Chương 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY TNHH DỊCH VỤ GIAO NHẬN HÀNG HÓA BẦU TRỜI I. Quá trình hình thành và phát triển:
II. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức hành chính và quản lý nhân sự của công ty:
1. Chức năng:
2. Nhiệm vụ của công ty:
3. Tình hình nhân sự và cơ cấu tổ chức hành chính:
III. Tình hình kinh doanh của Công ty trong ba năm gần đây (2007 - 2009):
IV. Hoạt động giao nhận hàng hóa nhập khẩu bằng đường biển tại Công ty:
1. Một số đặc thù của hoạt động giao nhận hàng hóa nhập khẩu bằng đường biển tại công ty:
2. Đánh giá vị thế cạnh tranh của Công ty:
Chương 2: THỰC TIỄN GIAO NHẬN HÀNG HÓA NHẬP KHẨU BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI CÔNG TY TNHH GIAO NHẬN HÀNG HÓA BẦU TRỜI I. Tổ chức thực hiện giao nhận hàng hóa nhập khẩu bằng đường biển:
II. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động giao nhận hàng hóa nhập khẩu bằng đường biển của Công ty:
1. Bối cảnh quốc tế:
2. Cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước:
3. Tình hình xuất nhập khẩu trong nước:
4. Biến động thời tiết:
5. Các nhân tố nội tại của doanh nghiệp:
III. Thực trạng giao nhận hàng hóa nhập khẩu bằng đường biển tại công ty:
1. Quá trình ký hợp đồng:
2. Quá trình nhận hồ sơ từ khách hàng:
3. Quá trình chuẩn bị hồ sơ:
4. Quá trình khai Hải quan:
5. Quá trình kiểm hóa:
6. Hiệu quả sử dụng các phương tiện phục vụ cho hoạt động giao nhận:
7. Tính thời vụ của hoạt động giao nhận:
8. Trình độ đội ngũ cán bộ còn hạn chế, hiệu quả làm việc chưa cao:
IV. Đánh giá tình hình thực hiện:
1. Những thành tựu:
2. Những hạn chế:
3. Nguyên nhân:
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ GIAO NHẬN HÀNG HÓA BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI CÔNG TY TNHH DỊCH VỤ GIAO NHẬN HÀNG HÓA BẦU TRỜI I. Những thuận lợi và khó khăn của công ty trong giai đoạn hiện nay:
1. Thuận lợi:
. Khó khăn:
2
II. Một số thách thức mới với từng hoạt động của công ty:
Về hoạt động giao nhận và khai thuế hải quan:
III. Kế hoạch phát triển của công ty:
IV. Các giải pháp nhằm phát triển dịch vụ giao nhận hàng hóa bằng đường biển của Công ty:
1. Giải pháp về thị trường:
2. Nâng cao chất lượng dịch vụ
3. Giải pháp về xúc tiến thương mại:
4. Hạn chế sự ảnh hưởng của tính thời vụ:
5. Đào tạo nguồn nhân lực cho phù hợp với tình hình mới:
V. Các kiến nghị:
1. Hoàn thiện hệ thống Luật:
2. Nhà nước cần tăng cường thu hút FDI vào ngành giao nhận vận tải:
3. Cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường pháp lý thông thoáng:
4. Tạo môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi:
5. Đổi mới cơ chế quản lý Nhà nước về giá trong giao nhận vận tải:
6. Thành lập ủy ban quốc gia tạo thuận lợi cho giao nhận vận tải hàng hóa:
. 7Đơn giản hóa và hài hòa các thủ tục chứng từ có liên quan:
KẾT LUẬN
40 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 10378 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực tiễn giao nhận hàng hóa nhập khẩu bằng đường biển tại công ty TNHH dịch vụ giao nhận hàng hóa bầu trời, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Như trên đã nói, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa có quan hệ mật thiết với hoạt động giao nhận hàng hóa. Lượng hàng hóa xuất nhập khẩu có dồi dào, người giao nhận mới có hàng để giao nhận, sản lượng và giá trị giao nhận mới tăng, ngược lại hoạt động giao nhận không thể phát triển.
Ở đây giá trị giao nhận được hiểu là doanh thu mà người giao nhận có được từ hoạt động giao nhận hàng hóa. Tuy giá trị giao nhận không chịu ảnh hưởng của giá trị xuất nhập khẩu nhưng nó lại chịu ảnh hưởng rất lớn từ sản lượng xuất nhập khẩu. Thực tế đã cho thấy rằng, năm nào khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng lên thì hoạt động giao nhận của Công ty cũng sôi động hẳn lên. Có thể nói, qui mô của hoạt động xuất nhập khẩu phản ánh qui mô của hoạt động giao nhận vận tải.
4. Biến động thời tiết:
Hoạt động giao nhận hàng hóa là hoạt động vận chuyển và làm các dịch vụ liên quan để hàng hóa di chuyển từ người gửi đến người nhận nên nó chịu ảnh hưởng rất rõ rệt của các biến động điều kiện thời tiết. Trong quá trình hàng lênh đênh trên biển, nếu sóng yên bể lặng tức là thời tiết đẹp thì hàng sẽ an toàn hơn nhiều. Ngược lại, nếu gặp bão biển, động đất, núi lửa, sóng thần, thậm chí chỉ là mưa to gió lớn thôi thì nguy cơ hàng hóa hư hỏng, tổn thất đã là rất lớn.
Không chỉ là thiên tai, có khi chỉ là sự thay đổi nhiệt độ giữa hai khu vực địa lý khác nhau thôi cũng có thể ảnh hưởng, chẳng hạn như làm cho hàng bị hấp hơi, để bảo quản đòi hỏi phải có những biện pháp thích hợp như dùng loại container đặc biệt như Fully Ventilated Container. Điều đó làm tăng chi phí vận chuyển lên khá nhiều.
5. Các nhân tố nội tại của doanh nghiệp:
Hoạt động giao nhận vận tải biển của Công ty còn chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố như: nguồn vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật của bản thân Công ty, cơ chế quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, chính sách của Công ty đối với nhân viên, đối với khách hàng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ nhân viên. Đây được coi là các nhân tố nội tại của một doanh nghiệp. Nhóm nhân tố này được coi là có ý nghĩa quyết định tới kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động giao nhận vận tải biển nói riêng.
Chẳng hạn như nhân tố nguồn vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật của Công ty. Nếu Công ty tạo được một cơ ngơi khang trang, phương tiện làm hàng hiện đại trước hết sẽ tạo được lòng tin nơi khách hàng, điều này rất quan trọng do đặc thù của dịch vụ giao nhận đó là có giao dịch với nhiều khách hàng nước ngoài. Hơn thế mới đáp ứng được yêu cầu giao nhận phát triển ngày càng mạnh mẽ. Bên cạnh đó, một công ty có tiềm lực về vốn cũng là một lợi thế rất lớn trong kinh doanh.
Ngoài ra, các cơ chế chính sách của bản thân công ty cũng có ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động giao nhận. Trong giao nhận vận tải biển, lượng khách hàng lớn và ổn định là khá nhiều, nếu công ty có chính sách ưu đãi đối với những khách hàng này thì không chỉ có được sự gắn bó của khách hàng mà còn tạo thuận lợi cho chính các nhân viên của công ty trong quá trình đàm phán, thương lượng, ký hợp đồng với khách.
Một nhân tố vô cùng quan trọng nữa đó là trình độ, kinh nghiệm, kiến thức của đội ngũ cán bộ nhân viên của công ty. Đó là những kiến thức về luật pháp, thủ tục thương mại quốc tế, kiến thức và kinh nghiệm về nghiệp vụ. Chỉ một sự non nớt khi ký kết hợp đồng ủy thác giao nhận có thể gây thiệt hại to lớn cho doanh nghiệp, một sự bất cẩn khi kiểm nhận hàng có thể dẫn đến sự tranh chấp không đáng có. Có thể nói, nhân tố con người sẽ quyết định sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp.
