Đề tài Thực trạng bảo hiểm tai nạn nghề nghiệp tại Việt Nam

Hai năm sau khi gia nhập WTO ngành bảo hiểm hòa theo nhịp độ của nền kinh tế đã có những thay đổi và tiến bộ rõ rệt. Các cam kết khi trở thành thành viên WTO cộng với những quy định về mở cửa thị trường bảo hiể m trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã được thực hiện gần như toàn diện, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiể m Việt Nam đã được xây dựng, hoàn thiện và áp dụng hiệu quả trong những năm gần đây. Thị trường bảo hiểm sẽ tiếp tục phát triển nhanh và hiệu quả với đầy đủ các yếu tố của thị trường nhằm đa dạng hóa các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm với chất lượng cao, góp phần đảm bảo an toàn, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngành bảo hiểm trong những năm tới ngoài việc hướng đến các mục tiêu kinh tế còn có tham vọng đi sâu đi sát đến từng người, từng ngành để trở thành người bạn đường không thể thiếu của họ.

pdf118 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2440 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng bảo hiểm tai nạn nghề nghiệp tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, bảo hiểm, và các ngành có nhu cầu cao như thẩm định giá, kiểm toán, công chứng,…cũng có nhiều sức ép đòi hỏi tính chính xác, nhanh chóng và chuyên nghiệp. Đây là cơ sở để các doanh nghiệp BH phát triển loại hình BHTN nghề nghiệp đến những đối tượng khách hàng có quy mô lớn. Mặt khác, đây cũng là môi trường để các doanh nghiệp BH hoàn thiện hơn sản phẩm cũng như năng lực của mình trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt. Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế cũng kéo theo nhiều hệ quả: những vấn đề nhức nhối về tai nạn giao thông; thiên tai hoành hành; về sự thiếu hụt trầm trọng cơ sở vật chất khám chữa bệnh hay hàng loạt sự kiện các công trình xây dựng, lắp đặt lớn sập đổ, nứt, lún hay có vấn đề về an toàn,…đã làm cho nhiều người ý thức hơn về những rủi ro có thể xảy đến, quan tâm hơn đến việc thực hiện trọng trách của mình, bảo vệ quyền lợi của mình. Do vậy, BHTN nghề nghiệp chắc chắn sẽ được chú ý hơn nữa trong thời gian tới. b2. Sự phát triển nhanh, toàn diện của toàn ngành bảo hiểm . Trong bước đường 15 năm hoạt động (từ năm 1993 đến năm 2009), ngành BH Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể: tốc độ tăng trưởng đạt mức cao; quy mô thị trường ngày càng được mở rộng; số lượng sản phẩm BH ngày càng nhiều; năng lực quản lý điều hành và chất lượng cán bộ BH ngày càng chuyên nghiệp. Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng toàn ngành BH đạt mức cao. Năm 1993, doanh thu BH mới đạt 700 tỷ đồng, chiếm 0,37% GDP. Năm 2007, doanh thu BH đạt 17.846 tỷ đồng, chiếm 2,11% GDP, trong đó NT đạt 9.486 tỷ đồng, PNT đạt 8.360 tỷ đồng. Năm 2008, doanh thu BH đạt 21.314 tỷ đồng, chiếm 2,22% GDP, trong đó NT đạt 10.489 tỷ đồng, tăng 86 trưởng 11%, PNT đạt 10.825 tỷ đồng, tăng trưởng 29%. Đặc biệt, BH PNT đã về đích trước hạn trong việc thực hiện chỉ tiêu chiến lược phát triển ngành BH giai đoạn 2003 - 2010 đề ra là 9.000 tỷ đồng và đạt mức tăng trưởng bình quân là 20%/năm. Đây là tốc độ tăng trưởng cao, mang sức hấp dẫn lớn đối với các công ty BH nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam. Thứ hai, quy mô thị trường ngày càng được mở rộng: từ chỗ chỉ có một DNBH là Bảo Việt, đến nay trên thị trường BH Việt Nam đã có 27 DNBH Phi nhân thọ, 11 DNBH Nhân thọ, 8 DN môi giới BH cùng nhau hoạt động và cùng tranh tài cung cấp sản phẩm BH để khách hàng có quyền lựa chọn một cách tích cực. Bên cạnh đó, số lượng sản phẩm BH được cung cấp cũng ngày càng nhiều, đa dạng, phong phú, về cơ bản đáp ứng được nhu cầu và tạo được sự lựa chọn mang tính cạnh tranh cho khách hàng. Năm 1999 mới có 20 sản phẩm BH, đến nay khối PNT đã có 3 sản phẩm BH bắt buộc và 600 sản phẩm BH do DNBH đăng kí với BTC. Các sản phẩm BH có sự khác biệt giữa DNBH này với DNBH khác mang tính cạnh tranh cao để khách hàng lựa chọn. Thứ ba, năng lực quản lý điều hành và chất lượng cán bộ BH ngày càng chuyên nghiệp. Năm 1993, ngành BH mới có 500 cán bộ, công nhân viên, đến nay, toàn ngành đã có tới 14.000 cán bộ, công nhân viên và 140.000 đại lý BH, trong đó có 90.000 đại lý BH NT chuyên nghiệp. Lãnh đạo DNBH, các Trưởng phòng, Giám đốc chi nhánh đều được trải qua các khóa đào tạo trong và ngoài nước đạt tiêu chuẩn quy định của BTC. Toàn ngành có trên 90% cán bộ BH có trình độ đại học, trong đó, 5% có trình độ trên đại học, có trên 1.000 cán bộ tốt nghiệp các khóa đào tạo BH nước ngoài có trình độ đại học và sau đại học. Gần đây, trong quá trình cổ phần hóa, các DNBH đã hướng tới chọn đối tác chiến lược là các công ty BH hàng đầu quốc tế để tiếp thu phương pháp, kinh nghiệm, công nghệ quản lý, điều hành của họ. 87 Nhìn chung, 15 năm qua là một chặng đường dài ngành BH đã phải cố gắng, nỗ lực rất nhiều và vượt qua nhiều thử thách để đạt được nhiều thành tựu to lớn như ngày hôm nay. Và sự phát triển của toàn ngành là điều kiện thuận lợi để các công ty BH, các sản phẩm BH có môi trường để phát triển, trong số đó, BHTN nghề nghiệp cũng không phải là một ngoại lệ. Có thể nói, cùng với sự phát triển của toàn ngành BH thì tiềm năng phát triển của sản phẩm BHTN nghề nghiệp cũng là rất lớn. Qua những phân tích trên chúng ta có thể thấy, sự hoàn thiện về cơ sở pháp lý, sự thách thức từ hội nhập và tăng trưởng sẽ đòi hỏi yêu cầu tất yếu của một biện pháp đảm bảo thực hiện trách nhiệm dân sự nghề nghiệp một cách quy chuẩn. Và biện pháp tốt nhất để đáp ứng yêu cầu đó không gì khác ngoài BHTN nghề nghiệp. Dự báo, trong thời gian tới đối tượng bắt buộc tham gia BHTN nghề nghiệp sẽ còn được mở rộng và phạm vi triển khai cũng sẽ không chỉ dừng lại ở các thành phố lớn mà sẽ mở rộng về các tỉnh, các vùng có chi nhánh, đại lý bảo hiểm của DNBH hay của công ty môi giới. Khi đó nhu cầu về BHTN nghề nghiệp sẽ còn tăng cao hơn nữa, hứa hẹn một mảnh đất tiềm năng cho sự phát triển của ngành BH nói chung và của DNBH nói riêng. 