Đề tài: Thực tế nhập CIF xuất FOB của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam
Lời mở đầu
Nội dung
Chương I: Giới thiệu chung về cơ sở giao hàng FOB, CIF
1. Điều kiện giao hàng FOB
1.1. Khái niệm
1.2. Nghĩa vụ của hai bên
2. Điều kiện giao hàng CIF
2.1. Khái niệm
2.2. Nghĩa vụ của hai bên
Chương II: Thói quen nhập CIF xuất FOB của các Doanh nghiệp Việt Nam
1. Thực trạng
1.1. Về xuất khẩu
1.2. Về hập khẩu
2. Đánh giá những khó khăn và thuận lợi của doanh nghiệp Việt Nam khi nhập CIF xuất FOB
2.1. Thuận lợi
2.2. Khó khăn
2.2.1. Khó khăn đối với Việt Nam khi không giành được quyền vận tải và bảo hiểm
2.2.2. Khó khăn đối với các doanh nghiệp
3. Nguyên nhân
3.1. Ngành hàng hải nước ta chưa thực sự đủ mạnh
3.2. Ngành bảo hiểm nước ta chưa thực sự có uy tín
3.3. Chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành
3.4. Về phía Nhà nước
3.5. Một số công ty nước ngoài gây sức ép
3.6. Các Doanh nghiệp VN sợ rủi ro khi phải thuê tàu và mua bảo hiểm
3.7. Thiếu kiến thức về vận tải và bảo hiểm
3.8. Khó khăn về vốn
3.9. Thiếu nguồn nhân lực
Chương III. Một số biện pháp
1. Đối với Nhà nước
2. Đối với các Doanh nghiệp vận tải và bảo hiểm
3. Đối với các doanh nghiệp Xuất nhập khẩu
Kết luận
28 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8329 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực tế nhập CIF xuất FOB của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Đ
ối với mỗi quốc gia, ngoại thương đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế. Ngoại thương không những là cầu nối giữa các quốc gia, bản thân các doanh nghiệp sản xuất mà còn là một yếu tố thúc đẩy nền kinh tế phát triển, làm cho đời sống của người dân mỗi nước càng ngày càng được cải thiện sung túc và không ngừng được nâng cao. Việt Nam từ năm 1986 với chính sách đổi mới, cũng đã bắt đầu mở cửa ra thị trường thế giới, hội nhập toàn cầu. Các doanh nghiệp thi đua sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế so sánh, được thế giới ưa chuộng, bên cạnh đó đồng thời cũng nhập khẩu những trang thiết bị may móc , nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất và những đồ dùng cần thiết khác, đáp ứng nhu cầu xã hội. Nhưng dù muốn xuất khẩu hay nhập khẩu mặt hàng nào đó, cũng cần phải có một khâu trung gian là khâu vận chuyển hàng hóa giữa các nước, đó là tầm quan trọng của ngành vận tải. Hiện nay các phương thức vận tại thường tuân theo Incoterms 2000 với 13 cơ sở giao hàng truyền thống, trong đó có 3 điều kiện hay sử dụng nhất là FOB, CFR, CIF. Nhưng nếu như các nước phát triển, họ thường nhập khẩu theo điều kiện giá FOB, xuất khẩu theo điều kiện giá CIF thì ở nước ta, các doanh nghiệp lại làm điều ngược lại, là nhập khẩu giá CIF, còn xuất khẩu giá FOB. Có nhiều nguyên nhân để giải thích cho tập quán ngược này của các doanh nghiệp Việt Nam, nhưng từ bước tìm hiểu nguyên nhân chúng ta phải tìm ra các giải pháp để tìm cách thay đổi thực trạng không thuận lợi này.
Nhận thức được tính cần thiết của vấn đề này, chúng em xin chọn đề tài “Thực tế nhập CIF xuất FOB của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam“ làm đề tài tiểu luận của chúng em.
Trong quá trình thực hiện đề tài, do những hạn chế trong việc tiếp cận và xử lí thông tin, bài tiểu luận không thể tránh những sai sót, cần phải sửa chữa bổ sung, mong nhận được những ý kiến đóng góp của cô giáo và các bạn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn !
Chương I
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CƠ SỞ GIAO HÀNG FOB, CIF
FOB, CIF...là các điều kiện giao hàng theo qui ước của INCOTERMS được công nhận và sử dụng trên toàn thế giới. Qui ước Incoterms này được phòng thương mại quốc tế ICC tại Paris chỉnh lý. Có nhiều phiên bản Incoterms nhưng phiên bản mới nhất là 2000. Trong các hợp đồng ngoại thương, các điều khoản về giao hàng bắt buộc phải đề rõ phương thức giao hàng nào và thực hiện theo Incoterms phiên bản nào. FOB và CIF là 2 điều kiện giao hàng được sử dụng phổ biến nhất tại Việt Nam.
1. Điều kiện giao hàng FOB
1.1. Khái niệm:
FOB được viết tắt từ Free On Board, nghĩa là Miễn trách nhiệm khi đã giao hàng lên tàu. Khi áp dụng điều kiện này thì bên bán hàng cần phải trả cước phí xếp hàng lên tàu, còn những khoản chi phí khác như: cước vận tải, phí bảo hiểm thuộc về trách nhiệm của bên mua hàng. Khi hàng hóa vượt qua lan can tàu tại cảng xếp hàng thì cũng có nghiã là sự chuyển dịch các rủi ro được diễn ra giữa người mua và người bán, hay nói cách khác người mua phải chịu tất cả chi phí và rủi ro về mất mát hoặc hư hại đối với hàng hoá kể từ sau điểm ranh giới đó.
Về mặt quốc tế, thuật ngữ này chỉ rõ cảng xếp hàng, ví dụ "FOB New York" hay "FOB Hải Phòng". Ðiều kiện FOB đòi hỏi người bán làm thủ tục thông quan xuất khẩu cho hàng hoá. Ðiều kiện này chỉ sử dụng cho vận tải đường biển hay đường thuỷ nội địa. Ở Việt Nam, điều kiện FOB được các doanh nghiệp áp dụng chủ yếu khi Việt Nam là bên xuất khẩu.
1.2. Nghĩa vụ của hai bên
1.2.1. Người bán phải:
Lấy giấy phép xuất khẩu, nộp thuế và lệ phí xuất (nếu cần)
Giao hàng lên tàu.
Cung cấp chứng từ vận tải hoàn hảo chứng minh hàng đã được bốc lên tàu
Chịu chi phí bốc hàng lên tàu theo tập quán của cảng nếu chi phí này chưa tính trong tiền cước.
1.2.2. Người mua phải:
Kí hợp đồng chuyên chở và trả cước.
Trả tiền chi phí bốc hàng lên tàu nếu chi phí này được tính vào trong cước
Lấy vận đơn
Trả tiền chi phí dỡ hàng
Chịu mội rủi ro và tổn thất về hàng kể từ khi hàng đã qua hẳn lan can tàu ở cảng bốc.
2. Điều kiện giao hàng CIF
2.1. Khái niệm
CIF (COST, INSURANCE AND FREIGHT)...named port of destination = Giá thành, bảo hiểm và cước phí ....cảng đến quy định. Khi giá cả được nêu là CIF, nó có nghĩa là giá của bên bán hàng đã bao gồm giá thành của sản phẩm, cước phí vận chuyển và phí bảo hiểm. CIF là một thuật ngữ thương mại quốc tế. Địa điểm chuyển giao rủi ro giữa người bán và người mua cũng là địa điểm hàng hóa vượt qua lan can tàu tải cảng xếp hàng quy định.
Điều khoản này thường nằm trong điều khoản Giá cả trong hợp đồng ngoại thương (UNIT PRICE). Ví dụ: USD 2000/MT , CIF Ho Chi Minh City port, incoterms 2000.