III. Thực trạng giao nhận hàng hóa nhập khẩu bằng đường biển tại công ty:
1. Quá trình ký hợp đồng:
Phòng kinh doanh Của công ty tiến hành tìm kiếm khách hàng thông qua các phương tiện thông tin và gửi bảng báo giá dịch vụ cho khách, đồng thời tiến hành tiếp xúc thỏa thuận các điều khoản. Ở dịch vụ gom hàng lẻ, rủi ro xảy ra từ khâu ký hợp đồng là trường hợp khách hàng "trở mặt", hủy hợp đồng và thuê một công ty giao nhận khác có giá dịch vụ tốt hơn tại thời điểm đó. Mà Công ty chúng tôi đã đăng ký nguyên container ở cảng để gom các lô hàng nhỏ lẻ vào một container. Nếu chủ của một trong các lô hàng lẻ đó hủy hợp đồng, thì Công ty cũng phải thực hiện vận chuyển các lô hàng nhỏ lẻ còn lại, và sức chứa của một container chưa được khai thác hết.
Có những trường hợp khách hàng thanh toán trễ hạn làm Công ty phải ứng trước để thực hiện dịch vụ. Nhìn chung, các công ty xuất nhập khẩu Việt Nam thường chuộng giá rẻ mà chưa chú ý nhiều đến chất lượng dịch vụ giao nhận, uy tín của công ty giao nhận; thường hay so sánh giá một cách thiếu tế nhị trước nhân viên kinh doanh của Công ty.
2. Quá trình nhận hồ sơ từ khách hàng:
Nhân viên của Công ty sẽ tiến hành liên hệ với khách hàng để nhận những chứng từ có liên quan đến lô hàng. Tuy nhiên có một số trường hợp chứng từ không đồng nhất về điều kiện giao hàng. Khi nhập khẩu lô hàng thiết bị cấp nước tại cảng Vict, bộ chứng từ đã bị trả lại vì điều kiện thương mại trên các chứng từ không giống nhau. Trên Invoice, Packing List thì ghi nhập khẩu theo điều kiện CFR, nhưng trên hợp đồng và tờ khai lại ghi nhập khẩu theo giá CIF. Nhân viên giao nhận phải mang bộ hồ sơ về chỉnh sửa lại điều kiện giao hàng trên hợp đồng và trên tờ khai.
3. Quá trình chuẩn bị hồ sơ:
Khi nhập lô hàng các thiết bị y tế; bộ hồ sơ bị trả lại vì tên hàng bị sai. Trên hợp đồng tên hàng ghi bằng tiếng Anh nhưng khi lên tờ khai, bộ phận chứng từ của Công ty lại dịch sang tiếng Việt, nhưng lại dịch không sát nghĩa với từ tiếng anh nên Hải quan tiếp nhận hồ sơ không chấp nhận. Hải quan buộc người khai hàng phải ghi rõ công dụng, tính chất vào ô 17 (quy cách, phẩm chất hàng hóa). Khi đó Hải quan tiếp nhận rồi mới mở tờ khai.
Khi nhập lô hàng vòng đệm bằng cao su, đây là lô hàng Công ty đã xuất cách đây hai năm, nhưng do chất lượng hàng không đảm bảo nên Công ty phải nhập về. Công ty mở tờ khai hàng mậu dịch nhưng khi đi mở tờ khai Hải quan tiếp nhận hồ sơ yêu cầu chuyển sang tờ khai hàng phi mậu dịch. Do đó Công ty phải làm đơn xin nhập khẩu bằng hình thức phi mậu dịch. Ngoài ra Hải quan còn yêu cầu phải nộp tờ khai hàng xuất khẩu cách đây hai năm nhưng do Công ty làm thất lạc nên phải làm công văn cam kết gởi chi cục Hải quan và phải làm đơn xin nhập khẩu theo hình thức tái nhập. Khi đã nhập đầy đủ các chứng từ trên thì Hải quan mới tiếp nhận bộ chứng từ. Cũng lô hàng vòng đệm bằng cao su công ty đã bị phạt hành chính 200.000 VND vì hàng đã cập cảng quá lâu mà không làm thủ tục nhận hàng. Sau khi đóng tiền phạt nhân viên tiếp nhận hồ sơ mới tiếp tục mở tờ khai.
Nhân viên của Công ty đôi khi áp sai mã thuế và dẫn đến việc tính sai thuế. Chưa kể xảy ra những lỗi hết sức cơ bản như nhập số liệu sai, lỗi phần mềm excel, thiếu sót trong quá trình tính toán thuế... Khi Hải quan kiểm tra lại và thấy công ty khai báo không chính xác thì tờ khai sẽ bị trả về. Do đó làm mất thời gian và ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của Công ty, chất lượng dịch vụ mà Công ty cung cấp cho khách hàng.
Trong quá trình nhập khẩu thiết bị y tế từ đài Loan về; đáng lẽ ở tiêu thức số 9, tên phương tiện vận tải và số liệu phải căn cứ vào thông báo hàng đến của hãng tàu thì nhân viên Công ty lại dựa vào Bill of Lading. Tên phương tiện vận tải là tên con tàu chở hàng đến cảng dở cuối cùng. Trong trường hợp có chuyển tải thì tên con tàu ghi trên Bill of Lading không có ý nghĩa trong tiêu thức này.
Còn đồng tiền thanh toán ở tiêu thức số 15 phải dựa vào Invoice chứ không dựa vào hợp đồng và tỷ giá tính thuế là tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng tiền thanh toán lúc mở tờ khai. Vì là công ty nhỏ, nhân viên lại làm trái ngành nên vẫn còn trường hợp sai sót cơ bản như trên.
Bên cạnh đó, nhân viên lại chưa chú ý đến ngày hết hiệu lực của lệnh giao hàng để sắp xếp thời gian hợp lý; phát sinh thêm chi phí lưu kho, lưu bãi.
4. Quá trình khai Hải quan:
Hải quan Việt Nam thường làm khó Doanh nghiệp hoặc nhân viên giao nhận ở khâu kiểm tra tính hợp lệ của bộ chứng từ và ở khâu kiểm hàng. Họ có những tiêu cực nhất định và đó là tình trạng chung ở các cơ quan Nhà nước. Dù bộ chứng từ của hợp lệ nhưng họ vẫn nói thiếu hoặc có sao sót nếu nhân viên giao nhận không biết cách "cư xử". Tính chính xác và công bằng của Hải quan Việt Nam chưa cao. Nếu Công ty không có mối quan hệ quen thân ngoài công việc thì chắc chắn họ sẽ làm khó chúng tôi nhiều hơn nữa, làm mất thời gian của Công ty và khách hàng. Họ sẽ không nhận được hàng nếu hàng chưa được thông quan.
Trong quá trình chờ phân công kiểm hóa, nhân viên giao nhận cầm phiếu tiếp nhận tới phòng thu lệ phí để đóng lệ phí làm thủ tục Hải quan, đồng thời nhân viên của Công ty cũng có thể tranh thủ thời gian này cầm lệnh giao hàng đến phòng đối chiếu lệnh. Tại đây nhân viên Hải quan sẽ đối chiếu với manifest do hãng tàu cung cấp; xem tên hàng, số lượng, chuyến tàu, tên tàu, lệnh giao hàng có trùng với manifest không? Nếu trùng thì đóng dấu "đã đối chiếu" lên lệnh, còn nếu có trường hợp sai sót thì phải đem đến hãng tàu để sửa. Có một số nhân viên giao nhận của công ty không biết là khi đến "khâu" nào thì phải biết cách "cư xử" ở khâu đó để Hải quan không làm khó. Nếu không "cư xử" đúng mực và đều ở các "khâu" thì dù các thông tin trùng với manifest thì họ vẫn nói là không trùng và buộc nhân viên phải đi đến hãng tàu để sửa.