2. Định hướng phát triển BHTN nghề nghiệp đến năm 2015. Thị trường BH Việt Nam năm 2009 đang gấp rút cố gắng hoàn thành thắng lợi những chỉ tiêu chiến lược giai đoạn 2003 - 2010, và chuẩn bị cho chiến lược phát triển ngành giai đoạn 2011 - 2015, có tính đến năm 2020. Mặc dù chiến lược phát triển 2011 - 2015 vẫn chưa được các cơ quan chức năng đề ra, còn chiến lược giai đoạn 2003 - 2010 không đưa ra mục tiêu cụ thể cho BHTN nghề nghiệp, song các doanh nghiệp cũng có thể dựa vào đó, kết hợp với xu hướng phát triển của sản phẩm và dự báo nhu cầu của 88 thị trường để xây dựng định hướng và đưa ra mục tiêu cụ thể cho sự phát triển của nghiệp vụ trong thời gian tới. a/ Định hướng về thị trường: Theo đánh giá, thị trường BH PNT Việt Nam còn 95% tiềm năng chưa khai thác. Riêng đối với BHTN nghề nghiệp thì tiềm năng thị trường trước mắt có thể coi là còn 100% (Nguồn: Theo “Báo cáo phân tích thị trường” của HHBHVN). Vì vậy, thị trường vô cùng rộng mở đối với các DNBH khi triển khai, phát triển sản phẩm này. - Trước hết, các DNBH cần tiếp tục nắm giữ và khai thác có hiệu quả hơn ở nhóm thị trường hiện tại, tức là ở những thành phố lớn như Hà Nội, TP HCM, vì trong thời gian tới đây vẫn là khu vực thị trường chủ yếu, hứa hẹn sẽ đem lại hiệu quả khai thác cao của sản phẩm. - Bước đầu mở rộng quy mô thị trường ra các tỉnh, thành phố khác trong cả nước, tức là xây dựng môi trường mới cho việc phổ biến, phát triển sản phẩm. Cần phải xác định rằng, trong thời gian đầu mở rộng quy mô thị trường thì hiệu quả kinh doanh đạt được chưa cao, do phải đầu tư và chi nhiều cho việc tuyên truyền, quảng cáo. Thậm chí, nếu chi phí cho tuyên truyền, quảng cáo quá lớn thì các công ty có thể sẽ phải chịu lỗ. Tuy nhiên, nếu hoạt động này được thực hiện tốt thì đây là bước tạo đà cho công tác khai thác đạt hiệu quả cao, tác dụng của quảng cáo sẽ thể hiện dần ở số lượng người tham gia BH tăng lên theo quy mô thị trường vào những năm sau. - Tiến tới xâm nhập, mở rộng việc khai thác sản phẩm ra thị trường quốc tế và khu vực, thông qua việc tham gia góp vốn vào các công ty BH, môi giới BH, tái BH đang hoạt động thành công ở nước ngoài hay thành lập các công ty con, các chi nhánh kinh doanh BH ở nước ngoài; và đặc biệt hướng vào nhóm khách hàng tiềm năng là các kiều bào Việt Nam đang sống và làm việc ở nước ngoài. b/ Định hướng sản phẩm: 89 BHTN nghề nghiệp đã được đưa vào triển khai trên thị trường BH Việt Nam gần 8 năm, tuy nhiên chưa đạt được thành tựu gì đáng kể. Về vấn đề này, các công ty BH lý giải do đây là thời kỳ thử nghiệm sản phẩm nên không nhằm mục đích thu lợi nhuận, mà chỉ để học hỏi kinh nghiệm. Đây là lý do có thể chấp nhận được, tuy nhiên, trong thời gian tới các công ty BH cần chấm dứt thời gian thử nghiệm sản phẩm, mà quan tâm đến việc phát triển sản phẩm nhằm đưa sản phẩm trở thành một loại hình phổ biến, và đem lại hiệu quả kinh doanh cao cho công ty. Cụ thể: - Cần tiếp tục công tác hoàn thiện các sản phẩm BHTN nghề nghiệp đã được đưa vào triển khai; xây dựng các quy tắc và biểu phí BHTN nghề nghiệp chặt chẽ, cụ thể và dễ hiểu hơn. - Nghiên cứu triển khai thêm các sản phẩm BHTN nghề nghiệp mới, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Bởi vì, khi nền kinh tế cũng như ngành BH ngày càng phát triển thì sự đa dạng hóa các loại hình sản phẩm BH lại càng được đẩy mạnh. Và không chỉ các ngành nghề chuyên môn như: luật sư, bác sỹ, môi giới, thẩm định giá,…mới cần BHTN nghề nghiệp mà hầu hết các ngành sẽ đều cần đến loại hình BH này. - Đối với từng loại sản phẩm BHTN nghề nghiệp tiến tới phát triển theo hướng mở rộng phạm vi BH và thời hạn BH. Ví dụ, trong BHTN nghề nghiệp KTS & KSTV, hướng tới phát triển BH theo năm thay cho BH theo dự án. Trong thời gian đầu triển khai do còn thiếu kinh nghiệm nên các công ty thường chỉ nhận BH theo dự án, vì BH trên cơ sở năm sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc đánh giá và kiểm soát rủi ro. Tuy nhiên, trong 5 năm tới ngoài việc cung cấp sản phẩm BH theo dự án, các công ty BH cần tư vấn cả về sản phẩm trên cơ sở năm. Bởi vì thực chất, mỗi văn phòng KTS hoặc KSTV cần phải BH mọi hoạt động nghề nghiệp. Một đơn BH theo năm là cực kỳ cần thiết cho bất kỳ một chuyên gia nào. Nếu NĐBH chỉ mua BH cho các dự án lớn hoặc các dự án có những khó khăn kỹ thuật đặc biệt, NĐBH sẽ không được BH cho công việc hàng ngày của 90 họ, và kinh nghiệm của các nhà BHTN chỉ ra rằng các lỗi lầm xảy ra không chỉ trong trường hợp có những dự án phức tạp mà còn trong những công việc bình thường hàng ngày. Đặc biệt là các dự án càng đơn giản khiến mọi người càng bất cẩn. Vì vậy áp dụng BH trên cơ sở năm sẽ mở rộng phạm vi BH, tức là bảo vệ và đảm bảo quyền lợi tốt hơn cho NĐBH, trong khi phí BH của BH theo dự án và BH theo năm cũng không chênh lệch nhau là mấy. c. Định hướng kênh phân phối. Một trong những nguyên nhân chính khiến BHTN nghề nghiệp chưa phát triển tại Việt Nam là do công tác khai thác còn kém hiệu quả. Vì vậy, để thúc đẩy sự phát triển của loại hình BH này trong thời gian tới thì một trong những nhiệm vụ hàng đầu là phải nâng cao hiệu quả phân phối. - Trước hết, đối với những kênh khai thác truyền thống như: lực lượng nhân viên khai thác trực tiếp (hưởng lương của công ty), các công ty môi giới (hưởng hoa hồng) thì cần phải nắm vững và đẩy mạnh hơn nữa để đạt được hiệu quả khai thác tối đa trong thời gian tới. Bởi vì đây vẫn là hai kênh khai thác chủ yếu của nghiệp vụ BHTN nghề nghiệp tại Việt Nam. Đặc biệt, cần phải liên kết chặt chẽ hơn nữa với các công ty môi giới BH, mà cụ thể là các công ty môi giới BH nước ngoài, vì thực tế cho thấy các công ty môi giới BH nước ngoài đã mang về cho các DNBH không ít những hợp đồng BHTN nghề nghiệp có giá trị lớn. - Bước đầu đào tạo và xây dựng mạng lưới “đại lý BHTN nghề nghiệp” nhằm hỗ trợ tích cực cho công tác khai thác. Trong một vài năm tới, công tác đào tạo đại lý cần được thực hiện trước tiên tại các thành phố lớn - thị trường tiềm năng của BHTN nghề nghiệp. Đào tạo đại lý cần phải được tiến hành đầy đủ qua ba giai đoạn: đào tạo cơ bản, đào tạo thực tế và đào tạo nâng cao. Trong đó, do đặc điểm của BHTN nghề nghiệp là một nghiệp vụ “khó” nên các công ty BH cần đặc biệt chú trọng vào giai đoạn 91 đầu tiên, tức là giai đoạn đào tạo cho người đại lý có được kiến thức về sản phẩm và đào tạo khả năng bán hàng. - Xây dựng các ngân hàng BH theo mô hình Châu Âu: từ kinh nghiệm của các ngân hàng BH Châu Âu, chúng ta có thể áp dụng hình thức này tại Việt Nam, vì so với các tổ chức tài chính khác ở Việt Nam thì ngân hàng rất có lợi thế, bởi vì đa số người dân Việt chỉ biết đến ngân hàng, họ chưa biết đến các công ty BH. Hay nói cách khác, từ lâu ngân hàng đã có trong tiềm thức và thói quen của người Việt, nếu so với các tổ chức khác thì ngân hàng có uy tín và cũng nhận được sự tin cậy của mọi người hơn. Vì vậy, có thể coi ngân hàng là một kênh phân phối gián tiếp rất quan trọng, thậm chí còn quan trọng hơn cả hệ thống kênh phân phối truyền thống như đại lý, môi giới BH. II. Một số kinh nghiệm trong triển khai BHTN nghề nghiệp trên Thế giới: BHTN nghề nghiệp là một loại hình BH đang còn rất mới ở Việt Nam, chưa được nhiều người biết đến. Tuy nhiên, ở nhiều nước trên Thế giới, đặc biệt là ở những nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ,…BHTN nghề nghiệp là một trong những nghiệp vụ BHPNT chủ yếu của các DNBH, trong đó BH xe cơ giới chiếm 50% doanh thu BHPNT thì BHTN nghề nghiệp chiếm số còn lại - một con số khá ấn tượng so với Việt Nam. Kết quả này cho thấy, những nước này đã triển khai rất thành công sản phẩm BHTN nghề nghiệp và chắc chắn cũng có rất nhiều kinh nghiệm mà chúng ta có thể học hỏi trong việc triển khai thành công sản phẩm BH này. Thứ nhất, đó là sự chuẩn bị tốt về mặt nguồn lực. Tại các nước Châu Âu (đặc biệt là các nước phát triển), các DNBH đã mạnh dạn triển khai, chấp nhận thử thách để đưa sản phẩm đến với mọi người, mọi ngành. Và một khi đã sáng tạo nên một sản phẩm thì họ đều chuẩn bị tốt mọi nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất cũng như con người để triển khai. Đặc biệt chú trọng đến tính chuyên nghiệp, chuyên môn hóa và có phòng nghiệp vụ riêng đối với từng nghiệp vụ. Tại Châu Âu, các công ty BH có tiềm lực rất 92 lớn về vốn và công nghệ, họ có khả năng nhận biết rủi ro; kiểm soát, phân tích nguyên nhân tổn thất; cho phép so sánh nguyên nhân gây ra tổn thất trong từng vụ việc và nhận dạng được rủi ro và tổn thất nếu lặp lại tình huống đó;…Nhờ vậy, các doanh nghiệp BH của Châu Âu có khả năng quản lý tốt các rủi ro và kiểm soát được tổn thất. Họ có khả năng nhận biết được hầu hết các tổn thất, phân tích được nguyên nhân và luôn luôn có những biện pháp tốt nhất để tránh tổn thất cho lần sau. Sự chuyên nghiệp trong phong cách làm việc, kinh nghiệm và sự phát triển của khoa học công nghệ đã làm cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất hay nói cách khác là kiểm soát tổn thất được thực hiện hết sức có hiệu quả, và vì vậy, việc giải quyết khiếu nại bồi thường cũng trở nên đơn giản hơn. Ngoài ra, hệ thống lưu trữ quản lý thông tin khách hàng chuyên nghiệp cũng cho phép các DNBH của họ có nguồn cơ sở dữ liệu phong phú về mọi khách hàng, tình hình hoạt động, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và thái độ thực hiện hợp đồng và tình hình tái tục hợp đồng của từng khách hàng. Điều này giúp các DNBH rất nhiều trong việc xác định tỷ lệ phí BHTN nghề nghiệp và quản lý việc thực hiện hợp đồng BH của NĐBH, không để họ qua mặt, trục lợi BH. Thứ hai, tại những nước này, cơ sở pháp lý và các quy định trong từng ngành nghề đều có quy chuẩn nghề nghiệp rõ ràng và chuyên nghiệp, có thể thấy rõ trách nhiệm của từng người, từng khâu, do vậy quy trình khai thác BH và vấn đề tính phí vốn được coi là rất phức tạp cũng trở nên không còn phức tạp chút nào. Đơn cử một ví dụ như: Trong văn phòng luật sư ở Anh thông thường luật sư làm theo vụ việc, người quản lý không được ép luật sư cộng sự nhận vụ việc nếu anh ta không đồng ý. Về vấn đề thù lao được phân chia theo thỏa thuận, thông thường người mang hồ sơ về hưởng 1/3, người thực hiện hưởng 1/3 và chi phí văn phòng là 1/3. Thù lao đối với khách thường được tính theo giờ tương ứng với dịch vụ hoặc tư vấn, mức thù lao được chia và tính theo thời gian khác nhau. Luật sư sẽ có bảng tổng kết giờ làm việc và yêu cầu khách hàng thanh toán, 93 đồng thời dự toán giờ cho công việc sắp thực hiện. Ở Anh cấm không được trả thù lao luật sư bằng hiện vật vì có thể ảnh hưởng đến tính độc lập của luật sư. Việc trao đổi hàng hóa với dịch vụ pháp lý và cơ sở để xác định mức độ tương ứng giữa hai loại hàng hóa đó sẽ làm luật sư phụ thuộc khách hàng. Nếu cổ phiếu là giá trị thanh toán thay dịch vụ pháp lý, luật sư sẽ trở thành cổ đông của công ty, được hưởng cổ tức,...Lúc đó luật sư không còn độc lập, vì kết quả và công việc của luật sư đã bị phụ thuộc khi luật sư trở thành cổ đông của công ty. Ở Anh cũng cấm không được nhận thù lao từ phần trăm của kết quả vụ việc, cũng không được yêu cầu khách hàng thanh toán thù lao cố định theo từng tháng vì phải tùy theo vụ việc và tiến độ giải quyết. Như vậy, việc tính toán doanh thu phí dịch vụ và thống kê lịch sử tổn thất là rất rõ ràng. Đồng thời, việc không tồn tại luật sư công, luật sư làm việc tự nguyện và độc lập sẽ rất thuận lợi khi phân chia, xác định trách nhiệm và việc giải quyết khiếu nại bồi thường sẽ đơn giản và tiết kiệm nhiều chi phí cũng như công sức. Những điều kiện như vậy làm cho BHTN nghề nghiệp ở Anh được triển khai hết sức thuận lợi và lành mạnh. Hay như các y bác sỹ tại Châu Âu cũng có lịch trình làm việc rõ ràng và công việc của họ được giao và ghi nhận một cách cụ thể, minh bạch nên khi xảy ra sai sót việc đánh giá trách nhiệm là rõ ràng. Ngoài ra, các quy định, các nguyên tắc công việc của họ cũng rõ ràng và tuân theo tiêu chuẩn nghề nghiệp, vì vậy khi có sự sai lệch so với tiêu chuẩn thì việc giám định, xác định nguyên nhân, trách nhiệm cũng không khó khăn. Cũng như vậy việc ký tên xác nhận của người nhà bệnh nhân vào biên bản chấp nhận phẫu thuật ở nước ngoài cũng chỉ là một hành động thể hiện sự cho phép xâm phạm công cụ y tế dao, kéo,…đến cơ thể người thân của họ còn việc phẫu thuật và sơ suất xảy ra tổn thất vẫn thuộc trách nhiệm của bác sỹ, chứ không giống như Việt Nam ký tên đó là thể hiện nếu xảy ra hậu quả gì thì gia đình hoàn toàn chịu trách nhiệm. Những quy định 94 kiểu như thế này làm cho hầu hết các bác sỹ thấy không cần thiết mua BHTN nghề nghiệp. Ngoài ra, việc hoạt động tương đối tự do của những người hành nghề chuyên môn ở Việt Nam cũng gây khó khăn rất lớn cho việc quản lý của các cơ quan Pháp luật và cơ quan BH. Đây cũng là điều mà ngành BH cũng như các ngành liên quan của ta phải học tập và phấn đấu thực hiện theo. Thứ ba, tại các nước Châu Âu, BHTN nghề nghiệp thường được áp dụng bắt buộc, một số ngành nghề bắt buộc phải có BHTN nghề nghiệp thì mới được hành nghề, ví dụ như môi giới BH, luật sư, bác sỹ, CTCK, kiểm toán viên, nhân viên TĐG, CCV, công