Đề tài Thực trạng phát triển ngành dệt may và khả năng nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua tăng cường khai thác các yếu tố liên quan tới thương mại

Bên cạnh các cơ chế chính sách trên, với việc trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, Việt Nam đã tiến một bước dài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nếu việc gia nhập WTO có thể được xem là bước hội nhập “theo chiều rộng” với những cam kết mở cửa ở mức độ tương đối, áp dụng chung cho tất cả các nước thành viên của WTO, thì việc ký kết các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) giữa Việt Nam với các đối tác thương mại được xem là hình thức hội nhập “theo chiều sâu” trong đó các cam kết mạnh mẽ hơn, trên nhiều lĩnh vực hơn và do đó mức độ tác động đến nền toàn bộ kinh tế nói chung và đến từng ngành nói riêng cũng lớn hơn và phức tạp hơn. Đến nay, bên cạnh các FTA do khối ASEAN ký kết (ASEAN + 6) mà Việt Nam tham gia với tư cách là quốc gia thành viên của ASEAN. Các hiệp định này bao gồm Hiệp định Thương mại tự do ASEAN -Trung Quốc (ACFTA, 2004), Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA, 2006), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP, 2009), Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Australia, New Zealand (AANZFTA, 2010) và Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Ấn Độ (2010). Việt Nam còn ký kết các FTA song phương với các đối tác thương mại quan trọng, trong đó Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) đã được ký kết năm 2009, là hiệp định thương mại tự do đầu tiên Việt Nam ký với tư cách là đối tác độc lập; Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Chi Lê (VCFTA) mới được ký năm 2012. Hiệp định Thương mại tự do với Hiệp hội mậu dịch tự do Châu Âu (V-EFTA), với Cộng đồng Châu Âu (V-EU) và Hiệp định Hợp tác Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang trong quá trình đàm phán, được đánh giá là những đàm phán mở cửa cửa thương mại tự do quan trọng nhất của Việt Nam, bởi đàm phán này có sự tham gia của Hoa Kỳ và EU, hai nền kinh tế lớn nhất thế giới và đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam. Các khu vực thương mại tự do được kỳ vọng sẽ thúc đẩy tự do hóa thương mại bằng cách cắt giảm thuế quan đối với những mặt hàng xuất xứ từ các nước thành viên. Tuy nhiên tự do hóa không tự động diễn ra vì việc cắt giảm thuế còn phụ thuộc vào việc đáp ứng các quy tắc xuất xứ. Quy tắc xuất xứ quyết định một sản phẩm có được ưu đãi hay không. Do đó, khu vực thương mại tự do không đảm bảo rằng các doanh nghiệp vận dụng được ưu đãi thương mại và cơ hội kinh doanh từ các FTA mà Việt Nam ký kết

pdf64 trang | Chia sẻ: tienthan23 | Lượt xem: 2945 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng phát triển ngành dệt may và khả năng nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua tăng cường khai thác các yếu tố liên quan tới thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- sản xuất nguyên phụ liệu thích hợp, đảm bảo cho ngành phát triển bền vững trong những năm tới là cấp bách và cần thiết. IX. Về vị trí, vai trò và hiệu quả sản xuất của ngành - Dệt may là ngành có đóng góp rất đáng kể vào phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong nhiều giai đoạn phát triển trước đây và tiếp tục cho thấy vai trò ngày càng quan trọng trong tiến trình đổi mới và phát triển của Việt Nam thời gian tới. Hoạt động sản xuất và xuất khẩu ngành dệt may thời gian qua có nhiều đóng góp quan trọng cho nền kinh tế. Tính đến năm 2011, kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may chiếm xấp xỉ 15% GDP, là ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam. Bảng 14. Giá trị SXCN theo giá thực tế phân theo ngành công nghiệp Đơn vị tính: Tỷ đồng Năm 2007 2008 2009 2010 Tổng số ngành công nghiệp 1.466.480,1 1.903.128,1 2.298.086,6 2.963.499,7 Tổng số dệt may 127.272,8 156.630,4 185.382,3 236.939,5 - Dệt 64.805,5 74.218,3 90.479,5 112.722,2 - Sản xuất trang phục 62.467,3 82.412,1 94.902,8 124.217,3 Nguồn: Tổng cục thống kê Bảng 15. Cơ cấu SXCN theo giá thực tế phân theo ngành công nghiệp Đơn vị tính: % Năm 2007 2008 2009 2010 Tổng số ngành công nghiệp 100,00 100,00 100,00 100,00 Tổng số dệt may 8,68 8,23 8,07 7,99 38 - Dệt 4,42 3,90 3,94 3,80 - Sản xuất trang phục 4,26 4,33 4,13 4,19 Nguồn: Tổng cục thống kê Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng để có thể xuất khẩu được số hàng dệt may trị giá 17,108 tỷ USD năm 2012, Việt Nam phải chi khoảng 50,20% trong số đó để nhập khẩu nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất (8,587 tỷ USD), điều đó cũng có nghĩa là đóng góp của xuất khẩu cho tăng trưởng kinh tế trong nước bị hạn chế. - Bên cạnh đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, ngành dệt may còn góp phần giải quyết các vấn đề xã hội như xóa đói giảm nghèo, hạn chế nạn thất nghiệp, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa. Với những lợi thế riêng biệt như vốn đầu tư không lớn, thời gian thu hồi vốn tương đối nhanh, đây còn là ngành thu hút nhiều lao động, bao gồm nhiều công đoạn có tính chuyên sâu, đòi hỏi tính chuyên môn hóa, hợp tác hóa, với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Trong giai đoạn 2001 – 2011 lao động sử dụng trong toàn ngành hàng năm khoảng: Năm 2001, ngành công nghiệp dệt may sử dụng 1,5 triệu lao động. Từ năm 2005 đến 2011, hàng năm khoảng 2,3 triệu (trong đó khoảng 1,1 triệu lao động công nghiệp) chiếm gần 5% lao động toàn quốc và hơn 10% tổng số lao động trong toàn ngành công nghiệp. Bên cạnh đó, một lực lượng lao động khá lớn được thu hút vào lĩnh vực phát triển cây bông và trồng dâu nuôi tằm (số lượng vào khoảng 200.000 người hàng năm), ngoài ra còn kéo theo hàng chục vạn lao động sản xuất trong các ngành công nghiệp phụ trợ như sản xuất bao bì, phụ liệu, thêu đan. Chính vì lẽ đó, ngành dệt may là ngành đã góp phần giải quyết công ăn việc làm lớn cho xã hội trước mắt cũng như trong tương lai. Bảng 16. So sánh một số chỉ tiêu cơ bản của doanh nghiệp ngành Dệt May so với toàn ngành công nghiệp Tên ngành Số lao động (Người) Tổng doanh thu (Triệu VNĐ) Nộp ngân sách (Triệu VNĐ) Tổng ngành công nghiệp Năm 2005 6237396 2221392274 161611145 Năm 2006 6715166 2743147824 191888017 Năm 2007 7382160 3566611200 220298038 Năm 2008 8246239 5593946386 335226169 Năm 2009 8927859 5960818855 360320262 Năm 2010 10079886 7705486449 409337526 Dệt & May 39 Tên ngành Số lao động (Người) Tổng doanh thu (Triệu VNĐ) Nộp ngân sách (Triệu VNĐ) Năm 2005 681079 66630006 1610650.7 Năm 