2.2. Nghĩa vụ của các bên:
2.2.1 Người bán
Ký hợp đồng chuyên chở hàng hóa từ cảng đi quy định,
Trong thời gian và tại địa điểm quy định theo hợp đồng, xếp hàng lên tàu và chi trả phí vận chuyển cho đến cảng đích, đồng thời thông báo cho bên mua được biết.
Chịu mọi rủi ro tổn thất và chi phí về hàng hóa trước khi hàng hóa được đưa qua lan can tàu
Theo hợp đồng quy định, phải trả phí bảo hiểm trong quá trình vận chuyển.
Lấy giấy phép xuất khẩu và các chứng từ có liên quan, làm thủ tục hải quan cho hàng hóa xuất khẩu đồng thời chi trả thuế và các phí có liên quan (nếu có).
Cung cấp vận đơn tại cảng đích và chứng từ bảo hiểm
2.2.2 Người mua:
Nhận hàng, lấy vận đơn, các chứng từ liên quan và thanh toán tiền hàng
Chịu mọi rủi ro tổn thất và chi phí về hàng hóa khi hàng hóa đã được đưa qua lan can tàu
Chịu chi phí dỡ hàng kể cả chi phí lõng hàng và phí cầu tàu trừ khi những chi phí đó do người bán chịu theo hợp đồng quy định.
Lấy giấy phép nhập khẩu và các chứng từ khác có liên quan
Làm thủ tục hải quan và chi trả các phí phát sinh có liên quan (nếu có).
Chương II
THÓI QUEN NHẬP CIF XUẤT FOB CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
1. Thực trạng
Ở các nước phát triển, khi xuất khẩu hàng hóa, người bán thường tìm mọi cách để giao hàng với điều kiện tiền hàng cộng bảo hiểm cộng cước, bán theo giá CIF. Khi mua hàng, tức là khi nhập khẩu, người mua lại luôn luôn đàm phán để mua được hàng theo điều kiện giao hàng lên tàu, mua hàng theo giá FOB.
Ở nước ta, phần lớn các doanh nghiệp kinh doanh xuất, nhập khẩu đang thực hiện theo phương thức ngược lại. Khi xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam giao hàng theo giá FOB, tức là giao hàng cho bên mua trên tàu của bên mua tại cảng Việt Nam. Khi mua hàng, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam lại nhận hàng trên tàu của người bán tại cảng Việt Nam.Trong khi chúng ta đang đổ tiền tỷ làm cảng thì hàng tỷ USD lợi nhuận từ vận tải biển lại đang để cho đội tàu nước ngoài lấy đi một cách dễ dàng. Hàng năm khoảng 80% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam được vận chuyển qua đường biển, thế nhưng đội thương thuyền Việt Nam cố gắng lắm cũng chỉ dành được khoảng 20%, còn lại 80% thị phần lợi nhuận dễ kiếm này do các đội tàu biển nước ngoài nắm giữ…
Theo báo cáo của Bộ trưởng Bộ Công Thương, trong năm 2007 cả nước xuất khẩu 48,56 tỷ USD (trị giá FOB), nhập khẩu 62,70 tỷ USD (trị giá CIF). Cán cân thương mại nghiêng về nhập khẩu, ta nhập siêu 14,14 tỷ USD. Khi nhập giá CIF, tức ta đã mua hàng của nước ngoài bị đội giá lên nhiều, không những mất tiền hàng gốc mà còn thêm giá cho vận chuyển và bảo hiểm, mất nhiều ngoại tệ cho việc nhập khẩu trong khi xuất giá FOB ta lại không thu được ngoại tệ cho vận tải hoặc bảo hiểm nhiều để bù đắp lại, dẫn tới cán cân thương mại bị thâm hụt.
1.1. Về xuất khẩu:
Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam xuất theo giá FOB là chủ yếu. Ngay cả những mặt hàng xuất khẩu với khối lượng lớn như dầu thô, than, gạo… đội tàu VN rất khó len chân, phần vì không có tàu chuyên dụng, phần do năng lực đàm phán để giữ nguồn hàng.
Tham khảo giá một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam ngày 6/6/2009
Cà phê
Cà phê nhân robusta chưa rang. Loại 1, 01cont20
1,485.00 USD/tấn
FOB
Cảng Cát Lái (Hồ Chí Minh)
Italia
Cà phê chưa rang Robusta loại 2
1,518.60 USD/tấn
FOB
Cảng Cát Lái (Hồ Chí Minh)
Mêhicô
Chè
BLACKTEA P3(TRà ĐEN)
0.70 USD/kg
CF
Cảng Cát Lái (Hồ Chí Minh)
Đài Loan
Chè đen Việt Nam BPS
861.95 USD/tấn
FOB
Cảng Hải Phòng
Nga
Hải sản
Mực ống YS16pcsH
7.60 USD/kg
CF
Cảng Tiên sa (Đà Nẵng)
Nhật Bản
Tôm nõn P&D đông lạnh B
4.70 USD/kg
CFR
Cảng Hải Phòng
Nhật Bản
Chả cá đông lạnh có sử dụng đờng tinh luyện(0.08)
1.20 USD/kg
CANDF
Cảng Vict
Nhật Bản
Gạo
Gạo 15% tấm.
422.00 USD/tấn
FOB
ICD Tây Nam (Cảng Saigon KV IV)
Kenya
Gạo 25% tấm
400.00 USD/tấn
FCA
ICD Tây Nam (Cảng Saigon KV IV)
Singapore
Gạo 5 %tấm
460.00 USD/tấn
FOB
Cảng Vict
Ăngôla
Hạt điều
Hạt điều nhân WW240
5.58 USD/kg
FOB
Cảng Cát Lái (Hồ Chí Minh)
Mỹ
Nhân hạt điều đã qua sơ chế loại W320
5.15 USD/kg
DAF
Cửa khẩu Tà Lùng (Cao Bằng)
Trung Quốc
Phân bón
Phân hữu cơ
218.50 USD/tấn
FOB
Cảng Cát Lái
Taiwan
Phân bón NPK
162.00 USD/tấn
FOB
Cảng khô – ICD Thủ Đức
Malaysia
( Nguồn : )
Các doanh nghiệp Việt Nam giành được nhiều hợp đồng mua bán thương mại, nhiều mặt hàng số lượng và giá trị xuất khẩu đứng nhất nhì trên thị trường thế giới như gạo, cà phê, cao su…. nhưng phải đến 70% là xuất khẩu theo điều kiện giao hàng FOB, 10% theo FCA.
Tham khảo một số lô hàng mây tre lá, thảm sơn mài xuất khẩu:
Thị trường
Chủng loại
Lượng
Đơn giá
ĐK giao
Cảng-cửa khẩu
Áo
Hộc chuối 32×33x32cm
1.260
4,26 USD/cái
FCA
Hải phòng
Mành tre (90×245 cm)
300
3,60 USD/cái
FOB
Hải Phòng
Đài Loan
Mành tre 180×90 cm
300
2,00 USD/cái
FOB
Hải phòng
Sọt tre 52×42x52 cm
56.700
0,16 USD/cái
FOB
Tân Cảng
Mẹt tre 180×90 cm
300
2,00 USD/cái
FOB
Hải phòng
Đức
Làn bèo bộ 3
440
5,20 USD/bộ
FOB
Hải Phòng
Bát tre tròn 30H11.5
410
2,90 USD/cái
FOB
Hải Phòng
Hộp tre nâu Bộ 2-25×10xH31
560
3,92 USD/bộ
FCA
Phước Long
Hộ tre ô van bộ 3
288
3,70 USD/cái
FCA
Phước Long
Mỹ
Mành tre (310×1830 cm)
10
134,00 USD/cái
FOB
Hải Phòng
Đĩa chuối hình Oval – 47×35
240
2,39 USD/cái
FCA
Cát Lái
Tấm trải bàn lá buông -30×41cm
5760
0,22 USD/cái
FCA
Transimex
chậu đan rối bằng chuối – R56xH38
558
5,70 USD/cái
FCA
Cát Lái
Nhật Bản
Bình phong tre – 04-1087
50
22,49 USD/cái
FOB
Cát Lái
Ghế tre – 04-978L
100
16,67 USD/cái
FOB
Cát Lái
Khay giang 910-015
4.800
0,17 USD/cái
FOB
Hải Phòng
Hộp giang 910-057
3.480
0,189 USD/cái
FOB
Hải Phòng
…
( Nguồn: www.vn-seo.com. )
1.2 Về nhập khẩu
Đối với hàng hóa nhập khẩu (chiếm trên 50% trên tổng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu) từ các châu lục xa như châu Mỹ, châu Âu… vận tải biển Việt Nam cũng chỉ biết đứng nhìn. Hầu hết chúng ta không có thế lực trong đàm phán và để các nước khác giành quyền vận tải.
