵc dân tộc, bảo vệ mội trường”. Đây là một chủ trương lớn trong chính sách đối ngoại, hội nhập của Đảng và nhà nước ta. Theo quan điểm này hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế là một quá trình mà trọng tâm là chủ động mở cửa kinh tế, tham gia sâu vào phân công hợp tác quốc tế, tạo điều kiện để kết hợp có hiệu quả mọi nguồn lực trong nước và nước ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát triển, nâng cao thế và lực của nước ta trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung quan trọng của xu thế toàn cầu hoá kinh tế. Nói hội nhập là nhấn mạnh đến tính chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hoá. Hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm một số nội dung chủ yếu như: chủ động tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, đặc biệt là trong những lĩnh vực kinh tế mới, chủ động tham gia và mở rộng thương mại quốc tế, chủ động tham gia vào các hoạt động tài chính quốc tế... Khẳng định tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế, nghị quyết trung 07-NT/TW của bộ chính trị ngày 27/11/2001 về hội nhập kinh tế quốc tế đã đề ra 5 quan điểm chỉ đạo trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong thời kỳ đổi mới:
Quán triệt chủ trương được xát định tại Đại Hội IX là: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, gữi vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”.
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, trong quá trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa không ít thách thức do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể, vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, phản động, thủ động vừa phải chống tư tưởng giản đơn nôn nóng.
Nhận thức đầy đủ đặc điển kinh tế nước ta từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nhà nước ta tham gia. Tranh thủ những ưu đãi dành cho các nước phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường.
Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ “diễn biến hoà bình” đối với nước ta.
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, về chủ trương:
1991, “độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại”.
1996, Nghị quyết số 01-NQ/TW về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế ðối ngoại giai đoạn 1996-2000.
2001, “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững” theo nguyên tắc “đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”.
2006, “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, “lấy lợi ích dân tộc làm mục tiêu cao nhất”, “hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương”, “chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương”.
Tham gia WTO 2007, Nghị quyết 08-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO.
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, về tình hình hội nhập:
Gia nhập ASEAN 1995, ký kết Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ 2000, gia nhập WTO 2007 và tham gia 08 Hiệp định thương mại tự do khu vực và song phương:
Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA)
Hiệp định khung về hợp tác kinh tế ASEAN-Trung Quốc vào năm 2002 và Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN-Trung Quốc vào năm 2004 để thành lập khu vực thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc
Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN-Hàn Quốc vào năm 2006 để thành lập khu vực thương mại tự do ASEAN-Hàn Quốc
Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN-Nhật Bản năm 2008 để thành lập khu vực thương mại tự do ASEAN-Nhật Bản
Hiệp định thành lập Khu vực thương mại tự do ASEAN-Úc-Niu Di-lân vào năm 2009
Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN-Ấn Độ năm 2003
Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN-Ấn Độ năm 2009 để thành lập khu vực thương mại tự do ASEAN-Ấn Độ
Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản (VJEPA) năm 2008 và Hiệp định FTA song phương Việt Nam-Chi lê năm 2011
Hạn chế
Chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có giai đoạn, có khâu còn chưa được triển khai đồng bộ, đầy đủ.
Trong một số trường hợp, hội nhập kinh tế quốc tế còn mang tính bị động, bị lôi cuốn theo tình thế và yêu cầu chính trị, chưa có nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn trong khi mức độ sẵn sàng và sự chuẩn bị của nền kinh tế nước ta chưa cao.
Chưa có chiến lược rõ ràng, chủ động khi tham gia các Hiệp định FTA, chưa chuẩn bị tốt các điều kiện cõ bản trong nước và chưa có được nỗ lực chung của toàn xã hội để tận dụng tối đa các cõ hội mà tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đem lại nhằm thúc đẩy chuyển dịch cõ cấu kinh tế theo hướng chất lượng, hiệu quả và phát triển bền vững.
Các lợi ích quốc gia thu được từ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Các hạn chế này đã tác động bất lợi tới phát triển kinh tế-xã hội trong thời gian qua và có thể gây tác động bất lợi lâu dài tới nền kinh tế.
Bài học rút ra
Các kết quả đạt được là nhờ chủ trương hội nhập quốc tế đúng đắn, kịp thời của Đảng, sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, của các cấp, các ngành và của toàn dân, sự quản lý thống nhất của Nhà nước và sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cần xuất phát từ yêu cầu bên trong của đất nước, phù hợp với sự chuẩn bị và mức độ sẵn sàng của nền kinh tế và các doanh nghiệp.
Cần có sự thống nhất về quan điểm, nhận thức và hành động, nhất là cần xây dựng các căn cứ khoa học và thực tiễn để phục vụ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Cần đảm bảo tầm nhìn dài hạn về các mục tiêu kinh tế, mục tiêu chính trị ngoại giao và mục tiêu chiến lược tổng thể trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng đòi hỏi mức độ cam kết cao hõn cam kết gia nhập WTO cả về phạm vi và mức độ. Cần chủ động xem xét xây dựng, điều chỉnh khuôn khổ pháp lý trong nước để vừa phục vụ nhu cầu phát triển của đất nước, vừa hỗ trợ và tận dụng tốt nhất các cõ hội mà tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ đem lại.
Cần tận dụng tối đa các ưu đãi, cõ hội thị trường mà tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ðem lại để phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu.
Cần chú trọng tăng cường chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế cũng như nâng cao năng lực nghiên cứu và năng lực triển khai bao gồm cả quản trị.
Quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế trên cõ sở xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng để phát triển bền vững, khai thác có hiệu quả và từng bước tạo dựng lợi thế so sánh và thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế nói chung.
Thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011- 2020
Tăng cường, quán triệt nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế trong toàn Đảng, toàn dân. Phải coi hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập kinh tế quốc tế, là sự nghiệp của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Ðảng và sự quản lý của Nhà nước. Nhân dân là chủ thể của hội nhập, người được hưởng thành quả và cũng là người chịu tác động trực tiếp từ hội nhập.
Gắn kết hõn nữa với quá trình đổi mới kinh tế - xã hội trong nước để nâng cao hiệu quả và tăng cường sự thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau vì mục tiêu phát triển chung. Trong mối quan hệ qua lại giữa hội nhập kinh tế quốc tế và công cuộc đổi mới trong nước, để bảo đảm tính chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế, đổi mới trong nước phải là nền tảng, là gốc, mang ý nghĩa quyết định.
Hội nhập kinh tế quốc tế cần được đặt trong mối quan hệ hài hòa với hội nhập trong các lĩnh vực khác nhưng hội nhập kinh tế quốc tế phải là trọng tâm, cần đi trước một bước để tạo cơ sở.
Hội nhập kinh tế quốc tế phải nhằm thúc đẩy các quan hệ hợp tác song phương, khu vực và đa phương; tiếp tục nâng cao vị trí vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động xây dựng các quan hệ đối tác mới thực sự mang lại lợi ích quốc gia. Kết hợp chặt chẽ hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững độc lập tự chủ, an ninh quốc phòng.
Tài liệu tham khảo
Chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế đến năm 2020, Lê Triệu Dũng, Vụ chính thách thương mại, Bộ công thương, tháng 8 năm 2013
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoi_nhap_9697.docx