2006 777466 102703245 1619462.2 Năm 2007 889455 104076207 2875669.3 Năm 2008 925547 123669184 4627896.6 Năm 2009 963250 148774415 2253807.3 Năm 2010 1039620 201107160 5866193.6 Nguồn: Tổng cục Thống kê Số lao động dệt may so với toàn ngành công nghiệp 0 2000000 4000000 6000000 8000000 10000000 12000000 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Toàn ngành CN Dệt May Nộp ngân sách ngành dệt may so với toàn ngành công nghiệp 40 0 50000000 100000000 150000000 200000000 250000000 300000000 350000000 400000000 450000000 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Toàn ngành CN Dệt May - Nếu xét trên tiêu chí tỷ lệ giá trị gia tăng so với giá trị sản xuất của ngành thì ngành dệt may Việt Nam thời gian qua có hiệu quả tương đối cao, trong đó lĩnh vực may có hiệu quả cao hơn lĩnh vực dệt; trong lĩnh vực may thì may trang phục có hiệu quả cao hơn và trong lĩnh vực dệt thì sản xuất vải dệt kim và vải không dệt có hiệu quả cao hơn so với các nhóm sản phẩm khác. Theo tính toán trên cơ sở số liệu đến năm 2012, tỷ lệ VA/GOCN của ngành dệt may đạt khoảng 35% cao hơn tỷ lệ VA/GOCN toàn ngành công nghiệp đạt ~31%. Qua đó cho thấy, hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành dệt may đạt khá cao, thể hiện sự phát triển đúng hướng của ngành trong sự phát triển chung của toàn ngành công nghiệp. + So sánh giữa lĩnh vực dệt và lĩnh vực may, thì so với ngành dệt cùng giai đoạn từ năm 2006-2012 ngành may có tỷ lệ giá trị gia tăng so với giá trị sản xuất ngành công nghiệp (VA/GOCN) cao hơn ngành dệt, ngành may là 42,25% còn ngành dệt chỉ bằng khoảng một nửa ngành may là 22,04 %. Đến năm 2012, tỷ lệ VA/GOCN của ngành may đạt khoảng 42% cao hơn tỷ lệ VA/GOCN ngành dệt là 23,18%. Qua đó cho thấy, hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành may rất cao, thể hiện trong lĩnh vực này, hiện nay là lĩnh vực có giá trị gia tăng cao trong toàn ngành dệt may, chính vì vậy mà trong thời gian vừa qua các đầu tư dự án nước ngoài vào lĩnh vực may nhiều hơn và cũng thể hiện đây là lĩnh vực trọng tâm của ngành. + Trong lĩnh vực dệt, giai đoạn 2006 - 2012 ta có thể thấy lĩnh vực sản xuất vải dệt kim và vải không dệt có tỷ lệ (VA/GOCN) cao, chứng tỏ đây là lĩnh vực có giá trị sản xuất công nghiệp cao nhất trong ngành dệt 42,65%. Điều này phản ánh một thực tế là trong mấy năm gần đây, việc phát triển sản xuất vải dệt kim may thành sản phẩm trọn gói để xuất khẩu hoặc tiêu dùng nội địa là hướng đi đúng và mang lại hiệu quả cao. Bên cạnh đó, sản phẩm vải không dệt dùng làm nguyên phụ liệu (tấm lót, mex, các loại bao gói, vải địa kỹ thuật,) luôn là các sản phẩm dệt có giá trị gia tăng cao hơn so với sản phẩm dệt dùng trong may mặc. Lĩnh vực sản xuất sợi 22,36% và lĩnh vực nhuộm xử lý hoàn tất 23,79 % có tỷ lệ VA/GOCN đứng ở nhóm giữa trong dây chuyền sản xuất dệt. Nhóm cuối cùng là lĩnh vực sản xuất vải dệt thoi, đây là lĩnh vực có giá trị gia tăng thấp nhất do vốn 41 đầu tư lớn, năng suất thiết bị và tự động hóa cũng chưa cao, thiết bị so với toàn ngành ở mức hiện đại hóa thấp. Bảng 17. Tỷ lệ giá trị gia tăng so với giá trị sản xuất ngành công nghiệp (VA/GOCN) của ngành dệt giai đoạn 2006-2012 Năm Tỷ lệ VA/GOCN (giá so sánh) ngành dệt (%) Toàn ngành dệt Sản xuất sợi Sản xuất vải dệt thoi Nhuộm và xử lý hoàn tất Sản xuất vải dệt kim, vải không dệt Sản xuất thảm, chăn đệm Các loại SP dệt khác 2012 23,18 22,36 17,19 23,79 42,65 28,66 12,10 2006- 2012 22,04 22,36 17,19 23,79 42,65 28,66 12,10 Nguồn: TCTK, thống kê các xí nghiệp, doanh nghiệp công nghiệp Bảng 18. Tỷ lệ giá trị gia tăng so với giá trị sản xuất ngành công nghiệp (VA/GOCN) của ngành may năm 2006-2012 Năm Tỷ lệ VA/GOCN (giá so sánh) ngành may (%) Toàn ngành may May trang phục (trừ trang phục từ da lông thú) Sản xuất sản phẩm từ da lông thú Sản xuất trang phục dệt kim, đan móc 2012 42,31 42,47 24,68 35,26 2006- 2012 42,25 42,47 24,68 35,26 Nguồn: TCTK, thống kê các xí nghiệp, doanh nghiệp công nghiệp + Trong lĩnh vực may, lĩnh vực may trang phục (trừ trang phục từ da lông thú) là lĩnh vực có tỷ lệ VA/GOCN cao nhất 42,47%, tiếp đến là sản xuất trang phục dệt kim, đan móc 35,26%, cuối cùng là sản xuất sản phẩm từ da lông thú 24,68 %. Dựa trên tỷ lệ VA/GOCN của ngành may cho thấy rằng lĩnh vực may trang phục (trừ trang phục từ da lông thú) là lĩnh vực có giá trị gia tăng cao nhất và hiệu quả kinh tế nhất. 42 Phần thứ hai ĐÁNH GIÁ VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ TRỌNG TÂM CẦN XEM XÉT NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI I. Đánh giá chung về khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam 1. Phân tích điểm mạnh - điểm yếu - cơ hội - thách thức chung của ngành Trên cơ sở xem xét, đánh giá thực trạng phát triển của ngành dệt may Việt Nam thời gian qua cũng như nhìn nhận các nhân tố chủ yếu tác động tới sự phát triển của ngành trong thời gian tới, có thể đưa ra một số phân tích cơ bản về điểm mạnh - điểm yếu - cơ hội - thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam như sau: Điểm mạnh: • Lực lượng lao động tương đối dồi dào, giá rẻ, dễ đào tạo, kỹ năng và tay nghề may tốt. Lao động của Việt Nam được đáng giá là nguồn lao động có năng lực và có thể trở thành nguồn lao động chất lượng cao nếu được đào tạo tốt; • Thiết bị ngành may đã được đổi mới và hiện đại hoá đến 90%; • Đã xây dựng được mối quan hệ bền vững với nhiều tập đoàn tiêu thụ lớn trên thế giới; • Việt Nam được đánh giá là điểm đến ổn định và an toàn đối với các nhà nhập khẩu và đầu tư nước ngoài; • Hỗ trợ của Chính phủ trong ký kết các hiệp định thương mại, các chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài và sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Điểm yếu: • Sản xuất mô hình gia công chiếm tỷ lệ cao, giá trị gia tăng thấp; • Công nghệ hỗ trợ dệt may còn yếu, phần lớn vải và phụ liệu may phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu. Liên kết trong chuỗi cung ứng yếu; • Thiếu hụt nguồn nhân lực có kỹ năng, có kinh nghiệm về quản lý, kỹ thuật, marketing, bán hàng và các dịch vụ mua bán. Sức thu hút hấp dẫn nhân lực cho ngành dệt may ngày càng yếu đi so với các ngành công nghiệp khác; • Thiếu một tổ chức thu thập, phân tích, cung cấp thông tin chuyên ngành, thị trường trong nước và quốc tế; 43 • Hoạt động nghiên cứu, thiết kế, phát triển sản phẩm, quản lý sản xuất còn yếu; hiệu quả sử dụng thiết bị sợi, dệt, nhuộm còn thấp; năng suất lao động thấp; • Chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên khả năng huy động vốn đầu tư