5. Quá trình kiểm hóa:
Nếu là hàng phải có chứng thư bổ sung vào hồ sơ thì Hải quan mới cho ký xác nhận, chuyển qua thuế và cho thông quan nhưng trên thực tế thời hạn giám định khá lâu. Một lần nữa, nhân viên Công ty lại bị cán bộ ở cơ quan giám định làm khó, buộc Công ty phải "cư xử" để nhận được sự giám định nhanh chóng để tránh thiệt hại về kinh tế do chi phí lưu kho, lưu bãi và các chi phí phát sinh khác do chậm trễ. Chủ hàng cũng có thể làm công văn xin giải tỏa hàng, mang hàng về kho riêng bảo quản và bổ sung chứng thư giám định sau. Nhân viên nhận hàng sẽ trình công văn cho Hải quan, nếu được chấp nhận thì Hải quan sẽ cấp một bản copy tờ khai Hải quan, có kết quả kiểm hóa và có xác nhận chứng từ; chỉ để dùng để giải phóng hàng và nộp lại khi hoàn tất thủ tục Hải quan. Khi có kết quả giám định thì người nhận hàng sẽ nộp lại bản copy và nhận lại tờ khai gốc.
6. Hiệu quả sử dụng các phương tiện phục vụ cho hoạt động giao nhận:
Xét về phương tiện phục vụ cho hoạt động giao nhận thì Công ty không phải là quá thiếu thốn và lạc hậu. Nhưng điều đáng nói đó là các thiết bị đó còn chưa được khai thác triệt để, hiệu quả sử dụng thấp. Chẳng hạn như trong một lần vận chuyển hàng triển lãm, do hàng về quá muộn, sáng hôm sau triển lãm đã khai mạc, nếu chờ xe nâng của Công ty thì sẽ không kịp tiến độ hàng vì xe còn đang thực hiện một lô hàng khác nên nhân viên giao nhận phải thuê xe nâng ở bên ngoài, mô hình chung khiến thiết bị không sử dụng hết công suất mà Công ty còn tốn thêm một khoản tiền không nhỏ. Sở dĩ như vậy là do Công ty chưa có kế hoạch sử dụng thiết bị một cách khoa học, lúc thì không có để sử dụng lúc lại nằm không trong kho.
Bên cạnh đó, công tác bảo quản, duy tu bảo dưỡng thiết bị còn chưa được quan tâm đúng mức. Do không phân trách nhiệm này cho một phòng ban cụ thể nên mạnh ai nấy dùng và không ai thấy mình có trách nhiệm phải giữ gìn cẩn thận.
Mặt khác do đặc thù của Công ty là hoạt động mang tính thời vụ nên vào mùa hàng xuống, thiết bị không dùng mà vẫn phải khấu hao làm cho hiệu quả sử dụng giảm xuống.
7. Tính thời vụ của hoạt động giao nhận:
Hoạt động giao nhận mang tính thời vụ như trên đã nói không chỉ là đặc thù của dịch vụ giao nhận vận tải biển mà còn được coi là một tồn tại cần khắc phục. Tính thời vụ thể hiện vào mùa hàng hải, lượng hàng giao nhận quá lớn, làm không hết việc. Nhiều khi thiếu thiết bị, không có container, không xin được chỗ tàu mẹ; Công ty phải từ chối nhận hàng. Song đến mùa hàng xuống, khối lượng hàng giảm, công việc vì thế mà cũng ít đi. Khoảng thời gian hàng nhiều thường là những tháng giữa năm như tháng 6 đến giữa tháng 8 và những tháng cuối năm (dịp Lễ Giáng Sinh và Tết Dương lịch). Những tháng còn lại việc kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn.
Tính thời vụ này khiến cho hoạt động của Công ty không ổn định, kết quả kinh doanh theo tháng không đồng đều. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm và thu nhập của người lao động, gây ra nhận thức không đúng đắn về nghề nghiệp. Hơn nữa, trong những khoảng thời gian mùa hàng xuống, Công ty vẫn phải khấu hao máy móc, vẫn phải trả lương cho nhân công, khiến lợi nhuận bị giảm sút.
Tồn tại này mang tính khách quan, nằm ngoài sự trù liệu của doanh nghiệp nên việc khắc phục hoàn toàn không đơn giản, nó cần sự vận động của bản thân doanh nghiệp, hơn thế là sự tin tưởng, ủng hộ của khách hàng.
8. Trình độ đội ngũ cán bộ còn hạn chế, hiệu quả làm việc chưa cao:
Trong điều kiện mà có nhiều dịch vụ mới xuất hiện như dịch vụ logistics thì những yếu kém trong đội ngũ cán bộ càng bộc lộ rõ. Thực tế hoạt động ở Công ty cho thấy rằng những sai sót, thiệt hại gây ra cho Công ty hầu hết là do các nhân viên thiếu kinh nghiệm và hạn chế về trình độ chuyên môn.
Bên cạnh đó, hiệu quả làm việc còn chưa phản ánh đúng thực lực của Công ty. Với những điều kiện được trang bị như vậy, lẽ ra Công ty đã phải tiến xa hơn nếu công việc được tiến hành khoa học, mọi cán bộ công nhân viên luôn đoàn kết nhất trí, nâng cao tinh thần tự giác, tiết kiệm, hết mình vì sự phát triển chung. Nhưng ở Công ty còn xuất hiện tình trạng cạnh tranh trong nội bộ công ty, hoạt động còn chồng chéo. Chẳng hạn như chỉ một khách hàng lại nhận được tới vài mức giá chào khác nhau, mà đều từ các nhân viên của Công ty đưa ra. Khi đó khách hàng sẽ đặt dấu hỏi, và sẽ dần mất lòng tin đối với Công ty.
IV. Đánh giá tình hình thực hiện:
Thông qua những phân tích thực tiễn giao nhận hàng hóa bằng đường biển tại Công ty, chúng ta có thể thấy những kết quả thu được của Công ty trong hoạt động của mình là đáng kể so với đối thủ khác trên thị trường; đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế của mình Việt Nam còn gặp rất nhiều khó khăn từ cả phía khách quan lẫn chủ quan. Rào cản trong việc hợp tác thương mại với các đối tác nước ngoài còn khá bất cập, chưa được nới lỏng một cách thích đáng, điều này ảnh hưởng sâu sắc đến ngành giao nhận vận tải quốc tế trong nước nói chung và đối với Công ty nói riêng. Tình hình biến động kinh tế trong giai đoạn hiện nay cũng ảnh hưởng tới chiến lược phát triển kinh doanh của công ty. Tuy nhiên, nếu có chiến lược kinh doanh phù hợp, hiệu quả thì chắc chắn vị trí của Công ty trên thị trường sẽ lớn mạnh hơn nữa, vì dù sao những kết quả mà Công ty đã đạt được còn chưa tương xứng với nội lực của Công ty cũng như tiềm năng thị trường Việt Nam hiện tại.
1. Những thành tựu:
- Công ty có đội ngũ nhân viên trẻ, nhiệt tình, sáng tạo và ham học hỏi; tiếp thu nhanh kiến thức chuyên môn.
- Ban lãnh đạo Công ty luôn theo dõi quá trình làm việc của nhân viên và qui trình giao nhận của lô hàng để giải đáp mọi thắc mắc của khách hàng.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật đầy đủ, thuận lợi khi giao nhận hàng hóa.
- Các nhân viên và cả Ban lãnh đạo của Công ty đều thiết lập được mối quan hệ tốt với các hãng tàu, các đối tác, khách hàng (cả trong và ngoài nước), Hải quan và các cơ quan ban ngành có liên quan...nhằm mang lại sự thuận lợi và trôi chảy cho quá trình giao nhận cũng như hoạt động kinh doanh của công ty.