Tham khảo giá nhập khẩu các loại trái cây trong 2 tuần đầu tháng 03/2007
Tên hàng
Thị trường nhập khẩu
Cửa khẩu; ĐKGH
Giá nhập khẩu (USD/tấn)
Hồ đào
Pháp, Hồng Kông, Hoa Kỳ
CFR, Hải Phòng
400
CIF; Hải Phòng
1.200; 2.000 và 2500
Quýt
Trung Quốc
DAF; Tân Thanh
144 đến 200
Hồ trăn
Trung Quốc, Pháp, Hồng Kông, Iran, Hoa Kỳ
CFR; Hải Phòng
50; 400; 1100 và1600
CIF; Hải Phòng
1.000
CIF, Tân Cảng
3.860
Nho
Úc, Trung Quốc, Ả Rập, Nam Phi
DAF; Hoành Mồ- Quảng Ninh
500
DAF; Cát Lái, Khánh Hội, Tân Cảng
1200
CIF; Tân Sơn Nhất
1800
CIF; Hải Phòng
3.500
Phỉ
Hồng Kông, Hoa Kỳ
CFR; Hải Phòng
400
CIF; Hải Phòng
2000; 2500
CFR; Quảng Ninh
3000
Táo
Trung Quốc, Pháp, Hoa Kỳ
DAF; Tân Thanh
134 đến 220
CIF; Cát Lái, Tân Cảng, Cảng Việt
800
CIF; Nội Bài
2350
Hạnh nhân
Hồng Kông, Hoa Kỳ
CFR; Hải Phòng
400
CIF; Hải Phòng
2000
Lê
Trung Quốc, Hoa Kỳ
DAF; Tân Thanh
171 đến 185
Chuối
Hồng Kông, Philipin
CFR; Hải Phòng
400; 400; 500
( Nguồn: www.rauhoaquavietnam.vn )
Trên đây đều là những ví dụ minh chứng cho thói quen nhập CIF, bán FOB của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam. Nó cho thấy đây là một thực trạng phổ biến và đã ăn sâu vào tiềm thức của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp luôn muốn tránh việc đi thuê tàu, và những thủ tục rườm rà mà chỉ muốn ngồi không nhận hàng đến và giao hàng đi. Cứ thế, hàng năm, gần 170 triệu tấn hàng xuất nhập qua hệ thống cảng biển của Việt Nam mang lại nguồn thu cho ngành vận tải biển vài tỷ USD nhưng gần 80% thị phần thuộc về các công ty vận tải biển nước ngoài...
2. Đánh giá những khó khăn và thuận lợi của doanh nghiệp Việt Nam khi xuất FOB nhập CIF
2.1. Thuận lợi:
Các doanh nghiệp Việt Nam chưa có kinh nghiệm và những kiến thức đầy đủ trong việc thuê tàu và bảo hiểm, vì vậy, nếu nhập CIF và xuất FOB, thì sẽ tránh được những rủi ro khi thuê tàu, như tàu không đủ chất lượng, …
Hơn nữa, với những doanh nghiệp có những lô hàng xuất nhập khẩu có khối lượng và giá trị không quá cao thì việc thuê tàu sẽ làm mất thời gian, tiền bạc, và công sức cho bản thân doanh nghiệp. Thuê tàu trong những trường hợp này là hoàn toàn không cần thiết và phi hiệu quả.
2.2. Khó khăn
2.2.1. Khó khăn với Việt Nam khi không giành được quyền vận tải và bảo hiểm:
Không phảt triển được ngành bảo hiểm và vận tải trong nước:
Vì khi đàm phán các doanh nghiệp không giành được quyền vận tải nên không tạo điều kiện cho các hãng vận tải và công ty bảo hiểm trong nước phát triển, cũng không nâng cao được uy tín của ngành vận tải và bảo hiểm Việt Nam trên thị trường thế giới.
Không tăng thu cho ngân sách nhà nước:
Vì các công ty vận tải trong nước không có cơ hội kinh doanh thì nguồn thu của ngân sách nhà nước từ việc thu thuế của họ cũng giảm đi đáng kể.
c) Không tận dụng được các nguồn lực trong nước và giải quyết công ăn việc làm cho xã hội:
Các ngành xuất nhập khẩu, vận tải, giao nhận,bảo hiểm không phát triển thì nguồn lao động dồi dào trong nước (bao gồm cả lao động phổ thông và lao động trí thức) không thể được tận dụng triệt để, gây lãng phí nguồn lực.
d) Tăng chi giảm thu ngoại tệ gây ảnh hưởng xấu đến cán cân thương mại của quốc gia:
Việc mua CIF sẽ dẫn tới bên mua là Việt nam sẽ phải chi trả một lượng ngoại tệ khi mua bảo hiểm và trả cước phí vận tải cho các doanh nghiệp nước ngoài. Cán cân thương mại của một quốc gia là giá trị của xuất khẩu ròng tức là giá trị của hàng xuất trừ đi giá trị của hàng nhập. Vì hiện tại các doanh nghiệp Việt Nam thường không giành được quyền vận tải và mua bảo hiểm nên kim ngạch xuất khẩu sẽ giảm và kim ngạch nhập khẩu sẽ tăng, gây ảnh hưởng xấu đến cán cân thương mại quốc tế của quốc gia.
2.2.2. Khó khăn đối với Doanh nghiệp:
a) Không tận dụng được các cơ hội mua bán:
Trong buôn bán không hiếm trường hợp hàng hóa được chuyên chở bằng những con tàu “ma”, chủ tàu có lai lịch địa chỉ không rõ ràng, bởi vậy tổn thất hàng hóa hoặc tàu bị “mất tích” một cách khó hiểu xảy ra liên tục.
Cũng không ít trường hợp thuê phải tàu có nguồn tài chính kém nên con tàu hư hỏng nặng, bị bắt giữ để trừ nợ và con tàu vĩnh viễn không bao giờ đến được cảng đích.
Mặt khác, nếu người chuyên chở là những hãng không có uy tín, họ sẵn sàng ký lùi vận đơn thậm chí phát hành vận đơn khống cho người bán. Hiện tượng ký lùi vận đơn hiện nay rất phổ biến trong chuyên chở hàng hóa kể cả bằng tàu chợ lẫn tàu chuyến. Mặc dù người chuyên chở có thể gặp những rắc rối khi ký lùi vận đơn cho người bán nhưng trong thực tế họ vẫn chấp nhận vì trong hầu hết các trường hợp, lý do là nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường chứ không phải vì mục đích lừa đảo.