thấp, hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, trang thiết bị. Cơ hội: • Viện giảm thuế giữa các nước ASEAN và ASEAN với Nhật Bản, Trung Quốc tạo ra xu hướng chuyển dịch sản xuất hàng dệt may sang các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp, bao gồm cả thiết bị, công nghệ sản xuất, quản lý, lao động chất lượng cao và thu hút đầu tư từ các nước phát triển; • Hội nhập quốc tế là một cơ hội lớn cho kinh tế Việt Nam, trong đó có dệt may, thị trường Hoa Kỳ và nhiều thị trường khác có khả năng mở rộng. Những cam kết của Việt Nam đối với cải cách và phát triển kinh tế đã tạo được sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư và mở ra những thị trường mới, các quan hệ hợp tác mới; • Thị trường nội địa có dân số khoảng 90 triệu người, tạo nhiều cơ hội phát triển và sự quan tâm của các nhà đầu tư; • Thị trường các nước ASEAN ngày càng phát triển; • Nhu cầu sản phẩm dệt may, nhất là dệt may an toàn, sinh thái có xu hướng ngày càng tăng; • Sản phẩm dệt kỹ thuật ngày càng phát triển và lĩnh vực sử dụng ngày càng rộng. Thách thức: • Kinh tế châu Âu chưa có dấu hiện sáng sủa; • Giá sản phẩm dệt may có xu hướng không tăng; • Các rào cản kỹ thuật về vệ sinh, an toàn, môi trường, trách nhiệm xã hội, chống trợ giá có xu hướng ngày càng ngày càng tăng trên thế giới; • Cạnh tranh quyết liệt từ các nhà xuất khẩu dệt may: Trung Quốc, Ấn Độ, Bănglađét, Srilanca, Indonexia. Xuất phát điểm của dệt may Việt Nam còn thấp, công nghiệp phụ trợ chưa thực sự phát triển, nguyên phụ liệu chủ yếu nhập khẩu, tỷ lệ gia công cao, năng lực cạnh tranh còn yếu hơn các nước trong khu vực và trên thế giới,... • Việc triển khai thực hiện các chính sách và cơ chế hỗ trợ của chính phủ còn nhiều bất cập. 2. Đánh giá khả năng cạnh tranh của các nhóm sản phẩm chủ yếu 44 * Đối với sản phẩm dệt. Đây là những mặt hàng có khả năng cạnh tranh thấp vì: - Chưa chủ động được nguyên liệu đầu vào, giá cả nguyên liệu biến động thất thường; - Chất lượng, chủng loại, thời gian cung ứng hàng cho may còn hạn chế; - Mức độ tiên tiến của công nghệ, thiết bị chưa cao, thiếu đồng bộ, khả năng quản lý sản xuất, nghiên cứu phát triển còn yếu; - Chưa tạo được mẫu mã thích hợp cho ngành may. * Đối với các sản phẩm may. Đây là các sản phẩm có khả năng cạnh tranh tương đối cao. Sản phẩm may sản xuất trong nước nhìn chung có tính cạnh tranh khả dĩ hơn nhiều so với hàng dệt. Trong các sản phẩm may xuất khẩu, các sản phẩm may mặc (mã HS61-62) đóng góp trên 70% giá trị xuất khẩu của hàng dệt may nói chung, với tỉ trọng đóng góp năm 2010 lần lượt là 36,8% và 39,2%. Xét theo cơ cấu sản phẩm, các sản phẩm có mã HS6204 (quần áo nữ, trẻ em gái), 6110 (áo dệt kim chui đầu, áo cài khuy, gile), 6203 (quần áo nam, trẻ em trai), 6109 (áo phông, áo may ô dệt kim) và 6104 (quần áo dệt kim nữ, trẻ em gái) là những sản phẩm có giá trị xuất khẩu đạt trên 500 triệu USD. Đây là các sản phẩm có tính cạnh tranh cao so với các sản phẩm được sản xuất ở nước ngoài. Các mã sản phẩm may mặc có tính cạnh tranh cao trên thị trường Nguồn: UNComtrade Tuy nhiên so với các nước cũng như so với yêu cầu vẫn còn một số bất cập do: - Xuất khẩu hàng may của các nước nằm trong top 10 cho thấy họ duy trì được tính cạnh tranh cao do ngành may có sự trợ giúp đầu vào mạnh mẽ của ngành dệt, được hỗ trợ của công nghiệp thiết kế thời trang, được trang bị thiết bị tiên tiến và đầu tư đổi mới. Còn ở Việt Nam thì điều đó còn gặp nhiều khó khăn; - Thị trường xuất khẩu thường xuyên biến động; - Chưa chủ động được nguyên liệu. 45 II. Đánh giá về tiềm năng phát triển của ngành dệt may Việt Nam thời gian tới Trên cơ sở phương pháp đánh giá dựa trên 14 tiêu chí để xem xét tiềm năng phát triển sản xuất và xuất khẩu của các mặt hàng công nghiệp do Trung tâm Thương mại quốc tế (ITC) thuộc Liên hiệp quốc đưa ra, ngành sản xuất và xuất khẩu sản phẩm may mặc của Việt Nam được đánh giá là một trong những ngành có mức độ tiềm năng Cao, ngành sản xuất và xuất khẩu sản phẩm dệt có mức độ tiềm năng Thấp. Cụ thể nội dung và cách thức tiến hành đánh giá như sau: - Phương pháp xác định các ngành tiềm năng dựa trên việc đánh giá theo 14 tiêu chí, phân làm 3 nhóm cơ bản là: + Nhóm 1: Kết quả xuất khẩu hiện tại (bao gồm các chỉ tiêu như kim ngạch xuất khẩu, thị phần trên thị trường quốc tế, tốc độ tăng trưởng kim ngạch). + Nhóm 2: Khả năng sản xuất trong nước (bao gồm các chỉ tiêu như chất lượng sản phẩm, hiệu quả hoạt động của các ngành công nghiệp phụ trợ). + Nhóm 3: Những vấn đề liên quan đến môi trường quốc tế (bao gồm các chỉ tiêu như tốc độ tăng trưởng cầu của thị trường thế giới, khả năng thâm nhập thị trường của hàng hoá Việt Nam). - Mục tiêu của đánh giá ngành hàng tiềm năng nhằm: + Mục tiêu 1: Xác định được những ngành hàng tiềm năng mà ở đó Việt Nam có lợi thế và tiềm năng xuất khẩu cao nhất, đóng góp tích cực nhất vào mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam. + Mục tiêu 2: Đối với mỗi ngành hàng xuất khẩu được xác định có tiềm năng, Báo cáo tiếp tục xác định những nội dung ưu tiên cụ thể cho từng ngành hàng tiềm năng, ví dụ có ngành chỉ cần ưu tiên vào khâu chế biến, có ngành chỉ cần ưu tiên vào khâu đa dạng hoá sản phẩm... + Mục tiêu 3: Sau khi đã có danh mục các lĩnh vực xuất khẩu tiềm năng, Báo cáo này khuyến nghị các nhà hoạch định chiến lược của Việt Nam lấy đó làm cơ sở, cộng thêm những tiêu chí khác về phát triển bền vững, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo... để tiếp tục lựa chọn ra một số ít các ngành có mức ưu tiên cao nhất. - Dữ liệu được dùng để phân tích trong Báo cáo được lấy từ 2 nguồn: + Những dữ liệu mang tính định lượng: Lấy từ cơ sở dữ liệu của ITC. + Những dữ liệu mang tính định tính: Lấy từ các báo cáo khác trước đó, từ các khảo sát của ITC thông qua các bảng hỏi và phỏng vấn các doanh nghiệp và hiệp hội ở Việt Nam. - Kết quả đánh giá cụ thể cho các ngành hàng của Việt Nam: 46 Với mục tiêu, phương pháp tiến hành như đã nêu trên, kết quả đánh giá đối với các ngành hàng của Việt Nam cụ thể như sau: + Những ngành hàng xuất khẩu tiềm năng Bằng cách đánh giá, chấm điểm theo 14 tiêu chí, phân theo 3 nhóm như đã nêu trên, Tài liệu đã xác định được 16 ngành hàng được coi là có nhiều tiềm năng của Việt Nam. Ngoài ra, 16 ngành hàng này còn được phân làm 3 loại dựa trên qui mô giá trị đóng góp vào tổng trị giá xuất khẩu của Việt Nam. Tiêu chí Ít tiềm năng Tiềm năng trung bình Nhiều tiềm năng Mức độ quan trọng cao (kim ngạch XK trên 500 triệu USD) 1. Máy móc và thiết bị ngành điện 1. Quần áo 2. Giày dép 3. Dầu