Việc hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ luôn đặt ra cho các doanh nghiệp
làm thế nào để đa dạng hoá sản phẩm tạo sự khác biệt về mặt tiện ích cho
sản phẩm mình với các đối thủ cạnh tranh để thu hút được khách hàng.
Doanh nghiệp kinhh doanh bảo hiểm cũng phải ngoại lệ, việc đa dạng hoá và
nâng cao chất lượng các gói dịch vụ là vấn đề quan trọng. Bên cạnh đó các
doanh nghiệp cũng phải phát triển hệ thống phân phối các gói dịch vụ tới
khách đặc biệt trong lĩnh vực thông tin điện tử và đại lý bảo hiểm.
40 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3351 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường bảo hiểm thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DNBH và
người tham gia BH nhằm bảo đảm cho cá trách nhiệm dân sự có thể phát
sinh của người được Bảo hiểm với người thứ 3 theo quy định pháp luật.
+ HĐBH con người là văn bản thỏa thuận giữa DNBH và người tham gia
BH nhằm bảo đảm cho tuổi thọ, tính mạng tình trạng sức khỏe của người
được Bảo hiểm và tai nạn có thể xảy ra với người được Bảo hiểm.
2. Chủ thế và trách nhiệm của các bên trong HĐBH
- Các chủ thể có liên quan
+ Doanh nghiệp bảo hiểm : Tổ chức, cá nhân có đầy đủ tư cách pháp
nhân được NN cho phép tiến hành hoạt động kinh doanh BH.
9
+ Người tham gia bảo hiểm : là tổ chức hoặc cá nhân ký kết HĐBH với
DNBH và đóng phí BH.
+ Người được BH : Tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự,
tính mạng hoặc tình trạng sức khỏe được Bảo hiểm theo HĐBH.
+ Người thụ hưởng : tổ chức, cá nhân được người tham gia BH chỉ định
trong HĐBH sẽ nhận sự tài trợ và bồi thường từ DNBH.
- Trách nhiệm các bên trong HĐBH
+ Đối với DNBH : giải quyết bồi thường chi trả khi sự kiện BH xảy ra
gây tổn thất. Việc thanh toán phải đảm bảo nhanh chóng kịp thời và hợp lý.
Ngoài ra DNBH còn có trách nhiệm giữ bí mật về thông tin mà bên mua BH
cung cấp.
+ Đối với bên tham gia BH : Phải trả phí đầy đủ, đúng kì hạn, khai báo
rủi ro trung thực, chính xác các câu hỏi có kiên quan đến đối tượng BH. Phải
thông báo kịp thời khi mà rủi ro được BH xảy ra.
3. Giá trị BH và số tiền BH :
- Giá trị BH : là giá trị của đối tượng được BH, giá trị của các tài sản
được BH và nó được lấy làm căn cứ để xác định STBH và phí BH.
- Số tiền BH : là khoản tiền được xác định trong HĐBH thể hiện giới
hạn trách nhiệm của DNBH, có thể nhỏ hơn (dưới giá trị), ngang bằng
(ngang giá trị), hoặc lớn hơn (trên giá trị) GTBH.
Riêng đối với BHCN, STBH được xác định dựa trên sự thỏa thuận của
hai bên và khả năng tài chính của người tham gia BH, còn trong BHTNDS,
STBH thường được xác định dựa trên sự thỏa thuận.
10
4. Phí Bảo hiểm :
Khái niệm: Phí BH là số tiền mà người tham gia BH phải trả cho
công ty BH để đổi lấy sự bảo đảm trước các rủi ro chuyển sang cho công ty
BH.
Cơ cấu của phí BH : gồm 2 phần
P = f + d
Trong đó :
P : phí BH toàn bộ
f : Phí thuần
d : Phụ phí
- Phí thuần : là khoản phí phải thu cho phép công ty BH đảm bảo chi trả,
bồi thường cho các tổn thất được BH có thể xảy ra. Nó được căn cứ vào các
yếu tố:
+ Xác suất xảy ra rủi ro
+ Cường độ tổn thất
+ STBH
+ Thời hạn BH
+ Lãi suất đầu tư
- Phụ phí : là khoản chi cần thiết đển DNBH đảm bảo cho các khoản
chi trong hoạt động nghiệp vụ BH, bao gồm :
+ Chi hoa hồng
+ Chi quản lý hành chính
+ Chi đề phòng hạn chế tổn thất
11
+ Chi thuế nhà nước
Tuy nhiên, thực tế mức phí Bảo hiểm thường được tính Căn cứ vào
STBH và tỷ lệ theo công thức :
Phí BH = Tỷ lệ phí * Số tiền BH
5. Thời hạn BH
Là thời gian HĐBH có hiệu lực, kể từ ngày ký lết HĐBH và có bằng
chứng DNBH đã chấp nhận bảo hiểm và người tham gia BH đã đóng phí BH
cho tới khi kết thúc trách nhiệm BH.
V. Tái bảo hiểm trong BHTM
1. Sự cần thiết khách quan
TBH là hoạt động gắn bó chặt chẽ với hoạt động kinh doanh BH, là
một phần cơ bản trong hoạt động KDBH.Sự gắn kết giữa BH và TBH là tất
yếu bởi vì hoạt động TBH không chỉ là một biện pháp quan trong giúp các
nhà BH phân tán bớt rủi ro để ổn địnhh hoạt động kinh doanh mà còn gián
tiếp đảm bảo quyền lợi cho người được BH.
- Đối với DNBH : TBH là hoạt động cần thiết cho các DNBH, thông
qua TBH các DNBH có thể mở rộng khả năng tài chính của chính họ để đảm
nhận các HĐBH có giá trị lớn. Ngoài ra sẽ giúp cho các DNBH hạn chế các
tổn thất của mình.
- Đối với người được BH : TBH thực sự cần thiết đảm bảo cho người
được BH luôn có thể nhận được quyền lợi đầy đủ ngay cả khi có tổn thất
toàn bộ xảy ra.
12
- Đối với thị trường BH : TBH là hoạt động cần thiết cho sự phát triển
của TTBH, làm cho TTBH phát triển đa dạng hơn, tăng cường chất lượng kỹ
thuật BH cho TTBH.
Từ trên ta có thể thấy được ưu điểm và nhược điểm của TBH:
- Ưu điểm: Tạo tâm lý an toàn cho công ty bảo hiểm, cân bằng dịch vụ
BH, bảo vệ các dịch vụ đó khỏi ảnh hưởng của các sự cố lớn có tính thảm
họa, đảm bảo tài chính cho các công ty BH.
- Nhược điểm: TBH có liên quan đến việc chuyển nhượng một phần
thậm chí phần lớn chi phí BH cho công ty TBH. Do đó, TBH có thể làm tăng
hoặc giảm 1 cách đáng kể các chỉ tiêu tài chính của công ty BH.
2. Bản chất của hoạt động TBH
- Khái niệm : TBH là nghiệp vụ thong qua đó có một DNBH chuyển
cho một hoặc nhiều DNBH khác một phần rủi ro đã nhận đối với một đối
tượng BH nhất đinh trên cơ sở chuyển nhượng bớt một phần số phí BH đã
nhận.
- Bản chất TBH: cơ chế phân tán rủi ro.
3. Điều kiện tái Bảo hiểm
- Số lượng rủi ro phải đủ lớn để quy luật số đông phát huy được tác
dụng và qua đó yếu tố ngẫu nhiên được loại trừ.
- Mức độ tổn thất có thể xảy ra từ các rủi ro được BH không được phép
chênh lệch quá lớn, xảy ra trong số hợp đồng BH (tình trạng này dẫn đến sự
không đồng nhất trong hợp đồng bảo hiểm).
- Khả năng thường xuyên xảy ra tổn thất (Nếu không có điều kiện này
thì không phát sinh nhu cầu bảo hiểm).
13
Phần II: Thực trạng thị trường BHTM Việt
Nam
I. Quá trình hình thành và phát triển của Bảo hiểm ở Việt Nam
Bảo hiểm Việt Nam ra đời khá muộn so với sự phát triển chung của ngành
bảo hiểm thế giới do nhiều điều kiện chủ quan cũng như khách quan. Tuy
nhiên, hiện nay, ngành bảo hiểm đang dần dần bắt kịp xu thế phát triển
chung của bảo hiểm trong khu vực và quốc tế và ngày càng chứng tỏ vai trò
không thể thiếu được của mình đối với nền kinh tế. Chúng ta có thể nhận
thấy điều này khi theo dõi quá trình phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam
từ những ngày đầu đến nay.
1. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cũng như tất cả các ngành
kinh tế khác, các công ty bảo hiểm cũ của miền Nam được tiến hành quốc
hữu hoá. Công ty Bảo hiểm và Tái bảo hiểm Việt Nam được thành lập để
thực hiện tiếp trách nhiệm của các công ty cũ đối với những người được bảo
hiểm muốn tiếp tục hợp đồng. Đối với các công ty bảo hiểm nước ngoài,
công ty có trách nhiệm thanh toán và đòi nợ theo đúng hợp đồng. Năm 1976,
khi hoàn toàn thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, công ty được chuyển
thành chi nhánh của công ty bảo hiểm Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh.
Thời kỳ này, Bảo Việt là công ty duy nhất hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở
Việt Nam theo chế độ hạch toán kế toán kinh tế thống nhất toàn ngành. Công
ty trực thuộc Bộ Tài chính, có chức năng giúp Bộ Tài chính thống nhất quản
lý công tác bảo hiểm Nhà nước và trực tiếp tiến hành nghiệp vụ bảo hiểm
trong cả nước. Trong giai đoạn này, ở Việt Nam, Bảo Việt độc quyền kinh
doanh bảo hiểm nên các sản phẩm của Bảo Việt chưa đa dạng, chủ yếu thực
hiện các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ với khoảng 20 sản phẩm bảo
14
hiểm. Có thể nói, thời gian này, hoạt động bảo hiểm ở nước ta vẫn chưa phát
triển.
2. Giai đoạn sau 1986 đến nay: năm 1986, Nghị quyết Đại hội Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ VI diến ra vào năm này đã đưa ra chính sách đổi
mới, tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh theo các
quy định của pháp luật. Đồng thời, Việt Nam cũng đã tiến hành mở cửa nền
kinh tế, thu hút đầu tư từ nhiều quốc gia, khu vực. Hoạt động sản xuất - kinh
doanh từng bước phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao đòi hỏi ngành
bảo hiểm cũng phải đổi mới để đáp ứng nhu cầu, thích hợp với hoàn cảnh
mới. Sự xuất hiện của các công ty bảo hiểm mới, công ty liên doanh, công ty
cổ phần, công ty 100% vốn nước ngoài... sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với quá
trình phát triển bảo hiểm ở nước ta.
Ngày 18/12/1993, nghị định 100 CP về hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã
được Chính phủ ban hành, mở ra bước phát triển mới cho ngành bảo hiểm
Việt Nam. Nó phá vỡ thế độc quyền đang tồn tại, tạo tiền đề cho sự ra đời
của các tổ chức bảo hiểm với nhiều hình thức khác nhau thuộc mọi thành
phần kinh tế. Mặc dù vậy, phải từ sau năm 1995, một loạt các công ty kinh
doanh bảo hiểm mới ra đời: Bảo Minh, VINARE, PVI, PJICO... và các công
ty liên doanh bảo hiểm như: UIC, VIA,... Ngoài ra, với khoảng 40 văn
phòng đại diện của các công ty bảo hiểm nước ngoài và hơn 70.000 đại lý
bảo hiểm thị trường bảo hiểm Việt Nam đang phát triển ngày một sôi động.
Việc mở cửa thị trường bảo hiểm cũng như sự xuất hiện của các công ty
mới đã tạo điều kiện cho bảo hiểm phát triển mạnh mẽ trong một môi trường
cạnh tranh ngày càng quyết liệt. Các công ty liên tục hoàn thiện những sản
phẩm cũ, đồng thời nghiên cứu và giới thiệu những loại hình nghiệp vụ bảo
hiểm mới đa dạng và hấp dẫn. Người tham gia bảo hiểm có thể tự do lựa
15
chọn người bảo hiểm, loại hình dịch vụ bảo hiểm với mức phí cạnh tranh
nhất. Trong tương lai, nhu cầu bảo hiểm sẽ ngày càng đa dạng hơn và số
lượng, chủng loại sản phẩm chắc chắn sẽ còn được rộng mở. Không chỉ có
vậy, để nâng cao tính cạnh tranh, công tác chăm sóc khách hàng cũng ngày
càng được chú trọng. Bảo hiểm Việt Nam được đánh giá là một thị trường
vẫn đang rất giàu tiềm năng phát triển.
II. Thị trường Bảo hiểm Thương mại Việt Nam
Tính đến hết tháng 6/2010, có 50 Doanh nghiệp Bảo hiểm hoạt động trên
thị trường trong đó bao gồm 27 Doanh nghiệp Bảo hiểm phi nhân thọ, 11
Doanh nghiệp Bảo hiểm nhân thọ, 10 Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và 1
Doanh nghiệp tái bảo hiểm. Hiện tại Bộ Tài chính đã chấp nhận về nguyên
tắc việc cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho 01 Doanh nghiệp Bảo
hiểm phi nhân thọ -Công ty Bảo hiểm Cathay Việt Nam và 01 Doanh nghiệp
Bảo hiểm nhân thọ - Công ty Bảo hiểm nhân thọ Fubon Việt Nam. Tổng
doanh thu Phí bảo hiểm 6 tháng đầu năm 2010 ước đạt14.427 tỷ đồng, tăng
21% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó doanh thu phí bảohiểm phi nhân thọ
ước đạt 7.940 tỷ đồng, tăng 25% so với cùng kỳ năm 2009, doanh thu phí
bảo hiểm nhân thọ ước đạt 6.487 tỷ đồng, tăng 14,39% so với cùngkỳ năm
2009.
Tổng doanh thu hoạt động đầu tư 6 tháng đầu năm 2010 ước đạt3.321 tỷ
đồng, trong đó các doanh nghiệp phi nhân thọ ước đạt 875 tỷ đồng, các danh
nghiệp nhân thọ ước đạt 2.446 tỷ đồng.
Tổng số tiền bồi thường và trả tiền bảo hiểm ước đạt 3.985tỷ đồng, trong
đó các doanh nghiệp phi nhân thọ là 2.422 tỷ đồng, các doanh nghiệp nhân
thọ là 1.563 tỷ đồng.
16
Tổng phí bảo hiểm thu xếp qua môi giới ước đạt 810 tỷ đồng, tăng
20,36% so với cùng kỳ năm 2009. Các nghiệp vụ bảo hiểm chính được thu
xếp qua nôi giới là bảo hiểm tài sản và thiệt hại chiến (27, 73%), bảo hiểm
sức khỏe và tai nạn con người (34,37%), bảo hiểm trách nhiệm chung
(10,05%).
1. Bảo hiểm phi nhân thọ
Doanh thu phí bảo hiểm gốc trong 6 tháng đầu năm 2010 ước đạt 7.940 tỷ
đồng, tăng 25% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 25 DNBH tăng
trưởng về doanh thu phí bảo hiểm gốc; 3 DNBH giảm doanh thu phí bảo
hiểm gốc là UIC, Bảo Tín và VIA.
Các DNBH lớn như Bảo Việt, PVI, Bảo Minh vẫn dẫn đầu thị trường:
Bảo Việt ước đạt 1.871 tỷ đồng, chiếm 23,57% thị phần, giảm gần 2%; Bảo
Minh đạt 1.095 tỷ đồng chiếm 13,79%, tăng 0,18%.
Một số nghiệp vụ chiến tỉ trọng doanh thu lớn: dẫn đầu là nghiệp vụ bảo
hiểm xe cơ giới, chiếm tỉ trọng 31,35%, doanh thu phí đạt 2.489 tỉ đồng,
tăng gần 21% so với cùng kỳ năm trước.
Đứng thứ hai là nghiệp vụ bảo hiểm tài sản và thiệt hại, chiếm 25,57%,
doanh thu phí đạt 2.030 tỷ đồng, tăng 21,51% so với cùng kỳ năm trước.
Thứ ba là nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu và tách nhiện chủ tàu chiến tỉ trọng
12,19%, ước đạt 967 tỷ đồng, tăng 27,27%.