Cũng vì thiếu kinh nghiệm trong việc mua bảo hiểm trong quá trình vận chuyển cho hàng hóa cho nên nhiều trường hợp khách hàng mua bảo hiểm tại những công ty bảo hiểm có khả năng tài chính thấp, không có uy tín, thậm chí lừa đảo.Khi hàng bị tổn thất có tốn bao nhiêu công sức, chi phí cũng không đòi được bồi thường.
b) Không có cơ hội kinh doanh vận tải và bảo hiểm:
Kinh doanh vận tải và bảo hiểm có thể mang lại nguồn lợi nhuận lớn cho các doanh nghiệp có kinh nghiệm. Chẳng hạn như đã giành đựoc quyền vận tải và dự đoán giá cước trên thị trường đang có xu hướng giảm xuống thì khi ký hợp đồng vận tải sẽ được hưởng mức chênh lệch cước phí giữa thời điểm ký hợp đồng mua bán với thời điểm ký hợp đồng vận tải. Hoặc nếu mua bán với số lượng lớn hàng hóa và thường xuyên thì họ có thể được hưởng hoa hồng từ các hãng vận tải hoặc được hưởng mức cước thấp hơn. Cũng tương tự như vậy đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.
c) Không nâng cao được kiến thức và kinh nghiệm về vận tải, bảo hiểm:
Vì không được cọ xát nên trình độ, kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ công nhân viên về xuất nhập khẩu, bảo hiểm và vận tải đều không được nâng cao. Nếu xảy ra khiếu nại hay tranh chấp thì đội ngũ công nhân viên này không thể giải quyết công việc nhanh chóng, linh hoạt và đảm bảo quyền lợi cho doanh nghiệp trong mỗi tình huống cụ thể.
d) Không chủ động được về thời gian và địa điểm giao hàng :
Vì Việt Nam đa phần đều bán FOB nên người mua nước ngoài thường giành được quyền chỉ định tàu để chuyên chở hàng hóa nên quyền chọn cảng bốc hàng thuộc về người mua. Nếu trong hợp đồng quy định một vùng hoặc một số cảng bốc hàng, người mua luôn chọn cảng bốc hàng nào gần nơi đến nhất và có tuyến đuờng chuyên chở thuận lợi nhất. Nếu cảng do người mua chọn lại khá xa với nơi tập kết hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam thì chúng ta lại phải chịu thêm rủi ro và chi phí vận chuyển nội địa để đưa hàng đến cảng bốc.
Mặt khác khi bán FOB nếu doanh nghiệp Việt Nam chưa chuẩn bị xong hàng hóa mà người mua đã chỉ định phương tiện vận tải đến để nhận hàng thì khi đó chúng ta sẽ phải chịu những chi phí phát sinh. Đặc biệt với những mặt hàng tươi sống như rau quả, thủy sản… thì chỉ cần chậm một vài ngày là chất lượng hàng hóa sẽ suy giảm rõ rệt. Hay đối với những lô hàng có giá trị lớn, việc thu tiền hàng sẽ chậm lại và lãi suất trả tiền ngân hàng sẽ tăng lên. Đối với một số mặt hàng khan hiếm trên thị trường thì việc gom hàng không phải đơn giản và nhanh chóng vì thế rất nhiều trường hợp bị phạt vì gom hàng không đủ phải kéo dài thời hạn giao hàng và người bán phải chịu chi phí lưu tàu.
Nếu giành được quyền vận tải thì người bán sẽ có thể chủ động được tình hình chuẩn bị hàng hóa của mình để chỉ định phương tiện vận tải đến vào thời điểm phù hợp, vì vậy tránh được chi phí lưu kho bãi, rủi ro của hàng hóa và tránh bị đọng vốn trong thời gian chờ phương tiện vận tải.Ngoài ra do bên giành được quyền thuê phương tiện vận tải sẽ có quyền quyết định thời điểm giao hàng. Bên đó sẽ còn có thể có lợi về mức giá thanh toán cho chuyến hàng đó nếu hợp đồng quy định mức giá thanh toán sẽ được xác định căn cứ vào giá trên thị trường thế giới lúc giao hàng.
e) Không chủ động được trong việc di chuyển rủi ro và các chi phí phát sinh liên quan đến hàng hóa cho người mua:
Khi xuất khẩu theo điều kiện FOB, người bán chỉ chuyển được rủi ro và các chi phí liên quan đến hàng hóa sang cho người mua khi hàng đã được đưa qua lan can tàu. Mà người chuyên chở hay tàu là do người mua chỉ định, nên nếu người mua không chỉ định kịp thời thì người bán vẫn sẽ phải chịu trách nhiệm về hàng hóa cho đến khi đã giao hàng cho người chuyên chở.
Trong khi nếu bán theo điều kiện CIF là các doanh nghiệp Việt Nam sẽ hoàn toàn chủ động chuyển rủi ro và các chi phí phát sinh liên quan đến hàng hóa cho người chuyên chở do chính mình chỉ định khi hàng hóa được đưa qua lan can tàu tại cảng xếp hàng quy định.
f )Không giành được quyền chọn dung sai về số lượng hàng hóa:
Khi mua bán hàng hóa với số lượng lớn, hợp đồng thường quy định một khoản dung sai về số lượng. Theo tập quán thuơng mại quốc tế, bên thuê phương tiện vận tải thường được quyền chọn dung sai. Bên giành được quyền chọn dung sai sẽ có lợi hơn khi giá thị trường lúc giao hàng có biến động tăng hoặc giảm so với giá quy định trong hợp đồng.
Khi xuất khẩu theo điều kiện FOB, bên mua sẽ được quyền chọn dung sai, nếu chúng ta không giao đủ số lượng hàng hóa mà người mua đã chọn thì phải trả một khoảng cước khống hay bị bên mua phạt do không đủ số lượng hàng hóa. Ngược lại nếu số lượng hàng hóa do ta chuẩn bị lớn hơn số lượng cần giao thì bên bán sẽ phải chịu chi phí lưu kho, đọng vốn.
g) Khó khăn khi lập bộ chứng từ thanh toán theo L/C:
Vì hợp đồng vận tải do bên mua kí kết, nên bên bán FOB có thể sẽ không lấy được chứng từ vận tải từ người chuyên chở theo hợp đồng vận tải. Điều này có thể gây khó khăn khi trong L/C đòi hỏi bộ chứng từ thanh toán phải có chứng từ vận tải đó.Nếu người mua chỉ định phương tiện vận tải không đủ trọng tải để chuyên chở toàn bộ số lượng hàng hóa hoặc hàng hóa sẽ được chuyển tải dọc đường, mà người bán FOB không phát hiện ra và vẫn giao hàng thì người bán sẽ không lập được bộ chứng từ phù hợp với L/C. Còn nếu người bán phát hiện ra và yêu cầu người mua chỉnh lại L/C thì có thể dẫn đến việc thời gian giao hàng bị chậm trễ. Có trường hợp bên mua không chịu sửa L/C dẫn đến bên bán không thể thanh toán được.
h)Rủi ro khi nhận hàng từ người chuyên chở:
Khi bên nhập khẩu CIF xuất trình B/L, đại lý của hãng tàu ở bến cảng vẫn không chịu cấp lệnh giao hàng (D/O) với lý do bên bán vẫn chưa thanh toán hoặc thanh toán chưa đủ cước phí vận tải mặc dù như thế là trái với điều khoãn đã ghi trên vận đơn. Do đó bên nhập khẩu thường phải chịu thiệt, phải thanh toán cước phí cho chủ tàu để lấy được hàng.
i) Rủi ro, bất lợi phát sinh từ việc kí hợp đồng vận tải:
Nếu nhập CIF, người bán có thể sẽ thuê phương tiện cũ kĩ, thiết bị lạc hậu để chở hàng nhằm giảm cước phí cho họ, đồng thời điều đó cũng khiến rủi ro của hàng hóa tăng lên. Mà rủi ro này lại do bên mua chịu.
Nếu bán FOB, phương tiện vận tải do người mua chỉ định đến có thể không thích hợp với nơi người bán giao hàng, do đó bên bán phải chịu thêm chi phí và rủi ro để đưa được hàng lên phương tiện đó.