ty du lịch mạo hiểm, giám định viên,…Vì được áp dụng bắt buộc từ lâu nên đến nay, tại những nước này việc mua BHTN nghề nghiệp đã trở thành một thói quen của các cá nhân cũng như của các doanh nghiệp. Họ mua BHTN nghề nghiệp không phải vì nghĩa vụ nữa mà vì chính lợi ích của mình, vì vậy không có một sự gò ép hay nguyên tắc nào trong việc mua BH. Chẳng hạn như ở Bỉ, luật sư không phải là một nghề rủi ro, vì người ta quan niệm, “sói không ăn thịt nhau”, không ai giúp khách hàng đi kiện ngược lại một luật sư khác. Tuy nhiên, ở nước này, mỗi luật sư đều được BHTN nghề nghiệp, chỉ cần trở thành thành viên của Đoàn luật sư, phí BH do đoàn luật sư mua từ phí thành viên do các luật sư khác đóng góp. Vì thế, được BHTN nghề nghiệp đã trở thành một thói quen của bất kỳ luật sư nào ở Bỉ. Như vậy, theo kinh nghiệm của những nước phát triển, để tạo môi trường cho BHTN nghề nghiệp phát triển thì nên quy định nó là loại hình BH bắt buộc, để người dân thích nghi dần với nó và tạo thành một thói quen trong từng lĩnh vực nghề nghiệp chuyên môn. Thứ tư, căn cứ xác định mức độ thiệt hại linh hoạt. Trong BHTN nói chung và BHTN nghề nghiệp nói riêng, mức độ thiệt hại do trách nhiệm pháp lý phát sinh bao nhiêu là hoàn toàn do sự phán xử của tòa án. Thông thường, thiệt hại này được tính dựa trên mức độ lỗi của người gây ra 95 thiệt hại và thiệt hại của bên thứ ba. Tuy nhiên, ở Mỹ và nhiều nước Châu Âu, tòa án sẽ không căn cứ vào mức độ lỗi để phán xử, mà căn cứ vào khả năng tài chính của người gây ra thiệt hại. Xét về một góc độ nào đó, quy định này là không công bằng, tuy nhiên nó lại linh hoạt hơn và tùy từng trường hợp nó đảm bảo quyền lợi tốt hơn cho cả hai bên: người bị thiệt hại và người gây ra thiệt hại. Qua những tìm hiểu trên có thể thấy nghiệp vụ BHTN nghề nghiệp tại các nước Châu Âu đã rất phát triển và rất chuyên nghiệp, họ đã đi trước ta nhiều bước và có rất nhiều kinh nghiệm. Vì vậy, ngành BH Việt Nam nói chung và các DNBH Việt Nam nói riêng cần phải cố gắng hơn nữa, học hỏi nhiều hơn nữa để theo kịp Thế giới và có những bước phát triển vượt bậc trong việc triển khai sản phẩm. III. Một số giải pháp nhằm phát triển BHTN nghề nghiệp tại Việt Nam: Sau 8 năm được đưa vào triển khai và khai thác, loại hình BHTN nghề nghiệp tuy đã đạt được một số ít thành tựu nhất định, nhưng vẫn còn rất nhiều hạn chế. Vì vậy, để có thể tồn tại và phát triển thì loại hình BH này còn cần phải hoàn thiện nhiều hơn nữa. Công tác hoàn thiện sản phẩm không chỉ thuộc về trách nhiệm của các công ty BH mà còn phụ thuộc vào các chính sách cũng như sự hỗ trợ, hợp tác, chỉ đạo từ phía các cơ quan chức năng Nhà nước và các Bộ, Ngành, tổ chức có liên quan. 1. Các giải pháp vĩ mô: Để đạt được hiệu quả cao trong việc triển khai nghiệp vụ BH này, thì các biện pháp can thiệp mang tính chất hỗ trợ từ phía các cơ quan chức năng Nhà nước, cũng như các Bộ, Ngành, tổ chức có liên quan như Bộ tài chính, Hiệp hội bảo hiểm,…sẽ là rất cần thiết. Các biện pháp tích cực của Nhà nước sẽ hỗ trợ, tạo hành lang pháp lý cũng như những điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp hoàn thiện và phát triển sản phẩm. a/ Từ phía Chính phủ: 96 Một trong những nguyên nhân lớn nhất khiến BHTN nghề nghiệp chưa được phát triển tại Việt Nam là do cơ chế chính sách chưa chặt chẽ, chưa có sự thống nhất giữa các văn bản luật chuyên ngành (pháp lệnh luật sư, luật chứng khoán, luật công chứng,…) với luật KDBH. Một số loại hình BHTN nghề nghiệp tuy đã được quy định bắt buộc trong từng lĩnh vực chuyên biệt, nhưng trong luật KDBH lại không có quy định gì về việc triển khai thực hiện, cũng như chế tài cưỡng chế đối với trường hợp vi phạm. Đây là thiếu sót tạo ra lỗ hổng lớn trong hành lang pháp lý, và nhiều cá nhân, doanh nghiệp đã vin vào đó để thoái thác hay từ chối mua BHTN nghề nghiệp, với tư tưởng “vi phạm thì có xử phạt gì đâu mà phải mua”. Chính vì vậy, để phổ biến và phát triển loại hình BH này tại Việt Nam thì công tác đầu tiên và quan trọng nhất là cần phải xây dựng, bổ sung và hoàn thiện cơ chế chính sách, tạo ra hành lang pháp lý chặt chẽ làm môi trường sống cho sản phẩm. Trước hết cần phải ban hành danh mục những loại hình BHTN nghề nghiệp bắt buộc, kèm theo đó là quy định cụ thể về đối tượng bắt buộc tham gia BH, phạm vi hoạt động bắt buộc phải mua BH. Những điều khoản này cần được quy định một cách cụ thể, dễ hiểu, đồng thời bên cạnh đó cũng cần xây dựng các chế tài xử phạt vi phạm thích hợp, tránh để trường hợp “luật ban hành rồi bỏ ngõ”, không ai thi hành. Để tăng tính cưỡng chế cũng có thể quy định thêm rằng BHTN nghề nghiệp là một tiêu chuẩn để được cấp Giấy phép hành nghề trong những lĩnh vực đòi hỏi chuyên môn cao như luật sư, bác sỹ, KTS & KSTV,… Để thúc đẩy công tác phổ biến, khai thác BHTN nghề nghiệp thì ngoài những biện pháp cưỡng chế, cũng có thể áp dụng những biện pháp khuyến khích người dân tham gia loại hình BH này. Chẳng hạn như quy định việc mua BHTN nghề nghiệp là một tiêu chuẩn để xếp hạng các doanh nghiệp. Biện pháp này đã được nhiều nước phát triển trên Thế giới áp dụng và thực tế cho thấy hiệu quả đạt được cũng rất cao. 97 Ngoài việc xây dựng hành lang pháp lý, từ phía Chính phủ cũng cần có những biện pháp hỗ trợ các DNBH trong việc kinh doanh loại hình BH này. Vì đây là một loại hình BH cao cấp, đòi hỏi kinh nghiệm và phải có nguồn vốn lớn, trong khi đó các DNBH Việt Nam lại đang bị hạn chế về vốn, và không hề có kinh nghiệm trong việc triển khai sản phẩm. Đáp ứng yêu cầu này, Nhà nước có thể áp dụng một số biện pháp sau: - Tạo điều kiện thuận lợi để các DNBH tự bổ sung vốn điều lệ cho phù hợp với tính chất hoạt động và quy mô kinh doanh của DN. Trong trường hợp cần thiết cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ vốn phù hợp cho các DNBH Việt Nam. - Bên cạnh đó cho phép các DN có vốn đầu tư nước ngoài mở rộng nội dung, phạm vi hoạt động, tăng vốn điều lệ nếu đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Chú trọng đến các công ty BH có năng lực tài chính, trình độ công nghệ, kinh nghiệm hoạt động BHTN nghề nghiệp và có đóng góp vào sự phát triển thị trường BH Việt Nam như QBE, AIG, Liberty. Như vậy, các DNBH trong nước sẽ học hỏi được kinh nghiệm triển khai sản phẩm này từ các công ty nước ngoài. - Tạo mọi điều kiện pháp lý cũng như có các chính sách khuyến khích các DNBH mở rộng quy mô