Đứng thứ tư là nghiệp vụ bảo hiểm sức khỏe và tai nạn con người với
doanh thu ước đạt 936 tỷ đồng, chiếm tỉ trọng 11,79%.
Nghiệp vụ này tăng trưởng do việc tăng cường kênh phân phối qua hệ
thống ngân hàng;
17
Bồi thường bảo hiểm: Nhìn chung, 6 tháng đầu năm 2010 không phát
sinh nhiều vụ tổn thất lớn, bồi thường chủ yếu tập trung vào bảo hiểm vật
chất xe cơ giới và bảo hiểm sức khỏe tai nạn con người.
Tổng số tiền bồi thường bảo hiểm gốc ước đạt 2.422 tỷ đồng. Tỷ lệ bồi
thường gốc là 30,51%, giảm 2,78% so với cùng kỳ năm 2009:
Các doanh nghiệp có tỉ lệ bồi thường cao gồm: Samsungvina (76,04%, do
các vụ cháy ở nước ngoài); Lib erty (70,71%), Bảo Long (49,49%) do bồi
thường nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới cao, mặt khác nghiệp vụ bảo hiểm xe
cơ giới chiếm tỷ trọng 70-75% tổng doanh thu bảo hiểm gốc của 2 DNBH
này. Các DNBH có tỷ lệ bồi thường thấp là Bảo Tín (1,28%), QBE (6,47%),
UIC (7%).
Xét theo nghiệp vụ, đứng thứ nhất về tỷ lệ bồi thường là bảo hiểm sức
khỏe và tai nạn con người (48,01%). Các DNBH có tỷ lệ bồi thường nghiệp
vụ bảo hiểm sức khỏe và tai nạn con người cao là : Bảo Minh (61,89%),Bảo
Việt (54%).
Đứng thứ 2 về tỉ lệ bồi thường là bảo hiểm xe cơ giới (43,78%), chủ yếu
là giải quyết bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe. Các DNBH có tỷ lệ
bồi thường cao: PJICO (50,7%), Bảo Minh (47,95%). Tiếp theo là bảo hiểm
thân tàu và TNDS của chủ tàu, có tỷ lệ bồi thường 37,4%. Các doanh nghiệp
có tỷ lệbồi thường cao về nghiệp vụ này là PVI (68,5%) và Bảo Việt
(37,5%).
Tổng số tiền bồi thường thuộc trách nhiệm giữ lại (TNGL) ước khoảng
1.845 tỷ đồng, tỷ lệ bồi thường giữ lại là 35,16%. Nghiệp vụ Bảo hiểm sức
khỏe và tai nạn con người có tỷ lệ bồi thường thuộc trách nhiệm giữ lại cao
nhất là 47,63%, tiếp theo là nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới với 42,71%.
Đứng thứ 3 là nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ 29,44%. Các nghiệp vụ có tỉ lệ
18
bồi thường thuộc trách nhiệm giữ lại thấp là bảo hiểm nông nghiệp 1,05%,
bảo hiểm trách nhiệm chung 2,36%.
2. Bảo hiểm nhân thọ:
Tổng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ ước đạt khoảng 6.487 tỷ đồng
tăng 14,39%so với cùng kỳ năm 2009 (trong đó tổng doanh thu phí của các
sản phẩm bảo hiểm chính đạt 6.268 tỷ đồng tăng 14,4% so với cùng kỳ năm
2009). Thị phần tổng doanh thu phí bảo hiểm của các doanhnghiệp về cơ bản
không khác biệt nhiều so với năm 2009: Prudential 38,9%, BảoViệt Nhân
thọ 31,4%, Manulife 10,5%, AIA 6,6%, Dai-ichi 6,3%, ACE 4,5%,
KoreaLife 0,9%, Cathay 0,5%, Prevoir 0,3% và Great Eastern 0,1%.
Hoạt động khai thác mới có mức tăng trưởng cao. Số lượng hợp đồng
bảo hiểm khai thác mới ước đạt 338.186 hợp đồng tăng 17,9% so với cùng
kỳ năm 2009. Tổng doanh thu phí bảo hiểm khai thác mới ước đạt 1.663 tỷ
đồng tăng 31,98% so với cùng kỳ năm trước (trong đó doanh thu phí hợp
đồng bảo hiểm chính đạt 1.596 tỷ đồng đạt mức tăng trưởng 32,17%). Thị
phần doanh thu phí bảo hiểm khai thác mới không có sự thay đổi tại nhóm
dẫn đầu thị trường: Prudential dẫn đầu thị trường với thị phần đạt 31,8%,
tiếp đến là BVNT25,2%, Manulife 10,9%, ACE 9,6%, Dai-ichi và AIA
chiếm thị phần tương đương nhau 8,3%. Nhóm doanh nghiệp đứng sau có sự
thay đổi lớn về vị trí với sự vươn lên của các doanh nghiệp bảo hiểm mới
như Korea Life 3%, Cathay1,4%/ tiếp theo là Prevoir 1%, Great Eastern
0,2%. VCLI mới triển khai hoạt động cuối năm 2009 nên doanh thu phí vẫn
thấp.
Cơ cấu sản phẩm bảo hiểm cũng có sự thay đổi đáng kể , theo đó các
doanh nghiệp bảo hiểm tập trung vào sản phẩm bảo hiểm tử kỳ (tỉ trọng sản
19
phẩm bảo hiểm này tăng từ 19,5% năm 2009 lên 31,1% năm 2010), bảo
hiểm liên kết đầu tư (tăng từ 17,6% năm 2009 lên 22,1% năm 2010 trong đó
chủ yếu do sự tăng trưởng mạnh của sản phẩm liên kết chung), tỷ trọng sản
phẩm bao hiểm hỗn hợp giảm từ 62% năm 2009 xuống còn 46,1% năm
2010, trả tiền định kỳ và trọn đời cũng giảm nhưng mức giảm không đáng
kể.
Hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm có tỷ trọng sản phẩm truyền thống
giảm do nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu đẩy mạnh các sản phẩm bảo hiểm
liên kết ch ung, đồng thời nghiên cứu phát triển các dòng sản phẩm mới.
Điển hình là tỷ lệ tăng trưởng đối với sản phẩm liên kết chung của Bảo Việt
nhân thọ là 588,6% so với cùng kỳ năm ngoái, Manulife đã triển khai thí
điểm sản phẩm bảo hiểm vi mô dành cho người nghèo tại hai tỉnh Hải Phòng
và Tiền Giang. Đầu năm 2010 Công ty đã mở rộng triển khai sang các tỉnh
Bắc Giang, Bến Tre, Nam Định và Đồng Tháp với kết quả triển khai ban đầu
tương đối khả quan.
Về hoạt động đầu tư, đến cuối tháng 6 năm 2010, các doanh nghiệp bảo
hiểm nhân thọ đã huy động đầu tư trở lại nền kinh tế khoảng 51.525 tỷ
đồng, tăng 2.394 tỷ đồng so với năm 2009. Doanh thu hoạt động đầu tư 6
tháng năm 2010 ước đạt 2.446tỷ (tăng 30% so với cùng kỳ năm 2009).
Tổngsố tiền chi trả bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân
thọtrong 6 tháng đầu năm 2010 ước khoảng 1.563 tỷ đồng, góp phần đảm
bảo sự ổnđịnh tài chính của các tổ chức, cá nhân không may gặp rủi ro, qua
đó cũng gópphần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội.
20
III. Các tổ chức kinh doanh Bảo hiểm ở Việt Nam
Các công ty kinh doanh bảo hiểm, hay các doanh nghiệp bảo hiểm, là
doanh nghiệp được thành lập tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật
KDBH và các quy định khác của pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo
hiểm, tái bảo hiểm. Theo Luật KDBH, doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm
doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước, công ty cổ phần bảo hiểm, tổ chức bảo
hiểm tương hỗ, doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh, doanh nghiệp bảo hiểm
100% vốn đầu tư nước ngoài.