thô 4. Thuỷ sản 5. Đồ nội thất 6. Cà phê Mức độ quan trọng trung bình 1. Gạo 2. Rau và quả 3. Các loại vải thông thường 4. Xe máy 2. Đồ dùng văn phòng, máy văn phòng 3. Xe đạp 4. Vật phẩm âm thanh hình ảnh 7. Cao su 8. Hàng thủ công mỹ nghệ 9. Than 10. Đồ dùng gia đình 11. Hạt tiêu 12. Hạt điều Mức độ quan trọng thấp (kim ngạch XK dưới 100 triệu USD) 5. Hoa tươi 6. Sản phẩm từ sữa 7. Sản phẩm từ sợi đay 5. Nhựa 6. Vật liệu xây dựng 7. Dây điện, cáp điện 8. Chè 9. Công cụ chính xác và đo lường 10. Đồ điện tử 11. Dụng cụ cầm tay 12. Máy công nghiệp 13. Gỗ 14. Thiết bị thông tin viễn thông 13. Đồ chơi 14. Đồ thuỷ tinh và kính 15. Máy nông nghiệp 16. Đóng tàu 47 15. Vật liệu bao gói 16. Mật ong Những ngành in nghiêng là những ngành được kết luận chỉ dựa trên đánh giá bằng 2 nhóm tiêu chí (chứ không đầy đủ cả 3 nhóm tiêu chí như nêu trên) là Nhóm 1 "Kết quả xuất khẩu hiện tại" và Nhóm 3 "Những vấn đề liên quan đến môi trường quốc tế" + Những nội dung ưu tiên cụ thể cho từng ngành xuất khẩu tiềm năng Ở phần này, Báo cáo đưa ra một đánh giá chi tiết hơn về những vấn đề cần tập trung ưu tiên xử lý đối với các ngành xuất khẩu đã được xác định là tiềm năng như đã nêu trên. Không những thế, phần này còn đưa ra những đánh giá chi tiết như vậy cho cả những ngành khác không thuộc diện 16 ngành tiềm năng. Lý do của việc làm này (có thể) là vì: Ngoài 16 ngành được chấm điểm cao nhất về tiềm năng xuất khẩu trên cơ sở những số liệu và đánh giá bằng mô hình mang nhiều tính toán học thì phần này còn đưa thêm những ý kiến của 4 nhóm chuyên gia Việt Nam về các ngành này cũng như những ngành khác mà ITC không đánh giá cao tiềm năng xuất khẩu. Nghĩa là ở đây đã có thêm những đánh giá của chuyên gia Việt Nam về tiềm năng xuất khẩu của các ngành hàng và nhiều khi những đánh giá này không trùng với đánh giá của ITC. Như vậy, việc đưa ra đánh giá chi tiết cho nhiều ngành và từ nhiều phía, phần này sẽ tạo ra cơ hội lựa chọn rộng hơn cho các nhà xây dựng chiến lược xuất khẩu của Việt Nam trong quá trình xây dựng Chiến lược có nhiều thông tin và góc nhìn nhận vấn đề hơn trong quá trình lựa chọn ngành ưu tiên chiến lược. Các nội dung ưu tiên cụ thể được đưa ra cho từng ngành được trình bày trong bảng tổng hợp dưới đây. Ở đây chỉ cần lưu ý một điểm là những nội dung được đề xuất đưa thành ưu tiên là kết quả của việc đánh giá, phân tích khá chi tiết các yếu tố trong nước, ngoài nước, điểm mạnh điểm yếu của ngành hàng đó do chính các chuyên gia Việt Nam cùng các chuyên gia ITC tổng hợp theo mô hình phân tích SWOT (Mô hình phân tích Điểm mạnh - Điểm yếu - Cơ hội - Thách thức). Mặt hàng Đánh giá của ITC Đánh giá của chuyên gia VN Nội dung ưu tiên KHOÁNG SẢN Dầu thô Cao (3,4) Chế biến dầu thô trong nước Than Cao (3,3) Khai thác các khu vực trữ lượng mới, nâng cấp công nghệ và phương tiện khai thác THUỶ SẢN 48 Mặt hàng Đánh giá của ITC Đánh giá của chuyên gia VN Nội dung ưu tiên Thủy sản Cao (3,2 Phát triển nghề nuôi trồng thuỷ sản để tránh tình trạng thiếu nguồn cung cho xuất khẩu; áp dụng các hệ thống bảo đảm chất lượng phù hợp; cải tiến công nghệ chế biến; đa dạng hoá các loại sản phẩm thân thiện và phù hợp với nhu cầu tiêu dùng; cải tiến bao bì nhãn mác NÔNG SẢN Cà phê Cao (3,1) Cao Nâng cao chất lượng thông qua hoạt động nghiên cứu nói chung, công nghệ sau thu hoạch, công nghệ bảo quản và chế biến. Tập trung vào loại cà phê arabica để tận dụng mức giá cao. Ngoài ra có thể phát triển các loại sản phẩm đặc biệt như organic coffee (cà phê hữu cơ) dù với khối lượng nhỏ nhưng giá trị cao Cao su Cao (3,2) Cao Nâng cao năng suất của cao su tự nhiên; xác định rõ ràng vị trí của vấn đề chế biến của ngành này; tìm biện pháp cải thiện tên tuổi nhãn mác Gạo Thấp (2,3) Cao Phát triển các giống lúa mới và tìm cách nâng cao chất lượng gạo. Cải thiện hoạt động của các ngành hỗ trợ. Khai thác cơ hội đa dạng hoá thị trường xuất khẩu sang Nhật Bản, Trung Quốc, Australia và New Zealand Hạt điều Cao (3,5) Cao Đẩy nhanh sản lượng, nâng cao chất lượng của các sản phẩm chế biến, đa dạng hoá mục đích sử dụng, tập trung vào các sản phẩm kết hợp trọn gói (consumer-packed products) Rau và quả Thấp (2,2) Trung bình Cải thiện chất lượng của rau quả đầu vào cho chế biến và chất lượng của chế biến; xử lý các vấn đề về phụ trợ như bảo quản, lưu giữ; đăng ký nhãn hiệu ở nước ngoài. Khai thác những cơ hội mở rộng thị trường như EU, Hoa Kỳ, Canađa Hạt tiêu Cao (3,1) Cao Nâng cao chất lượng sản phẩm; bảo đảm diện tích trồng và đầu tư hợp lý; mở rộng thị trường xuất khẩu. Xem xét khả năng đa dạng hoá sản phẩm bằng các biện pháp như sản phẩm gia vị pha trộn, làm rượu đen, kết hợp 49 Mặt hàng Đánh giá của ITC Đánh giá của chuyên gia VN Nội dung ưu tiên với hồi và gừng Chè Trung bình (2,7 Trung bình Cải tiến chất lượng, kỹ thuật trồng và công nghệ thu hoạch. Đa dạng hoá thị trường. Gỗ và sản phẩm gỗ Trung bình (2,7) Chưa nghiên cứu chi tiết tại đây, cần có phân tích thêm Mật ong Trung bình (2,6) Chưa nghiên cứu chi tiết tại đây, cần có phân tích thêm. Khai thác những cơ hội mở rộng thị trường như Canađa và Úc Hoa tươi Thấp (2,3) Chưa nghiên cứu chi tiết tại đây, cần có phân tích thêm. Khai thác những cơ hội mở rộng thị trường như Châu Âu và Hoa Kỳ Sản phẩm từ sữa Thấp (1,1) Chưa nghiên cứu chi tiết tại đây, cần có phân tích thêm. Inđônêxia là một thị trường đang lớn mạnh và đầy tiềm năng của Việt Nam Sản phẩm từ sợi đay Thấp (2,2) Chưa nghiên cứu chi tiết tại đây, cần có phân tích thêm. Khai thác những cơ hội mở rộng thị trường như Hoa Kỳ, Iran và Hồng Kông SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP Quần áo Cao (3,0) Cao Chuyển từ việc ký kết các hợp đồng phụ gia công (hịên nay chiếm hơn 70%) sang việc nhập khẩu với số lượng ít hơn và đóng vai trò năng động hơn trên thị trường. Cải thiện hoạt động của các ngành hỗ trợ, đẩy mạnh việc cải tiến mẫu mã, nâng cao năng suất của ngành may mặc, cải tiến công nghệ trong ngành dệt, tạo sự liên kết với người mua cuối cùng và tạo ra các sản phẩm có giá trị cao hơn Giày dép và đồ da Cao (3,2) Trung bình Cải tiến mẫu mã, đa dạng hoá sản phẩm, tăng năng suất và thu hút đầu tư vào việc sản xuất các nguyên liệu đầu vào và phụ kiện. Chuyển từ việc ký kết các hợp đồng thầu phụ với số lượng nhập khẩu lớn sang hoạt động marketing hiệu quả hơn Đồ nội thất Cao (3,4) Xác định rõ vị trí của hệ thống chứng nhận chất lượng gỗ (ví dụ như Hội đồng quản lý rừng) và cải tiến việc thiết kế mẫu mã 50 Mặt hàng Đánh giá của ITC Đánh giá của chuyên gia VN Nội dung ưu tiên Xe máy Thấp (2.5) Đẩy