Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học tạo điều kiện để các thầy cô làm
tốt sứ mạng của mình đã được xã hội và nhà trường giao phó.
Dẫu biết rằng đổi mới nhận thức và hành động là cả một quá trình khó khăn và lâu dài
nhưng rất cần thiết và cấp bách. Đánh giá đúng vị trí vai trò của bộ môn lịch sử và đội ngũ
thầy cô giáo dạy sử ở các trường phổ thông trung học, quan tâm đầu tư cho họ - những người
quyết định sự thành bại của sự nghiệp giáo dục lịch sử là nhiệm vụ của toàn xã hội và trách
nhiệm của những nhà quản lý giáo dục.
Ngay từ bây giờ, chúng ta hãy quan tâm lo lắng đến việc giáo dục truyền thống dân
tộc, giáo dục lòng yêu nước và tinh thần tự tôn dân tộc cho thế hệ trẻ để họ giữ gìn và phát
huy những gì mà cha ông trước đây, Đảng và nhân dân ta ngày nay mang lại, bằng những
hành động thiết thực là chăm lo đến đội ngũ thầy cô giáo dạy sử trước khi chưa quá muộn.
160 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1334 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đội ngũ giáo viên môn lịch sử trường phổ thông trung học khu vực miền Đồng Nam Bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơi công tác hiện nay:
Không ghi Yên tâm Tạm yên
tâm
Đang muốn
thuyên
chuyển
Tổng cộng
Không ghi N 0 0 1 2 3
% 1,03 20 0,90
Nam N 1 71 36 7 115
% 25 31,69 37,11 70 34,32
Nữ N 3 153 60 1 217
% 75 68,30 61,85 10 64,78
Tổng cộng N 4 224 97 10 335
9. Tự đánh giá năng lực:
Không ghi Khá giỏi Đáp ứng
yêu cầu
Cần trau dồi
thêm
Tổng cộng
Không ghi N 0 2 1 0 3
% 1,57 0,86 0,90
Nam N 2 52 37 24 115
% 25 40,94 32,17 28,23 34,32
Nữ N 6 73 77 61 217
% 75 57,48 66,95 71,76 64,78
Tổng cộng N 8 127 115 85 335
10. Sử dụng ngoại ngữ:
Không ghi Thƣờng
xuyên
Thỉnh
thoảng
Hoàn toàn
không
Tổng cộng
Không ghi N 1 0 1 1 3
% 6,66 0,47 1,07 0,90
Nam N 4 3 81 27 115
% 26,66 18,75 38,38 29,03 34,32
Nữ N 10 13 129 65 217
Đề tài cấp Bộ - Thực trạng đội ngũ giáo viên khu vực miền Đông Nam Bộ
139
% 66,66 81,25 61,13 69,89 64,78
Tổng cộng N 15 16 211 93 335
11. Được bồi dưỡng chuyên môn:
Không ghi Thƣờng
xuyên
Thỉnh
thoảng
Hoàn toàn
không
Tổng cộng
Không ghi N 0 1 2 0 3
% 0,55 1,30
Nam N 0 52 63 0 115
% 29,05 41,17 34,32
Nữ N 1 126 88 2 217
% 100 70,39 57,51 100 64,78
Tổng cộng N 1 179 153 2 335
12. Sử dụng đồ dùng trực quan:
Không ghi Thƣờng
xuyên
Thỉnh
thoảng
Hoàn toàn
không
Tổng cộng
Không ghi N 1 1 1 0 3
% 7,69 0,57 r0,72 0,90
Nam N 3 58 50 4 115
% 23,07 33,14 36,23 44,44 34,32
Nữ N 9 116 37 5 217
% 69,23 66,28 63,04 55,55 64,78
Tổng cộng N 13 175 138 9 335
13. Năng lực nghề nghiệp được nâng lên nhờ:
Không ghi Tự nghiên
cứu
Các đợt bồi
dƣỡng
thƣờng
xuyên
Đƣợc đào
tạo ngắn hạn
và dài hạn
Tổng cộng
Không ghi N 1 1 1 0 3
% 16,66 0,44 1,06 0,90
Nam N 1 85 26 3 115
% 16,66 38,11 27,65 30 34,32
Nữ N 6 137 67 7 217
% 76 61,43 71,27 70 64,78
Tổng cộng N 8 223 94 10 335
Đề tài cấp Bộ - Thực trạng đội ngũ giáo viên khu vực miền Đông Nam Bộ
140
14. Trường nơi giảng dạy tổ chức ngoại khóa lịch sử:
Không ghi Thƣờng
xuyên
Thỉnh
thoảng
Không Tổng cộng
Không ghi N 0 0 2 1 3
% 0,90 1,63 0,90
Nam N 2 12 80 21 115
% 28,57 25,53 36,36 34,42 34,32
Nữ N 5 35 138 39 217
% 71,42 74,46 62,72 63,93 64,78
Tổng cộng N 7 47 220 61 335
15. Viết bài cho báo, đài, báo cáo:
Không ghi Thƣờng
xuyên
Thỉnh
thoảng
Không Tổng cộng
Không ghi N 0 0 3 0 3
% 2,41 0,90
Nam N 6 10 47 52 115
% 37,5 50 37,90 29,71 34,32
Nữ N 10 10 74 123 217
% 62,5 50 59,67 70,28 64,78
Tổng cộng N 16 20 124 175 335
16. Liên hệ với ban NCLS Đảng, bảo tàng và cơ quan chuyên môn địa phương để:
Không ghi Sƣu tầm
tƣ liệu
phục vụ
giảng dạy
Hƣớng dẫn
học sinh
tham quan
Không liên
hệ
Tổng cộng
Không ghi N 1 1 1 0 3
% 6,25 1,18 0,72 0.90
Nam N 3 34 45 33 115
% 18,75 40 32,60 34,37 34,32
Nữ N 12 50 92 63 217
% 75 58.82 66,66 65,62 64,78
Tổng cộng N 16 85 138 96 . 335
17. Trình độ chính trị:
Đề tài cấp Bộ - Thực trạng đội ngũ giáo viên khu vực miền Đông Nam Bộ
141
Không ghi Đảng viên
ĐCS Việt
Nam
Đoàn viên
Công đoàn
Đoàn viên
Đoàn TNCS
HCM
Tổng cộng
Không ghi N 1 2 0 0 3
% 5,8 3,50 0,90
Nam N 5 27 68 15 115
% 29,41 47,36 32,53 28,84 34,32
Nữ N 11 28 141 37 217
% 64,70 49,12 67,46 71,15 64,78
Tổng cộng N 17 57 209 52 335
18. Cương vị công tác:
Không ghi Thành
viên BGH
Tổ trƣởng
chuyên môn
Nhóm
trƣởng, trợ lý
Tổng cộng
Không ghi N 1 1 1 0 3
% 0,49 7,14 1,53 0,90
Nam N 57 12 25 21 115
% 28,07 85,71 38,46 39,62 34,32
Nữ N 145 1 39 32 217
% 71,42 7.14 60 60.37 64,78
Tổng cộng N 203 14 65 53 335
19. Nơi sống của gia đình
Không ghi Nhà riêng Nhà tập thể Nhà thuê, ở
nhờ gia đình
Tổng cộng
Không ghi N 0 1 2 0 3
% 0,52 4,34 0.90
Nam N 0 70 18 27 115
% 36,84 39,13 27,55 34,32
Nữ N 1 119 26 71 217
% 100 62,63 56,52 72,44 64,78
Tổng cộng N 1 190 46 98 335
20.Tình trạng hôn nhân:
Không ghi Chƣa lập
gia đình
Đã có gia
đình
Tổng cộng
Đề tài cấp Bộ - Thực trạng đội ngũ giáo viên khu vực miền Đông Nam Bộ
142
Không ghi N 1 1 1 3
% 11,11 0,98 0,44 0,90
Nam N 6 32 77 115
% 66.66 31,37 34,37 34,32
Nữ N 2 69 146 217
% 22,22 67,64 65,17 64,78
Tổng cộng N 9 102 224 335
21. Số con hiện có:
Không ghi 1 – 2 3 – 4 5 trở lên Tổng cộng
Không ghi N 1 2 0 0 3
% 0,84 1,03 0,90
Nam N 35 62 17 1 115
% 29,66 31,95 77,27 100 34,32
Nữ N 82 130 5 0 217
% 69,49 67,01 22,72 64,78
Tổng cộng N 118 194 22 1 335
22. Thu nhập chủ yếu từ:
Không ghi Lƣơng Làm thêm Gia đình
giúp đỡ
Tổng cộng
Không ghi N 1 2 0 0 3
% 50 0,78 0,90
Nam N 0 86 22 7 115
% 33,85 42,30 25,92 34,32.