1. Bảo Việt
Bảo Việt được bắt đầu đi vào hoạt động từ 15/01/1965. Công ty có các
đơn vị thành viên, các chi nhánh trên toàn quốc, đồng thời tham gia góp vốn
vào nhiều công ty khác như công ty liên doanh Bảo hiểm Quốc tế (VIA),
công ty liên doanh bảo hiểm Bảo Việt - AON (AIB), công ty cổ phần chứng
khoán Bảo Việt, quỹ đầu tư Quốc gia... Ngoài ra, Bảo Việt đã thành lập
Công ty đại lý bảo hiểm tại Anh Quốc BAVINA (UK) Ltd và hiện có mối
quan hệ với hơn 40 quốc gia trên khắp thế giới. Với kinh nghiệm, uy tín và
21
nỗ lực hoàn thiện không ngừng, Bảo Việt đang chứng tỏ mình vẫn là doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng đầu tại Việt Nam hiện nay.
Năm 2010, vượt qua rất nhiều khó khăn, Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo
Việt (Bảo hiểm Bảo Việt) - thành viên của Tập đoàn Bảo Việt đã khẳng định
được vị thế số 1 của một nhà bảo hiểm có 45 năm kinh nghiệm trên thị
trường; khẳng định được lòng tin của nhà đầu tư, khách hàng, người lao
động và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Năm 2010 Bảo hiểm Bảo Việt đã hoàn thành vượt mức kế hoạch kinh
doanh, tăng trưởng cao về doanh thu và lợi nhuận. Tổng doanh thu đạt 4.930
tỷ đồng, tăng trưởng 15,8% so với năm 2009. Trong đó, doanh thu bảo hiểm
đạt 4.593 tỷ đồng, tăng trưởng 15% so với năm 2009; lợi nhuận trước thuế
đạt 381 tỷ đồng, tăng 74% so với năm 2009. Với 25% thị phần, Bảo hiểm
Bảo Việt giữ vững vị trí dẫn đầu thị trường. Năm 2010 cũng là năm Bảo
hiểm Bảo Việt tập trung đầu tư công nghệ thông tin như phát triển các phần
mềm kế toán, quản lý nghiệp vụ; phát triển trung tâm dịch vụ khách hàng -
call centre; hoàn thiện quản trị doanh nghiệp; phát triển sản phẩm
bancasurance.
Năm 2011, Bảo hiểm Bảo Việt đặt mục tiêu tổng doanh thu 5.660 tỷ đồng,
tăng trưởng 14,8% so với năm trước, trong đó doanh thu bảo hiểm gốc đạt
4.872 tỷ đồng; lợi nhuận trước thuế đạt 406 tỷ đồng và tập trung thực hiện ba
chủ trương “Đổi mới - Chất lượng - Hiệu quả”.
Với quyết tâm và khí thế phấn đấu hoàn thành kế hoạch kinh doanh năm
2011 của toàn thể tập thể cán bộ nhân viên, cùng đồng lòng chung sức, Bảo
hiểm Bảo Việt sẽ đạt được các mục tiêu phát triển đặt ra, góp phần xây dựng
“Một Bảo Việt - Một nền tảng mới” và thực hiện “Niềm tin vững chắc, Cam
kết vững bền” trong toàn hệ thống của Bảo Việt.
22
2. Bảo Minh
Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh) trước đây là một
thành viên của Bảo Việt, được tách ra hoạt động độc lập vào năm 1995. Bảo
Minh là doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước lớn thứ hai sau Bảo Việt, kinh
doanh trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ và làm đại lý bồi thường và
giám định tổn thất cho nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài và hội P&I. Hiện
nay, số vốn điều lệ của công ty là 67 tỷ đồng và sắp tới sẽ được tăng lên
thành 70 tỷ đồng. Hiện nay, công ty có 22 chi nhánh và 6 văn phòng đại diện
trên toàn quốc và có mối quan hệ hợp tác với nhiều công ty bảo hiểm, tái bảo
hiểm và môi giới bảo hiểm nước ngoài. Bảo Minh đã góp vốn thành lập hai
công ty liên doanh bảo hiểm là UIC và Bảo Minh - CMG.
Năm 2010, Bảo Minh tiếp tục giữ vững vị trí thứ 3 trên thị trường với
11,3% thị phần. Tổng doanh thu đạt 2.352 tỷ đồng bằng 101% kế hoạch
HĐQT giao, tăng trưởng 6% so với năm 2009. Đặc biệt, Tổng Công ty đã
kiểm soát được cơ bản tình hình bồi thường, kiểm soát được chi phí và đã có
lãi trong kinh doanh bảo hiểm gốc. Đây là mộ tín hiệu “cực kỳ phấn khởi”
đặc biệt đối với những người làm bảo hiểm và là động lực to lớn, tạo đà phát
triển trong thời gian tới, phù hợp chủ đề của chiến lược kinh doanh giai đoạn
2011 – 2015 “Hiệu quả và phát triển bền vững”.
3. Bảo hiểm dầu khí (PVI)
PVI là công ty bảo hiểm chuyên ngành đầu tiên ở nước ta, trực thuộc
Tổng công ty dầu khí Việt Nam (PetroVietnam), được thành lập năm 1996
với số vốn 20 tỉ đồng. Công ty chủ yếu hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong
lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí.
23
Năm 2010, Tổng doanh thu đạt 4.511 tỷ đồng tăng trưởng 26,5%, hoàn
thành 112% kế hoạch năm 2010. Trong đó: Doanh thu bảo hiểm gốc đạt
3.512 tỷ đồng, tăng trưởng 26,8%, doanh thu tái bảo hiểm đạt 469 tỷ đồng,
tăng trưởng 37,9%, doanh thu từ hoạt động đầu tư đạt 607 tỷ đồng, tăng
trưởng 27,6%. Năm 2010, lợi nhuận trước thuế của PVI đạt 336 tỷ đồng,
tăng trưởng 52,7% so với năm 2009.
IV. Hạn chế và khó khăn trong BHTM
1. Việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các DN bảo hiểm đang ở tình
trạnh báo động
Thị trường bảo hiểm với 11 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ và hơn 30
doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đã tạo ra 1 ngành bảo hiểm hỗn loạn
trên thị trường, với sức cạnh tranh ngày các ác liệt nhằm dành thị phần lớn
về phía mình.
24
Trước hết, đó là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm về sản
phẩm, chất lượng dịch vụ, nguồn nhân lực, phát triển kênh phân phối sản
phẩm và trình độ ứng dụng công nghệ thông tin.
Thứ hai, đó là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt
động tại Việt Nam với các doanh nghiệp bảo hiểm tại nước ngoài về cung
cấp sản phẩm bảo hiểm trong khuôn khổ đã cam kết tại WTO.
Thứ ba, là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với các dịch vụ tài
chính khác như thu hút tiền gửi tiết kiệm, chứng khoán, kinh doanh bất động
sản. Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ vẫn có nhiều vấn đề nổi cộm như
cạnh tranh hạ phí, tăng chi phí khai thác, chưa kiểm soát được trục lợi bảo
hiểm, dùng áp lực của các mối quan hệ để chi phối khách hàng, độc quyền
kinh doanh bảo hiểm đối với một số ngành đặc thù:
+ Hạ phí bảo hiểm: Trên thực tế, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã xu ất
hiện tình trạng có những sản phẩm bảo hiểm mức phí đã gi ảm từ 40-50%,
thậm chí còn thấp hơn quy định của Bộ Tài chính rất nhiều lần.
Tình trạng cạnh tranh không lành mạnh nói trên bắt đầu lan trên diện rộng
từ khi các công ty sử dụng những cán bộ nhân viên không có nghiệp vụ bảo
hiểm hay thực hiện chế độ khoán doanh thu phí bảo hiểm cho các chi nhánh,
phòng bảo hiểm khu vực hay đại lý. Để đạt chỉ tiêu được giao khoán, các bộ
phận này buộc phải chạy theo doanh số, không đánh giá, khảo sát rủi ro, bán
sản phẩm bảo hiểm bằng mọi giá. Điểm qua tình hình cạnh tranh về phí của
một số sản phẩm bảo hiểm cơ bản trong thời gian qua, ta có thể nhận thấy rất
rõ vấn đề này.
Đối với bảo hiểm hàng hóa, nhiều doanh nghiệp bảo hiểm đã hạ mức phí
từ 40-60%, kể cả đối với các mặt hàng nhạy cảm có tỷ lệ bồi thường cao.