Không giành được quyền vận tải thì còn có thể phải chịu thêm tiền phạt bốc dỡ hàng hóa chậm bất hợp lý nếu trong hợp đồng có thêm các điều kiện WIPON, WIBON, WCCON, WIFON,…
j) Khó khăn trong cung cấp hàng:
Bán FOB thì người xuất khẩu chỉ có một sự lựa chọn duy nhất, đó là phải giao hàng lên phương tiện vận tải do người mua chỉ định. Do đó bên bán không thể sử dụng những cách khác thích hợp với mình nhất để thực hiện việc cung cấp được.Tóm lại, bên bán không được gửi hàng thực tế lên phương tiện mình chỉ định, mà cũng không được mua hàng trong quá trình vận chuyển để cung cấp cho người mua.
k) Không thể linh hoạt thay đổi khách hàng:
Nếu bán FOB mà bên bán không có khả năng giao hàng và cùng lúc đó có một người cung cấp khác lại có khả năng giao hàng, thì bên mua hoàn toàn được phép thay đổi người cung cấp hàng cho mình mà không cần hủy hợp đồng vận tải. Như thế bên bán sẽ gặp phải khó khăn tương đối lớn.
l) Thiệt hại khi hủy hợp đồng:
Vì không giành được quyền thuê vận tải nên không tránh được việc phải bồi thường cho bên kia về khoản thiệt hại họ bỏ ra để thuê phương tiện vận tải.
m) Tổn thất của hàng hóa trong quá trình vận chuyển từ kho ra lan can tàu:
Nếu bên bán FOB không mua bảo hiểm để bảo vệ hàng hóa trong quá trình vận chuyển đến lan can tàu thì người bán phải gánh chịu những rủi ro này.
n) Đóng phí bảo hiểm:
Theo CIF or CIP, nếu để đối phương giành được quyền mua bảo hiểm thì họ sẽ mua bằng tiền của hợp đồng (ngoại tệ), do đó khi thanh toán, người mua phải thanh toán cả phí bảo hiểm đó trong giá hàng.
o) Đòi công ty bảo hiểm bồi thường:
Nếu hàng hóa được bảo hiểm bởi các công ty bảo hiểm nước ngoài, khi xảy ra tổn thất rủi ro trong nước thì các doanh nghiệp phải mất một khoản chi không nhỏ chi phí điện thoại, fax,… và nhiều khi còn phải làm visa xuất nhập cảnh, tốn kém chi phí cho người đi đòi. Đôi khi do không có kinh nghiệm đòi bảo hiểm bồi thường, các doanh nghiệp đành phải tự chịu tổn thất mà không được bồi thường.
p) Lựa chọn điều kiện bảo hiểm:
Trong trường hợp mua CIF: bên bán chỉ phải mua bảo hiểm theo điều kiện tối thiểu. Thậm chí nếu yêu cầu họ mua bảo hiểm theo điều kiện cao hơn, dù họ vẫn đáp ứng, nhưng lại loại trừ hàng loạt những rủi ro mà chúng ta không kiểm soát được.Nếu không giành được quyền mua bảo hiểm thì sẽ không được tự do lựa chọn những điều kiện bảo hiểm thích hợp cho hàng hóa.
3. Nguyên nhân
Hiện nay hầu hết hàng xuất khẩu ở Việt Nam được kí hợp đồng theo điều kiện FOB và nhập khẩu theo điều kiện CIF. Việc làm này đã hình thành ngay từ khi chúng ta tham gia buôn bán trong thị trường thế giới và trở thành một thói quen. Các khách hàng nước ngoài cũng dần có thói quen hỏi mua với điều kiện FOB và chào bán với giá CIF khi giao dịch mua bán với các doanh ngiệp Việt Nam. Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến việc hình thành thông lệ này ?
3.1.Ngành hàng hải nước ta chưa thực sự đủ mạnh
Thực tế cho thấy sự phát triển của nghành hàng hải hiện nay ở Việt Nam chưa tương ứng với tiềm năng và lợi thế của đất nước. Theo thống kê số liệu năm 2007, vận tải biển của cả nước mới đạt năng lực 3,6 triệu DWT, bằng 18% tổng năng lực vận tải biển. Trong khi đó, xuất khẩu và nhập của Việt Nam chiếm trên 50% GDP. Trong số 100 đồng làm ra thì đã có tới 60 đồng mang bán ra nước ngoài và nhập khẩu số lượng lớn các nguyên nhiên liệu phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu. Nhưng đến nay năng lực đội tàu và cảng biển đều không đáp ứng được .
Chất lượng của đội tàu biển chưa cao, các tàu phần lớn thường có tuổi từ 10 đến 20 năm, thậm chí có những tàu từ 25 đến 30 năm. Trang thiết bị lạc hậu, mức tiêu hao nhiên liệu cao, chi phí cho sửa chữa lớn. Hàng hoá nếu được chở trên những tàu như vậy sẽ gặp nhiều rủi ro, phí bảo hiểm tăng lên. Đó là chưa kể đến một số nước (như các nước G7) cấm tàu trên 20 tuổi vào cảng của họ. Các đội tàu của Việt Nam chủ yếu vận chuyển theo từng chuyến, tình trạng để tàu chạy không hàng còn nhiều. Công nghiệp đóng tàu tuy đã có nhiều tiến bộ vượt bậc song còn phụ thuộc nhiều về thiết bị, nhiên liệu, vật tư, máy móc… từ nước ngoài. Cơ cấu đội tàu chưa phù hợp với thời gian dài , thiếu tàu chở hàng container bách hoá, tàu chuyên dụng .
Một khó khăn khác chính là việc thiếu hụt các nhà máy sửa chữa tàu biển. Trong khi chúng ta đang đầu tư hàng loạt dự án xây dựng các nhà máy đóng tàu, thì lại đầu tư chưa đúng mức xây dựng những nhà máy sửa chữa, nâng cấp tàu biển. Tàu chạy đến kỳ bảo hành, hỏng hóc, tai nạn đều phải mang ra nước ngoài rất tốn công sức và tiền bạc.
Các dịch vụ làm hàng hải và đại lý vận tải chưa được mở rộng ra thị trường nước ngoài. Mạng lưới vận tải của Việt Nam ở nước ngoài còn quá ít, hệ thống đại lý thưa thớt.
3.2. Ngành bảo hiểm chưa thực sự có uy tín
Trong thời gian dài trước đây VN chỉ có một công ty bảo hiểm được độc quyền trong lĩnh vực bảo hiểm, việc giải quyết kiếu nại và bồi thường tổn thất cho khách hàng còn chậm chễ và còn khó khăn, uy tính đối với khách hàng nước ngoài, ngay cả đối với khách hàng trong nước cũng rất thấp.
Đội ngũ cán bộ bảo hiểm được đào tạo chưa nhiều, do đó khi giải quyết khiếu nại của khách hàng thường rất lúng túng, kéo dài thời gian bồi thường, điều này cũng làm giảm uy tín của công ty bảo hiểm.
Vốn của các công ty bảo hiểm còn ít, vì vậy khi số tiền bảo hiểm lớn thường phải tái bảo hiểm ở các công ty bảo hiểm của nước ngoài.
Cách tính phí bảo hiểm của các công ty bảo hiểm việt nam NK chưa hơp lý, kiến cho các công ty thấy rằng quyền lợi của họ khi được bồi thường không thỏa đáng.
3.3. Chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các nghành
Do thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa chủ hàng, chủ tàu, và các nhà bảo hiểm VN, nên nhiều khi có tình trạng có hàng để xuất khẩu nhưng lại thiếu tàu chở ( xuất) than, gạo ….hoặc ngược lại (đói hàng ).Trong khi đó ở nước ngoài sự liên kết giữ các DNXNK vận tải và bảo hiểm rất gắn bó vì lợi ích bản thân và quốc gia của họ .Thậm chí có những khách hàng nước ngoài chấp nhận mua CIF (hoặc CFR ) bán FOB nhưng với điều kiện chúng ta phải thuê tàu tại những hãng tàu của họ , muốn tạo sự liên kết này cần sự hỗ trợ của nhà nước, sự hỗ trợ này đóng vai trò rất quan trọng vì mang tính quyết định.