Nữ N 1 166 30 20 1217
% 50 65,35 57,69 74,07 64,78
Tổng cộng N 2 254 52 27 335
23. Để tăng thu nhập, làm các việc:
Không ghi Gắn với
chuyên
môn
Ít gắn với
chuyên môn
Không gắn
với chuyên
môn
Tổng cộng
Không ghi N 1 1 1 0 3
% 3,44 0,63 2,85 0,90
Nam N 9 62 13 31 115
Đề tài cấp Bộ - Thực trạng đội ngũ giáo viên khu vực miền Đông Nam Bộ
143
% 31,04 38,75 37,15 27,93 34,32
Nữ N 19 97 21 80 217
% 65,52 50,62 60 72,07 64,78
Tổng cộng N 29 160 35 111 335
24. Số tiết dạy thêm ở ngoài trƣờng / tuần:
Không ghi 1 – 10 10 – 20 Trên 20 Tổng cộng
Không ghi N 2 1 0 0 3
% 0,93 1,12 0,90
Nam N 69 35 10 1 115
% 32,24 38,88 40 16,67 34,32
Nữ N 143 54 15 5 217
% 66,83 60 60 83,33 64,78
Tổng cộng N 214 90 25 6 335
25. Phương tiện đi lại:
Không ghi Ô tô Xe gắn máy Xe đạp Tổng cộng
Không ghi N 0 0 2 1 3
% 0,78 1,54 0,90
Nam N 1 1 96 17 115
% 8,33 100 37,35 26,15 34,32
Nữ N 11 0 159 47 217
% 91,67 61,87 72,31 64,78
Tổng cộng 12 1 257 65 335
26. Giảm sút chất lượng dạy Lịch sử là do:
Không
ghi
Chƣa
đƣợc xã
hội coi
trọng
Sách giáo
khoa nặng
nề, khô
khan
Đời sống
giáo viên
khó khăn
Lý do
khác
Tổng
cộng
Không ghi N 0 0 0 3 0 3
% 2,78 0,90
Nam N 1 42 19 48 7 115
% 25 30,22 26,76 42,59 53,84 34,32
Nữ N 3 97 52 59 6 217
Đề tài cấp Bộ - Thực trạng đội ngũ giáo viên khu vực miền Đông Nam Bộ
144
% 75 69,78 73,24 54,63 46,16 64,78
Tổng cộng 4 139 71 108 13 335
27. Nâng cao chất lượng giảng dạy Lịch sử bằng:
Không
ghi
Lịch sử
cần đƣợc
xã hội
coi trọng
Cải tiến
sách giáo
khoa
Nâng cao
đời sống,
trình độ
giáo viên
Tất cả
các biện
pháp
trên
Tổng
cộng
Không ghi N 0 0 1 0 2 3
% 45,45 0,85 0,90
Nam N 0 18 4 17 76 115
% 46,15 18,18 45,94 32,48 34,32
Nữ N 3 21 17 20 156 217
% 100 53,85 77,27 54,05 66,67 64,78
Tổng cộng 3 39 22 37 234 335
28. Sách giáo khoa Lịch sử cần:
Không ghi Rút ngắn,
cô đọng,
có hệ
thống
In đẹp, tăng
thêm hình
ảnh tƣ liệu
Chú ý phát
huy tính tích
cực của học
sinh
Tổng cộng
Không ghi N 0 0 0 3 3
% 1,73 0,90
Nam N 1 26 24 64 115
% 33,33 33,77 29,63 36,78 34,32
Nữ N 2 51 57 107 217
% 66,67 66,23 70,37 61,49 64,78
Tổng cộng 3 77 81 174 335
29. Kiểm tra, đánh giá chất lƣợng bộ môn hiện nay:
Không ghi Phản ánh
đƣợc thực
chất trình
độ học
sinh
Chƣa phản
ánh đƣợc
thực chất
Cần phải cải
tiến
Tổng cộng
Không ghi N 0 0 0 3
% 0,90
Nam N 1 12 37 65 115
Đề tài cấp Bộ - Thực trạng đội ngũ giáo viên khu vực miền Đông Nam Bộ
145
% 8,33 30,77 34,26 36,93 34,32
Nữ N 27 71 108 217
% 91,67 69,23 65,74 61,36 64,78
Tổng cộng 12 39 108 176 335
30. Bồi dưỡng thường xuyên hiện nay:
Không ghi Có hiệu
quả
Hiệu quả
chƣa cao
Cần phải cải
tiến
Tổng cộng
Không ghi N 0 0 1 2 3
% 0,74 1,58 0,90
Nam N 5 23 46 41 115
% 31,25 39,65 34,07 32,53 34,32
Nữ N 11 35 88 83 217
% 68,75 60,34 65,18 65,87 64,78
Tổng cộng 16 58 135 126 335
31. Nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả BDTX:
Không ghi Nội dung
chƣa thiết
thực
Cách tổ
chức
Hình thức
kiểm tra,
đánh giá
Tổng cộng
Không ghi N 2 0 1 0 3
% 3,07 1,04 0.90
Nam N 18 35 37 25 115
% 27,69 34,31 38,54 34,72 34,32
Nữ N 45 67 58 47 217
% 69,23 65,68 60.42 65.28 64,78
Tổng cộng 65 102 96 72 335
32. Bồi dưỡng thường xuyên tập trung:
Không ghi Chủ yếu
cung cấp
kiến thức
mới
Trang bị
phƣơng
pháp mới
Cả hai Tổng cộng
Không ghi N 0 0 1 2 3
% 4,76 0,72 0,90
Nam N 3 13 11 88 115
Đề tài cấp Bộ - Thực trạng đội ngũ giáo viên khu vực miền Đông Nam Bộ
146
% 37,5 41,94 52,38 32 34,32
Nữ N 5 18 9 185 217
% 62,5 58,06 42,86 67,27 64,78
Tổng cộng 8 31 21 275 335
33. Nếu được đào tạo trên đại học:
Không ghi Sẵn sàng
tham gia
Cần suy
nghĩ, cân
nhắc
Không có
nguyện vọng
Tổng cộng
Không ghi N 1 2 0 0 3
% 14,28 1,01 0,90
Nam N 2 71 24 18 115
% 28.57 35,85 26,97 43,90 34,32
Nữ N 4 125 65 23 217
% 57.14 63.13 73.03 56.10 64,78
Tổng cộng 7 198 89 41 335
34. Cản trở lớn nhất để tiếp tục học lên là do:
Không ghi Đời sống
khó khăn
Bận rộn
công tác
Tuổi tác và
khả năng bản
thân
Tổng cộng
Không ghi N 1 1 1 0 3
% 6,25 0,56 1,78 0,90
Nam N 2 68 21 24 1115
% 12.50 37.99 37,50 28,57 34,32
Nữ N 13 110 34 60 217
% 81,25 61,45 60,71 71,43 164.78
Tổng cộng 16 179 56 84 335
Đề tài cấp Bộ - Thực trạng đội ngũ giáo viên khu vực miền Đông Nam Bộ
147
PHỤ LỤC 3
MỘT SỐ BÀI VIẾT VỀ TÌNH HÌNH
DẠY SỬ VÀ HỌC SỬ
148
THỜI SỰ - VẤN ĐỀ
ĐỔI MỚI VIỆC DẠY VA HỌC LỊCH SỬ - MỘT YÊU CẦU BỨC THIẾT
Cùng với văn học, sử học được coi là môn quốc học. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:
"Dân ta phải biết sử ta". Thế nhưng, thời gian qua, việc dạy và học lịch sử ở phổ thông và
các trường đại học có nhiều vấn đề tồn tại. Đáp ứng đúng yêu cầu vị trí quan trọng vốn có
của bộ môn lịch sử trong giáo dục nói chung, trong giáo dục ở bậc đại học nói riêng; cần
thiết đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy các môn khoa học lịch sử; kiến nghị và đề
xuất các giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng dạy và học khoa học lịch sử... là những vấn
đề mà cuộc hội thảo "Dạy và học các môn khoa học lịch sử bậc đại học" do Trường ĐH
KHXH & NV tổ chức ngày 24-4-1999.
Từ thực trạng đáng báo động
Mở đầu cuộc hội thào, sau khi khẳng định tầm quan
trọng của các môn khoa học xã hội và nhân văn nói
chung, khoa học lịch sử nói riêng. PTS Lê Văn
Quang. Chủ nhiệm Khoa sử Trƣờng ĐH KHXH &
NV đã đƣa ra những con số nói lên thật nhiều điều:
Kết quả một cuộc điều tra 1.800 thanh niên ở thành
phố Hồ Chí Minh cho thấy: có tới 39% không biết
Hùng Vƣơng là ai; 49% không biết Trần Quốc Toản
là nhân vật nào, trong đó có thanh niên trả lời một
cách rất tự tin đấy là con Trần Phú! Trong khi hầu nhƣ
mọi ngƣời đều nhất trí về tầm quan trọng và tác dụng
của môn lịch sử dân tộc trong việc giáo dục nhân
cách, giáo dục lý tƣởng sống, cung cấp nhận thức
khoa học - chính trị cho thế hệ trẻ và trong khi công
luận nhiều lần lên tiếng về sự hụt hẫng mơ hồ kiến
thức lịch sử dân tộc không chỉ trong học sinh mà cả
trong sinh viên thì thật đáng suy nghĩ khi môn lịch sử
VN lại không đƣợc tổ chức giảng dạy cho sinh viên
Trƣờng ĐH KHXH & NV trong giai đoạn trang bị
kiến thức đại cƣơng. TS Trần Thị Mai và PTS Lê Hữu
Phƣớc cho rằng, để khắc phục tình trạng mơ hồ không
thể chấp nhận đƣợc về kiến thức lịch sử dân tộc trong
hành trang của những trí thức trẻ hiện nay, rất cần
phải bố trí một thời lƣợng thỏa đáng cho môn lịch sử
VN ở bậc đại học, trƣớc hết là ở Trƣờng ĐH KHXH
& NV. Môn lịch sử VN - lịch sử của mình đã "mù
mờ'' vậy,thì môn lịch sử văn minh thế giới lại càng
"mờ mịt" hơn. Theo PTS Lê Vãn Quang, đây là môn
học mới mẻ, chƣa có giá trình chuẩn nên ngƣời dạy
gặp rất nhiều khó khăn khiến cho chất lƣợng dạy và
học môn lịch sử thế giới chƣa cao. Trong khi đó, nhƣ
GS Nguyễn Phan Quang (Trƣờng ĐHSP TP) nhìn
nhận, lịch sử VN 1à bộ phận của lịch sử thế giới. Cả
hai đều có mối quan hệ mật thiết, không thể tách rời
nhau qua tất cả các thời kỳ lịch sử. Muốn học tốt lịch
sử VN phải hiểu rõ lịch sử thế giới; học lịch sử thế
giới để hiểu rõ lịch sử chúng ta hơn. Lịch sử thế giới
cũng nhƣ lịch
sử VN đều trang bị những kiến thức cơ bản Về khoa
học xã hội nhân văn cho thế hệ trẻ làm hành trang
chuẩn bị bƣớc vào đời. Đổi mới giảng dạy khoa học
lịch sử phải chăng là đổi mới nhận thức về vị trí, chức
năng môn lịch sử trong sự nghiệp giáo dục hiện nay?