Với mặt hàng sắt thép, phí bảo hiểm đã giảm tới 70%. Trước đây, phí bảo
25
hiểm mặt hàng này trung bình vào khoảng 0,14% tổng giá trị lô hàng. Hiện
nay, có doanh nghiệp đã đưa ra m ức phí hạ xuống còn 0,08%, rồi đẩy phí
xuống còn 0,06% và gần đây nhất chỉ còn 0,05%. Với mặt hàng phân bón,
phí bảo hiểm đã giảm từ 0,6% còn 0.3-0,35%.
+ Tăng chi phí hoa hồng khai thác không đúng với quy định của nhà
nước: Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ hiện đang trong tình trạng càng làm
càng lỗ hoặc gần như không có hiệu quả, do việc chi hoa hồng quá mức giữa
các doanh nghiệp. Theo quy định, khi ký đư ợc hợp đồng bảo hiểm, doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm được phép chi từ 0,5% đến 20% hoa hồng (tùy
loại hợp đồng) cho đại lý bảo hiểm hoặc tối đa không quá 15% cho công ty
môi giới bảo hiểm. Tuy nhiên, trên thực tế, các đơn vị phải chi nhiều hơn để
có được dịch vụ. Với tình trạng cạnh tranh như hiện nay, hoa hồng chi cao,
phí bảo hiểm thấp và như vậy sẽ không đủ chi trả bồi thường cho khách
hàng. Nếu xảy ra tổn thất phải bồi thường thì coi như h ết lãi. Cạnh tranh
trong bối cảnh kinh tế phát triển nhưng lợi nhuận kinh doanh bảo hiểm ngày
càng thấp là một nghịch lý trong kinh doanh tại thị trường bảo hiểm Việt
Nam.
+ Mở rộng quá mức quyền lợi bảo hiểm không tính đến hiệu quả kinh
doanh: Đối với bảo hiểm hàng hóa, các công ty môi giới bảo hiểm luôn đưa
ra các điều khoản mở rộng trái tập quán bảo hiểm quốc tế như không áp
dụng thu phí tàu già theo qui định đối với các tàu chở hàng nguyên chuyến
(nhưng vẫn cấp debit note để người được bảo hiểm đòi nư ớc ngoài), thiếu
hàng trong container còn nguyên kẹp chì, đi ều khoản bảo hiểm cho các rủi
ro bị loại trừ trong qui tắc bảo hiểm…, đã dẫn đến tình trạng phí thu ngày
càng thấp nhưng trách nhiệm của người bảo hiểm ngày càng cao. Bên cạnh
đó, các công ty môi giới bảo hiểm trong nước có thể do sự thiếu kiểm tra
26
kiểm soát của nhà nước và muốn thuyết phục khách hàng nên môi giới đưa
ra các điều khoản mở rộng không đúng với tập quán bảo hiểm như bảo hiểm
hàng thiếu trong container còn nguyên kẹp chì, bảo hiểm các rủi ro bị loại
trừ trong qui tắc bảo hiểm quốc tế... Như vậy, vô hình chung, các nhà bảo
hiểm trong nước phải nhận cả rủi ro do người bán hàng ở nước ngoài gây ra
và điều này dễ dẫn đến trục lợi bảo hiểm...
Có những trường hợp, khi không hạ phí, nhà bảo hiểm còn mở rộng điều
kiện bảo hiểm không có trong nghiệp vụ để thu hút thêm khách hàng. Ví dụ,
có doanh nghiệp bảo hiểm đã bảo hiểm chỉ cho hạ thủy tàu mà không phải là
toàn bộ thời gian đóng tàu, chấp nhận rủi ro cao nhất trong điều kiện kỹ
thuật hạ thủy của Việt Nam còn hạn chế để hạ phí bảo hiểm. Có doanh
nghiệp còn cải tiến thời hạn bảo hiểm, kéo dài hạn hạ thủy chạy thử là 250
hải lý hoặc một tháng. Người được bảo hiểm được chọn một trong hai điều
kiện đó nếu có lợi cho mình, trái với quy tắc là điều nào xảy ra trước thì
chấm dứt.
Đối với lĩnh vực bảo hiểm cháy, nổ, cạnh tranh hạ phí, nới rộng điều kiện,
điều khoản bảo hiểm đến mức không tưởng. Không những vậy, sự tác động
của một số môi giới bảo hiểm làm ảnh hưởng xấu đến thị trường bảo hiểm
nói chung như việc đưa ra đến 200 điều kiện mở rộng, bảo hiểm bổ sung
không đồng bộ với nội dung đơn bảo hiểm và lấn sang phạm vi một số sản
phẩm bảo hiểm khác.
Thực trạng thu phí bảo hiểm thấp hơn phí tái bảo hiểm, đấu thầu bỏ phí
thấp, môi giới bảo hiểm đưa ra quá nhiều điều khoản, điều kiện bảo hiểm
phức tạp đã dẫn đến việc doanh nghiệp bảo hiểm không thể đảm bảo quyền
lợi cho đối tượng bảo hiểm khi có tổn thất xảy ra. Đây là việc làm ngắn hạn,
chỉ tính đến doanh thu và thị phần trước mắt mà không lường hết được rủi ro
27
khi mở rộng các điều kiện bảo hiểm. Kết quả là các dịch vụ trong phạm vi
mức giữ lại phí hạ quá nhiều dẫn đến thực trạng phí cao, dịch vụ tốt lại phải
tái bảo hiểm ra nước ngoài, phí thấp, rủi ro cao giữ lại cho phía bảo hiểm
Việt Nam.
+ Cạnh tranh thông qua sự can thiệp hành chính: Việc cạnh tranh thông
qua sự can thiệp hành chính đã thể hiện rất rõ trong nghiệp vụ bảo hiểm học
sinh. Một vài doanh nghiệp bảo hiểm mới ra đời hoặc mới triển khai nghiệp
vụ, vì muốn chiếm lĩnh thị trường nên đã ch ấp nhận hỗ trợ nhà trường với
nguồn kinh phí lớn, thậm chí còn cao hơn c ả phí bảo hiểm thu được. Cách
hỗ trợ này đã tạo điều kiện cho nhà trường gây sức ép với các doanh nghiệp
bảo hiểm khác, làm xấu đi hình ảnh của bảo hiểm học sinh. Đồng thời, trong
những năm học tới, việc thuyết phục người tham gia bảo hiểm chấp nhận phí
bảo hiểm, mức khấu trừ hoặc điều kiện bảo hiểm bình thư ờng sẽ rất khó
khăn.
2.Việc bồi thường chưa tốt
- Trước hết, tính công khai minh bạch về hồ sơ, thủ tục giải quyết bồi
thường chưa được thực hiện.
- Thứ hai, việc đơn giản hóa hồ sơ, thủ tục bồi thường giảm phiền phức
cho khách hàng chưa được cải thiện rõ rệt.
- Thứ ba, còn nhiều vướng mắc trong việc thu thập hồ sơ chứng từ để giải
quyết bồi thường cho nạn nhân khi những hồ sơ chứng từ này buộc phải lấy
từ cơ quan có thẩm quyền như công an, bệnh viện.
- Thứ tư, việc tự quyết, tự chịu trách nhiệm của DNBH trong việc giám
định bồi thường tổn thất chưa được phát huy và hay bị hình sự hóa.
28
- Thứ năm, các DN hoạt động trong lĩnh v ực tư vấn giám định và giải
quyết bồi thường (trung gian giữa DNBH và khách hàng) chưa hoạt động có
hiệu quả và phán quyết của họ nhiều khi không được pháp luật công nhận.
- Thứ sáu, chưa có biện pháp xử phạt thích đáng DNBH trong việc chậm
trễ bồi thường cũng như xử phạt thích đáng các hành vi trục lợi BH.
VD: Riêng lĩnh v ực bảo hiểm nhân thọ, dù trong năm 2009 đã có hơn
460.000 hợp đồng bị hủy bỏ.
3. Sản phẩm bảo hiểm chưa đa dạng, còn hạn chếở nhiều lĩnh vực quan
trọng
Các sản phẩm bảo hiểm tuy đã đa dạng hơn trước, nhưng vẫn còn hạn chế,
chưa phát triển trong nhiều lĩnh vực quan trọng như thiên tai, nông nghiệp,
tín dụng và rủi ro tài chính, hoạt động hành nghề y dược, luật sư, dịch vụ kế
toán, kiểm toán. Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt chưa thực sự được đẩy
mạnh trong khi hàng năm, ở nước ta, tai nạn do cháy nổ vẫn gia tăng với tốc
độ cao một cách đáng báo động. bảo hiểm tàu hỏa và nông nghiệp chưa có ở
việt Nam.