- Công ty có thị trường giao nhận ở hầu hết các châu lục trên thế giới nhưng tập trung chủ yếu ở một số khu vực chính như ASEAN, Đông Bắc Á, EU,…
2. Những hạn chế:
- Nhân viên của công ty phần lớn là làm trái ngành (làm về lĩnh vực giao nhận vận tải nhưng lại tốt nghiệp từ những ngành không liên quan đến kinh tế thương mại). Một số nhân viên còn gặp phải nhiều thiếu sót trong quá trình làm giấy tờ, thủ tục, chứng từ...
- Trình độ ngoại ngữ của nhân viên chưa cao nên đôi lúc gặp lúng túng trong quá trình làm việc.
- Khu vực ASEAN là thị trường khá quen thuộc với Việt Nam, lại có lợi thế về khoảng cách địa lý, các điều kiện về văn hoá, xã hội, luật pháp tương đối tương đồng. Tuy nhiên, Công ty lại chưa khai thác tốt mảng thị trường này. Đó là do giao nhận vào thị trường này dễ làm và ít rủi ro nên Công ty gặp phải sự cạnh tranh cực kỳ gay gắt.
- Hiệu quả sử dụng các phương tiện phục vụ cho hoạt động giao nhận còn thấp, lúc thì không có để sử dụng lúc lại nằm không trong kho. Bên cạnh đó, công tác bảo quản, duy tu bảo dưỡng thiết bị còn chưa được quan tâm đúng mức. Do không phân trách nhiệm cho một phòng ban cụ thể nên mạnh ai nấy dùng và không ai thấy mình có trách nhiệm phải giữ gìn cẩn thận. Mặt khác do đặc thù của công ty là hoạt động mang tính thời vụ nên vào mùa hàng xuống, thiết bị không dùng mà vẫn phải khấu hao làm cho hiệu quả sử dụng giảm xuống.
- Tính thời vụ của hoạt động giao nhận: Hoạt động giao nhận mang tính thời vụ như trên đã nói không chỉ là đặc thù của dịch vụ giao nhận vận tải biển mà còn được coi là một tồn tại cần khắc phục. Tính thời vụ thể hiện vào mùa hàng hải, lượng hàng giao nhận quá lớn, làm không hết việc. Tồn tại này mang tính khách quan, nằm ngoài sự trù liệu của Công ty nên để khắc phục không đơn giản, nó cần sự vận động của bản thân mỗi doanh nghiệp, hơn thế là sự tin tưởng, ủng hộ của khách hàng.
3. Nguyên nhân:
- Công ty chưa có một tiêu chuẩn nhất định khi tuyển dụng nhân viên cũng như cơ chế thưởng phạt cụ thể khi nhân viên làm tốt hay sai sót trong quá trình hoàn thành nhiệm vụ.
- Tác phong làm việc của nhân viên Công ty còn mang tính thụ động, tác phong chưa hiện đại và chuyên nghiệp.
- Tình hình quốc tế có nhiều bất lợi: Trong khoảng vài năm trở lại đây, bối cảnh quốc tế có hàng loạt những biến động to lớn gây rất nhiều bất lợi cho kinh tế cũng như cuộc sống của người dân trên khắp thế giới. Đó là những cuộc chiến tranh sắc tộc, chiến tranh tôn giáo, nội chiến, xung đột, nạn khủng bố, dịch bệnh hoành hành đẩy người dân vô tội vào cảnh sống bất ổn, kinh tế nhiều nước suy thoái, kiệt quệ. Nền kinh tế toàn cầu sụt giảm. Ngành giao nhận vận tải, trong đó Công ty cũng không tránh khỏi ảnh hưởng.
- Nhân tố giá trên thị trường giao nhận vận tải biển có nhiều biến động. Ngoài những yếu tố quốc tế bất lợi, kết quả hoạt động giao nhận vận tải biển của công ty còn bị nhân tố giá làm cho mất cân đối. Đó chính là giá cước vận tải và chi phí cho các dịch vụ hàng hải.
- Bên cạnh đó, giá các loại dịch vụ hàng hải cũng không ổn định vì chưa có một văn bản chính thức nào của Nhà nước quản lý vấn đề này. Giá cả hầu hết do các công ty tự quy định có căn cứ vào chi phí và mức giá chung trên thị trường. Giá này theo đổi theo từng quý, có khi từng tháng, theo từng công ty. Ngoài ra, giá cho dịch vụ giao nhận hàng nhập khẩu thường thấp hơn do nhập theo điều kiện CIF. Đó là lý do mà trong cơ cấu giao nhận tại công ty, hàng nhập lại chiếm phần ít hơn.
- Cạnh tranh ngày càng khốc liệt:
Kể từ sau khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, số lượng người làm giao nhận tăng cao, tuy chưa thống kê chính thức, hiện nay ước có tới 600 - 700 doanh nghiệp trong cả nước bao gồm cả Doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, liên doanh với nước ngoài khiến cho môi trường cạnh tranh trong ngành này trở nên quyết liệt hơn bao giờ hết.
Một phần cũng bởi ngành giao nhận của ta không mạnh và dường như phát triển một cách tự phát. Số lượng doanh nghiệp tăng lên ồ ạt, người kinh doanh chỉ cần bỏ ra ít vốn, liên hệ nhận làm thuê cho một vài chủ hàng, kiếm hàng cho một vài chủ vận tải là thành người giao nhận. Một số chạy việc cho công ty nước ngoài kiếm hoa hồng, trách nhiệm đối với hàng hóa đã có công ty chịu. Một số từ trường học ra tạm trú chân ít năm trong doanh nghiệp Nhà nước, học hỏi cách làm ăn giao dịch, nắm một số mối hàng rồi nhảy ra lập công ty riêng, không ít người làm ăn kiểu chụp giật, tranh thủ lợi ích trước mắt.
Một số công ty nước ngoài lợi dụng văn phòng đại diện của họ ở Việt Nam hoặc các công ty đại lý giao nhận vận tải yếu năng lực của ta để làm cho họ, qua đó nhà nước thất thu về thuế, trong đó đáng chú ý là thuế cước. Ngoài ra họ còn lợi dụng kẽ hở của ta để bỏ tiền mua tên một số công ty đại lý giao nhận vận tải Việt Nam để kinh doanh, làm cho ta khó khăn trong khâu quản lý. Do trốn được thuế, họ lại thường chào được giá rất cạnh tranh, mà khách hàng lại thường chọn giá thấp khiến các Doanh Nghiệp Nhà Nước khó có thể cạnh tranh được với họ.
Như vậy, công ty không chỉ phải đối mặt với những công ty mạnh về vốn, công nghệ mà còn rất thủ đoạn trong cạnh tranh khiến thị phần của công ty vẫn còn khiêm tốn.
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ GIAO NHẬN HÀNG HÓA BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI CÔNG TY TNHH DỊCH VỤ GIAO NHẬN HÀNG HÓA BẦU TRỜI
I. Những thuận lợi và khó khăn của công ty trong giai đoạn hiện nay:
Công ty Bầu Trời đang hoạt động trong nền kinh tế phát triển nhanh chóng; trên tất cả các lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu. Trong đó ngành ngoại thương là một trong những ngành đem lại nguồn ngoại tệ nhiều nhất và nó tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Chính vì sự phát triển đó mà ngày càng có nhiều doanh nghiệp tìm đến với dịch vụ của Công ty. Trong tình hình đó Công ty có những điều kiện thuận lợi để khẳng định vị trí của mình trên thị trường nhưng vẫn còn gặp phải một số khó khăn nhất định.
1. Thuận lợi:
Ban lãnh đạo Công ty là những nhà kinh doanh giàu kinh nghiệm, nắm bắt các thời cơ, thông tin nhanh chóng, đã đưa Công ty ngày một đi lên, đạt được những kết qua đáng kể trong mấy năm.
Đội ngũ nhân viên trẻ, năng động, nhiệt tình và có trách nhiệm với công việc được giao, giúp đỡ các đồng nghiệp khi gặp khó khăn.
Văn phòng làm việc của Công ty rất gần với sân bay và đi đến các cảng chính rất thuận tiện và tiết kiệm được chi phí đi lại khi làm hàng.