Ở một môn học rất quan trọng nhƣng cũng đƣợc coi là
rất khó - môn lịch sử Đảng, PTS Đặng Văn Lợi (Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện
TPHCM) cho rằng trong thời gian gần đây, khoa học
lịch sử Đảng tuy có nhiều đổi mới quan trọng theo
hƣớng nhìn thẳng sự thật, nói rõ sự thật, giúp ngƣời
dạy có khối lƣợng tài liệu tham khảo phong phú từ
nhiều nguồn với nhiều cũng trình khoa học mới đƣợc
tổng kết có giá trị, nhƣng bên cạnh dó vẫn còn tồn tại
những khó khăn lớn: Chƣa có dƣợc một cuốn sách
giáo khoa lịch sử Đảng chuẩn với tƣ cách là tiếng nói
chính thức của Đảng, đội ngũ cán bộ giảng dạy thiếu
hụt và trình độ không đồng đều. Thực trạng này cũng
thể hiện rất rõ ở Khoa Sử Trƣờng ĐH KHXH & NV
là nguyên nhân không nhỏ khiến ngƣời học thƣờng có
thái độ học tập đối phó, không hào hứng say mê với
môn lịch sử Đảng, có tâm trạng học để "trả cho xong
nợ" đối với món này.
Đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy
môn lịch sử
Khoa học lịch sử là một ngành khoa học có khả năng
xâm nhập rất cao vào tất cả các lĩnh vực, tiếp cận với
đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội đƣơng đại, thế
nhƣng ở nƣớc ta, khoa học lịch sử dƣờng nhƣ mới chỉ
bó hẹp trong một số ngành có tính chất truyền thống.
Thực tế những năm qua cho thấy, trong khi hầu hết
các ngành khoa học đều tìm cách bắt nhịp với công
cuộc đổi mới, phục vụ kịp thời những nhu c:ầu của xã
hội đặt ra thì ngành sử học, do nhiều nguyên nhân vẫn
chƣa hội nhập,
149
chƣa theo kịp nhịp điệu phát triển của công cuộc đổi mới. Do
vậy, khoa học lịch sử phải có bƣớc đổi mới, và có lẽ, nhƣ giảng
viên Quyền Hồng khẳng định, bƣớc đổi mới trƣớc hết là đổi mới
về công cụ nghiên cứu - giảng dạy. Sự đổi mới từng bƣớc trong
việc xác định đề tài và phƣơng pháp luận sẽ là bƣớc đột phá đầu
tiên trong quá trình đổi mới về khoa học lịch sử nói chung và đổi
mới việc dạy và học lịch sử ở bậc đại học nói riêng.
Để nâng cao chất lƣợng dạy và học khoa học lịch sử, cần
nâng cao tri thức khoa học và tính thiết thực trong nội dung đào
tạo theo hƣớng tiếp cận với trình độ khoa học hiện đại của thế
giới, gắn vào những vấn đề xã hội có nhu cầu. Đặc biệt, nội dung
giảng dạy các môn học trong khoa học lịch sử phải mang tính
chuẩn mực, thống nhất trong toàn quốc. Đối với môn lịch sử
Việt Nam. PTS Lê Hữu Phƣớc đề nghị nên đảm bảo cân đối thời
lƣợng nội dung giảng dạy giữa các thời kỳ để khắc phục tình
trạng hiện nay học sinh ít hiểu về các thời kỳ xa xƣa, về lịch sử
kinh tế - văn hóa - tƣ tƣởng. Việc giảng dạy môn lịch sử VN sẽ
đạt hiệu quả cao hơn khi trong chƣơng trình đào tạo, thời gian
thực tập thực tế, điền dã đƣợc tăng cƣờng. Một vấn đề đƣợc hầu
hết các ý kiến nêu lên là cần khơi gợi và tạo ra niềm hứng thú
say mê đối với khoa học lịch sử cho ngƣời học. GS Nguyễn
Phan Quang nhấn mạnh: ở bậc đại học, sinh viên tự học là chính,
song ngƣời thầy là xúc tác quan trọng không thể thiếu cho việc
nhận thức các kiến thức lịch sử một cách khoa học. Giảng viên
dạy lịch sử phải vƣơn lên là những nhà sử học, luôn cung cấp
cho sinh viên những kết quả nghiên cứu mới, những vấn đề đang
thu hút sự quan tâm chú ý của giới nghiên cứu khoa học, những
nội dung lịch sử đang cần phải tiếp tục đi sâu tìm hiểu và đƣợc
làm sáng tỏ một cách khoa học và chân thực.
Cải tiến cơ cấu, chƣơng trình, nội dung, phƣơng pháp giảng dạy
cộng với nỗ lực của thầy và trò - tất cà những điều dó rất quan
trọng, song một vấn đề không thể thiếu là sự quản lý việc dạy và
học khoa học lịch sử. Đó là điều mà PGS, PTS Ngô Văn Lệ,
Hiệu phó Trƣờng ĐH KHXH & NV nêu ra và đƣợc rất nhiều đại
biểu tâm đắc. Hãy đáp ứng đúng mức yêu cầu quan trọng vốn có
của môn lịch sử trong giáo dục nói chung, trong giáo dục ở bậc
đại học nói riêng. Là một ngành khoa học cơ bản, việc đào tạo
cán bộ nghiên cứu lịch sử cần phải có tầm nhìn chiến lƣợc.
Những vấn đề này đƣợc đạt ra từ bản thân việc dạy học lịch sử,
từ yêu cầu đổi mới của việc dạy học. Chúng ta thực sự đã có ý
thức song thực tế chƣa đạt đƣợc nhiều kết quả. Sự hợp tác khoa
học của các nhà sử học, giảng viên sử học, các viện, trung tâm
nghiên cứu là điều kiện quan trọng để thực sự đổi mới việc dạy
và học lịch sử hiện nay.
QUÂN HỒNG
150
DẠY VÀ HỌC SỬ TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG:
CẦN CÓ MỘT CUỘC ĐỔI MỚI
Trọng Phƣớc
TỪ NHỮNG CON SỐ ĐÁNG BUỒN :
Đầu năm 2001. Trung tâm Khoa học xã
hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh đã làm
một điều tra về việc dạy và học Sử trong
trƣờng phổ thông với cả 3 đối tƣợng: học
sinh (HS), phu huynh và thầy cô giáo. Trong
số 304 bảng trả lời của HS tại 4 trƣờng
THCS ở quận 3 và 5, chỉ có 57.1% cảm thấy
hứng thú khi học về lịch sử dân tộc. Các em
còn lại cho rằng nguyên nhân của việc chƣa
tạo sự hứng thú vì đây chỉ là môn phụ, bài
đơn điệu khô khan... Nhƣng lý do phổ biến là
do giáo viên giảng bài không lôi cuốn, hấp
dẫn, tiết học nhàm chán, chủ yếu bắt các em
học thuộc lòng để lấy điểm. Đáng suy nghĩ
hơn khi đƣợc hỏi 5 nhân vật lịch sử Việt
Nam thời phong kiến mà em thích, chỉ có
khoảng 70,66% trả lời đúng, tỷ lệ này là tính
luôn cả số em cho rằng Hai Bà Trƣng là một
nhân vật (gần 20%). Nhiều em đƣa cả Lê
Văn Tám, Võ Thị Sáu, Kim Đồng vào danh
sách này, dẫu sao cũng còn có cái để an ủi
hơn là việc Thành Cát Tƣ Hãn cũng đƣợc
một số em xem nhƣ một anh hùng dân tộc
thời phong kiến của Việt Nam (?!)
ĐI TÌM LỜI GIẢI TỪ NGƢỜI DẠY
Qua thăm dò những giáo viên dạy Sử của số
học sinh này chỉ có 41% cảm thấy hứng thú
khi giảng dạy môn Sử. 50% thấy bình
thƣờng, 9% thấy chán nản, gƣợng gạo (?).