khách hàng, cũng như quy mô thị trường, chú trọng mở rộng phạm vi khai thác sản phẩm đến nhiều tỉnh, thành phố khác trong cả nước; và không chỉ cung cấp sản phẩm trong nước mà mở rộng ra thị trường BH quốc tế và khu vực, tham gia góp vốn vào các công ty BH, môi giới BH, tái BH đang hoạt động thành công ở nước ngoài hay thành lập các công ty con, các chi nhánh KDBH ở nước ngoài. - Khuyến khích các DNBH hiện đại hoá công nghệ quản lý kinh doanh, đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ theo các chuẩn mực quốc tế; được thuê chuyên gia trong nước và ngoài nước để quản lý một số lĩnh vực hoạt động theo đúng quy định của pháp luật. 98 - Tạo mọi điều kiện để DN mở rộng triển khai sản phẩm, chú trọng việc xây dựng BHTN nghề nghiệp cho những lĩnh vực chuyên môn mới chưa được khai thác như: công chứng, kế toán, thẩm định giá,… - Hỗ trợ tích cực cho các DN trong việc phát triển mạng lưới đại lý BH chuyên nghiệp, DN môi giới BH và các kênh phân phối khác, đặc biệt là kênh phân phối qua Ngân hàng. - Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về hoạt động KDBH để thị trường phát triển lành mạnh, an toàn, phù hợp với yêu cầu hội nhập; bảo đảm tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các DN kinh doanh BH. Bên cạnh những chính sách hỗ trợ các DNBH, Nhà nước cũng cần áp dụng những biện pháp nhằm đổi mới và nâng cao năng lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động KDBH, tiến tới thực hiện các nguyên tắc và chuẩn mực quản lý BH quốc tế: Tăng cường giám sát hoạt động KDBH thông qua hệ thống các chỉ tiêu về hoạt động của các DNBH, thường xuyên kiểm tra, đốc thúc các DN, không để diễn ra tình trạng “có dịch vụ, không phục vụ”; và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm;...Kiện toàn bộ máy tổ chức của HHBHVN để Hiệp hội thực hiện được vai trò cầu nối giữa DNBH và các cơ quan quản lý Nhà nước. Nói tóm lại, một khung pháp lý hoàn thiện về các vấn đề xung quanh nghiệp vụ BH này là rất cần thiết cho việc triển khai có hiệu quả BHTN nghề nghiệp trong thời gian tới. Đây là vấn đề cần nhanh chóng thực hiện đặt ra từ phía các cơ quan chức năng của Nhà nước, cụ thể là BTC hay HHBHVN - là những cơ quan có liên quan trực tiếp đến hoạt động KDBH. b/ Bộ tài chính: Trong công tác hoàn thiện sản phẩm BHTN nghề nghiệp thì vai trò của Bộ tài chính (BTC) được đánh giá là không nhỏ. BTC chịu trách nhiệm soạn thảo quy tắc, biểu phí các loại BHTN nghề nghiệp bắt buộc, và duyệt đăng ký của các DNBH về các sản phẩm BHTN nghề nghiệp không bắt buộc khác. Vì vậy, để đảm bảo sự thống nhất và hiệu lực của Luật KDBH, 99 BTC phải nhanh chóng soạn thảo và đưa ra bộ quy tắc, biểu phí cũng như hướng dẫn thi hành việc triển khai bắt buộc đối với hai dịch vụ BHTN nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật và BHTN nghề nghiệp của DN môi giới BH. Còn đối với các dịch vụ BHTN nghề nghiệp khác thì phải quản lý chặt chẽ và hiệu quả, không để tình trạng các DNBH đăng ký tràn lan rồi không triển khai hoặc triển khai không hiệu quả, làm rối loạn thị trường khi khách hàng không biết DNBH nào cung cấp dịch vụ và có năng lực tốt để đảm bảo quyền lợi của họ. Xây dựng các chỉ tiêu đánh giá, các tiêu chuẩn chung về năng lực tài chính của DNBH và khả năng triển khai xâm nhập thị trường của sản phẩm BHTN nghề nghiệp căn cứ theo một số yếu tố như: quy trình triển khai nghiệp vụ, lượng khách hàng, tỷ lệ giữ lại, so sánh các khiếu nại chưa thanh toán và các khoản dự phòng,…Hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ, giao chỉ tiêu cụ thể để DNBH phấn đấu thực hiện. Từ đó giám sát chặt chẽ tình hình triển khai dịch vụ của DNBH, tránh để tình trạng sản phẩm được tung ra thị trường nhưng dậm chân tại chỗ, không phát triển. Là cơ quan chức năng của Nhà nước có liên quan trực tiếp đến việc phát triển sản phẩm BH này, BTC có vai trò quan trọng trong việc đưa ra những biện pháp, chính sách hỗ trợ DNBH trong việc triển khai sản phẩm, như: - Không ngừng nghiên cứu đưa ra hành lang pháp lý thông thoáng, tạo điều kiện cho DNBH tiếp tục nâng cao chất lượng phục vụ và cung cấp thêm nhiều dịch vụ BHTN nghề nghiệp cho nhiều ngành chuyên môn khác như: công chứng viên, thẩm định giá,… - Làm cầu nối phối hợp ngành BH với các ngành, các lĩnh vực chuyên môn liên quan như xây dựng, y tế, chứng khoán, kiểm toán, công chứng, thẩm định giá,…để việc triển khai đưa dịch vụ BHTN nghề nghiệp đến với từng ngành, từng nghề một cách có hiệu quả nhất. 100 - Khuyến khích các DNBH không ngừng sáng tạo để đưa ra sản phẩm mới, phục vụ nhiều khách hàng mới, mở rộng kênh phân phối mới, đem lại hiệu quả kinh tế và xã hội. - Tạo mọi điều kiện để DNBH triển khai tốt nhất nghiệp vụ, không gây khó khăn cho DN. Đặc biệt hỗ trợ pháp lý cho DNBH trong các đơn BH có giá trị lớn. - Tuyên truyền đến người dân ý thức mua BH như một quyền lợi thân thiết và cần phải nhận thức đúng vai trò của nó. Tuyên truyền, hướng dẫn để đông đảo người dân, đặc biệt là những người làm công tác chuyên môn có những kiến thức sơ đẳng về BHTN nghề nghiệp, từ đó họ sẽ tự tìm đến với sản phẩm BH bảo vệ quyền lợi cho mình. c/ Hiệp hội bảo hiểm: Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam được thành lập vào ngày 24/12/1999 tại Hà Nội, là tổ chức tự nguyện xã hội - nghề nghiệp của các DNBH Việt Nam, ra đời nhằm mục đích đóng vai trò là người hướng dẫn, tư vấn, cầu nối giữa các DNBH; và là người đại diện của DNBH trước các cơ quan quản lý Nhà nước và công chúng. Đóng góp vào công tác hoàn thiện sản phẩm BHTN nghề nghiệp tại thị trường BH Việt Nam, Hiệp HHBHVN cần thực hiện tốt những biện pháp sau: - Thứ nhất, mở rộng phạm vi hợp tác giữa các DNBH trong việc đào tạo, trao đổi thông tin, kinh nghiệm, hợp tác kinh doanh, đánh giá rủi ro, tính phí BH, đồng BH, tái BH, đề phòng hạn chế tổn thất,…Đặc biệt cần tạo điều kiện thuận lợi, tổ chức các buổi hội thảo để các công ty BH trong nước có thể học hỏi các công ty BH nước ngoài về kinh nghiệm triển khai sản phẩm BHTN nghề nghiệp. - Thứ hai, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các thành viên, DNBH trong hiệp hội, thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn nghiệp vụ BHTN nghề nghiệp cho các cán bộ; hỗ trợ, cắt cử cán bộ 101 của các DNBH tham gia các khóa đào tạo về BHTN nghề nghiệp ở nước ngoài. - Thứ ba, luôn giám sát chặt chẽ suốt quá trình triển khai sản