Cơ sở vật chất đầy đủ tạo điều kiện thuận lợi khi giao nhận hàng hoá , Công ty không phải tốn nhiều thời gian và chi phí để thuê xe ngoài khi chở hàng về kho cũng như khi giao hàng cho khách.
Bên cạnh đó, Chính phủ nước ta dành sự quan tâm khá đặc biệt cho sự phát triển của ngành giao nhận vận tải. Nhà nước đã đầu tư nhiều cho việc xây dựng cảng biển, hệ thống kho bãi, phương tiện phục vụ cho giao nhận hàng hóa bằng đường biển. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng đường sá cũng được nâng cấp, rất thuận tiện cho việc chở hàng ra cảng và chở hàng từ cảng vào sâu trong nội địa.
2. Khó khăn:
Đội ngũ nhân viên công ty đa phần còn rất trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm nên có thể gặp những sai sót nhỏ khi khai hải quan và chưa lường trước được những rủi ro có thể gặp phải. Điều này có thể kéo dài thời gian làm hàng và có thể làm tăng chi phí lưu kho, lưu bãi.
Công ty cũng thường gặp những sai sót trong việc tính thuế, áp mã thuế những vấn đề trên cũng có thể là những khó khăn chung của đa phần các công ty giao nhận hiện nay.
Vì chỉ mới đi vào hoạt động được 6 năm và là một công ty TNHH 2 thành viên trở lên nên Công ty đang gặp một số vấn đề khó khăn trong việc thu hút vốn để đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và mở rộng hoạt động kinh doanh.
Công ty còn quá non trẻ và qui mô chưa lớn nên mức giá dịch vụ mà nhận viên chào cho khách hàng chưa thật sự cạnh tranh so với các công ty giao nhận có tầm cỡ khác.
II. Một số thách thức mới với từng hoạt động của công ty:
Về hoạt động giao nhận và khai thuế hải quan:
Hiện nay Nhà nước đã cho phép tư nhân được xuất nhập khẩu trực tiếp theo ngành nghề đăng ký dẫn đến mở rộng dịch vụ, nhiều công ty giao nhận ra đời. Do đó đòi hỏi các công ty dịch vụ phải nâng cao chất lượng phục vụ, giải quyết các công việc nhanh chóng để giảm chi phí, như vậy mới có thể cạnh tranh trong thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Về hoạt động làm đại lý vận tải, gom hàng lẻ:
Đây là hoạt động đem về cho công ty doanh thu trên cả tỷ đồng, là hoạt động chủ yếu của công ty. Nhưng hiện nay đa số hãng tàu cũng thực hiện các công việc của một công ty giao nhận. Điều này càng đẩy các công ty giao nhận vào thế cạnh tranh, do đó các công ty giao nhận cần có những chiến lược cụ thể để có thể đứng vững trong môi trường này.
III. Kế hoạch phát triển của công ty:
Mở rộng thị trường giao nhận, đẩy mạnh công tác Marketing và Sales, đặc biệt chú trọng thị trường Châu Âu, Mỹ; tìm kiếm khả năng mở rộng ngành nghề.
Xây dựng, thực hiện cơ chế điều hành kinh doanh, cơ chế giá cả, hoa hồng, tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh doanh, tăng cường công tác quản lý tiết kiệm chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ và khả năng cạnh tranh trên thị trường nhằm thu hút khách hàng mới, giữ vững khách hàng truyền thống.
Đầu tư, tận dụng, khai thác tối đa cơ sở vật chất, kho bãi, đổi mới thiết bị, phương tiện vận tải bốc xếp để tổ chức tốt dịch vụ giao nhận.
Xây dựng chiến lược kinh doanh cho những năm tiếp theo, trong đó chú trọng mục tiêu nâng cao chất lượng dịch vụ đồng thời đa dạng hóa các loại hình dịch vụ trên cơ sở trên cơ sở khai thác triệt để những thế mạnh sẵn có trong kinh doanh.
Tạo nên mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban trong văn phòng công ty. Luôn giữ mối quan hệ tốt đẹp và bền vững với khách hàng, đối tác cũ; đồng thời ra sức tìm kiếm khách hàng mới. Việc thiết lập mối quan hệ thân thiết với các cơ quan, ban ngành chức năng có liên quan cũng là việc hết sức cần thiết hiện nay.
IV. Các giải pháp nhằm phát triển dịch vụ giao nhận hàng hóa bằng đường biển của Công ty:
1. Giải pháp về thị trường:
Trong tình hình cạnh tranh gay gắt trên thị trường giao nhận hiện nay, muốn tồn tại và phát triển, Công ty cần phải mở rộng thị trường giao nhận. Đây là một biện pháp hữu hiệu để đạt được các mục tiêu về lợi nhuận, mục tiêu củng cố, tăng cường vị thế và mục tiêu an toàn. Khi thị trường được mở rộng thì cho dù một khu vực thị trường nào đó có biến động cũng sẽ không gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của toàn Công ty.
Có hai hình thức mở rộng thị trường, đó là mở rộng thị trường theo chiều rộng và mở rộng thị trường theo chiều sâu.
Mở rộng thị trường theo chiều rộng được hiểu là mở rộng thị trường theo phạm vi địa lý. Cho đến nay, công ty đã vươn ra nhiều thị trường quốc tế, hoạt động trên hầu hết các châu lục như châu Âu, châu Á, châu Mỹ. Tuy nhiên, vẫn còn một số thị trường mà công ty chưa khai thác hết tiềm năng của nó như khu vực châu Phi, khu vực Nam Mỹ (Mexico, Brazin).
Mở rộng thị trường theo chiều sâu là trên cùng một thị trường hiện có nhưng công ty có thể thu hút thêm nhiều khách hàng, củng cố, thiết lập quan hệ lâu dài với các khách hàng truyền thống bằng chất lượng dịch vụ, bằng việc mở rộng phạm vi dịch vụ của mình.
2. Nâng cao chất lượng dịch vụ
Đối với một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ, việc nâng cao chất lượng dịch vụ là rất khó khăn bởi khái niệm “chất lượng dịch vụ” còn rất mơ hồ, chưa có một tiêu chuẩn nào đánh giá. Trong họat động giao nhận hàng hoá, chất lượng của dịch vụ đem đến cho khách hàng sự tin tưởng, yên tâm là hàng hóa của mình đang được an toàn và đến đích chính xác trong tay những người giao nhận mẫn cán nhất.
Ta thấy rằng Công ty mới chỉ chiếm được thị phần rất nhỏ trong thị trường giao nhận vận tải đường biển một phần là do chất lượng dịch vụ chưa cao, một số khách hàng khi uỷ thác cho Công ty giao nhận một lô hàng do gặp quá nhiều trục trặc đã không quay lại công ty nữa. Do vậy, việc cạnh tranh bằng chất lượng là rất cần thiết, nó giúp Công ty bớt được gánh nặng cạnh tranh bằng giá vì trong cuộc chiến giá cả, Công ty không thể đấu lại được với các công ty nước ngoài có tiềm lực về vốn.
Với loại hình giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển, chất lượng dịch vụ đôi khi thể hiện ở những việc đôi khi rất nhỏ. Chẳng hạn với những hàng hoá đặc biệt như hàng container treo cần yêu cầu về vệ sinh cao thì công ty nên chọn container sạch, các trang thiết bị làm hàng cũng nên đảm bảo để hàng được xếp đều, không bị nhàu nát. Nếu chỉ cần chú ý những chi tiết nhỏ nhặt như thế thì cách nhìn nhận, đánh giá của khách hàng đối với dịch vụ của công ty sẽ khác hẳn.
Ngoài ra tạo dịch vụ tốt cũng tức là tư vấn cho khách hàng về tình hình cạnh tranh trên thị trường, tình hình hoạt động ngoại thương, luật pháp quốc tế. Cung cấp cho khách hàng những thông tin về đối tác xuất nhập khẩu, đưa ra các lời khuyên về các điều khoản hợp đồng mua bán ngoại thương, giải thích cụ thể các điều khoản phức tạp để khách hàng không hiểu sai, dẫn đến tranh cãi khi có tranh chấp xảy ra.