Có lẽ sự hứng thú của thầy và trò có liên
quan mật thiết với nhau. Ở một thăm dò khác
của TS Ngô MInh Oanh (khoa Sử - ĐH Sƣ
Phạm TP Hồ Chí Minh) với khoảng gần 150
thầy cô giáo dạy Sử trong thành phố, lý giải
vì sao chất lƣợng dạy và học Sử hiện nay
dƣờng nhƣ đang giảm sút, có đến 86% cho
rằng do đời sống giáo viên dạy bộ môn này
còn quá khó khăn, vất vả, không đủ thời gian
và điều kiện để tự học nâng cao trình độ. Mặt
khác, phải chăng môn Sử trong trƣờng phổ
thông chỉ dựa gần nhƣ hoàn toàn vào khả
năng của giáo viên truyền đạt trên lớp là
chính? Trong khi
"Lịch sử là môn học phát triển khả năng tiếp cận có phê phán các nguồn thông tin và
óc tƣởnq tƣợng đƣợc làm chủ... Kiến thức lịch sử để phát triền năng lực phê phán, góp
phần bồi dƣỡng tinh thần dân chủ, lòng khoan dung và ý thức trách nhiệm của công
dân..." (Thƣ của Nghị viện châu Âu năm 1996 gửi các chính phủ khuyến cáo về dạy và
học môn lịch sử).
Học sinh trường THPT Bình Khánh huyện Cần Giờ đến tham quan chuyên đề do Bảo tàng
Lịch sử mang về địa phương.
hầu nhƣ nơi nào cũng có phàn nàn về các
phƣơng tiện hỗ trợ giảng dạy: bản đồ thiếu,
hình ảnh không có, băng hình tƣ liệu lại
càng khó hơn. TS Nguyễn Thị Hậu (Phó
Giám đốc Bảo tàng Lịch sử TP Hồ Chí
Minh) cũng băn khoăn khi năm nào bảo
tàng cũng đề nghị các trƣờngđƣa học sinh
tới học, tham quan, nhƣng có rất ít trƣờng
hƣởng ứng. Ngƣợc lại, chính giáo viên Sử
các trƣờng cũng muốn có những giờ dạy và
học tại bảo tàng, nhƣng đâu là thời điểm để
có thể thực hiện, khi mà dạy trên lớp còn
không đủ giờ theo kịp phân bổ chƣơng
trình?
ĐỔI MỚI CHƢƠNG TRÌNH: MỘT YÊU
CẦU CẤP THIẾT
HS lớp 6 đặt câu hỏi với một nhà Sử học:
"Ở trường cô cháu dạy, trong sách giáo
khoa cũng viết: lúc Ngô Quyền đánh thắng
quân xâm lược là một bước ngoặt lịch sử.
Quang Trung đại phá quân Thanh cũng là
bước ngoặt lịch sử, sang tớiCách mạng
tháng 8, rồi 2 tháng9, Chiến dịch Biên
giới, Tết
Mậu thân, Mùa xuân 1975... sự kiện nào
cũng là bước ngoặt lịch sử. Sao lịch sử
nước mình không đi thẳng mà cứ ngoặt
hoài vậy?". Đó chỉ là một trong số rất
nhiều lỗi của chính ngƣời dạy và của cả
nhà viết sách, không hiểu vì dễ dãi ngôn
từ hay nói đúng hơn là còn nhiều khái niệm
chƣa phú hợp với nhận thức của lứa tuổi?
TS Hồ Hữu Nhựt (Trung tâm Khoa học xã
hội và nhân văn TP Hồ Chí Minh) chỉ ra
nhiều điều tƣơng tự ngay trong bộ sách
giáo khoa mà HS đang học. Cái thì viết dễ
dãi "nƣớc Văn Lang trải qua dƣới 18 đời
vua Hùng..." (Sử 4). Với nhận thức của học
sinh tiểu học, chúng sẽ nghĩ dƣới 18 đời có
nghĩa là 17! hay "vƣợn phƣơng Nam thành
ngƣời..." (Sử 6) chứ không ghi rõ là vƣợn
ngƣời khiến các em băn khoăn sao con
vƣợn ở Sở thú lại không thành ngƣời? Cái
lại yêu cầu quá cao, nhƣ bảo học sinh lớp 4
tìm những phong tục của ngƣời Việt cổ còn
lƣu giữ đến nay ở địa phƣơng em, điều mà
ngay cả sinh viên ĐH còn chƣa biết nữa là.
Đó là chƣa kể những lỗi chƣa biết xếp vào
loại gì, nhƣ sách Sử lớp 4 bảo có con tê
ngƣu, khiến các em chẳng biết nó là con ra
sao (có lẽ là tê giác); hay đến giờ vẫn còn
viết: "lịch sử ngƣời Việt cổ có 4.000
năm..." (sử 6) liệu có chính xác với quan
điểm hiện nay không?
Nhiều ý kiến của những ngƣời làm công
tác nghiên cứu lịch sử cho rẳng cầm có một
cuộc đổi mới SGK lịch sử để nâng cao chất
lƣợng dạy và học môn nàytrong trƣờng phổ
thông.
151
GIÁO DỤC & PHÁT TRIỂN
KHÔNG CÓ KIẾN THỨC CỨ DẠY LIỀU
Ai cũng biết trong các môn
khoa học xã hội thì lịch sử có
đầu tiên rồi sau đó mới sinh ra
thi ca, nhạc họa và văn học...
Xin đừng coi thƣờng những
môn phụ mà mời những ngƣời
không có chuyên môn ra giảng
dạy. Nếu đƣợc vậy thì học sinh,
con em của chủng ta mới hy
vọng có đƣợc một kiến thức
toàn diện có chiều sâu. Giúp
các em khi trƣởng thành dễ hội
nhập với cuộc sống. Mong rằng
các các lãnh đạo của ngành giáo
dục sớm có biện pháp ngăn
chặn các kiểu dạy tréo ngoe
nhƣ vậy.
YẾN THANH
Lâu lâu mới đến thăm nhà
cô em họ. Thấy cái quán tạp
hoá buôn bán lặt vặt của cô
đã dọn đi, ôi cất tiếng hỏi
thăm. Cô em họ đáp lời:
- Em nghỉ bán tạp hoá rồi.
Dạo này có ông bạn học cũ
mời em ra làm giáo viên dạy
ở một trƣờng dân lập.
- Tốt quá, thế là đƣợc về
nghề cũ. Thỏa lòng mong
ƣớc nhá?
Cô em họ cƣời cƣời:
- Nhƣng em lại đƣợc nhà
trƣờng bố trí cho dạy môn
sử.
Tôi giật mình... Ai chứ cô
em họ của tôi thì tôi biết lý
lịch của cô một cách quá
tƣờng tận. Tốt nghiệp khoa
Lý trƣờng Đại học sƣ phạm
Hà Nội năm 1986 cô đƣợc
phân công về dạy một trƣờng
cấp 3 thuộc tỉnh Hà Bắc. Sau
đó cô lấy một anh chồng có
chức tƣớc chỉ phải tội là hơi
già một chút. Anh chồng
đƣợc chuyển vào công tác tại
TP.HỒ Chí Minh thì nàng
cũng xin nghỉ việc theo
chồng ở nhà nội trợ. Năm
1994 chồng nàng vê hƣu
không còn bổng lộc nữa,
nàng đành mở một cái quán
bán tạp phẩm để kiếm thêm
tiền nuôi con.
Ngần ngừ một lúc tôi cất
tiếng:
- Dạy trái nghề có vất vả
lắm không?
Cô em họ xua tay:
- Dạy môn sử đó mà chị.
Trƣớc khi dạy đem sách đọc
qua rồi dạy lại
học trò. Đây là môn học
thuộc lòng em cứ bắt học
sinh học thuộc là đƣợc.
- Tôi sợ cô không có
chuyên môn học trò không
phục?
- Đứa nào không phục em
cho nó vài con một là chúng
nó sợ xanh mắt! Bây giờ
những học trò của em cứ len
lét nhƣ rắn mồng năm.
Rối cô tự mãn kế tiếp:
- Chị đứng coi thƣờng em
nhá!... Em dạy hai lớp 11 và
12. Năm vừa qua em còn
đƣợc bình bầu là Giáo viên
tiên tiến đó.
Tôi thấy vậy cũng đành
cƣời khì không dám nói gì.
Rõ ràng ra cuộc đời có nhiều
ngƣời học nghề này làm
nghề nọ là chuyện thƣờng
trong cuộc sống. Nhƣng dạy
trái môn học thế này khác
nào bắt học sinh học vẹt.
Nếu một giáo viên dạy sử
mà dạy toán thì chắc chắn là
không dạy đƣợc.
Nhƣng một giáo viên dạy
toán vẫn có thể dạy sử hoặc
dạy văn đƣợc. Và cứ thế tại
các trƣờng dân lập đã xuất
hiện nhiều giáo viên dạy tréo
ngoe nhƣ vậy. Chung quy là
tại ban lãnh đạo nhà trƣờng
coi đây là môn phụ nên
không chú trọng. Và nhiều
phụ huynh cũng biết rõ
chuyện này nhƣng cũng cho
đây là môn phụ không phản
ứng gì. Cuối cùng nạn nhân
chính là học trò con em của
họ sẽ phải chịu một kiến
thức rất phiến diện về lịch
sử.