3.4. Nhà nước chưa có chính sách khuyến khích , hoặc những quy định bắt buộc các các công ty XNK thuê tàu và mua bảo hiểm trong nước
Theo thông lệ buôn bán quốc tế, nước có hàng NK hưởng quyền vận tải hàng đó đến nước mua, nếu là bằng đường biển ít nhất khoảng 40% số lượng hàng hóa xuất nhập nhiều nước trên thế giới đã đưa ra nhưng quy định phù hợp với thông lệ này về bảo hiểm .
Về bảo hiểm, tính đến năm 1991 trên thế giới có hơn 40 nước quy định hàng hóa NK của họ phải được mua bảo hiểm ở các công ty của chính phủ nước mình , để giảm đến mức tối thiểu chi phí ngoại tệ, và để hỗ trợ các công ty bảo hiểm Quốc gia. Ở VN chưa có quy định nào về vấn đề này , nên các DN vẫn được (tự do ) xuất FOB và nhập CIF.
3.5. Một số công ty nước ngoài gây sức ép hoặc dùng những thủ thuật trong đàm phán để dành quyền kinh doanh hàng hoá và bảo hiểm
Các thương nhân nước ngoài ngay từ đầu thường chào bán hàng với giá CIF và hỏi mua hàng với FOB đôi khi họ có những thủ thuật trong đàm phán : chào bán, ( hoặc để nghị mua ) giá FOB cao hơn giá CIF trừ đi phí bảo hiểm và cước phí vận tải , ( tức giá FOB , đến giá CIF ) rồi sau khi thương lượng họ chấp nhận bán với giá CIF ( hoặc mua với giá FOB ) với thủ thuật này các DN thường chấp nhận bán FOB và nhập CIF.
3.6. Các doanh nghiệp XNK sợ rủi ro trong thuê tàu và mua bảo hiểm
Do xuất FOB và bán CIF các doanh nghiệp VN không phải thuê tàu và mua bảo hiểm cho hàng hóa nên có thể tránh được những rủi ro trong việc thuê tàu và mua bảo hiểm như giá cước tăng , phí bảo hiểm tăng , không thuê được tàu , tàu không phù hợp ... vì sợ những rủi ro đó nên chúng ta nhượng lại việc thuê tàu và bảo hiểm cho khách hàng nước ngoài. Trong hoạt động kinh doanh, khi và chỉ khi người kinh doanh coi việc bảo đảm hiệu quả kinh doanh cao nhất trong điều kiện pháp luật cho phép là mục tiêu thì họ mới kiên quyết tìm mọi cách thay đổi tập quán đã lỗi thời, lạc hâu thực hiện một phương thức mới với hiệu quả kinh tế cao hơn. Ở nước ta, trong một thời kỳ dài, các doanh nghiệp kinh doanh XNK đều là doanh nghiệp nhà nước. Ở đó, hiệu quả kinh doanh cao hay thấp không phải là chỉ tiêu quan trọng nhất đối với các giám đốc. Ngược lại, họ phải luôn bảo đảm sự an toàn ở mức cao nhất. Do đó, làm ngược lại tập quán cổ truyền trong kinh doanh xuất nhập khẩu là điều rất ít giám đốc doanh nghiệp nhà nước dám thực hiện.
3.7. Thiếu kiến thức về vận tải, bảo hiểm
Các nhà kinh doanh XNK VN chưa nắm vững nghiệp vụ thuê tầu và bảo hiểm họ cũng không có mối quan hệ với tất cả các hãng vận tải và các công ty bảo hiểm , để lựa chọn người chuyên chở và có uy tín trên thị trường, đặc biệt khi hàng hóa có số lượng lớn phải thuê tàu chuyên để chở, nghiệp vụ thuê tàu chuyến rất phức tạp, trình độ cán bộ của nhiều DN chưa thể đáp ứng được.3.8. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu gặp khó khăn về vốn
Vốn của nhiều DN XK hay NK một lô hàng là vốn đi vay từ các ngân hàng họ không đủ vốn để trả cước phí vận tải và bảo hiểm, trong khi đó nhiều trường hợp các doanh nghiệp khi xuất khẩu được khách hàng ứng trước.Bên cạnh đó hàng XK của VN chủ yếu là nguyên liệu thô hoặc sơ chế giá trị thấp, tỉ lệ cước phí so với tiền hàng khá lớn . Thông thường tiền cước vận chuyển chiếm từ 7% đến 10% giá CIF của hàng hóa , nhưng do hàng XK của VN thường cổng kềnh, giá trị thấp, nên tỷ lệ này thường cao hơn - có mặt hàng lên tới 50%.
3.9. Thiếu nguồn nhân lực
Trong thời gian vừa qua, chúng ta nói nhiều tới nguồn nhân lực hàng hải Việt Nam, trong đó chú ý nhiều vào nguồn lao động phục vụ ngành vận tải biển và công nghiệp đóng tàu với thực trạng thiếu và yếu. Tình trạng cạnh tranh thu hút về nguồn nhân lực xảy ra thường xuyên. Tốc độ phát triển đội tàu biển tăng cao qua các năm (trung bình gần 50%/năm), trong khi số lượng thuyền viên, sỹ quan hàng hải ra trường hàng năm ít, nên tình trạng thiếu nguồn nhân lực ở các doanh nghiệp này luôn là vấn đề nóng và xảy ra nhiều năm.
Trên đây là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc hình thành tập quán xuất FOB nhập CIF ở nước ta . Vấn đề quan trọng là từ việc tìm ra nguyên nhân, chúng ta phải đề ra những giải pháp như thế nào để khắc phục tình trạng trên .
Chương III
MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHUYẾN KHÍCH CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU GIÀNH QUYỀN VẬN TẢI VÀ BẢO HIỂM
1. Đối với Nhà nước.
1.1. Khuyến khích các doanh nghiệp thuê phương tiện vận tải và mua bảo hiểm trong nước .
Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuê phương tiện vận tải và mua bảo hiểm trong nước bằng những quy định cụ thể. Chẳng hạn như hướng một mức lãi suất ưu đãi khi vay tiền ngân hàng để trả cước phí và phí bảo hiểm hoặc giảm thuế xuất nhập cho chủ hàng nào tham gia bảo hiểm tại Việt Nam, hoặc giảm thuế doanh thu hay thuế giá trị gia tăng, giảm thủ tục hải quan, hoặc chủ hàng được giao hạn ngạch XNK cao hơn so với những chủ hàng không tham gia bảo hiểm tại Việt Nam…
Thậm chí nhà nước quy định một “thương quyền” ,yêu cầu các doanh nghiệp xuất nhập khẩu những mặt hàng như sắt thép, phân bón có khối lượng lớn phải thuê tàu Việt nam Thương quyền của đội tàu Việt Nam đối với những loại hàng hóa này chỉ bị hạn chế khi Điều ước quốc tế có quy định khác hoặc khả năng đội tàu Việt Nam không đáp ứng được.
1.2. Tạo được sự liên kết giữa các ngành thương mại , vận tải và bảo hiểm
Nhà nước thành lập phát triển các tổ chức trung gian năng động ,có chuyên môn để liên kết các ngành với nhau tạo điều kiện thuận lợi cho việc giành quyền vận tải và bảo hiểm.
Kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới cho thấy, không cần phải đợi đủ tàu thuyền và đội ngũ thủy thủ hàng hải mạnh mới thực hiện được quyền vận tải hàng hóa mà trong quá trình mở rộng phát triển kinh tế đối ngoại , phải coi trọng việc mở rộng tổ chức các hoạt động dịch vụ chắp mối, giao nhận, vận chuyển giữa trong và ngoài nước, liên kết hình thành thị trường vận tải thông suốt. Những tổ chức này chuyên lo nhiệm vụ chắp nối thuê mướn khai thác các phương tiện vận tải đi về nhiều chiều trên các đại dương theo những tuyến đường phù hợp và ổn định thông qua các đại lý hoặc trung tâm giao nhận- vận chuyển – cho thuê tàu đặt tại một số nước .