Những dịch vụ bổ sung này mang tính chất như một loại chất xúc tác duy trì và củng cố quan hệ với khách hàng cũng như nâng cao vị thế của Công ty trong cạnh tranh.
3. Giải pháp về xúc tiến thương mại:
Xúc tiến thương mại là hoạt động vô cùng phong phú. Mọi công ty đều biết đến tầm quan trọng của hoạt động này nhưng để thực hiện một kế hoạch xúc tiến hiệu quả là một việc rất khó khăn bởi đa phần các công ty Việt Nam chưa có nguồn vốn đủ mạnh để theo đuổi chiến lược xúc tiến lâu dài. Nhưng để phát triển bền vững, Công ty cần thúc đẩy hoạt động này.
Xúc tiến thương mại với một doanh nghiệp dịch vụ bao gồm các hoạt động chủ yếu sau: quảng cáo và quan hệ khách hàng mà trong đó quan trọng là chính sách chăm sóc khách hàng.
Về phương tiện quảng cáo, Công ty có thể quảng cáo trên báo, làm panô, áp phích quảng cáo. Đây là các biện pháp dễ dàng mà không quá tốn kém vì khác với các doanh nghiệp sản xuất, phải đưa ra chiến dịch quảng cáo rầm rộ khi đưa ra sản phẩm mới, là một doanh nghiệp dịch vụ, Công ty chỉ cần quảng cáo thường xuyên mà không cần quá phô trương. Ngoài ra, tăng cường quảng cáo tại các cơ sở giao dịch cũng là biện pháp thưòng dung đối với một ngân sách không lớn của những công ty như Công ty.
Hiện nay các công ty cũng sử dụng nhiều loại hình tiếp thị như: in các ấn phẩm giới thiệu về công ty có hình thức đẹp, tham gia các hội trợ triển lãm… Tuy nhiên hình thức được ưa chuộng nhất có vẻ như là các nhân viên của công ty đi đến các đơn vị xuất nhập khẩu để xây dựng quan hệ bằng cách đưa báo giá, tờ rơi, thuyết phục khách hàng. Không chỉ là thường xuyên đi gặp khách hàng để tìm hiểu về những nhu cầu, đòi hỏi của khách hàng đối với dịch vụ của công ty, những cuộc trao đổi còn giúp cho hai bên hiểu và tin tưởng lẫn nhau. Điều này rất có lợi cho những công ty trong những lúc khó khăn. Bên cạnh đó, để giành được sự ủng hộ của khách hàng, Công ty có thể áp dụng một số cách sau: cho khách hàng hưởng hoa hồng thỏa đáng, với những khách hàng lớn có lượng hàng ổn định cho hưởng mức giá ưu đãi, quan tâm đến khách hàng khi ốm đau, thai sản, hiếu hỉ,…Những điều này nghe tưởng như không hiệu quả nhưng đã được nhiều công ty áp dụng và đạt được nhiều thành công.
4. Hạn chế sự ảnh hưởng của tính thời vụ:
Như trên đã phân tích, một đặc thù mà cũng là một tồn tại cần khắc phục của Công ty đó là tính thời vụ. Tính thời vụ của hoạt động giao nhận xuất phát tư tính thời vụ của hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa bởi lượng hàng hoá xuất nhập khẩu chính là đối tượng của hoạt động giao nhận. Tuy vậy khi nước ta đang ngày càng hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới thì sự lưu thông hàng hoá sẽ ngày càng được đẩy mạnh. Dù có lúc lượng hàng hoá có sụt giảm nhưng không phải là không có hàng, nếu biết khai thác tốt, Công ty vẫn có thể ổn định được nguồn hàng, tiến tới chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Muốn hạn chế được ảnh hưởng của tính thời vụ, Công ty phải có được sự tín nhiệm của khách hàng, hoặc phải ký được những hợp đồng uỷ thác giao nhận dài hạn với lượng hàng lớn. Đây là một công việc đòi hỏi phải có chiến lược lâu dài nhưng trước mắt Công ty có thể thực hiện một số giải pháp sau:
Giảm giá dịch vụ để thu hút khách hàng:
Khi tiến hành giảm giá dịch vụ, Công ty có thể sẽ rơi vào tình trạng làm ăn không có lãi, thậm chí lỗ. Nhưng nếu không làm gì, Công ty cũng sẽ vẫn phải trả lương nhân viên, khấu hao máy móc thiết bị. Còn nếu thực hiện chiến lược giảm giá, Công ty còn có một cái lợi là duy trì và mở rộng quan hệ với khách hàng, điều này là cái lợi tiềm tàng, khó có gì mua được.
Khi tiến hành giảm giá, Công ty phải nghiên cứu một mức hợp lý, vừa thu hút được khách hàng vừa đảm bảo được lợi nhuận. Điều này không đơn giản chút nào vì mùa hàng xuống, các hãng tàu biển cũng như cơ quan cảng đồng loạt giảm giá khiến hầu hết các doanh nghiệp giao nhận cũng đều có khả năng giảm giá. Mà với các công ty có tiềm lực thì mức giá mà họ đưa ra ngay cả mùa hàng cao cũng thấp đến giật mình, nếu các doanh nghiệp như Công ty bị cuốn vào vòng xoáy cạnh tranh thì sẽ làm cho lợi nhuận bị xói mòn, giảm khả năng tích lũy đầu tư mở rộng sản xuất. Do đó, Công ty nên chuyển theo hướng thứ hai.
Nâng cao chất lượng dịch vụ với giá không đổi:
Đây là biện pháp mang tính chiến lược, mang lại lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp. Nhưng chất lượng dịch vụ không phải ngày một ngày hai mà có được, cũng không dễ dàng tạo được ý niệm trong tâm tưởng của khách hàng. Nâng cao chất lượng dịch vụ tuy khó khăn nhưng phải được tiến hành đồng bộ sau một quá trình chuẩn bị chu đáo.
5. Đào tạo nguồn nhân lực cho phù hợp với tình hình mới:
Trước hết là về trình độ nghiệp vụ, cho dù mỗi nhân viên phải tự trau dồi kiến thức, học hỏi thêm về nghiệp vụ nhưng vai trò của Công ty trong việc đào tạo đội ngũ lao động của mình là không thể phủ nhận. Công ty cần thường xuyên tổ chức các khoá học về nghiệp vụ ngoại thương, nghiệp vụ thanh toán quốc tế, giao tiếp khách hàng, đào tạo thêm về luật pháp cho các nhân viên kinh doanh.
Ngay từ khâu tuyển dụng, Công ty cần nghiêm túc, khách quan để chọn được những nhân viên trẻ, tài năng, nhiệt tình. Hàng năm, Công ty nên tổ chức các cuộc thi sát hạch về nghiệp vụ, đặc biệt là ngoại ngữ để mọi nhân viên luôn phải tự học tập, không lơ là việc trau dồi, làm giàu kíến thức, trình độ của mình.
Bên cạnh đó, việc nâng cao ý thức cho các nhân viên cũng rất quan trọng, góp phần giúp Công ty nâng cao hiệu quả công việc. Đó là tinh thần trách nhiệm, tư duy sáng tạo trong công việc, ý thức tiết kiệm, giữ gìn bảo vệ tài sản của công ty. Đối với một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ, tinh thần trách nhiệm, tính mẫn cán trong công việc nên đặc biệt coi trọng vì khi khách hàng đã tin tưởng giao hàng hoá vào tay người giao nhận, họ phải được đảm bảo rằng hàng hoá sẽ được an toàn.
V. Các kiến nghị:
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực giao nhận vận tải hàng hóa quốc tế như hiện nay, để đạt được kết quả mong muốn, Công ty phải nhanh chóng kiện toàn lại tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động.