Trẻ trƣờng làng
152
BÀN TRÒN QUỐC SỰ
HỘI NGHỊ VỀ ĐỔI MỚI PHƢƠNG PHÁP DẠY VÀ HỌC SỬ
CHUYỆN THỜI SỰ CỦA LỊCH SỬ
"Nhiều học sinh mới
chỉ biết lịch sử mà chƣa
hiểu lịch sử" - đó là nhận
xét chung của nhiều giáo
viên giảng dạy môn học
này trong trƣởng phổ
thông tại hội nghị "Đổi
mới phƣơng pháp giảng
dạy và học tập môn lịch
sử ở trƣờng phổ thông",
đƣợc Bộ GD-ĐT kết hợp
với Hội Giáo dục lịch sử
(thuộc Hội Khoa học lịch
sử VN) tổ chức trong ba
ngày từ 28 đến 30-11.
Ông Nguyễn Sĩ Quế -
chuyên viên phụ trách
môn lịch sử của Vụ
Trung học phổ thông -
thừa nhận: "Một số
không ít HS rất khó khăn
trong việc nhớ lịch sử
dân tộc, nhƣng lại rất
nhạy bén trong việc nhớ
tiểu sử, tính cách, thành
tích của một vận động
viên hay một ca sĩ".
Nguyên nhân?
Về chương trình, dạy
và học
Theo ông Nguyễn Sĩ
Quế, cấu trúc chƣơng
trình hiện nay không
hợp lý, còn quá nặng nề
đối với từng lớp, từng
cấp, phần lịch sử dân tộc
tuy đƣợc đề cao nhƣng
chƣa cân xứng với mục
tiêu giáo dục. Hậu quả là
khi giảng bài. "giáo viên
chỉ biết bù đầu vào nói
sao cho đủ những kiến
thức trong sách giáo khoa
(SGK), không còn thời
gian để phân tích, hƣớng
dẫn HS cách nhận thức.
Còn HS chỉ lo học thuộc
lòng số lƣợng đồ sộ kiến
thức của một tiết học nên
cũng không còn thời gian
để suy ngẫm đƣa ra câu
hỏi tại sao, nhƣ thế nào
để cảm nhận lịch
trong SGK và bài giảng
cũ thầy bằng những câu
hỏi, bài tập thử thách tƣ
duy sáng tạo vận dụng
linh hoạt các tri thức, kỹ
năng đã học để giải quyết
các vấn đề trong thực
Về sách giáo khoa
Trên cơ sở nhận định
những thiếu sót của
SGK, GS Phan Ngọc
Liên và TS Phạm Kin
Anh đề xuất những sửa
đổi, Vì cấu tạo SGK lịch
sử. Theo ông Liên và bà
Kim Anh. từ lâu, VN
cũng nhƣ một số nhà
giáo dục lịch sử nƣớc
ngoài thƣờng phân nội
dung SGK ra hai phần:
kênh chữ và kênh hình.
Sự phân chia nhƣ vậy
nặng về mặt thông tin
nhận thức. Hai ngƣời chủ
trƣơng phân chia SGK
lịch sử theo hai phần
chính: bài viết (tức là nội
dung cơ bản của chƣơng
trình đƣợc trình bày
trong một số trang cho
mỗi tiết học) và cơ chế
sƣ phạm (chỉ tất cả
những thành tố trong
SGK dành cho một tiết
học: câu hỏi, bài tập tài
liệu tham khảo. bài đọc
thêm, phần tranh ảnh.
minh họa. bản đồ. sơ đồ.
biểu đề đồ thị...).
Tỉ lệ của bài viết và cơ
chế sƣ phạm tùy thuộc
vào lứa tuổi trình độ HS.
Dẫn chứng kinh nghiện
biên soạn SGK nƣớc
ngoài GS Liên và TS
Kim Anh ch-rằng cấu tạo
một bài viết SGK lịch sử
cần có ba phần trình bày
về lịch sử, tƣ liệu và tóm
tắt.
Phần trình bày về lịch
sử phần kiến thức quan
trọng nhất cần thiết nhất.
nêu các sự kiện hiện
tƣợng cơ bản của lịch sử
đã diễn ra trong quá khứ
nh thế nào kết hợp với
việc giải thích, phân tích
một cách hợp lý để HS
hình dung và hiểu biết
đƣợc quá khứ. Do đó
phải a trọng việc trình
bày các sự kiện
THU HÀ – THANH HÀ
(xem tiếp trang 4).
sử nữa...". GSTS Phan
Ngọc Liên – chủ tịch hội
đồng bộ môn lịch sử (Bộ
GD-ĐT) - gọi đó là "kiểu
dạy học cũ". Nhiều đại
biểu cũng khắng định
phƣơng pháp dạy lịch sử
phổ biến trong trƣờng
phổ thông hiện nay là
"thầy đọc, trò ghi". "Dạy
chay" vì thế là một
phƣơng pháp phản khoa
học sƣ phạm, ngày càng
tăng thêm sự hạn chế
trong việc nhận thức lịch
sử cùa HS. Theo PTS
Nguyễn Anh Dũng (Viện
Khoa học giáo dục),
phƣờng pháp dạy học
hiệu quà là phải phát huy
tính tích cực. sáng tạo
cùa HS.
GSTS Phan Ngọc Liên
đề nghị ba phƣơng pháp
dạy lịch sử.
- Thứ nhất là phƣơng
pháp thông tin tái hiện
lịch sử. làm cho HS cảm
thấy dƣờng nhƣ đang
chứng kiến. tham dự,
đƣợc nghe kể lại các sự
kiện đã xảy ra và hình
ảnh cùa sự kiện đang
diễn ra trƣớc mắt.
- Thứ hai là phƣơng pháp
nhận thức lịch sử, nhằm
giúp
cho các em hiểu sâu sắc
các sự kiện đang học qua
việc nắm vững khái
niệm, qui luật lịch sử, rút
bài học, vận dụng kiến
thức vào thực tiễn học
tập và đời sống.
- Thứ ba là phƣơng
pháp tìm tòi, nghiên cứu,
giúp cho HS có thói quen
hứng thú và bƣớc đầu
biết đặt vấn đề, giải
quyết vấn đề từ hình thức
thấp lên cao.
Ba phƣơng pháp này
nhằm thực hiện mục tiêu
cùa việc dạy lịch sử trong
trƣờng phổ thông là giáo
dƣỡng, giáo dục và phát
triển.
Đánh giá kết quả là khâu
cuối cùng nhƣng là khâu
quan trọng nhất trong
quá trình giảng dạy một
môn học. Vì vậy. theo
PTS Vũ Thị Ngọc Anh
(Viện Khoa học giáo
dục), cần phải đổi mới
cách đánh giá kết quả
dạy học môn lịch sử ở
trƣờng phổ thông, Cần
thay những câu hỏi chỉ
đòi hỏi ghi nhớ và tái
hiện đúng những kiến
thức
Tuổi trẻ chủ nhật / số 48-99 / ngày 5-12-1999
153
CHUYỆN "THỜI SỰ"
hiện tƣợng một cách
khách quan, sinh động,
giàu hình ảnh, nhằm
dựng lên trƣớc mắt HS
những hình ảnh chân
thực về một thời đã qua.
Muốn vậy các tác giả nên
hạn chế những phần
thông báo kiến thức quá
khó khăn trong SGK nhƣ
hiện nay mà tăng thêm
những phần miêu tả,
tƣờng thuật. Về điểm
này, các diễn giả đồng
tình với ý kiến của giáo
sƣ Trƣơng Hữu Quýnh:
"Dĩ nhiên, tôi không nghĩ
biến
(Tiếp theo trang 8)
sử học thành khoa học
mô tả và tƣờng thuật,
song nếu chúng ta làm
mất đi tính linh hoạt sống
động của sử học thì
chúng ta sẽ biến nó thành
một cái gì không phải là
sử nữa".
Về phần tƣ liệu, GS
Liên và TS Kim Anh
nhấn mạnh SGK cần có
những sử liệu gốc, những
phần tài liệu cần đọc
thêm, các trích đoạn
trong các tác phẩm lịch
sử hay lời nói, chữ viết
của nhân chứng lịch sử.
Đây là
hƣớng quan trong cần
làm ngay trong đợt biên
soạn và chỉnh lý SGK
lịch sử hiện nay và sau
này.
Cũng liên quan đến
SGK PTS Nguyễn Hữu
Chí đã đề cập đến yêu
cầu về tính chuẩn mực
của SGK. Theo ông,
SGK phải đạt sáu chuẩn
mực: pháp lý, hợp
chƣơng trình đào tạo, cập
nhật phù hợp tâm lý lứa
tuổi, kỹ thuật in ấn, trình
bày tốt nhất. Nhƣng ông
đặc biệt nhấn mạnh tính
vừa sức của SGK: "SGK
là sách viết cho HS, phải
phù hợp với đặc điểm
tâm lý lứa tuổi,
phù hợp với năng lực
nhận thức của HS. Một
số SGK hiện hành, ƣa
viết theo cách của ngƣời
lớn, theo suy nghĩ của
ngƣời lớn, quá sức HS,
quá tải và không hấp dẫn
trẻ em". Tuy nhiên, làm
thế nào để có nhiều hơn
nữa kênh hình trong
SGK, chân thực, chính
xác và hấp dẫn thì không
ai đề cập đến. Cũng nhƣ
có những sự thật lịch sử
khác với SGK lịch sử
khiến giáo viên ngại nói,
hoặc không thể trả lời khi
HS hỏi cũng chƣa đƣợc
bàn đến trong hội nghị. ■
154
Thư gửi của nghị viện
châu Âu về dạy và học sử
Nghị viện châu Âu, năm
1996 trong phiên họp
thƣờng kỳ đã thông qua thƣ
gửi các chính phủ về môn
lịch sử và việc dạy học lịch
sử ở châu Âu. (Trích)
• Mọi ngƣời đều có quyền
hiểu biết lịch sử của mình...