phẩm của các DN, không để diễn ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, các DN vì muốn lôi kéo khách hàng mà giảm phí BH, dẫn đến làm giảm hiệu quả kinh doanh của sản phẩm; đồng thời Hiệp hội cũng cần có những chế tài xử phạt thích hợp đối với các DN vi phạm. - Thứ tư, dựa vào những báo cáo tài chính hàng năm, báo cáo kinh doanh hàng quý, hàng tháng của các DN, các chuyên gia của hiệp hội phải phân tích, đánh giá để chỉ ra xu hướng, khả năng phát triển của cả DN nói chung và của nghiệp vụ BHTN nghề nghiệp nói riêng. Điều này giúp đưa ra được những khảo sát và dự báo thực tế, góp phần hỗ trợ DN xác định được phương hướng phát triển sản phẩm. 2. Các giải pháp vi mô a. Giải pháp từ phía các DNBH (NBH). Sản phẩm BH là con đẻ của DN, vì vậy công tác hoàn thiện sản phẩm trước tiên thuộc về trách nhiệm của chính DNBH. Để hoàn thiện sản phẩm, trước tiên các DNBH phải hoàn thiện các khâu trong quy trình triển khai sản phẩm, từ khai thác; đề phòng, hạn chế tổn thất đến giám định và giải quyết bồi thường. a1. Công tác khai thác: BHTN nghề nghiệp là một sản phẩm BH mới và phức tạp nên công tác khai thác sản phẩm này gặp rất nhiều khó khăn và vẫn còn đang rất nhiều hạn chế. Vì vậy, các công ty BH cần chú ý quan tâm, và đầu tư hơn nữa để khai thác đạt hiệu quả cao. Trước tiên, phải quan tâm hơn nữa đến công tác tuyên truyền, quảng cáo phổ biến sản phẩm, cụ thể là việc quảng bá sản phẩm cần phải hiệu quả hơn hiện tại để thật nhiều khách hàng tiềm năng biết đến nó hơn nữa. Có thể quảng cáo qua báo chí, đài phát thanh với tần số tương đối để 102 có hiệu quả nhất. Và phương tiện quảng cáo trên truyền hình dưới dạng một chương trình tiện ích mới như “Sức sống mới” (VTV1), TV Shopping (VCTV11), hoặc tổ chức dưới dạng một diễn đàn, talk show,…cũng được xem là một phương pháp tương đối có hiệu quả. Ngoài ra, cũng có thể tăng tần suất quảng cáo qua các đài truyền hình địa phương nhằm nâng cao hiệu quả khai thác thông qua việc mở rộng quy mô thị trường và đối tượng tham gia BHTN nghề nghiệp ra nhiều tỉnh, thành phố khác. Việc quảng cáo nên được tiến hành vào thời gian nghỉ như giờ ăn cơm hoặc buổi tối khi những nhà chuyên môn - đối tượng tham gia BHTN nghề nghiệp không còn làm việc. Lý do khác nữa là những người thân của họ cũng có thể qua những chương trình như vậy nói lại cho họ biết về sản phẩm bảo vệ quyền lợi của họ, đây được xem là hiệu ứng của Marketing lan tỏa. Ngoài ra, còn cần phải chủ động hơn nữa trong công tác tổ chức các buổi nói chuyện, hội thảo giới thiệu sản phẩm tại các cơ quan, tổ chức hành nghề chuyên môn như công ty tư vấn đầu tư, xây dựng; công ty thiết kế kiến trúc; các bệnh viện, phòng khám; công ty, văn phòng luật sư, hay CTCK, công ty quản lý quỹ;…để các khách hàng tiềm năng tiếp cận thông tin một cách rõ ràng, cụ thể và chính xác nhất. Thứ hai, cần phải tận dụng tối đa hiệu quả khai thác của các kênh phân phối sản phẩm BHTN nghề nghiệp.  Đối với lực lượng nhân viên khai thác trực tiếp của công ty cần chú ý hơn nữa đến công tác đào tạo nhằm nâng cao chuyên môn, trình độ nghiệp vụ của các cán bộ khai thác để họ có đủ tầm thuyết phục, đàm phán ký kết hợp đồng BHTN nghề nghiệp với các khách hàng vốn là những chuyên gia trong các lĩnh vực chuyên môn. Để đáp ứng yêu cầu này, các DNBH có thể thực hiện một số biện pháp sau: - Đầu tư có hiệu quả hơn vào việc đào tạo để có được đội ngũ cán bộ giỏi, chuyên sâu hiểu biết nghiệp vụ; 103 - Tổ chức thêm nhiều cuộc hội thảo về chủ đề BHTN nghề nghiệp, có thể mời các chuyên gia của các công ty BH nước ngoài phổ biến kinh nghiệm nghiệp vụ; - Các DNBH cũng có thể cắt cử cán bộ đi học tập nghiên cứu sâu hơn về nghiệp vụ ở nước ngoài. Liên quan đến vấn đề này, các công ty BH cũng cần phải xây dựng ngay một phòng nghiệp vụ chuyên biệt dành cho BHTN nghề nghiệp, không để tiếp diễn tình trạng các cán bộ ở những phòng nghiệp vụ khác, vừa không có kinh nghiệm, vừa không có chuyên môn “đá chân” sang BHTN nghề nghiệp. Ngoài ra, các công ty BH cũng cần có những chế độ đãi ngộ, ưu tiên đối với các cán bộ làm công tác khai thác sản phẩm BHTN nghề nghiệp một cách tương xứng và hợp lý. Vì đây là một nghiệp vụ mới và khó nên các khai thác viên BH thường ngại hoặc ít quan tâm đến việc khai thác sản phẩm này. Do đó, ngoài hoa hồng khai thác, các công ty BH cần có chế độ khuyến khích bằng vật chất hoặc tinh thần đối với các cán bộ khai thác tốt, khiến họ nhiệt tình, gắn bó với công việc của mình hơn nữa.  Đối với kênh khai thác qua môi giới cần phải liên kết chặt chẽ hơn nữa, vì riêng với BHTN nghề nghiệp thì khai thác qua môi giới là vô cùng quan trọng. Các công ty môi giới, đặc biệt là những công ty môi giới nước ngoài như Aon, Gras Savoye Willis,…đã mang về cho các DN rất nhiều hợp đồng BHTN nghề nghiệp có giá trị.  Đặc biệt, cần xây dựng và phát triển kênh khai thác qua đại lý BH. Đối với hầu hết các nghiệp vụ BH, đại lý được đánh giá là kênh phân phối nhanh và hiệu quả. Tuy nhiên, riêng với BHTN nghề nghiệp thì tính đến nay chưa có một đại lý nào được đào tạo bài bản về nghiệp vụ. Đây là hạn chế lớn trong công tác khai thác loại hình BH này.  Ngoài ra, để tối đa hóa hiệu quả khai thác, các DNBH cần phải mở rộng kênh phân phối qua hệ thống Ngân hàng, đặc biệt là những Ngân hàng 104 có uy tín, có quan hệ hợp tác lâu dài để cùng phát triển. Đây là kênh phân phối mới tại Việt Nam, nhưng đã được áp dụng rất phổ biến tại các nước trên Thế giới và đem lại hiệu quả không chỉ cho phân phối mà còn cho khâu tiếp xúc khách hàng; không chỉ đem lại lợi ích cho DNBH mà còn mang đến những lợi ích không nhỏ cho Ngân hàng. Chìa khoá thành công của hoạt động Marketing là phải dựa vào đổi mới sản phẩm và khả năng kết hợp sản phẩm với các kênh phân phối để tiếp cận với khách hàng tiềm năng, sử dụng song song các kênh Markerting (multi-chanel). Trong thời gian qua, dù có nhiều thành quả khả quan của các nhà BH Việt Nam, song hầu hết doanh thu của họ cũng vẫn đa số thực hiện qua hệ thống bán hàng truyền thống như đại lý, nhân viên khai thác, công ty môi giới. Kinh nghiệm từ thị trường Châu Âu cho thấy, nếu muốn tiếp tục tăng trưởng thị trường BH Việt Nam một cách nhanh chóng và vững chắc, thì các DNBH cần phải phát triển thêm nhiều kênh phân phối mới như bán BH qua mạng, qua ngân hàng ,… Thứ ba, để nâng cao hiệu quả khai thác loại hình BH này, các công ty BH cần