4. Sự thiếu hoàn thiện của hệ thống văn bản pháp luật và công tác quản lý
Nhà nước
Ở Việt Nam, hoạt động kinh doanh bảo hiểm được điều chỉnh bởi Luật
Kinh doanh bảo hiểm (Luật KDBH) có hiệu lực từ ngày 1/4/2001.
a. Bất hợp lý trong cấu trúc văn bản luật:
Cấu trúc văn bản Luật KDBH hiện hành có nhiều điểm không hợp lý, cần
phải được cơ cấu lại nhằm đảm bảo hiệu quả điều chỉnh pháp luật với tư
cách là văn bản luật chuyên ngành.
29
Thứ nhất, Luật KDBH hiện hành quy định về hợp đồng bảo hiểm tại
Chương II, còn những vấn đề pháp lý cơ bản điều chỉnh DNBH được quy
định tại Chương III. Thiết nghĩ, việc sắp xếp như vậy là không phù hợp, vì:
a) Luật KDBH cần phải coi trọng những nội dung điều chỉnh về hoạt động
kinh doanh bảo hiểm, mà chủ thể kinh doanh chủ yếu là DNBH, nên sau
Chương I quy định về những vấn đề chung, thì Chương II phải nên quy định
về DNBH và một số chủ thể kinh doanh khác; b) cách giải thích hợp logic là
phải có doanh nghiệp thì mới có sản phẩm bảo hiểm, nên sau chế định về
DNBH mới nên quy định về sản phẩm bảo hiểm (được thể hiện qua hợp
đồng bảo hiểm).
Thứ hai, nên xác định nội dung điều chỉnh của Chương Hợp đồng bảo
hiểm là điều chỉnh về các loại hình bảo hiểm (các sản phẩm bảo hiểm) để
không trùng lắp với những quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) về hợp
đồng bảo hiểm và phù hợp với tinh thần của Luật KDBH là điều chỉnh hoạt
động kinh doanh bảo hiểm với đối tượng của hoạt động kinh doanh này là
các sản phẩm bảo hiểm, bao gồm bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm nhân
thọ. Do đó, chương về Hợp đồng bảo hiểm nên đặt tên thành Các sản phẩm
bảo hiểm.
Thứ ba, mục Chuyển giao hợp đồng bảo hiểm nên để thành một bộ phận
của Chương về Hợp đồng bảo hiểm, vì đây là việc DNBH nhận chuyển giao
thay thế DNBH chuyển giao để trở thành bên bảo hiểm của hợp đồng bảo
hiểm. Do vậy, mặc dù có những quy định đặc thù nhưng thực chất, đây là
việc sửa đổi hợp đồng bảo hiểm.
Thứ tư, nên nhập các quy định về doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và đại
lý bảo hiểm vào phần quy định về DNBH để thành một Chương có tên gọi là
Các chủ thể kinh doanh bảo hiểm. Thiết nghĩ, đại lý bảo hiểm nhân danh
30
DNBH để thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm, nên phải là một phần
trong quy định về DNBH. Bên cạnh đó, hoạt động môi giới bảo hiểm phải
được coi là một nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm vì đây là một dịch vụ hết
sức quan trọng đối với thị trường bảo hiểm (tương tự như nghiệp vụ môi giới
chứng khoán của công ty chứng khoán).
Thứ năm, những quy định về tài chính, hạch toán, kế toán và báo cáo tài
chính phải là một phần của Chương về Doanh nghiệp bảo hiểm. Hoạt động
tài chính của DNBH mặc dù có những đặc thù, song không nên đặt thành
một chương riêng, vì đây là văn bản luật điều chỉnh toàn diện về hoạt động
kinh doanh bảo hiểm chứ không chỉ riêng về DNBH.
Thứ sáu, không nên đặt riêng một chương về DNBH có vốn đầu tư nước
ngoài. Hiện nay, Việt Nam đã gia nhập WTO và thực hiện các cam kết bình
đẳng về địa vị pháp lý của các chủ thể kinh doanh, như vậy, việc đặt ra một
chương điều chỉnh riêng về DNBH có vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn
hiện nay là không thoả đáng. Tuy nhiên, để nội luật hoá các cam kết quốc tế
của Việt Nam, việc xây dựng các quy định dành riêng cho hoạt động đầu tư
nước ngoài trong lĩnh vực bảo hiểm vẫn rất cần thiết. Do đó, Chương về
DNBH và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài nên
đổi tên thành Những quy định về đầu tư nước ngoài trong kinh doanh bảo
hiểm sẽ hợp lý hơn.
Như vậy, cấu trúc của Luật KDBH có thể có các Chương sau: Chương 1:
Những quy định chung; Chương 2: Các chủ thể kinh doanh bảo hiểm;
Chương 3: Các sản phẩm bảo hiểm; Chương 4: Những quy định về đầu tư
nước ngoài trong kinh doanh bảo hiểm; Chương 5: Những quy định khác
(khen thưởng, xử lý vi phạm và điều khoản thi hành).
31
b. Một số quy định bất cập khác và hướng sửa đổi
Thứ nhất, giữa BLDS và Luật KDBH không thống nhất trong quy định
trả tiền bảo hiểm khi người được bảo hiểm chết trong bảo hiểm con người.
Trong BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005, hợp đồng bảo hiểm cũng
được quy định như là một loại hợp đồng thông dụng. Tuy nhiên, trong
những quy định về hợp đồng bảo hiểm của BLDS không có quy định về
người thụ hưởng mà chỉ có quy định về người được bảo hiểm, nhưng khái
niệm về người được bảo hiểm cũng không được BLDS nêu ra. Trong khi đó,
người thụ hưởng là một chủ thể liên quan rất quan trọng trong hợp đồng bảo
hiểm con người. Điều này tất yếu dẫn đến những vướng mắc trong quá trình
áp dụng pháp luật.
Điều 582 BLDS năm 1995 quy định về bảo hiểm tính mạng có ghi:
"Trong trường hợp bảo hiểm tính mạng, thì khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, bên
bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm hoặc người đại diện
theo uỷ quyền của họ; nếu bên được bảo hiểm chết, thì tiền bảo hiểm được
trả cho người thừa kế của bên được bảo hiểm". Tuy nhiên, trong Luật KDBH
lại quy định, người thụ hưởng là người được bên mua bảo hiểm chỉ định
nhận tiền bảo hiểm trong bảo hiểm con người và người thụ hưởng có thể
không phải là người được bảo hiểm. Như vậy, nếu người được bảo hiểm
chết, theo quy định của BLDS, số tiền bảo hiểm sẽ trả cho người thừa kế của
người được bảo hiểm, còn theo quy định của Luật KDBH, số tiền bảo hiểm
sẽ trả cho người thụ hưởng, và có thể họ không phải là người (hoặc những
người) thừa kế của người được bảo hiểm. Sự bất cập này vẫn được giữ
nguyên mà không được sửa đổi trong BLDS năm 2005 (Điều 578). Thiết
nghĩ, nên sửa đổi Điều 578 BLDS theo hướng, việc trả tiền bảo hiểm phải
theo thoả thuận, có thể trả cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng.
32
Nếu người được bảo hiểm chết mà không phải là người thụ hưởng, thì số
tiền bảo hiểm sẽ trả cho người thụ hưởng. Số tiền bảo hiểm chỉ được coi là
di sản thừa kế của người được bảo hiểm nếu không có người thụ hưởng. Quy
định như vậy mới đúng với mục đích của bên mua bảo hiểm trong bảo hiểm
con người và cũng không làm ảnh hưởng đến sự điều chỉnh các loại hợp
đồng bảo hiểm khác.