Lịch sử là một phƣơng tiện
để tìm lại quá khứ và tạo
dựng sự đồng nhất về văn
hóa... Lịch sử là môn học
phát triển khả năng tiếp cận
có phê phán các nguồn
thông tin và óc tƣởng tƣợng
đƣợc làm chủ.
• Đối với phần lớn thanh
thiếu niên, sự hiểu biết lịch
sử bắt đầu từ nhà trƣờng.
Song. không phải là việc
học thuộc lòng một số sự
kiện đƣợc chọn ngẫu nhiên
mà trang bị những phƣơng
pháp tiếp thu kiến thức lích
sử để phát triển năng lực
phê phán. góp phần bồi
dƣỡng tinh thần dân chủ.
lòng khoan dung và ý thức
trách nhiệm ngƣời công
dân.
• Nghị viện khuyến cáo
hội đồng bộ trƣởng khuyến
khích việc dạy học lịch sử ở
châu Âu với các đề nghị sau
đây:
- Kiến thức lịch sử phải là
một bộ phận chủ yếu của
việc giáo dục thế hệ trẻ (...).
- Nội dung các chƣơng
trình lịch sử phải "mở", bao
gồm các lĩnh vực của xã hội
(lịch sử xã hội và vãn hóa
cũng nhƣ lịch sử chính trị).
- Phải biết kết hợp các
hình thức để dạy học
(nghiên cứu sách giáo khoa,
sử dụng vô tuyến truyền
hình, các hiện vật trƣng bày,
thăm các bào tàng...) mà
không sử dụng đơn độc một
hình thức nào. Cần kết hợp
sử dụng một cách đầy đủ
các công nghệ thông tin mới
vào quá trình dạy học (...).
- Cần tăng cƣờng hơn nữa
tác động qua lại giữa các
hoạt động trong và ngoài
nhà trƣờng, có ảnh hƣởng
đến việc tiếp nhận, đánh giá
lịch sử của học sinh nhƣ
thăm các bảo tàng (đặc biệt
bảo tàng lịch sử), tham gia
các cuộc hành trình về văn
hóa và du lịch.
DẠY SỬ - NỖI BẤT LỰC VÀ NIỀM ĐAM MÊ
Điều tệ hại của việc dạy học
đối phó là đã vô tình đào tạo
nên một thế hệ trẻ làm việc đối
phó, thụ động, chậm thích ứng
trƣớc những hoàn cảnh khác
nhau của cuộc sống.
Nguyên nhân của tình trạng
này, theo tôi, trƣớc hết là do
chƣơng trình và thi cử.
Trong chƣơng trình cũng
còn nhiều điều chƣa hợp lý, đó
là quá chú trọng vào lịch sử
chiến tranh cách mạng, đấu
tranh giai cấp mà xem nhẹ lịch
sử văn hóa, kinh tế. Bảng thống
kê sau
đây phản ánh rõ điều đó.
Tỉ lệ HS đậu tốt nghiệp
THCS và THPT môn lích sử
trong những năm học vừa qua
thƣờng là 90% trở lên. Tỉ lệ đó
đã không mang lại niềm vinh
quang, tự hào cho những ngƣời
dạy sử ở trƣờng phổ thông mà
nó nói lên sự bất lực, nỗi hổ
thẹn của họ. Bất lực vì không có
sƣ lựa chọn nào khác, và hổ
thẹn khi biết những sản phẩm
do mình tao ra tuy đƣợc cấp
giấy chứng nhận nhƣng thực
chất lại không có chất lƣợng.
LÊ QUANG DŨNG (Trường
THPT Nguyễn Công Trứ. Gò
Vấp. TP.HCM)
Lớp Tổng số bài Các loại bài
Chính trị - quân sự Kinh tế - kỹ thuật Văn hóa
10
11
12 (T1)
12 (T2)
23
23
20
18
19
19
17
17
2
1
3
1
2
4
0
0
CHỈ THẾ THÔI, NGƯỜI VIỆT PHẢI BIẾT
SỬ NƯỚC NHÀ
hỏi nó có thích không, đáp
lại là một cái nhăn mặt: "Có
còn hơn không, bên Hồng
Kông họ làm hà rầm nào là
Hoàng Phi Hồng, Càn Long.
mình còn Lý Thƣờng Kiệt
cũng may. cũng có cái nhắc
mấy đứa nhóc về học sử, tra
sử xem Lý Thƣờng Kiệt là
ông nào. "Nam quốc sơn hà
nam đế cƣ" là nghĩa làm
sao". Chồng tôi nghe con
trai nói cũng hí hửng: "Thời
sinh viên ông ngoại hay hát
lắm, Hội nghị Diên Hồng nè,
Trưng Nữ Vương...". Nhƣng
rồi anh cụt hứng "hình nhƣ
nhạc sử mình chỉ có bấy
nhiêu".
Tôi không tham vọng gì
nhiều, chỉ dám kể chuyện
mình, chuyện nhà. Cũng nhƣ
cha tôi hay nói vậy: "Học sử
phải yêu sử mới nhớ lâu. Cái
gì mình thích tự nhiên nhập
tâm. Chớ đổ thừa cho văn
hóa hôm nay, cho văn minh
Âu Tây, Internet. Đã yêu
lịch sử nƣớc nhà rồi thì
không có cái gì xâm nhập vô
đƣợc". Tôi đã gắn bó với
những giờ học sử hồi đi học
nhƣ vậy đấy. Đơn giản vì tôi
yêu thích và niềm đam mê
ấy sẽ theo tôi đến cuối đời,
cũng nhƣ cha tôi, ông học
sử, yêu sử, thích sử chỉ vì
ông là ngƣời Việt. Rồi con
tôi cũng sẽ nhƣ thế, có gì
đáng gọi là to tát không?
DUY TRÂN (TP.HCM)
Ngay từ nhỏ tôi đã yêu
môn sử. tôi thích học sử.
Mới lớp 2, 3 tôi đã thích đọc
những bài học trong quyển
sách sử của chị tôi. Đi
đƣờng tôi hay hỏi cha tôi về
những bức tƣợng, những tên
đƣờng. Trong lớp tôi hay nói
về mình là con rồng cháu
tiên, trăm trứng nở trăm con,
sự tích trầu cau... Cũng may
hồi ấy bạn bè đều học sử.
biết sử, vì thế không đứa nào
bảo tôi điên. Cũng may nữa
là cha tôi mua về cho tôi
những tập sách truyện. Tôi
biết Trần Quốc Toản nhờ lá
cờ thêu sáu chữ vàng, về
Trần Bình Trọng "thà làm
ma nƣớc Nam chứ không
chịu làm vƣơng đất Bắc"...
Tôi ngốn sử ghê lắm. Trong
lớp chúng tôi hồi ấy rất
nhiều đứa học vẹt, nó có thể
nhắm mắt trà bài ro ro
nhƣng không biết ngắt câu.
Tôi luôn đƣợc cô giáo thích
vì có vẻ biết nhiều hơn, biết
đƣa những thực tế vào sử.
Con tôi nói với tôi: "Học
sử dễ lắm đó mẹ, càng yêu
thích nên càng nhớ lâu".
Nhƣng có
khi con tôi về nhà tấm
tức: "Tụi bạn bảo con điên,
bây giờ mà còn bày ra
chuyện Lạc Long Quân - Âu
Cơ, bây giờ là thời đại cùa
siêu nhân". Năm lớp 12 có
lần tôi cũng đã khóc vì dẫn
văn và sử từ những thực tế,
cô giáo dạy tôi đã phết cho
tôi từ "siêu thực". Tôi trỏ
thành kẻ chơi nổi trong lớp
vì đã viết khác những gì
trong bài đã học, trong sách
đã dần và lũ bạn trong
trƣờng đã gọi tôi là con điên.
Năm nay tôi 37 tuổi, kiến
thức đã nhƣ cái rể, thƣa đi
nhiều rơi đi nhiều. Tôi vẫn
thƣờng tranh thủ thứ bảy,
chù nhật ra hiệu sách cũ tìm
đọc những sách, báo viết về
lịch sử. Con gái tôi cũng thế,
nó cũng thích biết về sử, am
hiểu về sử nhƣ mẹ hay ông
ngoại, đơn giản vì là ngƣời
Việt phải biết sử VN, thế
thôi. -
Hôm rồi con trai tôi đi
xem ca nhạc, nó bảo có một
ca sĩ ngƣời Hoa hát bài Lý
Thường Kiệt có minh họa,
một bài sử đầu tiên đƣợc
"nhạc ca". Tôi
155
Cùng với sự phát triển của chủ
nghĩa tƣ bản, việc dạy học lịch sử
đƣợc chú trọng ở châu Âu. Năm
1951,70 nhà sử học, giáo dục lịch sử
của 32 nƣớc phƣơng Tây đã họp ở
Sèvre (Pháp) và thông quá một cƣơng
lĩnh dạy học lịch sƣ ở trƣờng phổ
thông, trong đó nhấn mạnh một số
nguyên tắc:
- Lịch sử phải đặt cho mình nhiệm
vụ tìm kiếm chân lý.