1.3. Cần có chính sách bảo hộ ngành vận tải và bảo hiểm trong nước.
1.3.1. Trong lĩnh vực vận tải quốc để hướng tới mục tiêu tăng thị phần hàng hóa xuất nhập cho đội tàu biển quốc gia. Nhà nước cần có những chính sách biện pháp thiết thực .
Cụ thể là tạm thời chưa cấp giấy phép cho các hãng tàu nước ngoài mở thêm tuyến, đưa thêm tàu về khai thác thị trường Việt Nam khi mà đội tàu của Việt nam đủ năng lực đảm nhận , đặc biệt là vận tải container vào vận tải nội địa.
Khuyến khích chính sách kinh tế, tài chính như : ưu đãi về thuế , tài trợ đầu tư tàu, quản lý chặt sự tham gia thì trường của cac hãng tàu nước ngoài.
Đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh , bình đẳng có sự quản lý và điều tiết của nhà nước một cách chủ động . Nhà nước phải có những biện pháp xử phạt theo pháp luật hiện hành của nước ta đối với những trường hợp các hãng tàu nước ngoại vi phạm quy định về mở tuyến vận tải , đăng ký cước hoặc có những hành động cạnh tranh không lành mạnh khác để trành giành thị phần vận tải biển Việt Nam. Đồng thời công khai miễn thuế giảm thuế , áp dụng một số biện pháp khuyến khích các chủ hàng Việt Nam sử dụng đội tàu trong nước là điều kiện cần thiết giúp cho đội tàu quốc gia.
1.4. Ngành Bảo hiểm và Hàng hải cần khẩn trương tham gia vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành.
Trên thực tế hiện nay xu hướng phát triển trong thời gian tới cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành nhằm nâng cao quản lý và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động hàng hải. Trong thời gian tới những văn bản pháp luật cần sớm ban hành là: Quy định liên quan tới bắt giữ tàu biển, quản lý dịch vụ hàng hải, chuyên viên phân bố tổn thất chung, đồng thời tiếp tục nghiên cứu sửa đổi bổ sung những quy định không còn phù hợp về điều tra xử lý tai nạn hàng hải, hoạt động quá cảnh của tàu thuyền nước ngoài. Bên cạnh đó ngành Hàng hải cần tham gia vào việc bổ sung vào dự thảo sửa đôi Bộ luật hàng hải Việt Nam, đề xuất với Bộ giao thông vận tải nghiên cứu chủ trương chính sách phát triển vận tải.
Quốc hội đã sớm thông qua luật Kinh doanh bảo hiểm, cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn và hoàn chỉnh hệ thống các văn bản pháp quy và hoàn chỉnh hệ thống về hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tạo ra môi trường kinh doanh ổn định và sự yên tâm cho khách hàng mua bảo hiểm. Các văn bản không được chồng chéo với các văn bản đã ra đời đặc biệt là phải phù hợp với tập quán và thông lệ quốc tế. Sự ra đời của Luật kinh doanh bảo hiểm cùng với việc hình thành đội ngũ cán bộ có trình độ nghiệp vụ cao hi vọng sẽ tạo nên một hành lang pháp lý ổn định, môi trường kinh doanh thuận lợi cho ngành bảo hiểm phát triển.
1.5. Đẩy mạnh việc mở rộng hợp tác Quốc tế và nghiên cứu thực hiện các Công ước quốc tế có liên quan đến hàng hải.
Năm 1984 Việt Nam dã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức hàng hải quốc tế ( IMO) , từ đó chúng ta tham gia ký kết 7 công ước quốc tế về hàng hải . Việc tham gia các công ước quốc tế có liên quan đến hoạt động hàng hải sẽ có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho tàu của Việt Nam ra vào các cảng trên thế giới cũng như bảo vệ vùng biển của Việt Nam. Vì vậy để hoàn thiện thêm khung pháp lý các công ước Quốc tế về hàng hải , trong thời gian tới chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu tham gia các công ước quốc tế về hàng hải khác.Ngành Hàng hải cần tích cực tìm đối tác , nguồn tài chính, xây dựng các Hiệp định hàng hải với các nước, mở rộng hợp tác với các tổ chức hàng hải trong khu vực. Bên cạnh đó cần tiếp tục hợp tác với các Ủy ban thuộc IMO, ESCAP để xây dựng chương trình đào tạo, nghiên cứu các công ước quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ tham gia.
1.6. Đầu tư để phát triển các phương tiện vận tải hiện đại .
Cần phải thay đổi cơ cấu đội tàu cho thích hợp, cần có quy định cấm mua tàu có tuổi trên 10 năm. Ưu tiên phát triển các loại tàu chuyên dụng như : tàu container, tàu chở dầu, tàu chở hàng rời cỡ từ 20000DWT trờ lên, tàu chở ô tô. tàu chở khí ga, tàu chở xi măng rời....
Để khắc phục những yếu kém, tăng khả năng hội nhập của ngành vận tải biển thì chúng ta cần đạt được mục tiêu phát triển cân đối, cơ cấu đội tàu biển Việt Nam thích hợp trong từng giai đoạn. Trước mắt phát triển một đội tàu container có trọng tải thích hợp để khai thác có hiệu quả lợi hình vận này. Đây là xu hướng mang tính toàn câu nên nếu chúng ta không đáp ứng kịp thời loại hình vận tải thì ngành vận tải biển sẽ bị tụt hậu.
Ngoài việc mua sắm thêm các phương tiện vận tải cũng cần đầu tư phát triển ngành công nghiệp tàu biển VIệt Nam. Đầu tư vào việc đóng tàu mới trong nước là chủ trương sáng suốt nhưng cần có những chính sách ưu đãi về tài chính về thủ tục hỗ trợ cho các nhà máy đóng tàu, khuyến khích các nhà máy đóng tàu và khuyến khích các nhà máy này cải tiến đổi mới công nghệ và kỹ thuật, liên doanh liên kết với các xưởng đóng tàu nước ngoài để chuyển giao công nghệ hiện đại. Song song với điều đó cần cải tạo nâng cấp hệ thống cảng biển, kho bãi để nâng cao khả năng cạnh tranh, nhằm từng bước giành lại và tăng thêm thị phần vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam, tiến tới tham gia chia sẻ thị phần khu vực .
2. Đối với các doanh nghiệp vận tải và bảo hiểm.
2.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên.
2.1.1. Về vận tải
Để ngành vận tải biển nhanh chóng hội nhập với khu vực và thế giới , trình độ của các sĩ quan thuyền viên cũng có vai trò rất quan trọng. Hiện Việt Nam đang thiếu trầm trọng đội ngũ thuyền viên, đặc biệt là thuyền trưởng, máy trưởng, rất nhiều tàu của Việt Nam đang thuê thuyền trưởng hoặc quản lý là người nước ngoài. Trong tương lai với những phương tiện vẫn chuyển lớn thì càng cần có những người vận hành có trình độ cao vì vậy việc đào tạo thuyền viên cũng như tiêu chuẩn vủa tất những người liên quan đến vận tải biển phải nâng cao, cùng với đó là trình độ quản lý, khai thác của những đội ngũ công ty cũng đặc biệt chú trọng nâng cao. Chúng ta phải hết sức tranh thủ vốn viện trợ của nước ngoài mua sắm tàu huấn luyện, nâng cấp cơ sở vật chất liên kết liên doanh đào tạo để thuyền viên của chúng ta mới có thể cạnh tranh chiếm lĩnh và thay thế được đội ngũ các thuyền viên lành nghề của các nước lân cận như Philippines, Indonesia ....