Trước mắt, Công ty cần thực hiện ngay việc cổ phần hoá để huy động nguồn vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời tiến hành đồng bộ các giải pháp nêu trên để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đó. Sở dĩ nói rằng cần tiến hành đồng bộ các giải pháp trên vì chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau. Chẳng hạn, Công ty không thể thực hiện các biện pháp mở rộng thị trường nếu như không có các loại hình dịch vụ đa dạng, đội ngũ lao động có chuyên môn, giàu kinh nghiệm và nếu chất lượng dịch vụ không đảm bảo.
Nhưng chỉ nỗ lực của bản thân công ty thôi thì chưa đủ, các doanh nghiệp như Công ty rất cần có được sự ủng hộ, quan tâm giúp đỡ của Nhà nước, các Bộ, Ngành, cơ quan hữu quan như Hiệp hội Giao nhận Việt Nam, Phòng Thương Mại Và Công Nghiệp Việt Nam để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động của Công ty. Sự quan tâm này không chỉ qua đường lối chính sách đúng đắn, hợp lý mà còn phải qua những hành động thiết thực hơn như thường xuyên đi sâu đi sát để nắm được những khó khăn, những tâm tư nguyện vọng của doanh nghiệp, từ đó có ngay những hướng đi giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn. Có thế những nỗ lực của doanh nghiệp mới phát huy hiệu quả.
Hiệu quả hoạt động của bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phụ thuộc rất nhiều vào những chính sách vĩ mô của Nhà nước. Nếu Nhà nước đưa ra những chính sách thông thoáng nhưng chính xác sẽ tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp chân chính phát triển, còn nếu đưa ra những quy định quá cứng nhắc nhưng lại có kẽ hở chỉ lợi cho những kẻ biết luồn qua những kẽ hở đó để làm giàu bất chính.
Hiện nay, các cơ chế, chính sách của chính phủ Việt Nam về Hàng hải, giao nhận vận tải biển tuy đã được ngày càng hoàn thiện nhưng vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán, chưa bao quát được những hoạt động phát sinh trong thực tiễn khiến các doanh nghiệp giao nhận nói riêng gặp không ít khó khăn.
Do đó, những việc Chính phủ cần làm ngay là:
1. Hoàn thiện hệ thống Luật:
Hệ thống luật về Hàng hải, giao nhận đường biển của nước ta còn chưa đầy đủ, đồng bộ, cần phải được hoàn thiện thì mới tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động của các doanh nghiệp, cá nhân. Hiện nay, Việt Nam mới chỉ có Bộ luật Hàng Hải là cơ sở pháp lý điều chỉnh tất cả các hoạt động hàng hải tại Việt Nam. Bộ luật này cần được nghiên cứu, chỉnh sửa cho phù hợp với yêu cầu hội nhập, đồng thời không được trái với tinh thần của các văn bản luật khác như Luật Thương Mại, Luật Doanh nghiệp,… Tuy vậy vẫn còn những yêu cầu quá khắt khe, gây khó khăn cho các doanh nghiệp cũng cần phải được nới lỏng và tiến tới xoá bỏ.
Về việc mở rộng ưu đãi thuế cho các hoạt động dịch vụ vận tải nói chung như dịch vụ giao nhận, Nhà nước cũng đã chỉ đạo Tổng Cục Thuế nghiên cứu, nhưng việc này có được thực hiện hay không phải tuân theo thông lệ và luật pháp quốc tế.
Ta thấy rằng nhiều đơn hàng vận chuyển đồng bộ đóng sẵn trong 1 container nếu tách rời ra 2 container cho bảo đảm tải trọng theo quy định thì sẽ đẩy giá vận tải tăng gấp đôi. Đó là chưa kể có những loại hàng xếp trong container như kính nổi, nếu xếp không đủ tải sẽ gây nguy hiểm. Nhiều container hàng nhập khẩu kiểm hoá tại chân công trình, không nhà vận tải nào dám đơn phương phá niêm phong kẹp chì hải quan để san tải. Nếu theo quy định về tải trọng như hiện hành thì giá vận tải hàng ra cảng tăng, gây khó khăn rất lớn cho nhà xuất nhập khẩu cũng như người giao nhận.
Như vậy, Nhà nước nên bãi bỏ quy định quá khổ quá tải ở xe container, nên bỏ giấy phép “lưu hành đặc biệt” loại xe này và việc mỗi xe container chỉ được chạy trên 5 tuyến đường là không hợp lý. Chúng ta biết rằng theo thông lệ quốc tế hàng container được phép chạy trước, thủ tục chạy theo sau nên tốc độ giải phóng hàng rất nhanh còn ở ta thì ngược lại mà dịch vụ giao nhận hàng hóa có phát triển hay không phụ thuộc vào lượng hàng có nhiều hay không. Nếu hàng bị ứ đọng ở cảng do quy định trên thì sẽ đẩy người làm giao nhận rơi vào tình thế nan giải.
2. Nhà nước cần tăng cường thu hút FDI vào ngành giao nhận vận tải:
Ngành giao nhận vận tải muốn phát triển cần phải có cơ sở hạ tầng, trang thiết bị hiện đại. Mà đất nước ta còn nghèo, do vậy chỉ có tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài thì chúng ta mới lợi dụng được nguồn vốn và công nghệ hiện đại, mới nhanh chóng thay đổi được bộ mặt của ngành, đuổi kịp với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy rằng nhờ chính sách thu hút đầu tư mà ngành giao nhận vận tải của nước này đã có những bước tiến bộ rất lớn. Việt Nam tuy không thể bắt chước một cách máy móc nhưng việc tăng cường thu hút đầu tư vào ngành giao nhận vận tải để hiện đại hoá ngành này là cần thiết vì đội tàu của ta trọng tải còn hạn chế, các cảng còn quá nông, tàu mẹ chưa thể vào, gây khó khăn cho việc xếp dỡ hàng hóa, kho bãi ở cảng còn nhỏ hẹp, thường xuyên gây ùn tắc hàng, quy mô hoạt động của các doanh nghiệp giao nhận còn nhỏ lẻ, cung cách làm việc còn chưa chuyên nghiệp.
3. Cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường pháp lý thông thoáng:
Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống luật về đầu tư nước ngoài, ban hành các văn bản dưới luật theo hướng mở cửa, hội nhập, phù hợp với thông lệ quốc tế, đặc biệt là luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Cải cách thủ tục hành chính cho đơn giản, gọn nhẹ.
Bên cạnh đó, miễn giảm hơn nữa thuế lợi tức và tiền thuê đất đối với những dự án đầu tư vào phát triển đội tàu biển, xây dựng cảng biển, mở rộng và hiện đại các kho bãi, phương tiện xếp dỡ, nâng hạ hàng hóa.
Công tác quản lý Nhà nước đối với trong đầu tư và sau đầu tư cần tạo ưu đãi nhưng cũng phải chặt chẽ để bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp trong nước, tránh các công ty nước ngoài lợi dụng ưu đãi để hạ mức giá, cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại và thất thu ngân sách cho Nhà nước.
4. Tạo môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi:
Để các nhà đầu tư yên tâm đầu tư, chính phủ Việt Nam phải ổn định kinh tế vĩ mô, chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ phải được cân nhắc, điều chỉnh sao cho không làm mất đi nguồn lợi chính đáng của các nhà đâu tư. Bên cạnh đó, cũng phải giữ vững được sự ổn định về chính trị, trật tự an toàn xã hội để bảo đảm an toàn về tính mạng, tài sản, bảo đảm những quyền cơ bản cho nhà đầu tư.
5. Đổi mới cơ chế quản lý Nhà nước về giá trong giao nhận vận tải:
Đối với vận tải biển hàng xuất nhập khẩu, giá cước chịu ảnh hưởng rất lớn bởi yếu tố quốc tế, cho nên Nhà nước không thể quy định giá, cho dù chỉ là giá tối thiểu (sàn), hoặc giá tối đa (trần). Nhà nước chỉ có thể thay đổi cơ chế quản lý đối với giá cả của dịch vụ hàng hải.