- Lịch sử phải nhấn mạnh ảnh
hƣởng giữa các dân tộc, nhân dân các
nƣớc, nhấn mạnh sự trao đổi trong
lĩnh vực kỹ thuật, chính trị cũng nhƣ
văn hóá, triết học, tôn giáo...
- Lịch sử phải lƣu ý tầm quan trọng
của các nhân tố xã hội và kinh tế...
(1).
Năm 1980, tại Đại hội các nhà sử
học thế giới, khi bàn về "ý nghĩa của
việc dạy học lịch sử đối với việc hình
thành con ngƣời thế kỷ XX", nhà sử
học Xô Viết Pasuto đã khẳng định:
"Chính lịch sử là bằng chứng hiển
nhiên về sự toàn thắng của công cuộc
xây dựng, sáng tạo đổi với sự tàn phá,
chiến tháng của hoà bình dối vói
chiến tranh, sự gần gũi hiểu biết của
các dân tộc về văn học và các lĩnh
vực khác, khắc phục tình trạng biệt
lập". Ông cũng khẳng định: "Cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ, sự
hứng thú, hấp dẫn ngày càng tăng đối
với hiện tại không hề giảm bớt sự chú
ý của chúng ta đối với việc dạy học
lịch sử" (2).
Song từ mấy thập kỷ cuối của thế kỷ
XX, các nhà sử học, giáo dục đã lên
tiếng báo động về một cuộc khủng
hoảng thực sự về dạy học lịch sử ở các
trƣờng phổ thông. Biểu hiện rõ rệt là
việc coi thƣờng bộ môn lịch sử cũng
nhƣ các môn khoa học xã hội và nhân
văn trong chƣơng trình giáo dục thế hệ
trẻ. Năm 1976, Jean Peyrot, chủ tịch
"Hội các giáo viên lịch sử và địa lý
Pháp" đã nêu "Thời điểm xem thƣờng
các môn khoa học xã hội đã bắt đầu!".
Năm 1979, bốn nghị sĩ Pháp đã chất
vấn chính phủ về việc gần nhƣ "biến
mất" việc dạy học lịch sử ở trƣờng phổ
thông. Ngày 31-8-1983, Tổng thống
Pháp F.Mitterand đã tuyên bố: "Sự yếu
kém của việc dạy học lịch sử ở trƣờng
phổ thông trở thành một tai họa cho
dân tộc". Ông nói thêm: "Việc đánh
mất ký ức tập thể gây nên ảnh hƣởng
xấu và mối kinh hoàng đến các thế hệ
mới và nêu ra sự cần thiết tiến hành
một cuộc cải cách về dạy học lịch sử".
Theo ông một dân tộc đánh mất ký ức
của mình cũng đánh mất bản sắc" (3).
Song cho đến thập kỷ cuối của thế
kỷ này vẫn chƣa có nhiều khởi sắc
trong dạy học lịch sử: chất lƣợng
giảng dạy và học tập không cao, vị trí
của môn lịch sử ở trƣờng vẫn thấp...
Các nhà sử học, giáo dục lịch sử đã
nêu những nguyên nhân của tình trạng
này: việc đào tạo giáo viên chƣa có
chất lƣợng, thiếu sự hợp tác chặt chẽ
giữa các nhà sử học và giáo dục lịch
sử, các chính phủ không quan tâm đến
việc dạy học lịch sử, nhƣng có ý đồ
biến lịch sử thành một công cụ của
mình.
chiếu bóng, văn học, du lịch. Gia
đình, bạn bè, cộng dồng địa phƣơng
các tổ chức tôn giáo, chính trị cũng
ảnh hƣờng đến việc tiếp thụ kiến thức.
6. Những công nghệ mới về thông
tin (CDI, CD ROM, Intemet...) đang
mở rộng dần ý nghĩa và tác động của
lịch sử.
7. Có nhiều hình thức lịch sử:
truyền thuyết, ký ức và lịch sử dƣợc
phân tích. Việc lựa chọn các sự kiện
cho các loại hình trên phải tuân thủ
các tiêu chí khác nhau. Những hình
.
VIỆC DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở CHÂU ÂU HIỆN NAY
Phan Ngọc Liên
Tháng 1 năm 1996, Nghị viện châu
Âu trong phiên họp thƣờng kỳ đã
thông qua thƣ gửi các chính phủ về
môn lịch sử và việc dạy học lịch sử ở
châu Âu.
Chúng tôi trích dịch phần lớn thƣ
này (4) để hiểu rõ về thực trạng dạy
học lịch sử ở châu Âu và rút từ đó một
vài gợi ý cho chúng ta:
1. Mọi ngƣời đều có quyền hiểu
biết lịch sử của mình... Lịch sử là một
phƣơng tiện để tìm lại quá khứ và tạo
dựng sự đồng nhất về văn hoá... Lịch
sử là môn học phát triển khả năng tiếp
cận có phê phán các nguồn thông tin
và óc tƣởng tƣợng đƣợc làm chủ.
2 ... Lịch sử góp phần tăng cƣờng
sự hiểu biết, lòng khoan dung và sự tin
cậy giữa cá nhân và các dân tộc. Nó
cũng có thể trở thành một lực lƣợng
gây ra sự chia rẽ, bạo lực và thiếu lòng
vị tha.
3. Sự hiểu biết lịch sử có ý nghĩa
quan trọng đối với đời sống cồng dân
(...)
4. Đối với phần lớn thanh thiếu
niên, sự hiểu biết lịch sử bắt đầu từ
nhà trƣờng. Song, không phải là việc
học thuộc lòng một số sự kiện đƣợc
chọn ngẫu nhiên mà trang bị những
phƣơng pháp tiếp thụ kiến thức lịch sử
để phát triển năng lực phê phán, góp
phần bồi dƣỡng tinh thần dân chủ, lòng
khoan dung và ý thức trách nhiệm
ngƣời công dân.
5. Nhà trƣờng không phải là
nguồn duy nhất cung cấp thông tin,
quan điểm về lịch ssử mà còn có
những nguồn kiến thức khác, nhƣ các
phƣơng tiện thông tin đại chúng,
thức lịch sử này cũng có vai trò không
giống nhau.
8. Các nhà chính trị có cách giải
thích lịch sử riêng của mình... Hầu hết
các chế độ chính trị đều sử dụng lịch
sử làm công cụ phục vụ quyền lợi của
mình, để áp đặt việc giải thích lịch sử,
xác định những gì là tốt đẹp hay bạo
tàn trong lịch sử.
9. Ngay mục đích của các nhà chính
trị có thể khách quan đến một chừng
mực nhất định, thì các nhà sử học vẫn
có ý thức về tính chủ quan của lịch sử
và những phƣơng thức đƣợc sử dụng
để tái tạo và giải thích lịch sử.
10. Các công dân có quyền học tập
một lịch sử không bị áp đặt. Nhà nƣớc
phải đảm bảo quyền này và khuyến
khích việc tiếp cận khoa học thích hợp,
không làm biến dạng những sự kiện
đƣợc giảng dạy theo quan điểm tôn
giáo, chính trị nào đấy.
11. Các nhà giáo dục và nghiên cứu
phải thƣờng xuyên cùng nhau sửa đổi
nội dung giáo dục lịch sử (...)
12. Sự trong sáng là điều cần cho tất
cả những ai hoạt động trong các lĩnh
vực lịch sử, dù đó là trong lớp học, ở
phòng chiếu phim hay thƣ viện các
trƣờng đại học.
13. (..:).
14. Nghị viện khuyến cáo Hội
đồng Bộ trƣởng khuyến khích việc
dạy học lịch sử ở châu Âu với các đề
nghị sau đây:
- Kiến thức lịch sử phải là một bộ
phận chủ yếu của việc giáo dục thế hệ
trẻ (...)
- Nội dung các chƣơng trình lịch sử
phải "mở", bao gồm các lĩnh vực
156
của xã hội (lịch sử xã hội và văn
hoá cũng nhƣ lịch sử chính trị). Vai
trò của phụ nữ dƣợc thừa nhận một
cách thích đáng. Cần phải giảng
dạy lịch sử địa phƣơng cũng nhƣ
lịch sử dân tộc (không phải lịch sử
theo quan điểm dân tộc chủ nghĩa),
cả lịch sử các dân tộc thiểu số (...).
- Phải biết kết hợp các hình
thức dạy học (nghiên cứu sách giáo
khoa, sử dụng vô tuyến truyền
hình, các hiện vật trƣng bày, thăm
các bảo tàng...) mà không sử dụng
đơn độc một hình thức nào. Cần
kết hợp sử dụng một cách đầy đủ
các công nghệ thông tin mới vào
quá trình dạy học (...).