mạnh việc phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, tập trung vào việc sản xuất các loại xe giá rẻ. Khai thác những cơ hội mở rộng thị trường như Châu Âu và Hoa Kỳ Đồ dùng gia đình Cao (3,1) Trung bình Thu hút đầu tư nước ngoài để cải tiến công nghệ trong khâu xử lý. Khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả và giảm chi phí sản xuất. Phát triển các ngành hỗ trợ Xe đạp Trung bình (2,8) Cao Nâng cao năng lực thiết kế và tiếp tục đa dạng hoá sản phẩm. Thay đổi phương thức tiếp cận thông tin về tình hình thị trường nước ngoài Nhựa Trung bình (2,6) Trung bình Tập trung vào chương trình xúc tiến thương mại quốc gia. Xác định rõ những mục tiêu của hoạt động xúc tiến xuất khẩu Dây điện, cáp điện Trung bình (2,7) Trung bình/Cao Xem xét lại quyết định áp đặt thuế nhập khẩu 5% đối với thép mạ khiến cho chi phí sản xuất tăng cao, mặt hàng này vốn trước kia không bị áp thuế do trong nước chưa sản xuất được. Khai thác những cơ hội mở rộng thị trường như Châu Âu, Hoa Kỳ, Nga và Canadda Máy nông nghiệp Cao (3,1) Trung bình Thiết kế chương trình xúc tiến xuất khẩu coh ngành. Đa dạng hoá loại sản phẩm và cải tiến mẫu mã Đóng tàu Cao (3,1) Cao Đầu tư vào xây dựng cơ sở vật chất, phát triển các ngành hỗ trợ, cải tiến hoạt động thiết kế và nâng cao công nghệ Máy móc ngành điện Trung bình (2,8) Chưa nghiên cứu chi tiết tại đây, cần có những phân tích thêm Đồ dùng văn phòng và máy văn phòng Trung bình (2,9) Khuyến khích đầu tư nước ngoài thông qua các chính sách ưu đãi Máy móc công nghiệp Trung bình (2,9) Cao Không nghiên cứu chi tiết tại đây, cần có những phân tích thêm. Khai thác những cơ hội mở rộng thị trường như Hoa Kỳ, Trung Quốc và Châu Âu 51 Mặt hàng Đánh giá của ITC Đánh giá của chuyên gia VN Nội dung ưu tiên Thiết bị thông tin viễn thông Trung bình (3,0) Chưa nghiên cứu chi tiết tại đây, cần có những phân tích thêm Vật liệu bao gói Trung bình (2,9) Chưa nghiên cứu chi tiết tại đây, cần có những phân tích thêm Vật phẩm âm thanh, hình ảnh Trung bình (2,8) Chưa nghiên cứu chi tiết tại đây, cần có những phân tích thêm Các loại vải thông thường Thấp (2,6) Phát triển các ngành hỗ trợ. Đa dạng hoá thị trường xuất khẩu trong khu vực, ví dụ như Hồng Kông và Singapo với những điều kiện thị trường mở là những thị trường đầy tiềm năng cho Việt Nam Đồ chơi Cao (3,0) Chưa nghiên cứu chi tiết tại đây, cần có những phân tích thêm Vật liệu xây dựng Trung bình (3,0) Trung bình Có những chính sách hỗ trợ xuất khẩu. Những quốc gia lân cận là những thị trường đầy tiềm năng Công cụ chính xác và đo lường Trung bình (2,9) Chưa nghiên cứu chi tiết tại đây, cần có những phân tích thêm. Khai thác những cơ hội mở rộng thị trường như Hoa Kỳ, Trung Quốc và Châu Âu Đồ thuỷ tinh và kính Cao (3,1) Chưa nghiên cứu chi tiết tại đây, cần có những phân tích thêm Đồ điện tử Trung bình (2,9) Thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển cơ sở hạ tầng hỗ trợ và đầu tư vào nguồn nhân lực Dụng cụ cầm tay Trung bình (2,7) Không nghiên cứu chi tiết tại đây, cần có những phân tích thêm THỦ CÔNG MỸ NGHỆ Sản phẩm thủ công mỹ nghệ Cao (3,2) Thay đổi phương thức tiếp cận thông tin về tình hình thị trường nước ngoài, đảm bảo việc cung cấp nguyên vật liệu đầu vào Ghi chú: - Những ngành in nghiêng là những ngành được kết luận chỉ dựa trên đánh giá bằng 2 nhóm tiêu chí (chứ không đầy đủ cả 3 nhóm tiêu chí như nêu trên) là Nhóm 1 "Kết quả xuất khẩu hiện tại" và Nhóm 3 "Những vấn đề liên quan đến môi trường quốc tế" - Những ngành được trình bày trên nền đậm là những ngành tiềm năng. 52 III. Xem xét một số cơ chế, chính sách và yếu tố thương mại chủ yếu tác động tới ngành - Về phương thức kinh doanh mặt hàng dệt may, có một số điểm đáng lưu ý như sau: + Độ trải rộng của hệ thống phân phối các mặt hàng dệt may trên thị trường nội địa Việt Nam là rất cao. Cũng giống như nhiều mặt hàng tiêu dùng thiết yếu khác, về cơ bản các mặt hàng dệt may được phân phối và kinh doanh trên thị trường nội địa nước ta có độ bao phủ rộng, khả năng thâm nhập sâu vào từng khu dân cư trên địa bàn khắp cả nước là rất cao. Ngoài việc kinh doanh thông qua các hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại hoặc chuỗi cửa hàng chuyên doanh hiện đại, một tỷ lệ lớn các mặt hàng dệt may vẫn được kinh doanh phân phối tới người tiêu dùng trong nước thông qua hệ thống các cửa hàng bán lẻ truyền thống, các cửa hàng nhỏ lẻ trong các khu dân cư và tạo thành một hệ thống phân phối rộng khắp và nhiều cấp độ. Đây là một trong những đặc điểm rất cơ bản trong kinh doanh các mặt hàng dệt may ở nước ta. + Mạng lưới kinh doanh phân phối mặt hàng dệt may trên thị trường nhìn chung được xây dựng và đang có sự phát triển khá vững chắc. Mạng lưới phân phối sản phẩm các mặt hàng dệt may ở Việt Nam đang có sự phát triển khá đa dạng và vững chắc. Bên cạnh các hình thức kinh doanh thông qua hệ thống chợ truyền thống, các cửa hàng bán lẻ của hộ gia đình, các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh dệt may trong nước cũng đang từng bước xây dựng và phát triển các hệ thống phân phối hiện đại và lâu dài hơn như kinh doanh thông qua hệ thống chuỗi cửa hàng chuyên doanh hiện đại (trong đó bên cạnh chức năng bán hàng, các cửa hàng này cung cấp đồng thời nhiều dịch tới người tiêu dùng như tư vấn, may đo trực tiếp tại cửa hàng và nhiều dịch vụ giá trị gia tăng khác), hay thông qua hệ thống các siêu thị tổng hợp, siêu thị chuyên doanh thời trang Các hệ thống phân phối kinh doanh này đã và đang khẳng định hiệu quả và tiềm năng phát triển lâu dài của mình trên thị trường nội địa nước ta. + Ranh giới thị trường giữa các sản phẩm dệt may cấp với các sản phẩm cấp độ thấp và trung bình trên thị trường là khá rõ ràng. Sự phân chia về thị trường đối với các sản phẩm cao cấp và các sản phẩm có cấp độ thấp và trung bình trên thị trường dệt may ở Việt Nam là khá rõ nét. Các sản phẩm cao cấp do trong nước sản xuất hoặc nhập khẩu về kinh doanh phân phối tại thị trường Việt Nam nhìn chung được tập trung kinh doanh phân phối tại một số cửa hàng hiện đại trong các siêu thị, trung tâm thương mại lớn hoặc tại một số cửa hàng phân phối chuyên doanh do các doanh nghiệp hoặc tư nhân trong nước thực hiện. Về cơ bản, số lượng các cửa hàng loại này không nhiều và không kinh doanh nhiều dạng phẩm cấp hàng hoá khác nhau mà chỉ tập trung kinh doanh một hoặc một số chủng loại mặt hàng có phẩm cấp cao, hướng vào phục vụ nhóm đối tượng có thu nhập cao trong xã hội. Ngược lại, các sản phẩm dệt may có cấp độ thấp và trung bình được kinh doanh phân