Với những dịch vụ bắt buộc phải thực hiện tại Việt Nam (đại lý tàu biển, lai dắt, vệ sinh, kiểm đếm hàng), chỉ thực hiện giá quy định của các hiệp định song phương (nếu có), còn lại cần thiết phải quy định giá tối thiểu để tránh việc cạnh tranh hạ giá giữa các doanh nghiệp trong nước làm thiệt hại đến thu nhập của từng doanh nghiệp và thất thu ngân sách.
Các loại dịch vụ không bắt buộc phải thực hiện ở Việt Nam (như cung ứng vật tư, sửa chữa) giá cả sẽ do các bên thỏa thuận, vì nếu quy định, sẽ có hai khả năng, một là quá thấp - sẽ làm lợi cho phía nước ngoài, hai là quá cao - khách hàng nước ngoài sẽ không thực hiện tại Việt Nam, và tất nhiên, phía Việt Nam không tận dụng được nguồn thu này.
Giá xếp dỡ hàng xuất nhập khẩu nên quy định giá tối thiểu. Các doanh nghiệp trong nước có thể cạnh tranh bằng giá không thấp hơn mức giá thấp nhất đó. Giá xếp dỡ hàng trung chuyển nên để các bên thỏa thuận, nhà nước không quy định.
Ngoài ra, các chi phí và lệ phí liên quan đến giao nhận tại các cảng biển quá cao làm tăng chi phí của chủ hàng đồng thời gây khó khăn cho người giao nhận như phụ phí xăng dầu, phí nâng hạ. Tuy những loại phí này không phải loại nào cũng nằm trong sự kiểm soát của Nhà nước nhưng Nhà nước cũng nên rà soát lại và bãi bỏ hoặc giảm các loại phí bất hợp lý.
Khi thị trường bất ổn định hoặc trong trường hợp đặc biệt khi chịu ảnh hưởng của thị trường tài chính thế giới (tác động xấu) đến hoạt động giao nhận vận tải, Nhà nước phải có chính sách cụ thể như: giảm thuế xuất nhập khẩu để ưu tiên đội tàu biển quốc gia, giảm thuế cước cho các doanh nghiệp giao nhận.
Cũng cần chú ý rằng khi Nhà nước đã có những chế tài cho các hãng tàu và doanh nghiệp thì phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để những chế tài đó được thực hiện đúng theo đường lối của Nhà nước.
6. Thành lập ủy ban quốc gia tạo thuận lợi cho giao nhận vận tải hàng hóa:
Cơ quan quản lý nhà nước này sẽ đảm bảo cho việc phát triển và kinh doanh giao nhận vận tải ở nước ta theo đúng pháp luật Việt Nam và công ước quốc tế, đảm bảo quyền lợi cho chủ hàng cũng như người giao nhận vận tải. Thành phần của ủy ban này gồm đại diện của nhà nước, đại diện của các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân kinh doanh giao nhận vận tải. Ủy ban này phải có quan hệ với các quốc gia trong khu vực và thế giới về vận tải hàng hóa.
7. Đơn giản hóa và hài hòa các thủ tục chứng từ có liên quan:
Hiện nay nước ta đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam đã là thành viên của APEC, ASEAN, AFTA, WTO. Vì vậy chúng ta phải có nghĩa vụ của một thành viên tham gia các tổ chức chuyên ngành, tham gia các công ước, hiệp định quốc tế. Yêu cầu cấp thiết hiện nay là phải đơn giản hóa các thủ tục hải quan, cải tiến thủ tục quản lý xuất nhập khẩu phù hợp với thông lệ, công ước quốc tế nhằm góp phần thúc đẩy giao lưu kinh tế đặc biệt trong lĩnh vực giao nhận.
Việt Nam từ lâu đã thực hiện cơ chế “một cửa” nhằm đơn giản hoá thủ tục hành chính. Cơ chế này cần tiếp tục phát huy trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, giao nhận vận tải hàng hóa. Thủ tục hải quan cũng như các thủ tục chứng từ khác cần nghiêm minh, chặt chẽ nhưng phải nhanh gọn; bỏ bớt những rườm rà, tránh hạch sách, gây khó dễ cho chủ hàng và người giao nhận.
KẾT LUẬN
Ở nước ta ngành vận tải và kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải đã ra đời từ lâu, nhưng trình độ phát triển còn thấp chưa tương xứng với tiềm năng về biển của đất nước. Hiện nay ở Việt Nam đã xuất hiện rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực giao nhận vận tải với nhiều quy mô khác nhau. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về vốn cũng như phương tiện nhưng các doanh nghiệp đang dần dần khắc phục khó khăn và khẳng định vị thế của mình.
Tuy chỉ mới thành lập được 6 năm nhưng Công ty đã có những bước phát triển đáng kể, đóng góp một phần vào xu hướng phát triển của nền kinh tế nói chung và ngành vận tải nói riêng. Qua quá trình thực tập và nghiên cứu một số quy trình làm hàng ở Công ty, em nhận thấy các quy trình này phần nào thể hiện được tính chuyên nghiệp và đa dạng. Điều này cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam đang có những thay đổi theo hướng hoàn thiện hơn trong mỗi quy trình xuất nhập hàng nhằm đáp ứng được nhu cầu đa dạng trong vận tải nội địa và trên thế giới. Tuy nhiên, việc thiếu nguồn vốn và chưa trang bị đầy đủ phương tiện vận tải, hệ thống bốc xếp tại cảng để có thể chủ động trong toàn bộ quy trình xuất nhập hàng đã hạn chế một phần nào đối với sự phát triển. Những thay đổi cũng như những thuận lợi và khó khăn được thể hiện phần nào trong quy trình giao nhận bằng đường biển.
Hiện nay nước ta đang trong quá trình xây dựng lại hệ thống cảng biển, mở rộng hoạt động của một số cảng mới, đồng thời cũng tiến hành xây dựng hệ thống giao thông trên nhiều mặt. Đồng thời các doanh nghiệp vận tải cũng tích cực trong việc hoàn thiện và làm mới mình. Điều này hứa hẹn sẽ mang lại nhiều cơ hội và thành công mới cho thị trường giao nhận vận tải Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS. TS. Nguyễn Hồng Đàm (2005), Vận Tải Và Giao Nhận Trong Ngoại Thương, NXB Lý Luận Chính Trị, Hà Nội
2. GS., TS. Bùi Xuân Lưu (2007), Giáo trình Kinh Tế Ngoại Thương, NXB Lao Động – Xã Hội, Hà Nội
3. PGS., TS Vũ Hữu Tửu (2006), Giáo trình Kỹ Thuật Nghiệp Vụ Ngoại Thương, NXB Giáo Dục, Hà Nội
4. PGS., TS. Đinh Ngọc Viện (2006), Giao Nhận Vận Tải Hàng Hóa Quốc Tế, NXB Giao Thông Vận Tải, Hà Nội
PHỤ LỤC
1. Giấy Chứng Nhận Đăng Ký Kinh Doanh Và Đăng Ký Thuế
2. Bảng Thuyết Minh Báo Cáo Tài Chính năm 2009
3. Báo Cáo Kết Quả Hoạt Động Kinh Doanh năm 2008
4. Báo Cáo Kết Quả Hoạt Động Kinh Doanh năm 2009
5. Lệnh Giao Hàng
6. Giấy Báo Hàng Đến
7. Bill Of Lading
8. Lệnh Giao Hàng
9. Thông Báo Hàng Đến
10. Commercial Invoice
11. Packing List
12. Debit/Cedit Note
13. Invoice
14. Job Costing
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực tiễn giao nhận hàng hóa nhập khẩu bằng đường biển tại Công ty TNHH Dịch Vụ Giao Nhận Hàng Hóa Bầu Trời.doc