phải có những chính sách phù hợp quan tâm đến khách hàng, làm cho khách hàng hiểu rõ về sản phẩm, từ đó nhận thấy tầm quan trọng cũng như những lợi ích của sản phẩm. Khi đưa ra bộ quy tắc BHTN nghề nghiệp hay xây dựng cách tính phí thì cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, đưa ra những điều khoản rõ ràng, dễ hiểu tránh để xảy ra trường hợp “khách hàng đọc mãi mà không hiểu, thấy lằng nhằng nên ngại tham gia”. Khi khách hàng thắc mắc hay hiểu sai lệch về một vấn đề nào đó thì công ty BH cần phải gấp rút giải thích rõ ràng và chặt chẽ hơn các nội dung của nghiệp vụ, hoặc bằng cách in tài liệu về nội dung của sản phẩm để cung cấp cho khách hàng. Hành động này cũng sẽ thể hiện cho họ thấy được sự tôn trọng, sự quan tâm của công ty đối với khách hàng. Ngoài ra, bên cạnh việc phổ biến sản phẩm cho những khách hàng trong nước, các công ty BH cũng cần phải mở rộng quy mô khách hàng, quan tâm đến các khách hàng nước ngoài 105 đang sống và làm việc tại Việt Nam. Đây là nhóm khách hàng rất tiềm năng, vì các cá nhân và cả DN nước ngoài thường có ý thức về BH rất cao và đối với họ, việc mua BH, đặc biệt là các loại BHTN đã trở thành thói quen. Tiếp cận với họ, giới thiệu về sản phẩm mới này chắc chắn sẽ đáp ứng được nhu cầu của họ về BH và đạt được hiệu quả khai thác cao. Thứ tư, ngoài việc mở rộng quy mô khách hàng thì các công ty BH cũng cần phải chú tâm đến việc mở rộng quy mô thị trường. Không chỉ bó hẹp việc cung cấp sản phẩm ở các thành phố trực thuộc TW như Hà Nội, TP HCM mà trong những năm tới các công ty BH còn cần phải làm tốt công tác tuyên truyền, quảng cáo và phổ biến sản phẩm đến nhiều thành phố khác trong cả nước như: Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế,…có như vậy mới tạo môi trường phát triển bền vững cho sản phẩm. Mặc dù việc tuyên truyền, quảng cáo có thể phải chi ra một khoản kinh phí lớn nhưng nếu hoạt động này được thực hiện tốt thì đây là bước tạo đà cho công tác khai thác đạt hiệu quả cao. Trong một vài năm đầu, các công ty có thể sẽ phải chịu lỗ nếu chi phí cho tuyên truyền, quảng cáo lớn, nhưng tác dụng của quảng cáo sẽ thể hiện dần ở số lượng người tham gia BH tăng lên theo quy mô thị trường vào những năm sau. Ngoài ra, không chỉ mở rộng quy mô thị trường trong nước, thậm chí các công ty BH còn cần phải mở rộng quy mô thị trường ra nước ngoài (bằng cách góp vốn, thành lập công ty con, chi nhánh,…) nhằm tập trung vào nhóm khách hàng tiềm năng là những kiều bào Việt Nam đang sống và làm việc ở nước ngoài, có nhu cầu lớn về BHTN nghề nghiệp,… Thứ năm, không ngừng nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm của các nước trên Thế giới, đặc biệt là các nước có chung vị thế, trình độ phát triển để có những bước triển khai sản phẩm phù hợp và có khả năng ứng dụng cao. a2. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất: 106 Để phát triển sản phẩm, bên cạnh công tác khai thác, thì những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đề phòng và hạn chế tổn thất cũng không kém phần quan trọng. Trước tiên, các công ty BH cần phải chú ý và cẩn thận hơn nữa trong công tác đánh giá rủi ro. Cụ thể, các khai thác viên BH cần phải đánh giá cao vai trò của Giấy yêu cầu BH hơn nữa, và điều quan trọng là phải làm cho khách hàng cũng nhận thức được vai trò đó. Điều này trước hết thể hiện ở việc Giấy yêu cầu BH phải được khai đầy đủ, rõ ràng. Những câu hỏi mở trong Giấy yêu cầu BH nên để khoảng trống rộng hơn, và có thể đánh dấu chú ý vào câu hỏi đó để khách hàng khai cụ thể và chính xác hơn, chẳng hạn như những thông tin về công việc chủ yếu thực hiện trong 5 năm gần nhất, các chi tiết kỹ thuật, tài sản xung quanh,...trong Giấy yêu cầu BHTN nghề nghiệp KTS & KSTV. Ngoài ra, các công ty BH cũng cần phải thực hiện tốt việc lưu trữ thông tin, thống kê các rủi ro, và phân tích cặn kẽ các tổn thất, các nguyên nhân gây ra tổn thất để đưa ra những biện pháp ứng phó, phòng tránh kịp thời, đảm bảo không xảy ra lần sau hoặc có xảy ra nhưng với tần số thấp và mức độ nhẹ hơn. Để thực hiện tốt công tác này, các công ty BH cần đầu tư áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến hơn nữa vào việc quản lý (ví dụ như quản lý bằng cơ sở dữ liệu hay bằng phần mềm chuyên biệt đánh giá rủi ro, phát hiện rủi ro,…). Đây đang là một công cụ quản lí rất hiệu quả mà hầu hết các công ty BH trên Thế giới đều muốn nâng cấp, phát triển năng lực của mình theo hướng đó. Và vì BHTN nghề nghiệp là dịch vụ BH phức tạp và đòi hỏi chuyên môn cao nên nếu có một hệ thống cơ sở dữ liệu phong phú về khách hàng và rủi ro nghề nghiệp của khách hàng thì việc phát triển dịch vụ hơn nữa sẽ là không mấy khó khăn. Không chỉ chú trọng đến việc đầu tư công nghệ, các công ty BH còn cần phải quan tâm đến công tác đào tạo cán bộ nhằm nâng cao trình độ 107 quản lý rủi ro, kiểm soát tổn thất, để giải quyết tốt các tình huống nghiệp vụ và không bị khách hàng lợi dụng chuyên môn trục lợi BH. Bên cạnh đó, cũng cần phải thông qua các dịch vụ tiện ích của các công ty môi giới, tư vấn để có những biện pháp, những quyết định đúng đắn trong việc ký kết hợp đồng BHTN nghề nghiệp. Thông qua các hoạt động của họ, đặc biệt là những công ty môi giới, tư vấn lớn của nước ngoài học tập được nhiều kinh nghiệm về phong cách làm việc, về kỹ năng đánh giá rủi ro, kiểm soát tổn thất và kỹ năng giải quyết tình huống,… a3. Công tác giám định và giải quyết bồi thường: Để làm tốt công tác giám định và giải quyết bồi thường, các công ty BH cần chú ý quan tâm đến những vấn đề sau: Hợp tác với các công ty giám định chuyên nghiệp để giải quyết nhanh gọn những trường hợp phức tạp và học hỏi từ họ những kỹ năng đặc biệt trong công tác giám định. Cắt cử nhân viên của công ty tham gia những khóa đào tạo chuyên nghiệp (có thể là trong nước hoặc ở nước ngoài) về giám định để dần dần công ty có ngay cán bộ giám định chuyên nghiệp tại công ty, như vậy sẽ vừa tiết kiệm được chi phí hoạt động, vừa nâng cao hiệu quả giám định, thu được kết quả nhanh chóng, chính xác, khách quan, tạo niềm tin cho khách hàng, từ đó nâng cao uy tín của công ty. Chuyên nghiệp hóa, nâng cao hiệu quả công tác giám định và bồi thường. Rút bớt những khâu thủ tục rườm rà không cần thiết, giải quyết nhanh chóng khiếu nại và tổn thất để người tham gia BH cũng như bên thứ ba yên tâm, có lòng tin ở DN. Củng cố mặt này cũng là củng cố uy