phối khá rộng rãi và thông qua nhiều hệ thống 53 kinh doanh đa dạng như: qua hệ thống chợ truyền thống, cửa hàng kinh doanh của hộ gia đình, hoặc qua hệ thống các siêu thị tổng hợp, siêu thị chuyên doanh thời trang Hệ thống các cửa hàng loại này chiếm số lượng đa số và cũng phục vụ đa số khách hàng trên thị trường. + Hình thức kinh doanh bán buôn, bán lẻ các sản phẩm dệt may thông qua các chợ đầu mối truyền thống trên thị trường nội địa Việt Nam vẫn còn khá phổ biến mặc dù các hình thức kinh doanh hiện đại ngày càng phát triển với tốc độ nhanh chóng. Hiện nay, hệ thống kinh doanh phân phối các sản phẩm dệt may theo kiểu hiện đại như thông qua các siêu thị, trung tâm thương mại, chuỗi cửa hàng chuyên doanh ngày càng phát triển ở Việt Nam, những các kiểu kinh doanh theo kiểu truyền thống, đặc biệt là kiểu kinh doanh thông qua các chợ truyền thống đầu mối chuyên doanh các mặt hàng này vẫn còn rất phổ biến. Các chợ đầu mối chuyên doanh kiểu này thông thường chỉ tập trung kinh doanh các sản phẩm có cấp độ thấp và trung bình được nhập khẩu từ một số thị trường lân cận hoặc các sản phẩm được sản xuất từ các làng nghề ở trong nước. Thông qua các chợ đầu mối này, nhìn chung các sản phẩm sẽ tiếp tục được cung ứng tới hệ thống các cửa hàng bán lẻ ở các chợ truyền thống hoặc các cửa hàng nhỏ lẻ của các hộ cá thể và từ đó sẽ phân phối trực tiếp tới tay người tiêu dùng cuối cùng trên thị trường. + Các đối tượng tham gia thị trường chủ yếu vẫn là các nhà sản xuất và phân phối trong nước, các nhà sản xuất và phân phối nước ngoài chiếm tỷ trọng không lớn trên thị trường kinh doanh các sản phẩm dệt may ở Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực phân phối. Trong số các doanh nghiệp tham gia vào sản xuất kinh doanh các mặt hàng dệt may ở Việt Nam, tỷ lệ các doanh nghiệp nước ngoài là không lớn (chiếm khoảng 24,3%). Đối với lĩnh vực kinh doanh phân phối, hầu hết hệ thống phân phối các sản phẩm dệt may trên thị trường nội địa Việt Nam là do các doanh nghiệp hoặc đối tượng trong nước nắm giữ, các doanh nghiệp nước ngoài chủ yếu tham gia vào hệ thống phân phối các sản phẩm này thông qua việc nắm giữ và vận hành các siêu thị, trung tâm thương mại tổng hợp mà trong đó các sản phẩm dệt may cũng được kinh doanh cùng với nhiều mặt hàng tiêu dùng khác. Nhìn chung, cho đến nay các đối tượng trong nước vẫn là thành phần căn bản tạo nên và vận hành hệ thống phân phối các sản phẩm dệt may trên thị trường nội địa ở nước ta. + Đối với mặt hàng dệt may, kinh doanh theo phương thức đại lý và nhượng quyền thương mại không phải là hình thức kinh doanh phổ biến ở Việt Nam. Hiện nay, ở nước ta mới chỉ có một vài công ty hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại đối với các mặt hàng dệt may như các cửa hàng nhượng quyền thương mại của thương hiệu Escada (Đức) trong kinh doanh các mặt hàng quần áo phụ nữ cao cấp và phụ kiện, La Senza (Canađa) trong kinh doanh bán lẻ đồ lót nam nữ và các sản phẩm chăm sóc cơ thể, Sergio Rossi (Italia) trong kinh doanh về giày dép, túi xách nam nữ nhưng về cơ bản là chưa phổ biến và mạng lưới chưa rộng. Đối với phương thức kinh doanh theo 54 kiểu đại lý, các sản phẩm dệt may cũng ít được kinh doanh thông qua phương thức này mà chủ yếu là thông qua các hợp đồng mua đứt bán đoạn từ nhà sản xuất tới nhà phân phối hoặc thông qua hệ thống cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm thuộc sở hữu của nhà sản xuất. Kinh doanh theo đúng nghĩa của phương thức kinh doanh đại lý hầu như rất ít và chiếm tỷ trọng không đáng kể trong kinh doanh các mặt hàng dệt may và da giày ở Việt Nam. - Về các cơ chế, chính sách thương mại chủ yếu qui định và tác động tới hoạt động của ngành: Hoạt động sản xuất kinh doanh ngành dệt may Việt Nam trong 10 năm qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, một mặt do sự nỗ lực chủ quan của tập thể lãnh đạo, cán bộ công nhân viên trong toàn ngành, mặt khác nhờ yếu tố khách quan không kém phần quan trọng đó là tác động của các chủ trương, chính sách của Nhà nước đã và đang hỗ trợ tích cực cho ngành. Trong đó quan trọng nhất là các chính sách cơ chế thể hiện trong các quyết định sau: + Quyết định số 72/2006/QĐ-TTg ngày 4/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam theo vùng lãnh thổ đến năm 2010, tầm nhìn 2020. + Quyết định số 36/2008/QĐ-TTg ngày 10/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chiến lược phát triển ngành công nghiệp Dệt, May Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020. + Quyết định số 29/2010/QĐ-TTg ngày 08 tháng 01 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình phát triển cây bông vải Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020. + Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg ban hành ngày 24/2/2011của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ. + Quyết định số 320/2012/QĐ-TTg ngày 08 tháng 02 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tái cơ cấu Tập Đoàn Dệt May Việt Nam giai đoạn 2013- 2015. + Quyết định số 42/2008/QĐ–BCT ngày 19/11/2008 của Bộ Công Thương về Quy hoạch phát triển ngành Công nghiệp Dệt, May Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020. + Quyết định số 43/2008/QĐ-BCT ngày 19/11/2008 của Bộ Công Thương về Phê duyệt Chương trình sản xuất vải dệt thoi phục vụ XK đến năm 2015. + Quyết định số 39/2008/QĐ-BCT ngày 23/10/2008 của Bộ Công Thương về Phê duyệt Chương trình đào tạo nguồn nhân lực ngành Dệt May Việt Nam đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020. + Thông tư số 32/2010/TT-BTC ngày 09/3/2010 của Bộ Tài chính về Hướng dẫn cơ chế tài chính thực hiện “Chương trình đào tạo nguồn nhân lực Dệt May Việt Nam”. 