2.1.2. Bảo hiểm
Trước những đòi hỏi của sự phát triển chung về cán bộ cho ngành bảo hiểm Việt Nam hiện nay có thể nói vẫn còn thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng, đặc biệt thiếu cán bộ về quản lý, cán bộ đầu ngành chuyên gia trong từng lĩnh vực. Vì vậy các công ty bảo hiểm cần quan tâm đến việc đào tạo trong những chuyên viên nhiều kinh nghiệm giải quyết các thủ tục cho khách hàng. Cần tiêp tục tổ chức trao đổi kinh nghiệm với các tổ chức bảo hiểm trong và ngoài nước.
2.2. Đẩy mạnh hoạt động Marketing
Các công ty vận tải và bảo hiểm cần mở rộng mạng lưới đại lý ở nước thường xuyên công bố những thông tin về thị trường vận tải và bảo hiểm cho các doanh nghiệp xuát nhập khẩu thông qua việc chào hàng, quản cáo trên mạng internet báo chí, tậ san chuyên ngành. Các hãng vận chuyển cần nghiên cứu thêm các tuyến đường mà Việt Nam thường xuất nhật khẩu vận chuyển.
2.3. Tổ chức các buổi báo cáo chuyên đề về vận tải bảo hiểm
Để các doanh nghiệp nhận ra lợi ích của mình nếu giành được quyền thuê phương tiện vận tải và mua bảo hiểm các công ty vận tải hay bảo hiểm nên tổ chức chuyên đề về vấn đề này , từ đó giải tỏa được ngại ngần của các doanh nghiệp trong việc thuê tàu và mua bảo hiểm.
3. Đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu .
3.1. Nâng cao trình độ của đội ngũ của cán bộ nhân viên.
Các doanh nghiệp nên nâng cao việc đào tạo và bồi dưỡng về nghiệp vụ, ngoại ngữ trong kinh doanh XNK, vận tải, bảo hiểm cho các nhân viên. Cần nhận thức rõ việc giao hàng theo điều kiện nhóm C vẫn là giao hàng tại cảng bốc hàng hay gửi hàng. Bên canh đó trong thời gian đầu có thể thuê chuyên viên có kinh nghiệm và chuyên môn về xuất nhập khẩu, vận tải, mua bảo hiểm để hướng dẫn cho nhân viên một cách cụ thể .
3.2. Từng bước làm quen với việc thuê phương tiện vận tải và mua bảo hiểm .
Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu bước đầu nên chuyển sang các điều kiện để có thể giành quyền mua bảo hiểm hoặc thuê phương tiện vận tải sau một thời gian sẽ chuyển dần sang điều kiện có cả hai nghiệp vụ trên. Ví dụ chuyển từ nhập khẩu theo điều kiện CIF sang điều kiện CFR sau đó chuyển dàn sang điều kiện FOB. Hay xuất khẩu từ điều kiện FOB sang điều kiện CFR rồi sang điều kiện CIF.
3.3. Chủ động giành quyền thuê phương tiện vận tải và mua bảo hiểm.
Các doanh nghiệp nên chủ động mua bán XNK theo điều kiện theo mà mình được giành quyền mua bảo hiểm và thuê phương tiện vận tải Đặc biệt trong những trường hợp mà doanh nghiệp có lợi thế như bán những mặt hàng đang khan hiếm trên thị trường hoặc đang mua những mặt hàng khó bán.
Khi hàng hóa được vận chuyển trên tuyến đường có tàu chợ kinh doanh cố gắng giành quyền thuê phương tiện vận tải. Vì thủ tục lưu kho tàu chợ khá đơn giản (mức cước phí định sẵn, hợp đồng không phải đàm phán) chúng ta không phải lo lắng nhiều thủ tục cũng như rủi ro như thuê tàu chuyến.
Trong những giao dịch như buôn bán đối ứng hay gia công chúng ta nên cố gắng thuê phương tiện vận tải ít nhất là trong lượt nhập khẩu. Muốn giảm phí vận tải và phí bảo hiểm các công ty nên kí hợp đồng bảo hiểm với các công ty trong nước vì sẽ hưởng được hưởng mức phí bảo hiểm thấp, cố gắng kết hợp thuê tàu chuyến khứ hồi , thuê tàu của một hãng vận tải sẽ được giảm cước phí .
Cần phải tìm hiểu thêm các hãng tàu chợ, các hãng bảo hiểu uy tín trên thế giới, xây dựng tốt mối quan hệ với các công ty này. Cùng với đó là phải thường xuyên cập nhật, nghiên cứu tình hình cước phí bảo hiểm, phí vận tải để định giá hàng xuất nhập khẩu chính xác tránh rủi ro do thị trường biến động.
Điều mà chúng em nhấn mạnh ở đây là, đến thời điểm hiện nay, các doanh nghiệp không phải không nhận thức được những khó khăn mà mình gặp phải khi thực hiện các giao dịch mua bán quốc tế mà không giành được quyền vận tải; cũng không phải vì nhà nước hay các tổ chức chưa có các biện pháp nhằm cải thiện tình hình trên; hơn thế nữa, ngành hàng hải và bảo hiểm Việt Nam đang trên đà phát triển và gây dựng được uy tín của mọi người, nhưng tại sao thực tế nhập CIF, xuất FOB của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn đang tiếp diễn và chưa có dấu hiệu của sự chuyển đổi. Chúng em nghĩ rằng các doanh nghiệp Việt Nam trong tư tưởng vẫn ngại phải đi thuê tàu, họ nghĩ đó là trách nhiệm và nghĩa vụ chứ không biết rằng giành được quyền thuê tàu và bảo hiểm là quyền lợi của họ, giúp cho doanh nghiệp VIệt Nam chủ động về mọi mặt, và có thế lực trên bàn đàm phán và cả trên thị trường buôn bán quốc tế. Các doanh nghiệp vẫn có tư tưởng ăn sẵn chờ hàng đến rồi xếp hàng đi để tránh phải những rủi ro liên quan đến vận tải và bảo hiểm. Tóm lại, nguyên nhân về nhận thức và tự giác, tư tưởng ngại khó của các doanh nghiệp vẫn là nguyên nhân trọng yếu dẫn đến việc hình thành tập quán ngược này ở Việt Nam, không thể một sớm một chiều thay đổi . Điều này lại càng đặt ra nhu cầu bức thiết cần có sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa từ phía Nhà nước, các Bộ ngành, Doanh nghiệp, tất cả vì mục tiêu chung phát triển toàn diện đất nước .
KẾT LUẬN
V
ận tải và bảo hiểm là hai mắt xích quan trọng trong buôn bán ngoại thương của mỗi quốc gia. Đó cũng là hai ngành chiếm một tỉ trọng giá trị lớn trong thu nhập quốc dân. Nhưng vận tải và bảo hiểm có thể phát triển mạnh mẽ một phần cũng phải có sự liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, là động lực thúc đẩy các ngành nghề cùng phát triển. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam nhận thức được rõ tầm quan trọng của vận tải và bảo hiểm thì đồng thời với việc giành được các hợp đồng ngoại thương, xuất nhập khẩu với nước ngoài thì chúng ta nên giành thêm quyền vận tải, có như thế mới phát triển ngành vận tải nước nhà, nhờ đó chúng ta có thêm uy tín và thế lực trong cạnh tranh trên thị trường thế giới. Nắm được quyền vận tải, chúng ta sẽ có sự chủ động trong mọi mặt. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam nhận thức được tầm quan trọng của vận tải và bảo hiểm thì với những giải pháp nêu trên, thì dự kiến mà vận tải biển Việt Nam đề ra là đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 nâng cao thị phần vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu đến năm 2010 là 25%, đến năm 2020 là 35% và vận tải biển nội địa là 100% sẽ không phải là không thực hiện được. Chúng ta mong chờ ở sự phát triển đồng bộ của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, ngành vận tải và bảo hiểm của Việt Nam để đưa các doanh nghiệp bước trên xu hướng chung của thế giới là nhập FOB bán CIF như các nước phát triển vẫn đang làm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Vận tải và giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu.
Incoterms 2000.
Các trang web:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực tế nhập CIF xuất FOB của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam.doc