Thứ hai, Luật KDBH còn thiếu sự giải thích một số thuật ngữ rất phổ
biến trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ như “giá trị hoàn lại” và “chi phí
hợp lý”, mặc dù những thuật ngữ này được sử dụng thường xuyên trong luật
và các văn bản dưới luật, nhưng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Bên
cạnh đó, có nhiều thuật ngữ khác cũng có cách hiểu không thống nhất giữa
các DNBH. Các DNBH đã từng thảo luận về việc thống nhất thuật ngữ,
chứng tỏ đây là một nội dung hết sức quan trọng. Luật nên bổ sung cách hiểu
các thuật ngữ phổ biến nhằm đảm bảo việc áp dụng được thuận lợi hơn.
Thứ ba, Luật KDBH chưa quy định hợp lý về việc chuyển nhượng hợp
đồng bảo hiểm con người. Bản chất của việc chuyển nhượng hợp đồng là
việc một chủ thể khác sẽ thay thế vị trí pháp lý của bên mua bảo hiểm trong
hợp đồng. Bên mua bảo hiểm có thể chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ cho người khác để tiếp tục duy trì hợp đồng, hoặc để có một khoản
tiền nhất định, hoặc không muốn hợp đồng chấm dứt vì điều đó làm ảnh
hưởng đến quyền lợi của người thụ hưởng. Vấn đề này được Luật KDBH
quy định tại Điều 26, nhưng thực tế điều khoản này chỉ đủ với hợp đồng bảo
hiểm thiệt hại, khi mà bên mua bảo hiểm đồng thời là người được bảo hiểm
(vào thời điểm mua bảo hiểm). Đối với hợp đồng bảo hiểm con người, bên
chuyển nhượng (bên mua bảo hiểm) có thể không phải là người được bảo
hiểm. Do vậy, quá trình chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm con người có
33
nhiều vấn đề nảy sinh. Ví dụ: điều kiện đối người nhận chuyển nhượng như
thế nào, có cần có sự đồng ý của người được bảo hiểm hay không v.v..
Những bổ sung này rất quan trọng nhằm tránh những tranh chấp có thể xảy
ra sau khi hợp đồng được chuyển nhượng. Nếu không có quy định cụ thể, sẽ
khó khăn khi xem xét trách nhiệm của DNBH trong việc chấp thuận việc
chuyển nhượng của bên mua bảo hiểm. Trên thực tế, các DNBH đều thoả
thuận với bên mua bảo hiểm về việc không chịu trách nhiệm về tính hợp
pháp của thoả thuận chuyển nhượng, từ đó dẫn đến tình trạng DNBH chấp
nhận việc chuyển nhượng để tiếp tục thu phí, đến khi sự kiện bảo hiểm xảy
ra lại từ chối trả tiền bảo hiểm mà chỉ hoàn lại phí bảo hiểm vì hợp đồng
không còn hiệu lực.
Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm, mặc dù theo nguyên tắc thoả
thuận, phải có sự chấp thuận của DNBH, nhưng để đảm bảo quy định của
pháp luật về bên mua bảo hiểm, cần sửa đổi, bổ sung Điều 26 theo hướng
quy định cụ thể người nhận chuyển nhượng phải thoả mãn điều kiện là bên
mua bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, vì việc chuyển
nhượng hợp đồng bảo hiểm con người không làm thay đổi người được bảo
hiểm, nên việc chuyển nhượng phải có sự đồng ý của chủ thể này. Nếu
người được bảo hiểm không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì sự đồng ý
của cha, mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp khác là điều kiện để chuyển
nhượng hợp đồng.
Thứ tư, khái niệm quyền lợi có thể được bảo hiểm không thật sự hợp lý
với bản chất của bảo hiểm con người. Theo quy định của Luật KDBH thì
"quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền
sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối
tượng được bảo hiểm". Thực chất, quyền lợi có thể được bảo hiểm quy định
34
như trên chỉ là những quyền lợi vật chất thuần tuý của bên mua bảo hiểm đối
với đối tượng bảo hiểm. Trên thực tế, bảo hiểm con người không mang yếu
tố bồi thường thiệt hại, mà là sự bù đắp tổn thất tính mạng, sức khoẻ của
người được bảo hiểm đối với chính người này và người thân của họ (đồng
thời có thể có yếu tố tiết kiệm như trong bảo hiểm nhân thọ chẳng hạn).
Chính vì vậy, những lợi ích tinh thần cần phải được đánh giá đúng mức
nhằm xác định quyền lợi có thể được bảo hiểm như quan hệ hôn phối, quan
hệ ông bà với cháu, giữa chủ sử dụng lao động và người lao động v.v.. trong
bảo hiểm con người.
Trong Luật KDBH, cũng đã có quy định cụ thể về việc bên mua bảo hiểm
có thể mua bảo hiểm cho những ai. Nhà làm luật có dự liệu “mở” là bên mua
bảo hiểm có thể mua bảo hiểm cho "người khác, nếu bên mua bảo hiểm có
quyền lợi có thể được bảo hiểm", nhưng nếu căn cứ vào khái niệm quyền lợi
có thể được bảo hiểm trong Luật KDBH, thì những đối tượng này bị bó hẹp
rất nhiều. Điều đó dẫn đến hai hệ quả: thứ nhất, làm hạn chế sự mở rộng hợp
lý thị trường bảo hiểm con người; thứ hai, có thể DNBH sẽ cung cấp sản
phẩm bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm không có quyền lợi có thể được bảo
hiểm theo quy định của pháp luật, tức là đã vi phạm pháp luật. Do vậy, cần
phân tách rõ giữa quyền lợi có thể được bảo hiểm của bảo hiểm thiệt hại và
bảo hiểm con người. Đối với hợp đồng bảo hiểm tài sản và hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự, quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu,
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản đối với đối tượng bảo hiểm.
Đối với hợp đồng bảo hiểm con người, quyền lợi có thể được bảo hiểm là
quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng và các quyền lợi khác đối với người
được bảo hiểm, nếu được DNBH chấp thuận hoặc pháp luật có quy định.
35
Thứ năm, Luật KDBH có những quy định mâu thuẫn liên quan đến hành
vi lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm. Theo quy định tại Điều 19 Luật
KDBH, nếu một bên cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp
đồng bảo hiểm thì bên kia có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp
đồng. Nếu bên mua bảo hiểm cung cấp thông tin sai sự thật thì DNBH có
quyền thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ hợp đồng. Ngược lại, nếu
doanh nghiệp cung cấp thông tin sai sự thật mà gây thiệt hại cho bên mua
bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền đòi bồi thường. Việc cung cấp
thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm về bản chất là hành vi
lừa dối khi giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, Điều 22 của Luật KDBH lại quy
định, nếu một bên có hành vi lừa dối thì hợp đồng vô hiệu và được xử lý
theo quy định của BLDS và các quy định pháp luật liên quan. Mà theo quy
định của BLDS, nếu hợp đồng vô hiệu thì các bên hoàn trả cho nhau những
gì đã nhận, bên nào có lỗi thì phải bồi thường thiệt hại. Rõ ràng, cùng một
vấn đề đã có hai cách xử lý khác nhau cùng được quy định trong Luật
KDBH.
Về mặt lý luận, nếu có hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng thì hợp đồng
đó phải vô hiệu vì đã không tuân thủ nguyên tắc trung thực khi giao kết.
BLDS năm 2005 quy định, nếu một bên bị lừa dối thì có quyền yêu cầu Toà
án tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong thời hạn một năm, kể từ ngày ký kết hợp
đồng (Điều 142 và Điều 145). Vì vậy, việc cung cấp thông tin sai sự thật
nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm không thể dẫn đến hành vi đình chỉ thực
hiện hợp đồng. Chính vì vậy, đề nghị sửa đổi Điều 19 khoản 2 và khoản 3
theo hướng: bỏ khoản 3 Điều 19 và sửa đổi khoản 2 Điều 19 điểm a, bằng
cách bỏ cụm từ "nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm". Khi đó, Điều 19 khoản
2 chỉ áp dụng cho trường hợp bên mua bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ cung
36
cấp thông tin khi thực hiện hợp đồng, còn nếu các bên cung cấp thông tin sai
sự thật để giao kết hợp đồng, sẽ áp dụng quy định tại Điều 22.
Thứ sáu, Luật KDBH không phân biệt sự thay đổi của yếu tố làm cơ sở
xác định phí bảo hiểm là do nguyên nhân khách quan hay chủ quan. Tại
khoản 2 Điều 20 Luật KDBH quy định: "Khi có sự thay đổi những yếu tố
làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm thì
DNBH có quyền tính lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng
bảo hiểm. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm không chấp nhận tăng phí
bảo hiểm thì DNBH có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo
hiểm, nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên mua bảo hiểm".