55 + Đề án Hỗ trợ xúc tiến thương mại và phát triển xuất khẩu tại Việt Nam – VIE/61/94 Cục xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương. Bên cạnh các cơ chế chính sách trên, với việc trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, Việt Nam đã tiến một bước dài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nếu việc gia nhập WTO có thể được xem là bước hội nhập “theo chiều rộng” với những cam kết mở cửa ở mức độ tương đối, áp dụng chung cho tất cả các nước thành viên của WTO, thì việc ký kết các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) giữa Việt Nam với các đối tác thương mại được xem là hình thức hội nhập “theo chiều sâu” trong đó các cam kết mạnh mẽ hơn, trên nhiều lĩnh vực hơn và do đó mức độ tác động đến nền toàn bộ kinh tế nói chung và đến từng ngành nói riêng cũng lớn hơn và phức tạp hơn. Đến nay, bên cạnh các FTA do khối ASEAN ký kết (ASEAN + 6) mà Việt Nam tham gia với tư cách là quốc gia thành viên của ASEAN. Các hiệp định này bao gồm Hiệp định Thương mại tự do ASEAN -Trung Quốc (ACFTA, 2004), Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA, 2006), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP, 2009), Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Australia, New Zealand (AANZFTA, 2010) và Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Ấn Độ (2010). Việt Nam còn ký kết các FTA song phương với các đối tác thương mại quan trọng, trong đó Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) đã được ký kết năm 2009, là hiệp định thương mại tự do đầu tiên Việt Nam ký với tư cách là đối tác độc lập; Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Chi Lê (VCFTA) mới được ký năm 2012. Hiệp định Thương mại tự do với Hiệp hội mậu dịch tự do Châu Âu (V-EFTA), với Cộng đồng Châu Âu (V-EU) và Hiệp định Hợp tác Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang trong quá trình đàm phán, được đánh giá là những đàm phán mở cửa cửa thương mại tự do quan trọng nhất của Việt Nam, bởi đàm phán này có sự tham gia của Hoa Kỳ và EU, hai nền kinh tế lớn nhất thế giới và đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam. Các khu vực thương mại tự do được kỳ vọng sẽ thúc đẩy tự do hóa thương mại bằng cách cắt giảm thuế quan đối với những mặt hàng xuất xứ từ các nước thành viên. Tuy nhiên tự do hóa không tự động diễn ra vì việc cắt giảm thuế còn phụ thuộc vào việc đáp ứng các quy tắc xuất xứ. Quy tắc xuất xứ quyết định một sản phẩm có được ưu đãi hay không. Do đó, khu vực thương mại tự do không đảm bảo rằng các doanh nghiệp vận dụng được ưu đãi thương mại và cơ hội kinh doanh từ các FTA mà Việt Nam ký kết. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp không vận dụng FTA khi xuất nhập khẩu do không đáp ứng được quy tắc xuất xứ. Việc không đáp ứng quy tắc xuất xứ có thể do phương pháp xác định không rõ ràng [xuất xứ hàng hóa tùy từng hiệp định có thể được xác định theo các phương pháp khác nhau, gồm: Xuất xứ thuần túy (WO), Tỉ lệ giá trị khu vực (RVC), Chuyển đổi mã hàng hóa (CTC, CTH, CTSH), hay Quy tắc đối với sản phẩm cụ thể (SPR)] do doanh nghiệp không thực hiện đầy đủ các công đoạn gia công, chế biến cần thiết đối với các 56 đầu vào nhập khẩu, hoặc chi phí hành chính để có chứng nhận xuất xứ (C/O) quá cao. Để có được C/O cho hàng hóa xuất khẩu, các doanh nghiệp phải chuẩn bị đầy đủ giấy tờ cần thiết theo yêu cầu của cơ quan cấp C/O. Do phải tốn kém chi phí để chuẩn bị các giấy tờ trên, các doanh nghiệp chỉ xin C/O nếu biên độ ưu đãi tức là chênh lệch giữa thuế MFN và thuế FTA ưu đãi đủ lớn. Nhìn vào xu hướng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các nước đã ký kết hiệp định tự do thương mại với ASEAN, có thể nói các FTA đã ký kết góp phần cải thiện rõ rệt kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Cụ thể, sau khi ACFTA được ký kết, xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đã tăng từ 37 triệu USD năm 2004 lên 492 triệu USD năm 2010; và sau khi AKFTA được ký kết, xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc đã tăng từ 179,2 triệu USD năm 2006 lên 806,9 triệu USD năm 2010. Xuất khẩu dệt may Việt Nam sang các đối tác FTA 0 200000 400000 600000 800000 1000000 1200000 1400000 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Ex po rt va lue (1 00 0U SD ) Japan Korea, Rep. ASEAN China AusNz India ACFTA AKFTA AJCEP VJEPA AANZFTA AIFTA Nguồn: UNComtrade Mặc dù các đối tác FTA của ASEAN+6 không phải là khách hàng chủ yếu của dệt may Việt Nam (trừ Nhật Bản), nhưng nhờ có FTA, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các nước này đã được cải thiện đáng kể. 57 Tương tự như vậy, Việt Nam có thể kỳ vọng vào sự tăng trưởng lớn về xuất khẩu hàng dệt may nếu như FTA với các đối tác chính như Hoa Kỳ, EU được ký kết. Vì vậy, ngành dệt may sẽ chịu tác động rất lớn từ các cam kết của TPP, trong đó không thể không nói đến các quy định về Quy tắc xuất xứ (ROO) của các sản phẩm dệt may. IV. Nhận định về những vấn đề quan trọng và hướng xử lý nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may của Việt Nam thông qua tăng cường khai thác các yếu tố liên quan tới thương mại thời gian tới Trên cơ sở xem xét thực trạng phát triển của ngành dệt may Việt Nam thời gian qua như đã trình bày ở các phần trên, có thể rút ra một số nhận định cơ bản về một số vấn đề quan trọng cần lưu ý trong phát triển ngành dệt may của Việt Nam thời gian tới nói chung cũng như để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành này nói riêng trên cơ sở xem xét mối quan hệ và liên kết một cách chặt chẽ, có hiệu quả hơn với các chính sách thương mại, cụ thể như sau: 1. Dệt may không chỉ là ngành mà Việt Nam có tiềm năng và khả năng về sản xuất mà còn là ngành có tiềm năng về thị trường tiêu thụ cả ở nội địa và thị trường quốc tế trong tương lai lâu dài. Xét trên khía cạnh gắn kết với thương mại, nếu phân các ngành sản xuất ra thành các nhóm gồm các ngành có thị trường nhưng không có khả năng sản xuất, các ngành có khả năng sản xuất nhưng chưa phát triển được thị trường, các ngành ít lợi thế trong sản xuất và chưa phát triển được thị trường..., thì ngành dệt may là ngành vừa có khả năng về sản xuất và có khả năng phát triển được thị trường. Đây là cơ sở quan trọng nhất để ngành dệt may tiếp tục có những chiến lược phát triển dài hạn và đột phá mạnh mẽ hơn trong tương lai. Mặc dù, hiện tại dệt may Việt Nam thuộc top 5 xuất khẩu của thế giới nhưng dung lượng của thị trường nhập khẩu thế giới còn hết sức lớn, tỷ trọng hàng dệt may của Việt Nam trên thị trường này còn rất nhỏ bé. Theo ước tính, tốc độ tăng trưởng của thị trường nhập khẩu hàng dệt may của thế giới hàng năm trung bình ở mức 7,2%/năm. Thị trường trong nước với khoảng 90 triệu dân, đa phần là dân số trẻ có nhu cầu tiêu dùng tăng mạnh, cũng là thị trường còn hết sức tiềm tàng để hàng dệt may trong nước có thể phát triển. Theo ước tính, hiện tại các doanh ngiệp dệt may Việt Nam mới chỉ chiếm lĩnh được khoảng 60% nhu cầu nội địa, khoảng 10% nhập khẩu cho nhu cầu của tầng lớp có thu nhập cao từ các hãng thời trang của các nước Mỹ, Anh, Ý, Pháp,... 