- Cần tăng cƣờng hơn nữa tác
động qua lại giữa các hoạt động
trong và ngoài nhà trƣờng, có ảnh
hƣởng đến việc tiếp nhận, đánh giá
lịch sử của học sinh, nhƣ thăm các
bảo tàng (đặc biệt Bảo tàng Lịch
sử), tham gia các cuộc hành trình
về văn hóa và du lịch.
- Cần khuyến khích những điều đổi
mới trong dạy học lịch sử cũng
nhƣ việc đào tạo nghiệp vụ, đăc
biệt
là những gì liên quan đến công
nghệ mới. Khuyến khích việc hình
thành một mạng lƣới bao gồm các
nhà giáo dục lịch sử có quan hệ
chặt chẽ với nhau. Môn lịch sử
phải có vị trí ƣu điểm trong các hội
thảo khoa học của các nhà giáo dục
châu Âu, đƣợc tổ chức trong khuôn
khổ chƣơng trình hợp tác văn hoá
về đào tạo giáo viên.
- Cần tăng cƣờng sự hợp tác giữa
giáo viên lịch sử và các nhà sử học.
- Ủng hộ việc thành lập các tổ
chức riêng của giáo viên lịch sử ở
các nƣớc. Khuyến khích các tổ
chức này tích cực tham gia Hội
những ngƣời giảng dạy lịch sử
châu Âu.
- Cần soạn thảo một văn bản
hƣớng dẫn việc dạy học lịch sử với
sự cộng tác của các nhà giáo dục
lịch sử, cũng nhƣ một hiến chƣơng
của châu Âu nhằm bảo vệ các giáo
viên lịch sử chống lại các ý đồ
chính trị gian xảo.
15. Nghị viện ủng hộ việc tự do
nghiên cứu riêng, mong chờ ý thức
trách nhiệm và nghề nghiệp của
những ngƣời làm công tác lịch sử,
kể cả những ngƣời ở ngành truyền
thanh.
Nghị viện khuyến cáo Hội đồng
Bộ trƣởng:
- Các chính phủ cấp một tài trợ
thƣờng xuyên để nghiên cứu bộ
môn lịch sử và hoạt động của các
hội đồng gồm nhiều bên hay giữa
hai bên về lịch sử hiện dại.
- Xúc tiến việc hợp tác giữa các
nhà sử học.
- Bảo đảm quyền tự do nghiên
cứu của các nhà sử học".
-----------------
1. Encyclopedie pratique de
l'Education en France, Paris, 1980, tr.663
2. Rapprurst l: Grands themes de
Methodologie XV e Cỏnges Interbational
des sciences historiques Bucaresti, 1980,
tr 563
3. Des enfants sans Histoire. Le lirre
blam de l'enseignement de l'Histoire,
Librairie Academique Perrin, Paris 1994.
tr.9.
4. Bản tiếng Pháp trong quyển History and
the learning of history in Europe
Straboung, 1998, tr 3-6
Đề tài cấp Bộ - Thực trạng đội ngũ giáo viên khu vực miền Đông Nam Bộ
157
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành trung ƣơng, Nghị quyết của BCT Ban chấp TƢ Đảng cộng sản Việt
Nam khoa IV về Cải cách giáo dục, NXB GD, HN, 1979.
2. Bộ Giáo dục, Quy định về mục tiêu và kế hoạch đào tạo của trƣờng phổ thông trung
học, HN, 1990.
3. Tỉnh ủy tỉnh Sông Bé (1990): Sông Bé lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945 -
1975), NXB Tổng hợp Sông Bé.
4. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Tây Ninh (1981): Sơ thảo lịch sử Đảng bộ tỉnh Tây
Ninh.
5. Ban tổng kết chiến tranh, Tỉnh ủy Tây Ninh (1986) : Lƣợc sử Tây Ninh.
6. BCH Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (1995): Lịch sử Bà Rịa - Vũng Tàu kháng
chiến, NXB Quân đội nhân dân, HN.
7. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Bình Dƣơng (1999) : Lịch sử địa phƣơng tỉnh Bình Dƣơng
(Bậc phổ thông trung học).
8. Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Bình Dƣơng (1999): Địa lí địa phƣơng tỉnh Bình Dƣơng
(Bậc phổ thông trung học).
9. Bộ Tƣ lệnh QK 7, Tỉnh ủy Sông Bé, Tỉnh ủy Đồng Nai (1987): Lịch sử chiến khu Đ,
NXB Đồng Nai & NXB Sông Bé.
10. BCH Đảng bộ thành phố Biên Hòa (1997): Biên Hòa - ghi nhớ, tự hào, NXB Trẻ.
11. Dạy học lịch sử lớp 10 cải cách giáo dục - Trần Hƣơng Văn, Nguyễn Thị Thƣ, Phan
Thế Kim - ĐHSPTPHCM 1990 (in Ronêo).
12. Nghiêm Đình Vỹ, Trịnh Tùng (1991) : Một vài suy nghĩ về đổi mới nội dung giảng
dạy lịch sử ở trƣờng PTTH hiện nay, Tạp chí NCLS 5/1991.
13. Nghiêm Đình Vỳ, Trịnh Tùng (1993): vấn đề đổi mới chƣơng trình và nội dung giảng
dạy lịch sử hiện nay, Tạp chí NCLS 3/1993.
Đề tài cấp Bộ - Thực trạng đội ngũ giáo viên khu vực miền Đông Nam Bộ
158
14. Philíp Langlet: Nhận xét về hình ảnh nƣớc Pháp trong sách giáo khoa lịch sử bậc
trung học ở Việt Nam, Tạp chí Xƣa và Nay số 37 tháng 3/1997.
15. Nhiều bài liên quan đến chƣơng trình và SGK cải cách bộ môn lịch sử trong NCLS số
5 và 6/1993.
16. Hồ Sĩ Khoách, Lê Hữu Phƣớc, Nguyễn Văn Lịch, Nguyễn Văn Đôn (1989): Vấn đề
giáo dục đạo đức, lịch sử dân tộc và lịch sử địa phƣơng ở các trƣờng PTCS ở
TPHCM. Tài liệu đánh máy lƣu tại Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật TP HCM.
17. Hoàng Nhƣ Mai và nhóm nghiên cứu (1995): Tình hình dạy và học các môn khoa học
xã hội ở trƣờng THPT (cấp II và III) tại TPHCM, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kĩ
thuật thành phố Hồ Chí Minh.
18. Lê Vinh Quốc (chủ nhiệm đề tài nhánh) với sự tham gia của Nguyễn Duy Tuấn, Phan
Thế Kim, Nguyễn Thị Thƣ, Trần Hƣơng Văn (1995): "Tình hình dạy và học môn lịch
sử ở trƣờng PTTH (cấp II và III)". Tài liệu đánh máy lƣu tại Liên hiệp các Hội khoa
học và kĩ thuật Tp. Hồ Chí Minh.
19. Lê Bá Thảo (1998): Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lí. NXB Thế Giới, HN.
20. Trần Nhƣ Thanh Tâm và nhóm tác giả (2001): Xây dựng hệ thống các tài liệu trợ
giảng giúp giáo viên cải tiến phƣơng pháp giảng dạy môn Lịch SỪ trong các trƣờng
trung học ở thành phố Hố Chí Minh, Sở Khoa học - Công nghệ và Môi trƣờng
thành phố Hồ Chí Minh.
21. Hội KHLS Việt Nam (1999): Kỉ yếu "Hội thảo về đổi mới phƣơng pháp dạy và học
lịch sử" từ ngày 28-30/11/1999.
22. Trung tâm KHXH và NV TP HCM (2001): Kỉ yếu Hội thảo khoa học: Dạy và học
môn lịch sử dân tộc ở các trƣờng tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông tại TP
Hồ Chí Minh - Thực trạng và kiến nghị.
23. Trọng Phƣơng (2001): Dạy, và học sử trong trƣờng phổ thông cần có một cuộc đổi
mới, Báo Thanh niên ngày 13/6/2001.
Đề tài cấp Bộ - Thực trạng đội ngũ giáo viên khu vực miền Đông Nam Bộ
159
24. Yến Thanh (2000) : Không có kiến thức cứ dạy liều, Báo Giáo dục và Thời đại số 34.
25. Quân Hồng (1999): Đổi mới dạy và học lịch sử - một yêu cầu bức thiết, Báo SGGP
28/04/1999.
26. Thu Hà - Thanh Hà (1999): Chuyện thời sự của lịch sử, Báo Tuổi trẻ Chủ nhật
5/12/1999.
27. Lê Quang Dũng (1999): Dạy sử - Nỗi bất lực và niềm đam mê, Báo Tuổi Trẻ CN
5/12/1999.
28. Duy Trần (1999): Chỉ thế thôi, ngƣời Việt phải biết sử nƣớc nhà, Báo Tuổi Trẻ chủ
nhật ngày 5/12/1999.
29. Lê Vinh Quốc và nhóm tác giả Phan Thế Kim, Nguyễn Duy Tuấn, Nguyễn Thị Thƣ,
Trần Hƣơng Văn (2001): Nghiên cứu chƣơng trình và sách giáo khoa cải cách của bộ
môn lịch sử ở trƣờng trung học cơ sở và trung học phổ thông (khảo sát qua thực tiễn
dạy học tại thành phố Hồ Chí Minh).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nkkh_thuc_trang_doi_ngu_giao_vien_mon_lich_su_truong_pho_thong_trung_hoc_khu_vuc_mien_dong_nam_bo_89.pdf