Quy định như vậy sẽ gây thiệt thòi cho bên mua bảo hiểm hoặc người thụ
hưởng. Thiết nghĩ, trong trường hợp có những yếu tố làm tăng mức độ rủi
ro, cần thiết phải phân biệt là do nguyên nhân khách quan hay nguyên nhân
chủ quan. Nếu mức độ rủi ro tăng lên do yếu tố chủ quan, ví dụ người được
bảo hiểm tham gia những công việc có tính chất độc hại, nguy hiểm hoặc có
nếp sinh hoạt ngày càng không điều độ, có ý thức trong việc gây giảm sút
sức khoẻ chính mình v.v.. thì DNBH có quyền tăng phí bảo hiểm. Ngược lại,
nếu rủi ro tăng lên do nguyên nhân khách quan như ô nhiễm môi trường,
biến đổi khí hậu v.v.. DNBH không thể đương nhiên lấy đó làm căn cứ tăng
phí bảo hiểm, trừ trường hợp có thoả thuận với bên mua bảo hiểm. Trong
quan hệ bảo hiểm, tính không xác định chính là một trong những yếu tố của
rủi ro, là động cơ để bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng. DNBH không thể
vì quyền lợi của riêng mình mà tự ý tăng phí bảo hiểm hoặc đình chỉ hợp
đồng khi nguyên nhân làm tăng yếu tố rủi ro là khách quan. Do vậy, điều 20
khoản 2 Luật KDBH nên quy định theo hướng: khi có sự thay đổi những yếu
tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm mà nguyên nhân từ phía bên mua bảo
37
hiểm hoặc người được bảo hiểm, dẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm, thì
DNBH có quyền tính lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng
bảo hiểm. Trong trường hợp này, nếu bên mua bảo hiểm không chấp nhận
tăng phí bảo hiểm thì DNBH có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp
đồng bảo hiểm, nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên mua bảo
hiểm.
V. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động Bảo hiểm Thương mại ở
Việt Nam
1. Giải pháp từ phía Nhà nước
a. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về mô hình và hoạt động Bảo
hiểm hiện nay ở Việt Nam
Hoàn thiện các bất hợp lý trong cấu trúc của văn bản pháp luật. Quản lý
hoạt động kinh doanh bảo hiểm bằng biện pháp hành chính nhằm giảm thiểu
tình trạng cạnh tranh không lành mạnh.
VD: thay cho chế độ báo cáo sản phẩm bảo hiểm mới triển khai hiện nay
bằng chế độ chấp thuận của Bộ Tài chính về quy tắc điều khoản biểu phí
mới được triển khai bán sản phẩm trên thị trường. Ngoài ra, cần có hướng
dẫn thực hiện luật cạnh tranh, luật đấu thầu trong lĩnh vực kinh doanh bảo
hiểm.
Tiến hành quản lý mức lãi suất kĩ thuật trần dựa vào lãi suất của ngân
hàng nhà nước để đảm bảo 2 nguyên tắc an toàn và sinh lời đồng thời cũng
tránh được cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các doanh nghiệp gây mất ổn
định thị trường bảo hiểm.
38
b. Tăng cường thêm năng lực của hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
Hiệp hội cần phải nâng cao địa vị tiếng nói trong hoạt động bảo hiểm, cần
có chính sách yêu tiên về mặt quản lý đối với hiệp hội để thu hút các doanh
nghiệp bảo hiểm tham gia, tăng cường sự hợp tác giữa các đơn vị kinh doanh
bảo hiểm và tránh các rủi ro do cạnh tranh không lành mạnh. Đồng thời là cơ
quan có trọng lượng trong việc đề xuất các yêu cầu đối với các chính sách
nhà nước để phù hợp hơn với xu thế hiện nay của bảo hiểm thế giới.
c. Chính phủ khuyến khích tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Bảo hiểm
phát triển
Thông qua chính sách về giảm thuế thu nhập sẽ tạo điều kiện cho các cá
nhân có thu nhập cao sẽ có xu hướng tăng nhu cầu về bảo hiểm. Tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm có thêm nguồn thu qua đó tạo ra nguồn
vốn lớn cho việc tái đầu tư xã hội. Đồng thời việc có số chính sách nới lỏng
về thuế với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm cũng là hình thức trực tiếp để
khuyến khích hoạt động bảo hiểm phát triển hơn.
d. Quản lý tốt các công ty môi giới Bảo hiểm và các đại lý môi giới Bảo
hiểm
Nâng cao uy tín và chất lượng của các công ty môi giới cũng như các đại
lý, giúp các đơn vị môi giới bảo hiểm trở thành nên tư vấn bảo hiểm đáng tin
cậy chứ không chỉ là dựa vào các mối quan hệ với các công ty bảo hiểm để
giới thiệu cho các công ty có phí môi giới cao hơn.
2. Giải pháp từ phía Doanh nghiệp
a. Doanh nghiệp Bảo hiểm bổ sung vốn điều lệ cho phù hợp với điều
kiện pháp lý và môi trường hoạt động hiện nay
39
Trong xu hướng toàn cầu hoá cũng như việc nước ta gia nhập tổ chức
WTO thì trong tương lai lĩnh vực Bảo hiểm sẽ là một trong các ngành có sức
thu hút và cạnh tranh lớn ở Việt Nam. Chính vì vậy mà để tăng cường sức
cạnh tranh trong giai đoạn này yêu cầu các đơn vị kinh doanh bảo hiểm cần
có lượng vốn tốt, đồng thời các doanh nghiệp cũng nên chọn các nhà đầu tư
chiến lược nước ngoài một phần vừa mở rộng thị trường ra nước ngoài một
phần học tập cách quản lý hoạt động chuyên nghiệp của đối tác chiến lược.
b. Nâng cao chất lượng và đa dạng các gói dịch vụ để thu hút tham gia
Bảo hiểm
Việc hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ luôn đặt ra cho các doanh nghiệp
làm thế nào để đa dạng hoá sản phẩm tạo sự khác biệt về mặt tiện ích cho
sản phẩm mình với các đối thủ cạnh tranh để thu hút được khách hàng.
Doanh nghiệp kinhh doanh bảo hiểm cũng phải ngoại lệ, việc đa dạng hoá và
nâng cao chất lượng các gói dịch vụ là vấn đề quan trọng. Bên cạnh đó các
doanh nghiệp cũng phải phát triển hệ thống phân phối các gói dịch vụ tới
khách đặc biệt trong lĩnh vực thông tin điện tử và đại lý bảo hiểm.
c. Tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp Bảo hiểm và
các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực khác
Tăng cường mối quan hệ giữa các doanh nghiệp hoạt động Bảo hiểm sẽ
giảm thiểu việc cạnh tranh thiếu lành mạnh của các doang nghiệp trong
ngành, phòng chống trục lợi và xây dựng được hình ảnh của ngành. Đồng
thời việc tạo lập quan hệ với hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán
sẽ tạo cho các doanh nghiệp Bảo hiểm có thêm các kênh phân phối hoàn hảo
cũng như tìm được các cơ hội đầu tư tốt đảm bảo yếu tố an toàn và sinh lời.
40
d. Xây dựng chiến lược đầu tư hợp và danh mục đầu tư phù hợp
Doanh nghiệp cần phải xây dựng chiến lược đầu tư tài chính và danh mục
đầu tư tài chính phù hợp với từng giai đoạn cho từng tài sản đầu tư trực tiếp
và đầu từ gián tiếp.
e. Đào tạo nâng cao chất lượng cán bộ hoạt động trong các lĩnh vực
Bảo hiểm
Đào tạo cán Bộ bảo hiểm vừa có chuyên môn nghiệp vụ vừa có đạo đức
nghề nghiệp cũng chính là một cách quảng bá tên tuổi doanh nghiệp và để
lại ấn tượng sâu sắc với khách hàng, chính vì thế khâu đào tạo và tuyển cán
bộ Bảo hiểm cần phải được kiểm tra thực hiện tốt.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thị trường Bảo hiểm Thương mại Việt Nam.pdf