30% còn lại đang bị cuốn hút bởi hàng nhập lậu từ Trung Quốc, Thái Lan... Về năng lực sản xuất trong nước, với những lợi thế có được từ kinh nghiệm phát triển 125 năm, lực lượng lao động sẵn có với trình độ tay nghề tương đối tốt và có lợi thế so với các quốc gia xuất khẩu hàng dệt may lớn của thế giới... sẽ là điều kiện tiền đề hết sức thuận lợi để ngành dệt may Việt Nam tiếp tục có những bước phát triển mạnh mẽ hơn trong các giai đoạn tiếp theo. 58 Cũng theo đánh giá tại Báo cáo đánh giá tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam, trên cơ sở xem xét 14 tiêu chí về kết quả xuất khẩu, về khả năng sản xuất trong nước, về thị trường thế giới, thì ngành dệt may là một trong 4 ngành vừa có mức độ tiềm năng Cao về xuất khẩu do các chuyên gia trong nước đánh giá cũng như theo các tiêu chí do ITC đặt ra. 2. Bài toán về sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu vừa là bài toán lớn về sản xuất vừa là bài toán lớn về thương mại đối với ngành dệt may Việt Nam. Giải quyết được bài toán này sẽ tạo ra sự chuyển biến căn bản và mạnh mẽ trong phát triển của ngành thời gian tới. Rõ ràng là với tỷ lệ nguyên phụ liệu cần phải nhập khẩu và phụ thuộc quá lớn vào thị trường nước ngoài như hiện nay của ngành dệt may đã trở thành một trong những khâu cốt yếu nhất cần giải quyết để tạo bước phát triển đột phá của ngành trong thời gian tới. Là một nước có điều kiện để phát triển các loại nguyên liệu phục vụ cho ngành dệt may, đặc biệt là sản xuất bông vải, dệt sợi..., Việt Nam đã rất hạn chế trong khâu tạo nguồn nguyên liệu chủ động đồng vào cho sản xuất dệt may thời gian qua. Bên cạnh đó, việc tổ chức cung ứng nguyên phụ liệu kể cả từ nguồn sản xuất trong nước và nguồn nhập khẩu từ nước ngoài như hiện nay cũng còn rất nhiều hạn chế, là yếu tố quan trọng tác động tới khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam. Với vai trò là một nước sản xuất và xuất khẩu lớn hàng dệt may, Việt Nam cũng có vai trò là nước nhập khẩu, bạn hàng nhập khẩu lớn các loại nguyên phụ liệu cho ngành dệt may. Tận dụng được lợi thế này cộng với việc từng bước phát triển nguồn nguyên liệu trong nước chắc chắn sẽ có tác dụng hữu hiệu trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam. 3. Nghiên cứu phát triển sản phẩm, trong đó đặc biệt là khâu thiết kế mẫu mã vẫn đang là khâu yếu quan trọng của ngành dệt may Việt Nam. Việc đầu tư nâng cao năng lực nghiên cứu phát triển sản phẩm cần phải được thực hiện với quyết tâm và bài bản hơn trong thời gian tới. Thực tế cần thừa nhận rằng mặc dù đã có những chuyển biến khá tích cực nhưng hiện nay các sản phẩm dệt may của Việt Nam tự thiết kế mới chỉ đáp ứng được nhu cầu của phân khúc thị trường trung bình và thấp và chủ yếu để phục vụ nhu cầu của thị trường trong nước, các sản phẩm ở phân khúc thời trang cao cấp hầu hết được thực hiện theo các thiết kế của đối tác đặt hàng từ nước ngoài. Giải quyết được vấn đề này chính là giải quyết một trong những vấn đề gốc rễ trong chuyển hướng chiến lược phát triển của ngành dệt may Việt Nam thời gian tới theo hướng nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Cải thiện được nút thắt này chính là cải thiện được tình trạng gia công cho nước ngoài với giá trị gia tăng thấp như lâu nay nhiều doanh nghiệp dệt may trong nước vẫn phải thực hiện. Muốn vậy, cần phải có những bước đi, kế hoạch bài bản hơn từ phía các doanh nghiệp và sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua các chủ trương, chính sách phát triển cho ngành. 59 4. Tiếp tục tập trung củng cố và phát triển các kênh phân phối sản phẩm cả ở trong và ngoài nước. Những hành động và bước đi của ngành dệt may Việt Nam trong việc thiết lập và mở rộng các kênh phân phối hàng hóa thời gian qua đã chứng tỏ tính đúng đắn. Tuy nhiên, cần thấy rằng những kết quả đạt được mới chỉ ở mức khởi đầu, rất cần có những nỗ lực và quyết tâm tiếp theo để củng cố và phát triển các kênh phân phối này. Với thị trường trong nước, cần có bước đi mạnh mẽ và nhanh chóng hơn dựa trên những lợi thế sẵn có về thị trường, địa bàn và chính sách hỗ trợ của nhà nước. Với thị trường nước ngoài, cần có những bước đi chắc chắn và từng bước để mở rộng và dần chiếm lĩnh, làm chủ một số kênh phân phối trọng điểm, làm hạt nhân và tiền đề cho những bước phát triển tiếp theo. 5. Với cơ sở và điều kiện khá thuận lợi hiện tại, cần tiến thêm một bước trong công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho chiến lược chuyển hướng và phát triển lâu dài của ngành dệt may, tập trung nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng của toàn ngành. Một mặt, tập trung đào tạo trên diện rộng công nhân kỹ thuật có tay nghề, mặt khác có chương trình, kế hoạch cụ thể để từng bước đào tạo và nhân rộng đội ngũ cán bộ thiết kế cao cấp có khả năng thiết kế phát triển sản phẩm và đánh giá tốt xu hướng chuyển dịch của thị trường. 6. Chuyển hướng chiến lược trong hoạt động xúc tiến thương mại, tạo dựng hình ảnh và thương hiệu mạnh cho sản phẩm dệt may của Việt Nam trên thị trường quốc tế, giải quyết một bước căn bản tình trạng sản xuất và xuất khẩu nhiều những thương hiệu ít được biết tới. Trong đó, đặc biệt lưu ý tới việc xây dựng hình ảnh và thương hiệu quốc gia và cho một số dòng sản phẩm chủ lực đã có năng lực sản xuất tốt. 7. Tập trung giải quyết, xử lý một cách căn bản vấn đề về quản lý thị trường. Ngăn chặn và đẩy lùi một cách căn bản tình trạng sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, hàng nhập lậu trên thị trường nội địa, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp tục chiếm lĩnh và mở rộng thị trường trong nước vốn đang bị cạnh tranh không lành mạnh ở một số tỷ lệ không nhỏ (chiếm khoảng 30% thị phần trong nước). 8. Là ngành có khả năng tác động mạnh tới môi trường từ quá trình sản xuất. Vấn đề bảo đảm vệ sinh môi trường tiếp tục là một trong những yêu cầu thiết yếu cần được giải quyết để có thể phát triển một cách bền vững trong dài hạn. Với tính chất là ngành có nhiều tác động tới môi trường do quá trình sản xuất tạo ra, đặc biệt là trong lĩnh vực in - nhuộm, có khả năng tạo ra nhiều tác động ảnh hưởng tới các yếu tố môi trường nước, môi trường không khí..., trong khi đó đầu tư để xử lý các vấn đề về môi trường lại đòi hỏi nguồn lực tài chính lớn, vấn đề bảo đảm vệ sinh môi trường trong ngành dệt may vẫn đang là bài toán cần được giải quyết một cách căn bản. Ở đây, vai trò của Nhà nước cần được phát huy thông qua các chính sách hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư xử lý các vấn đề về môi trường, mặt khác thông qua việc đầu tư tập trung của 60 nhà nước về hạ tầng các khu công nghiệp kèm theo đó là các dịch vụ xử lý chất thải và vệ sinh môi trường./. 61

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf13_bc_danh_gia_thuc_trang_va_kha_nang_nang_cao_nl_canh_tranh_nganh_det_may_4923.pdf
Luận văn liên quan