tín và hình ảnh của công ty. Đặc biệt có thái độ nghiêm túc, nhã nhặn, có đạo đức trong quá trình giải quyết khiếu nại bồi thường khi có sự kiện BH xảy ra, và việc liên kết với Ngân hàng sẽ làm cho khâu thanh toán bồi thường trở nên đơn giản, gọn nhẹ hơn. Và điều này rõ ràng là tác động không nhỏ đến tâm lý của khách hàng, tạo được niềm tin của khách hàng, thực tế không ít khách hàng 108 đã tham gia tái tục hợp đồng với số tiền BH cao hơn so với hợp đồng đáo hạn. Quản lý và sử dụng nguồn thu từ phí BH theo đúng Luật và có hiệu quả, đảm bảo nguồn tài chính ổn định để thực hiện nghĩa vụ thanh toán bồi thường khi sự kiện BH xảy ra. Đặc biệt là các hợp đồng BHTN nghề nghiệp thường có giá trị không nhỏ, nhất là các trách nhiệm về tư vấn thiết kế, thi công trong xây dựng, trách nhiệm của CTCK,…đều có giá trị rất lớn. Đối với những đơn BH có giá trị lớn thì nên thực hiện tái BH để đảm bảo sự an toàn về tài chính, và nâng cao hiệu quả của đơn BH. Giữ lại ở mức hợp lý để đảm bảo thực hiện tốt nghĩa vụ chính của công ty. b. Giải pháp từ phía các cơ quan hành nghề chuyên môn (NĐBH): Mục đích của BHTN nghề nghiệp là bảo vệ và hạn chế rủi ro cho các cá nhân, tổ chức nghề nghiệp đòi hỏi chuyên môn cao, vì vậy để “tự bảo vệ" - đảm bảo tốt lợi ích của mình thì các cá nhân, tổ chức này cũng cần có những biện pháp hỗ trợ để sản phẩm BHTN nghề nghiệp phát triển trên thị trường BH Việt Nam. - Trước tiên, các cơ quan, tổ chức hành nghề chuyên môn cần có những biện pháp nhằm nâng cao nhận thức của nhân viên về vai trò, cũng như tầm quan trọng của BHTN nghề nghiệp, ví dụ như có thể mời các chuyên gia BH của những công ty BH có uy tín về nói chuyện, giới thiệu sản phẩm, cũng như giải đáp các thắc mắc,…trên cơ sở đó hình thành cho cơ quan, tổ chức mình thói quen mua BHTN nghề nghiệp như một nội quy, quy tắc nghề nghiệp tiêu chuẩn. - Trước khi ký hợp đồng BHTN nghề nghiệp thì phải tìm hiểu kỹ quy tắc BH, các điều khoản, điều kiện BH mà DNBH đưa ra để tránh hiểu lầm, tránh gây tranh cãi mất quyền lợi của mình. - Và khi đã ký hợp đồng BHTN nghề nghiệp thì phải tuân thủ các điều khoản trong hợp đồng, trung thực, không tìm cách lợi dụng những hiểu biết 109 về chuyên môn để lừa dối, trục lợi BH; bên cạnh đó cũng không được có tâm lý “ỷ lại”, cho rằng đã có DNBH đứng ra lo thì không cần tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn chuyên môn, nghiệp vụ để xảy ra sơ suất. Nói chung, ở mọi lúc mọi nơi phải luôn làm việc chuyên nghiệp, thực hiện đầy đủ chuyên môn với tinh thần “phục vụ hết mình, cống hiến hết sức”. Đồng thời, biện pháp tốt nhất và hữu hiệu nhất để hạn chế rủi ro là không ngừng nâng cao tay nghề chuyên môn nghiệp vụ để tránh thiệt hại cho tất cả các bên nói riêng và cho nền kinh tế, sự ổn định xã hội nói chung. 110 KẾT LUẬN Hai năm sau khi gia nhập WTO ngành bảo hiểm hòa theo nhịp độ của nền kinh tế đã có những thay đổi và tiến bộ rõ rệt. Các cam kết khi trở thành thành viên WTO cộng với những quy định về mở cửa thị trường bảo hiểm trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã được thực hiện gần như toàn diện, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm Việt Nam đã được xây dựng, hoàn thiện và áp dụng hiệu quả trong những năm gần đây. Thị trường bảo hiểm sẽ tiếp tục phát triển nhanh và hiệu quả với đầy đủ các yếu tố của thị trường nhằm đa dạng hóa các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm với chất lượng cao, góp phần đảm bảo an toàn, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngành bảo hiểm trong những năm tới ngoài việc hướng đến các mục tiêu kinh tế còn có tham vọng đi sâu đi sát đến từng người, từng ngành để trở thành người bạn đường không thể thiếu của họ. Nhóm sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp là khởi đầu cho công cuộc này sẽ không chỉ mang đến sự an toàn tài chính, uy tín cho đông đảo đội ngũ chuyên gia, chuyên viên, nhân viên tác nghiệp mà còn là bước khởi đầu cho một xu hướng lớn, xu hướng phát triển. Nhưng thực tế những khó khăn về kinh nghiệm và năng lực đã làm cho nhiều DNBH bị lung túng khi triển khai. Các cơ quan tổ chức hành nghề chuyên môn cũng chưa thật hiểu rõ, chưa quan tâm đến loại hình bảo hiểm này và hầu như là bỏ quên trách nhiệm tham gia bảo hiểm của mình. Hiện nay các cơ quan có liên quan đang gấp rút soạn thảo, trình các cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản hướng dẫn về sản phẩm bảo hiểm và nghĩa vụ tham gia bảo hiểm của các cá nhân, tổ chức. Tuy bước khởi đầu còn nhiều khó khăn nhưng tin chắc rằng Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp tương lai sẽ là một sản phẩm chủ đạo trong danh mục sản phẩm dịch vụ của DNBH. Trong thời gian tới ngành bảo hiểm sẽ phát triển rất sôi động, các DNBH sẽ bận rộn với các khách hàng mới, sẽ phải chủ động và nâng cao 111 sức cạnh tranh trong môi trường kinh doanh của cơ chế thị trường và hội nhập với khu vực và thế giới. Hy vọng những giải pháp được nêu ra sẽ được thực hiện đồng bộ để triển khai có hiệu quả dịch vụ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp này, và đem lại cục diện mới cho ngành bảo hiểm Việt Nam . 112 TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình: 1. GS, TS Hoàng Văn Châu, Giáo trình bảo hiểm trong kinh doanh, Nhà Xuất bản Lao động xã hội (2006) Tạp chí: 1. Tạp chí bảo hiểm và tái bảo hiểm số 1 tháng 1/2007 2. Tạp chí bảo hiểm và tái bảo hiểm số 2 tháng 5/2007 3. Tạp chí bảo hiểm và tái bảo hiểm số 3 tháng/2007 4. Tạp chí bảo hiểm và tái bảo hiểm số 1 tháng 4/2008 5. Tạp chí Bảo Việt 6. Thời báo kinh tế Sài gòn 7. Thời báo kinh tế Việt Nam 8. Tạp chí tài chính Văn bản pháp luật: 1. Luật kinh doanh bảo hiểm ngày 9 tháng 12 năm 2000, BTC 2. Luật chứng khoán 3. Luật luật sư 4. Dự thảo luật công chứng 5. Các văn bản dưới Luật khác Trang web: 1. Cổng thông tin bảo hiểm Việt Nam webbaohiem.net 2. INSURANCE INFORMATON CENTER baohiem.pro.vn 3. Thông tấn xã Việt Nam vnanet.vn 4. Bộ Tài Chính mof.org.vn 5. Bộ công thương mot.org.vn 6. Bộ KH&ĐT moi.org.vn 7. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam avi.org.vn 8. Luật Việt Nam luatvietnam.vn 9. Thư viện pháp luật thuvienphapluat.com 113 Và website các công ty BH baoviet.com.vn aaa.com.vn baominh.com.vn qbe.com.vn pvi.com.vn pjico.com.vn bidv.com.vn gic.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf4812_1236.pdf
Luận văn liên quan